Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Luận văn một số giải pháp cho hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty xi măng bỉm sơn trong thời gian tới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.82 KB, 65 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Xi măng là một ngành công nghiệp có tổng vốn đầu tư lớn, hiệu quả xã
hội cao, tạo nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước. Trong giai đoạn hiện
nay, phần lớn các quốc gia trên thế giới đang trên đà tăng trưởng mạnh, chính
vì vậy nhu cầu xi măng cho đầu tư xây dựng rất cao. Theo đánh giá chung của
thế giới thì lượng xi măng sản xuất ra con thiếu, chưa đáp ứng được nhu cầu
cao cho xây dựng. Tuy nhiên sản xuất xi măng trong nước lại đang gặp phải
khó khăn do sức ép cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất xi măng trong
nước và hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài kể từ khi chúng ta tham gia ký kết
hiệp ước về bãi bỏ thuế nhập khẩu và không hạn chế lượng nhập khẩu một số
mặt hàng khi tham gia vào AFTA. Là thành viên trực thuộc Tổng công ty xi
măng Việt Nam, công ty xi măng Bỉm Sơn để có thể đứng vững trên thị
trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay thì không còn cách nào khác là phải
tự vươn lên khẳng định mình. Đầu tư để nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp mình là lựa chọn tất yếu để công ty có thể tồn tại và phát triển
trong thời đại ngày nay. Tuy nhiên trong quá trình đầu tư đó bên cạnh những
thành tựu đạt được, còn tồn tại những hạn chế, bất cập cần khắc phục.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động đầu tư nâng cao năng lực
cạnh tranh của công ty xi măng Bỉm Sơn trong nền kinh tế thị trường nên em
đã lựa chọn đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp: “Một số giải pháp cho
hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty xi măng Bỉm
Sơn trong thời gian tới.”
Nội dung của đề tài gồm 2 chương:
Chương 1: Thực trạng năng lực cạnh tranh của công ty xi măng Bỉm Sơn
Chương 2: Một số giải pháp cho hoạt động đầu tư nâng cao năng lực
cạnh tranh của công ty xi măng Bỉm Sơn trong thời gian tới.

1


Em xin chân thành cám ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Đinh Đào


Ánh Thuỷ và các chú, các bác Phòng Kế toán thống kê tài chính - Công ty xi
măng Bỉm Sơn đã giúp em hoàn thành khoá thực tập và bài viết này.
Vì thời gian và trình độ hiểu biết có hạn nên bài viết không tránh khỏi
những thiếu sót, do đó em rất mong sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo
để bài viết được hoàn thiện hơn.

2


CHƯƠNG I
THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY XI MĂNG BỈM SƠN

1.Năng lực và tình hình sản xuất hiện tại
1.1.Năng lực sản xuất
Công ty xi măng Bỉm Sơn (CTXMBS) là doanh nghiệp Nhà nước, trực
thuộc Tổng công ty xi măng Việt Nam (VNCC). Kể từ khi thành lập năm
1980 đến nay công ty đã tồn tại và phát triển được hơn 25 năm. Trong thời
gian đó công ty đã liên tục đầu tư nhằm đổi mới công nghệ trang thiết bị để
hoàn thành mục tiêu và kế hoạch đặt ra. Về năng lực sản suất hiện tại, Công
ty xi măng Bỉm Sơn hiện đang duy trì hoạt động hai dây chuyền sản xuất
chính. Cả hai dây chuyền này đều do Liên Xô giúp đỡ xây dựng, nhưng dây
chuyền 2 được cải tạo xong và đã đi vào hoạt động. Công suất ban đầu của cả
hai dây chuyền khi mới xây dựng là 1, 2 triệu tấn/ năm sản xuất xi măng theo
công nghệ ướt, đây là công nghệ hiện đại nhất những năm 60, 70 ở hệ thống
các nước xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ.
Năm 2002N, được sự phê duyệt của chính phủ, CTXMBS đã tiến hành
đầu tư cải tạo dây chuyền số 2, chuyển đổi phương pháp sản xuất từ công
nghệ sản xuất xi măng theo phương pháp ướt sang phương pháp khô, lò nung
số 2 đã được cắt ngắn từ 185m xuống còn 70m, nâng công suất lò nung số 2
từ 1.750 tấn clinker / ngày đêm lên 3.500 tấn clinker / ngày đêm. Nâng công

suất dây chuyền 2 từ 0, 6 triệu tấn xi măng / năm lên 1, 2 triệu tấn/năm và
nâng công suất toàn nhà máy từ 1, 2 triệu tấn/ năm lên 1, 8 triệu tấn /năm.
Ngoài ra, công ty còn có 8 bể chứa phối liệu nghiền có dung tích 800 m 3
một bể, 2 bể dự trữ có dung tích 8000 m3 một bể dùng để chứa phối liệu bùn
sau khi đã được điều chỉnh thành phần hoá học.
Bên cạnh việc cải tạo dây chuyền số 2, một loạt các trang thiết bị được
làm mới và xây dựng lại đã hoàn thành và đưa vào sử dụng như: Nhà nghiền
nguyên liệu, xi lô đồng nhất bột liệu có sức chứa 15.000 tấn, tháp trao đổi

3


nhiệt ....
Hiện nay, để đáp ứng nhu cầu xi măng ngày càng nâng cao, công ty đã
và đang tiến hành đầu tư xây dựng dây chuyền mới, công suất 2 triệu tấn /
năm với công suất là 5.500 tấn clinker / ngày đêm. Dự kiến sẽ hoàn thành vào
cuối năm 2008 và đi vào hoạt động cùng với dây chuyền số 2 trong khi đó
vẫn duy trì hoạt động của dây chuyền số 1 theo phương pháp ướt có thể công
suất của công ty có thể đạt từ 3,2- 3, 8 triệu tấn / năm.
1.2. Tình hình sản suất của công ty Xi măng Bỉm Sơn
Công ty xi măng Bỉm Sơn hơn 25 năm qua luôn là đơn vị đi đầu trong
việc phát huy nội lực, phấn đấu thực hiện vượt mức kế hoạch sản xuất kinh
doanh, đóng góp có hiệu quả về kinh tế xã hội cho đất nước. Đến nay đã đưa
ra thị trường tiêu thụ trên 20 triệu tấn xi măng, góp phần bình ổn thị trường
được phân công, kể cả những thời điểm thị trường xi măng căng thẳng. Với
những thành tích đạt được công ty đã được Đảng và nhà nước trao tặng nhiều
huân chương và phần thưởng cao quý.
Dưới đây là bảng tổng kết tình hình sản xuất kinh doanh của công ty
trong thời gian qua.


4


Bảng 1: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh ( 2002- 2005)
Chỉ tiêu
Sản phẩm SX -TT
Tổng doanh thu
Giá vốn hàng bán
Lợi nhuận gộp

Đ.vị
Tấn
Trđ
Trđ
Trđ

2002
1.528.010
1.022.444
799.539
222.904

2003
2.006.259
1.315.493
920.568
394.925

2004
2.476.957

1.578.502
1.184.148
394.345

2005
2.407.026
1.539.701
1.154.163
385.537

Doanh thu hoạt động tài

Trđ

3.235

3.923

4.312

3.715

chính
Chi phí tài chính

Trđ

3.004

78.304


47.088

36.521

-Trong đó lãi vay phải trả
Chi phí bán hàng

Trđ

3.004
176.885

28.080
212.823

40.511
209.454

4.492
197.174

Chi phí quản lý doanh nghiệp
Lợi nhuận thuần từ hoạt động

Trđ
Trđ

35.747
10.502


45.754
61.965

61.153
80.970

55.970
99.586

KD
Thu nhập khác

Trđ

25.245

8.200

9.308

9.742

Chi phí khác

Trđ

8.760

4.251


5.764

6.859

Lợi nhuận khác

Trđ

16.485

3.949

3.543

2.883

Tổng lợi nhuận trước thuế
Thuế TNDN phải nộp

Trđ
Trđ

26.987
7.723

65.915
17.136

84.513

12.009

102.470
21.285

Lợi nhuận sau thuế

Trđ

19.263

48.779

72.504

81.184

Nguồn: Báo cáo quyết toán tài chính năm 2002, 2003, 2004, 2005
Qua bảng số liệu trên, ta thấy sản phẩm sản xuất và tiêu thụ trong các
năm 2002 – 2005 đều tăng. Năm 2003 lượng sản phẩm sản xuất tiêu thụ tăng
so với năm 2002 một lượng tuyệt đối là 478.249 tấn, như vậy đã tăng 31,29%.
Năm 2004 tăng 470.698 tấn và tăng 23,46% so với năm 2003. Trong năm
2005 lượng sản phẩm sản xuất tiêu thụ đạt 2.407.026 tấn lại giảm so với năm
2004 là 69.931tấn.Sự giảm sút này cho thấy trong thời gian từ năm 2003-2005
doanh nghiệp hoạt động chưa hiệu quả. Nguyên nhân của sự giảm sút này là
do trong năm 2002 công ty tiến cải tạo dây chuyền 2 nên sản lượng clinker
sản xuất bị giảm đi một nửa. Vào cuối năm 2003, dây chuyền 2 đã qua cải tạo
mới bắt đầu đi vào hoạt động từ đó công suất nhà máy mới ổn định dần.

5



Chính điều này dẫn tới doanh thu bán hàng của công ty đều tăng qua các năm.
Năm 2005 tổng doanh thu đạt được là 1.539.701 triệu đồng tăng 50,59% so
với năm 2002, kết quả này cho thấy công ty đã có những bước tiến bộ vượt
bậc, nhờ có sự đầu tư hợp lý, công ty xi măng Bỉm Sơn đã dần đổi mới và đi
vào sản xuất kinh doanh ổn định.
Qua bảng số liệu trên ta cũng nhận thấy một điều là công ty chưa quan
tâm đến vấn đề thu nhập tài chính. Doanh thu từ hoạt động tài chính của công
ty tăng rất ítQ, năm 2002 là 2.235 triệu đồng đến năm 2005 chỉ là 2.715 triệu
đồng tăng 480 triệu đồng. Trong khi đó chi phí cho hoạt động tài chính lại quá
lớn mà chiếm tỉ trọng cao trong chi phí hoạt động tài chính là lãi vay phải trả.
Năm 2004 lãi vay phải trả lên tới 40.511 triệu đồng, nguyên nhân là do công
ty phải trả lãi cho ngân hàng cho hoạt động vay vốn đầu tư cải tạo dây chuyền
số 2. Trong khi đó chi phí bán hàng qua các năm không đều nhau, năm 2003
tăng 35.938 triệu đồng so với năm 2002 đạt tỉ lệ là 20,3%. Nhưng đến năm
2004 chi phí bán hàng giảm 2% so với năm 2003 và đến năm 2005 chỉ còn là
197.174 triệu đồng giảm 6% so với năm 2004. Chi phí bán hàng giảm đã tiết
kiệm cho công ty một khoản tiền không nhỏ mà vẫn có thể làm tốt công tác
bán hàng mang lại lợi nhuận cao cho công ty. Không những thế chi phí cho
công tác quản lý doanh nghiệp cũng giảm, năm 2005 chỉ có 55.970 triệu
đồng tiết kiệm được 5.183 triệu đồng so với năm 2004.
Có được kết quả như vậy là do công ty đã tổ chức hoạt động quản lý
doanh nghiệp, đề ra được những chính sách đúng cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của công ty. Điều này rất có lợi cho công ty vì nó tạo ra sức cạnh tranh
so với các doanh nghiệp trong cùng ngành. Chính vì vậy lợi nhuận trước thuế
của công ty tăng rất cao trong các năm. Năm 2002 chỉ đạt 26.987 triệu đồng
nhưng đến năm 2003 đã đạt 69.915 triệu đồng tăng 159,06%. Năm 2004, lợi
nhuận tăng 14.598 triệu đồng so với năm 2003 tăng 20,8%. Năm 2005 đạt
102.470 triệu đồng tăng 17.957triệu đồng tăng tương đối so với năm 2004 là

21,24%.

6


Nhìn chung tổng lợi nhuận trước thuế của CTXMBS qua các năm đều
tăng tuy nhiên tốc độ tăng của năm sau so với năm trước lại giảm. Sự giảm
sút này là do công ty đã hoàn thành xong việc đầu tư cải tạo dây chuyền số 2
và có sự điều chỉnh của ban lãnh đạo công ty nhằm cung cấp ra thị trường một
lượng xi măng ổn định để có thể ổn định sản xuất giữ vững thị phần của công
ty trong thời gian tới khi công ty bắt đầu tiến hành xây dựng dây chuyền mới
với dự kiến đến năm 2008 sẽ đi vào hoạt động.
2.Tình hình tiêu thụ sản phẩm
Nhà máy xi măng Bỉm Sơn chính thức đi vào hoạt động từ năm 1982.
Sản phẩm chính của công ty là xi măng PCB30 và PCB40, ngoài ra công ty
còn cung cấp cho thị trường hàng loạt sản phẩm như clinker, xi măng bao,
rời.... Sản phẩm của công ty đã có mặt trên mọi miền Tổ quốc, được người
tiêu dùng trong cả nước biết đến. Nhưng từ khi đất nước ta mở cửa, nền kinh
tế đã có nhiều khởi sắc, ngành công nghiệp xi măng cũng có nhiều đổi mới,
ngày càng phát triển hơn, nhiều nhà máy xi măng mới với công nghệ tiên tiến
ra đời. CTXMBS đã và đang đứng trước sự cạnh tranh khốc liệt không chỉ với
các đối thủ cạnh tranh trong nước (là các doanh nghiệp thành viên trong
VNCC l, các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài với công nghệ hiện đại)
mà còn với các nước trong khu vực.

7


Bảng 2: Tình hình cung cấp xi măng giai đoạn 98- 2002
Đơn vị: Triệu tấn

Năm
1998
1999
2000
2001
XM tổng công ty
5,56
5,47
6,46
7,24
XM lò đứng và trạm nghiền
2,37
2,94
3,79
3,89
XM liên doanh
1,92
2,6
3,66
5,25
XM nhập khẩu
0,05
XM Bỉm Sơn
1,2
1,1
1,3
1,28
Nguồn: Phòng kế hoạch công ty Xi măng Bỉm Sơn

2002

9,3
4,46
6,23
1,528

Qua bảng số liệu trên cho thấy, nguồn cung cấp xi măng cho thị trường
Việt Nam rất phong phú, ngoài các nhà máy thuộc Tổng công ty xi măng Việt
Nam ( TCTXMVN) còn có sự tham gia mạnh mẽ của các công ty liên doanh,
xi măng lò đứng và các cơ sở nghiền. Tuy nhiên qua bảng số liệu ta cũng
nhận thấy một điều, mặc dù bị sức ép cạnh tranh trên thị trường từ các nguồn
xi măng khác nhau nhưng VNCC vẫn chiếm tới 40-50% thị phần tiêu thụ.
Trong đó CTXMBS cũng đóng góp một phần không nhỏ vào kết quả mà toàn
ngành xi măng trong nước đạt được. Tính toán thị phần của CTXMBS trong
toàn Tổng công ty và so với nhu cầu cả nước ta được bảng số liệu sau:
Bảng 3: Thị phần công ty xi măng Bỉm Sơn giai đoạn 1998-2002
Nă m
XM Bỉm Sơn
Thị phần trong toàn tổng công ty
Thị phần so với nhu cầu thị

1998
1999
2000
2001 2002
1,2
1,1
1,3
1,28 1,528
21,6% 20,1% 19,6% 17,3% 16,4%
12,01% 10,00% 9,35% 7,81% 7,96%


trường
Qua bảng số liệu trên ta thấy từ năm 1998 đến năm 2002 thị phần của
CTXMBS trong toàn tổng công ty có xu hướng giảm sút. Năm 1998 đạt
21,6% nhưng đến năm 1999 chỉ còn 20,1% từ các năm 2000 trở đi giảm dần
và đến năm 2002 chỉ chiếm 16,4% giảm 5,2% so với năm 1998. Lượng sản
phẩm cung cấp và tiêu thụ ra thị trường cũng giảm thông qua thị phần của
công ty cung ứng trên thị trường. Năm 1998, thị phần của công ty trên thị
trường đạt 12,01% nhưng đến năm 2002 chỉ còn chiếm 7,96%. Nguyên nhân

8


của sự giảm sút này là do trong giai đoạn này công ty đang tiến hành hoạt
động cải tạo nhà máy vì vậy phải cho dừng hoạt động của lò nung số 2 chính
vì vậy lượng xi măng cung cấp trên thị trường bị giảm sút. Mặt khác, đây
cũng là thời kì khó khăn của công ty, bên cạnh hoạt động cải tạo nhà máy,
công ty còn đứng trước sức ép cạnh tranh rất lớn từ các đối thủ cạnh tranh
trong và ngoài nước.Trước sức ép cạnh tranh và nhu cầu tiêu thụ xi măng
tăng cao, VNCC đã phân vùng địa bàn tiêu thụ của các nhà máy xi măng
thuộc Tổng công ty, do vậy thị trường XMBS không còn phân bố rộng như
trước mà chỉ thu hẹp ở một số địa bàn được phân công. Hiện tại, sản phẩm
của công ty xi măng Bỉm Sơn được tiêu thụ thông qua các kênh sau:
- Bán trực tiếp tại nhà máy, bán thông qua mạng lưới chi nhánh, đại lý
của công ty đặt tại các địa bàn phân công như Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hoá,
Ninh Bình, Nam Định, Hà Tây, Hoà Bình, Sơn La, Lai Châu. Với ưu thế có
mạng lưới tiêu thụ lâu năm, đội ngũ nhân viên bán hàng có kinh nghiệm cùng
với những chính sách bán hàng linh hoạt nên đây là kênh tiêu thụ lớn nhất
chiếm tới 70-80% sản lượng tiêu thụ của công ty. Hiện nay công ty đang có 8
chi nhánh bán hàng tại các tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hoá, Ninh Bình,

Nam Định, Thái Bình, Hà Tây, Hoà Bình, Sơn La, Lai Châu. Ngoài ra công ty
còn cung cấp xi măng cho nước bạn Lào.
- Bán qua các công ty kinh doanh xi măng hoặc tổng đại lý bao tiêu tại
các địa bàn: Công ty vật tư kỹ thuật xi măng phụ trách địa bàn Hà Nội, Lào
Cai, Phú Thọ; Công ty kinh doanh Thạch cao xi măng phụ trách địa bàn
Quảng Bình, Quảng Trị, Huế; Công ty Xi măng vật liệu xây dựng Đà Nẵng
phụ trách địa bàn Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh
Hoà, Phú yên..... Kênh tiêu thụ thông qua các công ty kinh doanh xi măng
chiếm từ 20-30% sản lượng tiêu thụ của công ty xi măng Bỉm Sơn.
Việc tổ chức tốt hoạt động tiêu thụ, trong những năm qua công ty xi
măng Bỉm Sơn đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của tổng công ty giao, đưa sản
phẩm tiêu thụ tới tận tay người sử dụng. Tình hình tiêu thụ của công ty được

9


thể hiện ở bảng sau.
Bảng 4: Tiêu thụ xi măng Bỉm Sơn giai đoạn 1998-2002
Đơn vị: nghìn tấn
TT
A
I
1
2
3
4
5
6
7
8

9
II
1
2
3
4

Địa bàn tiêu thụ
Xi măng
Miền bắc
Hà nội
Thái bình
Hà tây
Nam định
Ninh bình
Thanh hoá
Nghệ an
Hà tĩnhH
Các tỉnh Tây Bắc
Tỷ lệ so với cả miền bắc
Miền trung
Quảng bình
Quảng trị
Thừa thiên huế
Các tỉnh duyên hải nam trung

B
1
2


bộ và tây nguyên
Xuất đi Lào
Tỷ lệ so với cả miền trung
Clinker
Trạm nghiền Quảng Bình
Trạm nghiền liên doanh Quảng

3

ngãi
Các đơn vị khác

5

1998

1999

2000

2001

2002

1036
96,126
19,363
103,22
143,52
81,395

337,65
115,38
98,083
41,562
21,9%
133,7
20,3
34,124
56,711
22,553

925
102,73
20,147
56,755
121,78
75,187
370,56
68,972
76,197
32,757
18,7%
160,46
36,22
32,563
61,621
27,245

1042
72,111

17,59
40,832
127,13
76,327
455,84
148,01
77,01
25,98
17%
220,21
29,46
48,904
85,838
37,780

1030
27,294
38,096
42,736
167,81
86,016
397,95
142,19
115,35
13,005
13,4%
190,01
34,02
48,773
70,256

22,512

1234
52,286
37,65
138,73
170,155
108,56
354,9
179,456
146,319
46,616
13%
192,72
25,81
51,610
71,299
39,122

0
7%
49,514

2,726
7,6%
33,266
6,215

18,236
8,1%

129,91
34,642

14,459
6,3%
64,438
52,598

4,877
5,6%
100,59
41.446
27,769

49,514

27,05

95,27

22,992

20,222

Nguồn: Phòng kế hoạch công ty xi măng Bỉm Sơn
Qua số liệu trên cho thấy, sản lương xi măng tiêu thụ của công ty xi
măng Bỉm Sơn ở hầu hết các địa bàn đều tăng qua các năm. Tuy nhiên ở một
số địa bàn như: Hà Nội, các tỉnh Tây Bắc lại giảm mạnh. Trong khi đó ở một
số các tỉnh Hà Tây, Nam Định, Nghệ An, Quảng Bình... sản lượng tiêu thụ
vẫn tăng mạnh. Điều này cho thấy thị trường chính mang tính truyền thống

của công ty chủ yếu vẫn tại các tỉnh Bắc Trung Bộ và Trung Trung Bộ. Tuy
nhiên đây cũng là vùng tập trung khá nhiều nhà máy xi măng, chỉ riêng từ
Nghệ an tới Hà nam ngoài xi măng Bỉm Sơn còn có thêm 3 nhà máy xi măng

10


lò quay với tổng công suất 4, 95 triệu tấn/ năm cùng 10 nhà máy xi măng lò
đứng với tổng công suất 0, 7 triệu tấn năm, chính vì vậy tính chất cạnh tranh
tại những thị trường này rất quyết liệt. Ngoài ra, xi măng Bỉm Sơn còn được
tiêu thụ tại các tỉnh đồng bằng sông Hồng, các tỉnh thuộc Tây bắc, Nam trung
bộ, một số tỉnh khu vực Tây Nguyên.
Để nâng cao sức cạnh tranh của đơn vị CTXMBS đã và đang đầu tư cải
tiến kỹ thuật và quản lý chất lượng. Hiện tại công ty đang áp dụng hệ thống
quản lý chất lượng theo TCVN ISO9001§ -2000. Sản phẩm của công ty đã
đóng góp đáng kể cho sự nghiệp kiến thiết đất nước và đã có mặt ở những
công trình trọng điểm của đất nước và được người tiêu dùng bình chọn là
hàng Việt Nam chất lượng cao từ năm 1996 đến nay.
3.Thực trạng công nghệ và thiết bị
3.1. Về công nghệ:
Nhà máy xi măng Bỉm Sơn được Liên Xô cung cấp thiết bị công nghệ
sản xuất theo phương pháp ướt ở thế hệ thập kỷ 60, 70 đạt trình độ tiên tiến
trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ. Theo thiết kế ban đầu
nhà máy xi măng được xây dựng với công suất ban đầu là 1, 2 triệu tấn xi
măng/ năm. Từ khi đi vào hoạt động cho đến đầu năm 2003 hoàn thành cải
tạo dây chuyền số 2, công ty vẫn duy trì hoạt động sản xuất xi măng theo
phương pháp ướt. Tuy nhiên cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học
và công nghệ, phương pháp ướt đã trở nên lạc hậu. Nhược điểm của phương
pháp ướt là:
+ Tốn nhiều nhiên liệu (Than) để làm bay hơi nước

+ Mặt bằng sản xuất phải có diện tích lớn, thiết bị cồng kềnh
+ Nguồn nhân lực phục vụ sản xuất nhiều
Chính vì vậy đầu năm 2002, công ty đã tiến hành cải tạo dây chuyền số 2
chuyển đổi phương pháp sản xuất từ ướt sang khô, nhằm nâng cao năng lực
sản suất của công ty để đủ sức cạnh tranh trên thị trường.
Hiện tại công ty đang duy trì việc sản xuất xi măng theo cả hai phương

11


pháp: phương pháp ướt (dây chuyền 1d) và phương pháp khô (dây chuyền 2
đã qua cải tạod). Tiến tới cuối năm 2008 nhà máy mới công suất 2 triệu tấn
sản phẩm /năm, công nghệ sản xuất xi măng theo phương pháp khô, hiện đại
đi vào hoạt động, sẽ hoàn thành việc chuyển đổi phương pháp sản xuất, hiện
đại hoá toàn công ty, theo xu hướng chung của toàn thế giới.
3.2. Về máy móc:
Dự án nhà máy xi măng Bỉm Sơn được Liên Xô cung cấp các thiết bị có
trình độ cơ khí hoá, hiện đại hoá, tiên tiến nhất lúc bấy giờ. Song do quá trình
thi công xây dựng nhiều phần tự động hoá, cơ khí hoá không làm việc vì vậy
nhiều bước công đoạn phải do công nhân trực tiếp vận hành. Mặt khác, năng
lực thiết bị đã được khai thác hơn 25 năm, phụ tùng thay thế chủ yếu trong
nước chế tạo nên thiết bị xuống cấp trầm trọng, công đoạn chính trong dây
chuyền đó là lò nung chưa đạt công suất thiết kế.

12


Bảng 5: Công suất thiết bị chính 5 năm 2001-2005
Đơn vị: Tấn/h
Tên thiết bị


Công suất
thiết kế

Thực hiện các năm

Đập đá

450

2001
464

2002
465

2003
470

2004
480

2005
478

Đập sét

250

267


262

255

269

277

Nghiền nguyên liệu

145

140

142

146

141

149

Lò nung

72

68

67


68

69

70

Nghiền XM

65

68

65

72

80

81

Đóng bao

80

77

78

80


81

82

Nguồn: Phòng điều hành sản xuất
Phần lớn máy móc của công ty phục vụ cho sản xuất tính đến năm 2002
đều trong tình trạng lạc hậu, công suất kém. Sau khi cải tạo dây chuyền 2
xong, CTXMBS đã tiến hành cho đầu tư mới rất nhiều máy móc thiết bị, tận
dụng có sửa chữa một số công đoạn trong quá trình sản xuất xi măng.
4.Tình hình đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty Xi măng
Bỉm Sơn trong thời gian qua.
Xi măng là một ngành công nghiệp có nhu cầu vốn đầu tư lớn, hiệu quả
xã hội cao, tạo nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước. Ngành công nghiệp xi
măng ngoài việc thoả mãn nhu cầu trong xây dựng còn có ý nghĩa rất quan
trọng đối với sự phát triển liên ngành trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Với mục tiêu thoả mãn nhu cầu xi măng trong nước, phù hợp với chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX, Thủ tướng Chính phủ đã kí quyết định số 164/QĐ - TTg
ngày 18 - 11- 2002 phê duyệt “ Quy hoạch điều chỉnh phát triển công nghiệp
Xi măng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020”.
Các định hướng trong kế hoạch đầu tư phát triển đến giai đoạn 2010 đã
thể hiện rõ quan điểm đầu tư, với mục tiêu tập trung cho các dự án có đủ điều
kiện để phát triển bền vững, lựa chọn công nghệ kỹ thuật tiên tiến, quy mô
đầu tư hợp lý, tận dụng và phát huy cao độ nội lực và nguồn vốn trong nước.

13


Ưu tiên mở rộng nâng cấp các nhà máy hiện có để tận dụng cơ sở hạ tầng kỹ

thuật, rút ngắn thời gian thi công, nhanh chóng nâng cao sản lượng, giảm chi
phí đầu tư và giá thành sản phẩm, tạo ra khả năng cạnh tranh cho ngành xi
măng khi tham gia hội nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới.
Quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước, công ty xi măng Bỉm Sơn
đã sớm nhận thấy vai trò đầu tư phát triển trong việc nâng cao hiệu quả sản
xuất và chất lượng sản phẩm xi măng. Do vậy hoạt động đầu tư được ban lãnh
đạo công ty cho tiến hành từ rất sớm. Từ việc đầu tư vào tăng năng suất ở hai
lò nung chính, đến việc đầu tư cho mua sắm máy móc thiết bị nhằm hiện đại
hoá nhà máy, đến việc đầu tư mở rộng thị trường tiêu thụ, chăm lo
nguồn nhân lực cho cả công ty ... Đây cũng chính là những hoạt động của
công ty nhằm tiến hành nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty trong giai
đoạn cạnh tranh khốc liệt trên thị trường hiện nay.
4.1.Vốn và nguồn vốn
Công ty Xi măng Bỉm Sơn là doanh nghiệp nhà nước, trực thuộc tổng
công ty xi măng Việt Nam vì vậy nguồn vốn kinh doanh của công ty từ trước
tới nay chủ yếu là do ngân sách cấp và nguồn tự bổ sung của đơn vị. Tổng kết
sự tăng giảm nguồn vốn kinh doanh qua các năm như sau:

14


Bng 6: Tỡnh hỡnh tng gim Ngun vn kinh doanh qua cỏc nm
n v: t ng
Nm

2002

2003

2004


2005

Ngun

S u k

252,372

276,859

284,973

320,702

vn

Tng trong k
Gim trong k
Số cuối kỳ
Lợng tăng tuyệt đối số cuối

30,254
5,767
276,859

8,948
0,834
284,973


103,844
12,22
376,597

381,641

8,114

91,624

5,044

2,93

32

1,33

138,154

138,164

146,319

114,702

kỳ
Lợng tăng tơng đối số cuối
Ngân


kỳ(%)
Số đầu kỳ

sách

Tăng trong kỳ

0,067

8,948

6,301

Giảm trong kỳ

0,057

0,793

11

138,164

146,319

141,621

Số cuối kỳ

100,702


Ngun: Phũng K toỏn cụng ty xi mng Bm Sn
Qua bng s liu trờn ta thy, ngun vn kinh doanh ca cụng ty u
tng qua cỏc nm t 2002 n nm 2005. Tuy nhiờn s gia tng ca ngun
vn kinh doanh khụng ln gia nm trc v nm sau. Cui nm 2002, ngun
vn kinh doanh ch t 276, 859 t ng nhng n nm 2003 ch l
284, 973 t ng tng 8, 114 t ng so vi nm 2002 tng 2,93%.Nm 2004
l 376, 597 t ng tng 32% so vi nm 2003. n cui nm 2005 t l ny
ch t 1,33%. S liu ny cho thy, trong nhng nm qua s vn kinh doanh
ca cụng ty c b sung rt hn ch. Nú cng th hin nờn mt cũn yu kộm
trong cụng tỏc huy ng vn ti cụng ty. Ngun ngõn sỏch cp gim xung rừ
rt. Cui nm 2002, ngõn sỏch cp l 138, 164 t ng, nhng bt u t 2004
n ny ngun vn ny cú s gim sỳt. So vi nm 2002, ngun ngõn sỏch b
sung cho cụng ty nm 2005 gim 37, 462 t ng gim 37,5%. õy cng l
ch trng ca ng v Nh nc, nhm ct gim ngõn sỏch, thc hin c
phn hoỏ cỏc cụng ty thnh viờn trong VNCC.
Trong giai on hin nayT, khi nn kinh t ó chuyn sang c ch th
trng thỡ ngun vn ngõn sỏch cp ch cũn úng vai trũ nh hng, h tr
15


phát triển. Ngoài ra, nguồn vốn của công ty còn được huy động qua hoạt động
đầu tư tài chính: Đầu tư vào các cổ phiếu và trái phiếu ngắn hạn, dài hạn
nhưng nguồn này cũng không lớn lắm chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ bổ sung vào
nguồn vốn kinh doanh của công ty. Dưới đây là bảng số liệu cơ cấu vốn đầu
tư tại công ty xi măng Bỉm Sơn trong thời gian qua.
Bảng 7: Cơ cấu vốn đầu tư của công ty Xi măng Bỉm Sơn
giai đoạn 2002-2005
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm


2002
Số tiền

2003
Tỉ lệ

Số tiền

(%)
Tổng
VĐT
Xây
lắp
Thiết
bị
CP
khác

2004
Tỉ lệ

Số tiền

(%)

2005
Tỉ lệ

Số tiền


(%)

Tỉ lệ
(%)

230,338

100

168,797

100

374,49

100

495,068

100

96,375

41,8

46,36

27,4


78,695

21

120,731

24,3

102,64

46,5

84,81

50,2

187,69

50,1

199,554

40,2

31,9

13,8

37,58


22,4

108,364

28,9

175,783

35,4

Nguồn: Phòng kế hoạch Ban quản lý dự án.
Qua bảng số liệu trên ta thấy, tổng vốn đầu tư của CTXMBS trong giai
đoạn này có nhiều biến động. Năm 2002 đạt 203, 338 tỷ đồng nhưng đến năm
2003 chỉ sử dụng có 168, 797 tỷ đồng. Nguyên nhân là do năm 2003 dự án cải
tạo dây chuyền 2 đã hoàn thành và đi vào sử dụng. Chính vì vậy nên số vốn
đầu tư giảm đi. Đến năm 2004, tổng vốn đầu tư lại tăng cao, cao nhất là năm
2005 lên tới 495, 068 tỷ đồng. Đây cũng chính là thời kỳ công ty chuẩn bị
thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà máy mới do đó tổng số vốn đầu tư tăng
cao.
Cơ cấu vốn đầu tư trong các năm 2002-2005 của công ty xi măng Bỉm
Sơn cho thấy vốn đầu tư cho thiết bị chiếm chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong các năm. Năm 2002, vốn đầu tư cho thiết bị chiếm 46,5% trong tổng

16


vốn đầu tư. Đến năm 2003, vốn đầu tư cho thiết bị là 84, 81 tỷ đồng có giảm
so với năm 2002 là 102, 64 tỷ đồng nhưng vẫn chiếm tỷ lệ cao 50,2 % trong
tổng số vốn đầu tư năm 2003. Năm 2004, tỷ lệ đầu tư cho thiết bị là 50,1%
đến năm 2005 tỷ lệ này giảm xuống 40,2% so với tổng vốn đầu tư cùng năm

đó. Tuy nhiên vốn đầu tư cho thiết bị của năm sau cho năm trước vẫn tăng.
Điều này chứng tỏ, công ty rất chú trọng vào đầu tư chiều sâu, đổi mới máy
móc công nghệ để hiện đại hoá nhà máy, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm
tiêu hao nguyên nhiên vật liệu đầu vào cho sản xuất nhằm nâng cao sức cạnh
tranh của công ty trên thương trường. Vốn cho xây lắp trong thời kỳ này của
công ty chủ yếu là để xây dựng các hạng mục công trình nhằm phục vụ cho
sản xuất như: Xây dựng mới kho chứa sét, nhà nghiền nguyên liệu, tháp trao
đổi nhiệt,.... Chi phí khác chủ yếu là chi cho công tác giải phóng mặt bằng,
cho thẩm tra dự án, đào tạo công nhân kỹ thuật,...
Qua phân tích số liệu về nguồn vốn và cơ cấu vốn của công ty xi măng
Bỉm Sơn trong thời gian qua còn tồn tại rất nhiều bất cập. Tình hình huy động
và sử dụng vốn còn yếu còn phụ thuộc nhiều vào chỉ tiêu ngân sách. Chính vì
vậy, trong thời gian tới công ty cần tiến hành nhanh chóng việc cổ phần hoá
nhằm huy động tối đa nguồn vốn trong nước. Việc cổ phần hoá này giúp cho
công ty xi măng Bỉm Sơn chủ động hơn trong việc huy động các nguồn vốn
vì thế cũng tạo ra tính linh hoạt hơn cho những kế hoạch sử dụng vốn đầu tư
nhằm phát triển và hiện đại hoá nhà máy.
4.2.Nội dung đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty xi măng
Bỉm Sơn trong thời gian qua.
Trong thời gian qua CTXMBS đã có sự quan tâm rất lớn đến hoạt động
đầu tư cho các nội dung nâng cao chất lượng sản phẩm, tài sản cố định, nguồn
nhân lực... vì đây là những yếu tố cơ bản góp phần tạo nên sức cạnh tranh của
công ty trên thị trường. Điều này thể hiện qua tình hình phân bổ vốn đầu tư
cho các nội dung trên qua các năm gần đây nh sau:
Bảng 8: Tình hình phân bổ vốn đầu tư theo từng nội dung đầu tư

17


Đơn vị: Tỷ đồng

Nội dung đầu tư

2002

Nâng cao chất lượng sản
phẩm
TSCĐ
Nguồn nhân lực
Maketing
Tổng vốn đầu tư

2003

2004

2005

2002-

Tỷ lệ

2005

(%)

63,87

41,7

71,43


84,54

259,54

20,4

146,35
15,5
6,598
230,338

100,26
19,27
8,574
168,797

268,62
20,713
15,462
374,49

367,18
24,294
20,496
495,068

881,41
78,87
51,12

1.268,6

69,75
6,21
4,03
100

Nguồn: Phòng kế toán thống kê tài chính
Qua bảng số liệu trên thể hiện rằng thời gian qua công ty đã có sự quan
tâm đồng đều tới các nội dung của hoạt động đầu tư. Trong giai đoạn hiện
nay, khi CTXMBS đang trong giai đoạn đầu tư cải tạo hiện đại hoá nhà máy,
thì cơ cấu này được xem là hợp lý, cần phải có rất nhiều vốn để mua sắm máy
móc thiết bị và xây dựng nhà xưởng. Do đó vốn đầu tư cho nội dung đầu tư
vào tài sản cố định chiếm tới 69,75% trong cả giai đoạn 2002-2005. Tuy
nhiên, để công ty có thể tăng năng lực cạnh tranh với các đối thủ trên thị
trường thì cần phải điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư hợp lý hơn. Vì cơ cấu đầu tư
hiện tại chỉ có thể duy trì trong giai đoạn hiện tại, khi công ty đang trong quá
trình hiện đại hoá. Vốn đầu tư cho hoạt động Marketing và cho nguồn nhân
lực chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng vốn đầu tư là 4,03% và 6,21%. Vì vậy
trong thời gian tới cần hợp lý hoá hơn về cơ cấu đầu tư. Hiện tại công ty có 2
loại sản phẩm: Xi măng và clinker, nhưng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ chủ
yếu vẫn là xi măng PCB40, PCB30. Chính vì vậy để có thể nâng cao khả
năng cạnh tranh cho những sản phẩm này cần phải tăng cường vốn đầu tư hơn
nữa cho hoạt động Marketing và đầu tư cho nguồn nhân lực, mặt khác cũng
cần coi trọng công tác đầu tư cho hoạt động nâng cao chất lượng sản phẩm tạo
ra thế mạnh cạnh tranh trên thương trường, cần thay thế những máy móc,
công nghệ cũ của công ty để có thể đưa ra thị trường một sản phẩm hoàn thiện
hơn, đáp ứng tốt nhu cầu thị trường.
Dưới đây là tình hình đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty
ở từng nội dung đầu tư cụ thể:

18


4.2.1.Đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm là một nhân tố hết sức quan trọng để có thể nâng
cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Có thể nói nó là yếu tố hàng đầu
để thắng thế trong cạnh tranh, quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp trên thị
trường. Chất lượng sản phẩm đảm bảo, đạt tiêu chuẩn quy định thì khách
hàng sẽ ưa chuộng hơn và vị thế của doanh nghiệp cũng được củng cố và mở
rộng. Nhờ thế mà doanh nghiệp sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn, tăng
doanh thu, tăng lợi nhuận, tăng sản xuất, tạo điều kiện cải tiến, đổi mới sản
phẩm và vì vậy lại đáp ứng tốt nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.Trong
thời gian qua, để có thể nâng cao chất lượng sản phẩm công ty xi măng Bỉm
Sơn đã tiến hành đầu tư chiều sâu, cải tiến máy móc thiết bị, hiện đại hoá dây
chuyền sản xuất nhằm nâng cao hàm lượng công nghệ trong sản phẩm, thực
hiện tốt công tác quản lý chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn TCVN 90012000 nhằm đưa sản phẩm của công ty đến tay người tiêu dùng ngày một rộng
rãi hơn.
Công ty xi măng Bỉm Sơn nhận thức rằng chất lượng sản phẩm là yếu tố
quan trọng quyết định đến sự sống còn của công ty. Việc áp dụng hệ thống
quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002-1994 đã và đang mang lại nhiều
lợi ích cho công ty như: Tạo nền móng cho sản phẩm có chất lượng vì khi áp
dụng hệ thống này phải tuân thủ theo các tiêu chuẩn chất lượng đã quy định,
tăng năng suất và hạ giá thành, tăng uy tín của sản phẩm trên thương trường.
Công ty cũng khẳng định giữ uy tín với khách hàng, đáp ứng ngày càng
cao nhu cầu của khách hàng là trách nhiệm, là nét đẹp văn hoá trong kinh
doanh. CTXMBS đã có truyền thống quan tâm đến chất lượng sản phẩm, luôn
luôn cung cấp cho khách hàng sản phẩm xi măng phù hợp tiêu chuẩn Việt
Nam. Công ty đã được chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng TCVN ISO
9002-1994 từ năm 2000. Năm 2003 công ty đã được chứng nhận chuyển đổi
sang ISO 9001-2000.

Hiện tại công ty đang sản xuất xi măng PCB30, PCB40 theo tiêu chuẩn

19


Việt Nam TCVN 6260: 1997, tuỳ theo chất lượng clinker, xi măng pooclăng
và phụ gia, tổng lượng các phụ gia khoáng (không kể thạch cao k) trong xi
măng pooclăng hỗn hợp, tính theo khối lượng xi măng, không quá 40%.
Trong đó phụ gia đầy không lớn hơn 20%, phụ gia công nghệ không lớn hơn
1%. Như vậy, nếu chất lượng Clinker đảm bảo và ổn định thì có thể pha phụ
gia lên tới trên 20% và giảm được giá thành đáng kể vì giá phụ gia tương đối
rẻ.
CTXMBS đang tiến hành kết hợp với viện khoa học công nghệ vật liệu
xây dựng nhằm tìm kiếm các nguồn phụ gia gầnC, nghiên cứu, thí nghiệm sản
xuất thử, tiến tới sản xuất công nghiệp để nâng cao chất lượng xi măng mà
vẫn đảm bảo ổn định và hạ giá thành sản phẩm. Ngoài ra, hàng năm công ty
đều trích một phần kinh phí rất lớn cho công tác nghiên cứu khoa học nhằm
nâng cao chất lượng clinker, ổn định chất lượng xi măng và tìm ra những phụ
gia, nguyên liệu mới nhằm thay thế nguồn nguyên nhiên liệu cho sản xuất xi
măng đang cạn kiệt dần. Trong năm 2005, toàn công ty đã có 76 sáng kiến và
đề tài khoa học được duyệt, với 396 lượt người tham gia, giá trị làm lợi
2.386.125.841 đồng. Chất lượng sản phẩm được nâng cao đây chính là một
yếu tố thúc đẩy sự thành công của công ty trong tương lai. Tuy nhiên trong
thời gian tới công ty cần quan tâm hơn nữa cho hoạt động này thì mới có thể
tăng khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường xi măng đang hoạt động sôi
nổi như hiện nay.
Bên cạnh công tác duy trì quản lý chất lượng sản phẩm, công ty còn tiến
hành đầu tư chiều sâu nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. Hai hoạt động
đầu tư cơ bản phải kể đến là: Đầu tư cải tạo dây chuyền 2 và dự án xây dựng
nhà máy mới.

• Dự án cải tạo hiện đại hoá dây chuyền số 2D
Đây cũng được coi là giải pháp quan trọng có tính chất quyết định đến
sự tồn tại và phát triển công ty trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và trên
thế giới.

20


Xi măng Bỉm Sơn là cơ sở sản xuất xi măng cuối cùng sản xuất theo
phương pháp ướt được đầu tư xây dựng ở nước ta, công nghệ sản xuất lạc
hậu, thiết bị cồng kềnh, tiêu hao vật chất lớn, năng suất và chất lượng chưa
cao. Chính vì vậy, đến năm 2001 công ty chính thức thực hiện công việc cải
tạo hiện đại hoá dây chuyền số 2. Mục tiêu của dự án là: Chuyển đổi công
nghệ sản xuất từ phương pháp ướt sang phương pháp khô, hiện đại hoá, cải
thiện môi trường, nâng cao chất lượng sản phẩm và nâng công suất dây
chuyền số 2 từ 1.750 tấn clinker / ngày đêm lên 3.500 tấn clinker / ngày đêm.
Công suất dây chuyền số 2 được nâng lên từ 0, 6 triệu tấn/năm lên 1, 2 triệu
tấn/năm. Tổng mức đầu tư của dự án này là 75, 5 triệu USD. Trong đó , mọi
công đoạn cho sản xuất xi măng đều được tận dụng, phục hồi và đầu tư mới.
Công nghệ sản suất, thiết bị sử dụng cho dây chuyền cải tạo vào loại tiên tiến
trên thế giới hiện nay, được chế tạo từ các nước G7 với các chỉ tiêu kinh tế
tốt.
Bảng 9: Nội dung cải tạo của một số công trình
phục vụ sản xuất xi măng
stt
1
2

3


Tên công trình
Kho chứa sét
Nhà

Nội dung cải tạo
Trang bị máy đồng nhất sét hiện đạiT, đảm bảo hệ số đồng nhất

sét trong kho là 10:1
nghiền Trang bị máy nghiền nguyên liệu kiểu đứng do hãng Losseche

nguyên liệu

Đức chế tạo, công suất lớn, Đảm bảo sảm phẩm nghiền đạt độ

Lò nung số 2

mịn 12-14% trên sàng 009
Hệ thống truyền động của lò được trang bị mới, các trạm dầu
được cải tạo. Nhiệt độ lò được giám sát chặt chẽ bằng hệ thống

4

5

Hệ thống xử lý

Scaner.
Xây dựng tháp điều hoà khí thảiX, hệ thống lọc bụi tĩnh điện,

khí thải


lắp đặt ống khói mới, Đảm bảo nồng độ bụi thải đạt <50mg/m 3

tiêu chuẩn
Máy nghiền than Cải tạo máy nghiền than với máy phân ly tĩnh hiện có thành máy
nghiền than có máy phân ly động hiệu suất cao.Trang bị máy lọc

6

Máy nghiền xi

bụi than đảm bảo tiêu chuẩn.
Cải tạo máy nghiền nguyên liệu số 2 thành máy nghiền xi măng

măng

số 4, hoạt động theo chu trình kín có phân ly động, hiệu suất

21


cao, có hệ thống xử lý khí thải tốt.

Nguồn: Phòng kỹ thuật công ty xi măng Bỉm Sơn
Qua bảng trên ta thấy, việc đầu tư cải tạo, chuyển đổi công nghệ đã
mang lại hiệu quả lớn cho công ty Xi măng Bỉm Sơn. Không những làm giảm
các định mức tiêu hao vật tư, tiết kiệm chi phí sản xuất mà hơn hết là tạo ra
sản phẩm mới có chất lượng cao. Tăng sức cạnh tranh trên thương trường.
Bằng việc cải tạo, hiện đại hoá một số máy móc thiết bị nhằm nâng cao hàm
lượng công nghệ trong sản phẩm xi măng, đảm bảo sản xuất xi măng theo

đúng tiêu chuẩn.
• Đầu tư dây chuyền mới:
Mục tiêu đầu tư là nhằm đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng xi măng trong và
ngoài nước. Nhanh chóng đưa ngành xi măng thành một ngành công nghiệp
mạnh, có công nghệ sản xuất hiện đại, đủ sức cạnh tranh với sản phẩm cùng
loại của nước ngoài. Đây là hoạt động đầu tư nhằm nâng cao khả năng cạnh
tranh của công ty xi măng Bỉm sơn bằng cách đầu tư chiều sâu, cải tiến công
nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm xi măng, để đưa ra thị trường sản phẩm
xi măng mác PCB40 chất lượng cao.
Quan điểm phát triển của dự án này là: Phát triển công nghiệp xi măng
phải đảm bảo hiệu quả kinh tế, sản phẩm có sức cạnh tranh ngày càng cao
trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Sử dụng hợp lý tài
nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái,...
Công nghệ được sử dụng trong dự án này là công nghệ tiên tiến của thế
giới, tự động hoá ở mức cao, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm
tối đa nguyên nhiên liệu, điện năng, đảm bảo các chỉ tiêu về năng suất và chất
lượng sản phẩm, bảo vệ môi trườngtheo tiêu chuẩn Việt Nam và quốc tế. Đa
dạng hoá các sản phẩm xi măng, phổ cập sản xuất xi măng mác PCB40 chất
lượng cao.
Dự án cũng đề ra các chỉ tiêu phải đạt được như mức tiêu hao nhiên liệu,
nguyên liệu, điện năng (< 95 KWh/tấn xi măng), nhiệt năng (750Kcal/kg
clinker), nồng độ khí thải, cường độ tiếng ồn, mức độ tự động hoá, tỷ lệ chế
22


tạo thiết bị trong nước, nâng cao năng suất lao động, đảm bảo chất lượng sản
phẩm, hạ giá thành và cạnh tranh được với xi măng các nước trong khu vực
và thế giới.
Dự án đầu tư dây chuyền mớiD, công suất 2 triệu tấn xi măng / năm, với
lò nung công suất 5.500 tấn clinker / ngày đêm không những đã chuyển đổi

hoàn toàn công nghệ sản xuất xi măng của công ty từ phương pháp ướt sang
phương pháp khô, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo ra sức cạnh
tranh cho công ty trên thị trường.
Dưới đây là quy mô đầu tư của dự án nhà máy mới 2 triệu tấn cho việc
hiện đại hoá máy móc thiết bịD, nhà xưởng với các công đoạn chính như sau:
- Công đoạn đập đá vôi: 01 trạm đập đá vôi kiểu Impact tại mỏ với công
suất tới 1400T/h. 01 hệ thống băng tải năng suất 1.400T/h vận chuyển đá vôi
về kho trong nhà máy. 01 kho tròn 45.000 tấn có thiết bị đánh đống1.400t/h
và thiết bị rút đống là 750T/h.
- Công đoạn đập sét: 01 trạm đập sét mới 250T/h. 01 kho chứa sét mới
có sức chứa lên 15.000 tấn và các thiết bị kho đi cùng.
- Công đoạn tiếp nhận, vận chuyển và gia công phụ gia thạch cao, than:
Đầu tư mới thiết bị dải năng suất 200T/h, thiết bị rút năng suất 150T/h và mở
rộng kho than thô hiện có để đạt sức chứa là 12.000 tấn.
- Công đoạn nghiền liệu: 01 xưởng nghiền liệu kiểu máy nghiền đứng có
năng suất 450T/h.
- Công đoạn silô đồng nhất và cấp liệu lò: 01 si lô đồng nhất 25.000 tấn
cùng hệ thống cấp liệu lò năng suất 350-380T/h.
- Công đoạn lò nung: 01 lò quay 3 bệ với năng suất 5.500 tấn clinker
/ngày và máy làm lạnh clinker đồng bộ kiểu ghi kết hợp hiện đại.
- Công đoạn tồn trữ và phân phối clinker: 02 si lô có sức chứa
2x40.000tấn.
- Công đoạn nghiền than: 01 xưởng nghiền than dùng máy nghiền con
lăn kiểu đứng, có công suất 40T/h.

23


- Công đoạn nghiền xi măng: 01 xưởng nghiền xi măng có hai hệ thống
máy nghiền bi 1 cấp với năng suất mỗi máy là 125T/h.

- Công đoạn đóng bao và xuất xi măng: 02 si lô xi măng, sức chứa
2x15.000 tấn và các thiết bị si lô đi kèm. Thêm 4 máy đóng bao mới và các
thiết bị đi cùng có năng suất 100 T /h. 12 đầu xuất xi măng lên ôtô và 01 thiết
bị xuất bao kiểu di động cho tàu hoả, năng suất 100-120T/h.
4.2.2.Đầu tư vào TSCĐ
Trong những năm vừa qua, đầu tư vào tài sản cố định cũng là một nội
dung được quan tâm hết sức đặc biệt tại công ty xi măng Bỉm Sơn. Hoạt động
đầu tư vào tài sản cố định của CTSMBS trong thời gian vừa qua chủ yếu tập
trung cho việc xây dựng các hạng mục công trình như: Hệ thống nhà xưởng,
hệ thống kho bãi và một số hạng mục công trình cần thiết phục vụ cho sản
xuất. Các hoạt động xây lắp này đều nằm trong dự án cải tạo dây chuyền 2 và
dự án xây dựng nhà máy mới.
Các hạng mục, công trình được đầu tư xây dựng mới bao gồm:
- Trạm đập, tuyến vận chuyển và kho tồn trữ đá vôi
- Trạm đập, tuyến vận chuyển và kho tồn trữ đá sét
- Hệ thống nghiền liệu, si lô đồng nhất và cấp liệu lò
- Hệ thống lò nung, vận chuyển và tồn trữ clinker
- Hệ thống nghiền than và cung cấp than mịn
- Hệ thống nghiền xi măng và si lô chứa xi măng
- Hệ thống xuất nhập hàng tại cảng Lèn
- ...
Hoạt động đầu tư TSCĐ của công ty trong thời gian qua chủ yếu là nhằm
xây dựng nhà xưởng, cải tạo và xây mới hệ thống kho bãi tạo điều kiện thuận
lợi cho việc cất giữ và bảo quản xi măng, cũng như hệ thống kho bãi cho việc
tồn trữ các nguyên vật liệu dùng cho sản xuất.
Hàng năm, công ty đều bỏ ra một số vốn rất lớn cho đầu tư tài sản cố
định kể cả vô hình và hữu hình. Dưới đây là bảng tổng kết tăng tài sản cố định
của công ty thời gian qua.
24



Bảng 10: Tài sản cố định tăng trong giai đoạn 2002-2005
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
2002
2003
2004
2005

Tổng mức tăng

TSCĐ hữu hình

30,264
1.016,193
23,706
20,729

25,722
1013,805
21,876
19,22

TSCĐ vô hình
4,542
2.388
1,83
1,508

Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2002, 2003, 2004, 2005

Qua số liệu trên ta thấy vốn đầu tư cho tài sản cố định của công ty thông
qua số tăng trong kỳ của tài sản hữu hình, chủ yếu là cho tài sản cố định hữu
hình như nhà cửa vật kiến trúc, máy móc thiết bị và phương tiện vận tải chiếm
tới hơn 90% tổng mức vốn đầu tư cho tài sản cố định của công ty, chủ yếu là
do mua sắm mới, đầu tư xây dựng cơ bản ngoài ra còn tăng do bàn giao lại.
Hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản trong thời gian qua chủ yếu là xây dựng hệ
thống công trình nhà xưởng phục vụ cho sản xuất. Trong khi đó, tài sản vô
hình lại được đầu tư với mức vốn rất nhỏ, chỉ chiếm dưới 10% tổng mức vốn
của công ty. Tuy nhiên tình hình tăng tài sản cố định giữa các năm cũng
không đều nhau. Trong năm 2003, mức tăng tài sản cố định là lớn nhất lên tới
1.016, 193 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư chủ yếu là để chi dùng cho hoạt động
mua sắm máy móc thiết bị hoàn thành việc cải tạo dây chuyền 2 của công ty.
Qua đây ta cũng nhận thấy một điều, CTXMBS đang từng bước đầu tư
hiện đại hoá các trang thiết bị, máy móc trong quá trình sản xuất xi măng
nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty. Tuy nhiên mức độ đầu tư
còn thấp và tiến độ đầu tư còn chậm, chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu đổi
mới nhanh của công ty. Đầu tư vào tài sản vô hình còn thấp điều này cũng
đúng với thực tế phát triển của công ty. Vì chuyển dần từ phương pháp sản
xuất xi măng ướt, công nghệ máy móc cồng kềnh, lạc hậu sang phương pháp
khô tiên tiến. Chính vì vậy đòi hỏi sự đầu tư lớn cho đổi mới máy móc thiết
bị, đây là những đòi hỏi cấp bách nên cần có sự ưu tiên lên trước hết. Nếu có
được hệ thống máy móc hiện đại, công nghệ tiên tiến sẽ nâng cao chất lượng
sản phẩm tăng doanh thu, tăng lợi nhuận từ đó lại có thể đầu tư ngược trở lại
25


×