Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm SKKN ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới phương pháp dạy học môn ngữ văn ở trường dân tộc nội trú

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.49 MB, 27 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
" ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG ĐỔI MỚI
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG DÂN
TỘC NỘI TRÚ"

1


A/ PHẦN MỞ ĐẦU :
1. Bối cảnh của đề tài:
Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật công nghệ phát triển ngày càng
nhanh và đang được ứng dụng vào nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội của thế giới nói chung
và nước ta nói riêng. Đặc biệt đã và đang ứng dụng rộng rãi trong lĩnh vực giáo dục và
đào tạo. Một trong những phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển trong giai đoạn
mới của nước ta là tiếp tục nâng cao chất lượng toàn diện, đổi mới nội dung và phương
pháp dạy và học, thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa” giáo dục. Cùng với xu
hướng phát triển của đất nước, ngành giáo dục đang đẩy mạnh việc đổi mới phương pháp
dạy học bằng ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học.
2. Lí do chọn đề tài:
Môn ngữ Văn có vị trí đặc biệt quan trọng góp phần hình thành những con người có
trình độ học vấn phổ thông cơ sở…Đó là những con người có ý thức tự tu dưỡng, biết
yêu thương, quý trọng gia đình, bạn bè, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết
hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải,
sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác. Đó là những con người biết rèn luyện để có
tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mỹ
trong nghệ thuật trước hết trong văn học, có năng lực thực hành và năng lực sử dụng
tiếng Việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp. Đó cũng là những người có ham muốn
đem tài trí của mình cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
Trước tình hình và yêu cầu cấp bách đặt ra đòi hỏi mỗi một người giáo viên cần phải


không ngừng học hỏi, tìm tòi, sáng tạo để trau dồi chuyên môn nghiệp vụ nhằm nâng cao
chất lượng giảng dạy đáp ứng yêu cầu của thời đại.

2


Thế kỉ XXI công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ và đi vào mọi lĩnh vực của đời
sống. Đặc biệt trong quá trình đổi mới giáo dục ở nhà trường phổ thông, việc áp dụng
công nghệ thông tin góp phần hỗ trợ việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích
cực hóa quá trình dạy học. Việc vận dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy nhằm phát
huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh, để đào tạo những thế hệ “chủ nhân
tương lai của đất nước” đáp ứng được yêu cầu của xã hội góp phần thực hiện thành công
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Vì thế việc ứng dụng công nghệ
thông tin vào dạy học trở thành nhiệm vụ hết sức cấp thiết và quan trọng của mỗi người
giáo viên và đặc biệt là giáo viên dạy môn ngữ Văn.
Như chúng ta đã biết, từ năm học 2008 -2009 chủ đề năm học là: “Năm học ứng dụng
công nghệ thông tin và đổi mới quản lí giáo dục, xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực”. Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy ngữ Văn là việc làm góp
phần đổi mới phương pháp dạy học. Có thể nói, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào
giảng dạy ngữ Văn nói riêng và dạy học nói chung đã thu được nhiều kết quả và tạo nên
sự chuyển biến trong dạy học, nhất là mặt phương pháp.
Đó cũng là lý do tôi chọn đề tài: “Ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới
phương pháp dạy học môn ngữ Văn ở trường Dân tộc Nội trú.”
3. Phạm vi và đối tượng của đề tài
Đề tài này được áp dụng trong giảng dạy môn ngữ Văn ở khối lớp 9 trường phổ
thông Dân tộc Nội trú.
4. Mục đích của đề tài:
- Giúp người dạy và người học tiếp cận được với xu thế dạy- học hiện đại của thế kỉ
XXI.


3


- Giúp học sinh Dân tộc Nội trú tham gia tích cực trong học tập. Tạo cho học sinh tính
năng động, chủ động , tự tin trong học tập.
- Giúp học sinh không chỉ góp phần tích hợp nhuần nhuyễn giữa phân môn ngữ Văn mà
tạo cơ hội để môn ngữ Văn tích hợp được với các môn khác như Âm Nhạc, Mĩ Thuật,
Tin Học, Địa Lí… trong nhà trường.
- Giúp môn học hấp dẫn hơn, sinh động hơn, học sinh thêm yêu thích giờ học văn. Nhằm
phát triển tư duy độc lập, khả năng suy ngẫm của người học.
5. Sơ lược những điểm mới cơ bản nhất trong kết quả nghiên cứu
- Điểm mới trong kết quả nghiên cứu là: Ứng dụng công nghệ thông tin, bản đồ tư duy
trong dạy và học.
- Vận dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy ngữ Văn rất thuận lợi vì nó cung cấp một
kho tàng kiến thức khổng lồ, cập nhật tin tức nhanh chóng, cung cấp tư liệu về tác giả, tác
phẩm chính xác, đầy đủ, những hình ảnh, thước phim sinh động, hấp dẫn. Từ đó học sinh
tích cực, hào hứng, trong tiết học và đặc biệt người học đã phát huy được tính tích cực,
chủ động, sáng tạo trong học tập.
6. Tính sáng tạo về khoa học và thực tiễn của vấn đề
- Trước đây khi chưa áp dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy thì giáo viên dạy một
chiều, học sinh không hào hứng, không sôi nổi, không có sự sáng tạo, chưa tích cực trong
học tập. Giáo viên thường dạy chay, nếu có sử dụng đồ dùng dạy học chỉ là những hình
ảnh tĩnh.
- Khi áp dụng công nghệ thông tin như hiện nay thì tính sáng tạo thể hiện rất rõ: Học
sinh hào hứng, sôi nổi, say mê, sáng tạo tìm hiểu vấn đề trong giờ học. Học sinh hiểu bài
và nắm kiến thức bài học tốt hơn. Những hình ảnh hỗ trợ cho bài học thực tế, sống động,

4



phản ánh cụ thể cuộc sống bên ngoài giúp học sinh cảm nhận sâu sắc, làm lay động con
tim các em.
B. PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận:
Thế kỉ XXI là thế kỉ của công nghệ thông tin, công nghệ thông tin bùng nổ làm cho
cuộc sống con người ngày càng năng động, tiện nghi hơn; đi đâu, làm gì chúng ta cũng
bắt gặp công nghệ thông tin. Công nghệ thông tin phục vụ cho cuộc sống con người về
mọi mặt trong sinh hoạt hàng ngày, công việc chuyên môn và cả trong giáo dục. Để bắt
nhịp với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, đồng thời để khai thác những
thuận lợi mà công nghệ thông tin đem lại cho giáo dục. Chúng tôi đã thực hiện ứng dụng
công nghệ thông tin vào dạy học. Như vậy, hoạt động dạy học có ứng dụng công nghệ
thông tin là một hoạt động không thể thiếu trong nhà trường hiện nay.
Công nghệ thông tin đã góp phần quan trọng cho việc tạo ra những nhân tố năng động
mới, cho quá trình hình thành nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin.
Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công
cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông nhằm tổ chức, khai thác
và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm tàng trong mọi
lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội.... Công nghệ thông tin được phát triển trên
nền tảng phát triển của các công nghệ Điện tử- Tin học- Viễn thông và tự động hoá” (NQ
49 của Chính phủ về phát triển công nghệ thông tin của Việt Nam).
Thế mạnh của công nghệ thông tin là:

5


Kĩ thuật đồ hoạ được nâng cao tạo điều kiện mô phỏng nhiều quá trình, hiện tượng
trong tự nhiên và xã hội mà con người không thể hoặc không để xảy ra trong nhà trường,
không thể hoặc khó có thể được thể hiện nhờ những phương tiện khác.
Môi trường đa phương tiện kết hợp những hình ảnh video, camera … với âm thanh,
văn bản, biểu đồ … được trình bày qua máy tính theo kịch bản vạch sẵn nhằm đạt hiệu

quả tối đa qua một quá trình học đa giác quan.
Trong môi trường công nghệ thông tin người học phát huy được tất cả các kĩ năng về
nhìn, nghe, nói, đọc, viết. Quá trình hợp tác, tư vấn, đối thoại trở nên quan trọng. Giáo
viên đóng vai trò là người cố vấn, giúp đỡ học sinh tự tìm kiếm để nghiên cứu, tự biến
đổi thông tin thành tri thức, kĩ năng. Học sinh thực sự được chủ động, biết tự thích nghi,
tự kiểm soát và tự điều chỉnh.
Sự hoà nhập giữa công nghệ thông tin và truyền thông hình thành những mạng máy
tính, đặc biệt là Internet cung cấp những kho thông tin và tri thức khổng lồ, tạo điều kiện
để mọi người có thể giao lưu với nhau không bị hạn chế bởi thời gian và không gian.
Những thí nghiệm, tài liệu được cung cấp bằng nhiều kênh (hình, chữ, âm thanh sống
động) làm cho học sinh dễ thấy, dễ tiếp thu và bằng suy luận có lý, học sinh có thể có
những dự đoán về các tính chất, quy luật mới. Đây là một công dụng lớn của công nghệ
thông tin và truyền thông trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học. Có thể khẳng
định rằng, môi trường công nghệ thông tin và truyền thông chắc chắn sẽ có tác động tích
cực tới sự phát triển trí tuệ của học sinh và điều này làm nảy sinh những lý thuyết học tập
mới.
Quá trình dạy học là quá trình song song giữa hoạt động dạy của thầy và hoạt động học
của trò. Hiện nay, phương pháp dạy học Văn trong nhà trường phải đi theo con đường tôn
trọng và phát huy vai trò chủ thể tiếp nhận của học sinh, phải chuyển từ phương pháp

6


thầy diễn giảng, trò tiếp nhận thụ động sang phương pháp gợi tìm. Thầy tổ chức, hướng
dẫn, trò chủ động tích cực trong quá trình tìm hiểu nội dung bài học. Các hoạt động này
luôn hướng vào học sinh, lấy học sinh làm trung tâm, thầy tổ chức bài học theo hướng đa
dạng hóa các biện pháp và hình thức dạy học. Hoạt động này phải luôn nhịp nhàng với
hoạt động học để tiến tới mục tiêu bài học đã đặt ra cả về kiến thức, kĩ năng , thái độ. Bởi
vì, mục tiêu của quá trình dạy học hướng vào người học cho nên người dạy phải tìm mọi
cách để phát huy tính tích cực, chủ động của người học. Có như thế mới giúp người học

chiếm lĩnh tri thức một cách tốt nhất, hiệu quả nhất.
II. Thực trạng tình hình:
Trước tình hình và yêu cầu cấp bách đặt ra đòi hỏi mỗi một người giáo viên cần phải
không ngừng học hỏi, tìm tòi, sáng tạo để trau dồi chuyên môn nghiệp vụ nhằm nâng cao
chất lượng giảng dạy đáp ứng yêu cầu của thời đại.
Qua quá trình giảng dạy bộ môn ngữ Văn ở trường Phổ thông Dân tộc Nội trú, tôi
thấy:
1.Thuận lợi:
- Do đặc điểm của trường Dân tộc Nội trú, đa số các em được học ngày hai buổi nên có
nhiều thời gian cho việc học tập.
- Học sinh có đầy đủ sách giáo khoa.
- Giáo viên có tâm huyết với nghề, luôn nghiên cứu, suy nghĩ, tìm tòi, học hỏi những biện
pháp để giờ văn sinh động và đạt hiệu quả cao hơn.
- Được sự quan tâm, giúp đỡ của Phòng GD-ĐT TX Hà Tiên, Ban Giám Hiệu nhà
trường, các đồng nghiệp trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy văn bằng các hình

7


thức: mở chuyên đề, tập huấn cho giáo viên, tổ chức xem băng hình tổ chức dự giờ thao
giảng, hội giảng, thi giáo viên dạy giỏi để học hỏi rút kinh nghiệm.
- Để có tư liệu minh họa cho các tiết dạy, nhà trường đã kết nối Internet phòng máy vi
tính để tạo điều kiện cho giáo viên lên mạng tìm kiếm, sưu tầm những hình ảnh, bài soạn
hay, các phim tư liệu, các đoạn Clip về các nghệ sĩ ngâm thơ, đọc thơ, các phần mềm cho
việc giảng dạy.
- Sự hoà nhập giữa công nghệ thông tin và truyền thông hình thành những mạng máy
tính, đặc biệt là Internet cung cấp những kho thông tin và tri thức khổng lồ, tạo điều kiện
để mọi người có thể giao lưu với nhau không bị hạn chế bởi thời gian và không gian.
Những thí nghiệm, tài liệu được cung cấp bằng nhiều kênh (hình, chữ, âm thanh sống
động) làm cho học sinh dễ thấy, dễ tiếp thu và bằng suy luận có lý, học sinh có thể có

những dự đoán về các tính chất, quy luật mới. Đây là một công dụng lớn của công nghệ
thông tin và truyền thông trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học. Có thể khẳng
định rằng, môi trường công nghệ thông tin và truyền thông chắc chắn sẽ có tác động tích
cực tới sự phát triển trí tuệ của học sinh và điều này làm nảy sinh những lý thuyết học tập
mới.
- Một số học sinh đã biết sử dụng công nghệ thông tin qua mạng, học tiếng Anh, tìm
kiếm, tra cứu tài liệu mạng, trao đổi thông tin,…
2. Khó khăn:
* Về phía học sinh:
- Năng lực tự học, tự tìm tòi, nghiên cứu bài của học sinh còn nhiều hạn chế.
- Các em có chuẩn bị bài trước khi đến lớp, song sự chuẩn bị đôi khi còn đối phó.

8


- Hầu hết các em là con em đồng bào dân tộc Khmer, sống ở các xã vùng sâu, vùng xa ít
giao tiếp. Vì vậy các em còn nhút nhát, khả năng diễn đạt và trình bày một vấn đề còn
khó khăn lúng túng. Một số em chưa thành thạo tiếng Việt nên việc đọc, tìm hiểu, phân
tích, cảm thụ tác phẩm còn khó khăn, phát âm sai do lỗi phát âm địa phương.
- Một số em ít có khả năng độc lập suy nghĩ nên gặp khó khăn khi trả lời các câu hỏi có
tính suy luận hoặc bộc lộ cảm nhận của mình.
- Trước những vấn đề cần bộc lộ quan điểm, các em thường dựa vào cách hiểu, cách cảm,
cách đánh giá do giáo viên cung cấp.
- Một số em chưa có ý thức tự giác trong học tập, còn mải chơi và không có hứng thú khi
học môn Văn.
- Một số bộ phận học sinh chưa quen với phương pháp dạy học mới, do đó khả năng tập
trung chưa cao, phần nào ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh.
- Do các em chưa làm quen được với việc tự tìm tòi, nghiên cứu về những vấn đề trong
văn học, các thiết bị hiện đại.
* Về phía giáo viên:

- Trong quá trình giảng dạy, nếu giáo viên không khéo léo thiết kế các câu hỏi, bài tập,
các hoạt động phù hợp thì sẽ dễ khiến cho tiết học có tư tưởng gò bó, nặng nề. Bên cạnh
đó, trong suốt quá trình tiết học, thời gian thì có hạn nhưng để giúp học sinh hiểu và vận
dụng thì tốn khá nhiều thời gian. Vì thế mà giáo viên không có điều kiện để giảng giải,
rèn luyện cho từng em. Chính điều đó khiến cho các em không khám phá hết được tác
dụng của văn chương.

9


- Một số giáo viên soạn giảng sơ sài, thiếu đầu tư, dẫn đến không khắc sâu được kiến
thức cho học sinh. Từ đó học sinh không có hứng thú học tập, giờ học không đạt hiệu
quả.
- Giáo viên thường chú ý khai thác và bình giá trên nhiều phương diện của sáng tạo nghệ
thuật như: cốt truyện, nhân vật, cách kể mà chưa chú trọng đến vấn đề xã hội đặt ra trong
văn bản gần gũi với học sinh.
- Quá nhấn mạnh yêu cầu gắn kết tri thức trong văn bản với đời sống mà giáo viên chú ý
nhiều tới liên hệ thực tế, dẫn đến việc khai thác kiến thức cơ bản chưa đầy đủ.
- Về phương tiện dạy học mới chỉ dừng lại ở việc dùng bảng phụ, tranh ảnh minh hoạ
trong khi đó có một số văn bản nếu học sinh được xem những đoạn băng ghi hình, bài
hát,… sẽ sinh động hơn rất nhiều. Ví dụ như văn bản: (Phong cách Hồ Chí Minh, Đấu
tranh cho một thế giới hòa bình, Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Những ngôi sao xa
xôi, Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới, ….) Nhưng hầu hết giáo viên không chú ý đến
vấn đề này.
- Một số giáo viên còn lạm dụng công nghệ thông tin để thay phấn trắng, bảng đen (chiếu
chép) dẫn đến hiệu quả bài dạy chưa cao.
- Một số giáo viên chưa sử dụng thành thạo máy vi tính, chưa có kiến thức về soạn giảng
giáo án điện tử, bên cạnh đó việc thiết kế một giáo án điện tử mất rất nhiều thời gian nên
việc áp dụng công nghệ thông tin vào đổi mới phương pháp dạy học còn hạn chế.
Từ mục đích trên nhiệm vụ của người giáo viên dạy văn cần rèn cho học sinh những

kiến thức, kĩ năng gần gũi, bức thiết đối với cuộc sống trước mắt của con người và cộng
đồng, góp phần nâng cao hiệu quả giờ dạy Văn, để học sinh yêu thích giờ học Văn.
III. Giải pháp tình hình:

10


Thật ra, chúng ta đang sống giữa thời đại công nghệ và kĩ thuật số. Người học của
chúng ta bị bao vây bởi thế giới công nghệ. Nếu giáo viên dạy Văn hoàn toàn không biết
và không ứng dụng nó thì hoá ra chúng ta đang xa rời với thực tại chung. Công nghệ
thông tin không hề làm mất đi cảm xúc mà ngược lại còn tác động làm cho cảm xúc được
tăng thêm. Khi người học hứng thú với môn học thì giáo viên mới thật sự có cảm xúc.
Ví dụ: Khi dạy về truyện “Những ngôi sao xa xôi”, giáo viên có thể đưa học trò đến
với hình ảnh, thước phim chiến tranh ác liệt trên Internet để học sinh có thể quan sát, cảm
nhận và thấy được cuộc sống chiến đấu gian khổ của dân tộc ta, tạo hứng thú để việc cảm
thụ tác phẩm này được hiệu quả. Hoặc khi dạy bài thơ “Mây và Sóng” của Ta- go chúng
ta cho học sinh đến với những hình ảnh về tác giả và đất nước Ấn Độ thông qua Internet
để người học mở rộng hiểu biết.
Vậy cách thức ứng dụng như thế nào. Có rất nhiều cách để ứng dụng công nghệ thông
tin trong dạy văn. Trước hết, chúng ta có thể khai thác và sử dụng trang google để tìm
kiếm thông tin, hình ảnh và cho học sinh thấy trực tiếp trong quá trình giảng. Hay nói
cách khác lúc này máy tính và Internet sẽ trở thành đồ dùng trực quan sinh động và tự
động hiện đại nhất. Giáo viên không phải mất công làm đồ dùng dạy học như kiểu truyền
thống nữa. Kiểu truyền thống là sưu tầm tranh ảnh rồi đưa cho học trò xem. Cách này rất
mất công và không có nhiều. Hạnh phúc thay khi giáo viên và người học chỉ cần click
chuột là cả một thế giới sinh động hiện ra, vượt ra khỏi sự hạn chế về không gian và thời
gian. Chúng ta không phải tốn thời gian cho việc làm đồ dùng dạy học này.
Bên cạnh đó, chúng ta có thể dùng phần mềm powerpoint để thiết kế bài giảng và các
trò chơi khởi động gây hứng thú trước mỗi giờ dạy. Ở loại bài giới thiệu tác giả -tác
phẩm văn học nước ngoài như văn bản “Mây và sóng” của Ra-bin-đra-nát Ta -go, việc

ứng dụng phần mềm Microsoft Powerpoint đặc biệt tối ưu. Giáo viên sử dụng phần mềm

11


này để làm các slide giới thiệu về đất nước, văn hóa nơi tác giả đó sinh ra và lớn lên.
Điều này góp phần phá bỏ rào cản trở ngại về sự khác biệt văn hóa trong cảm thụ một tác
phẩm và tìm hiểu một tác giả ở một nền văn hóa khác. Không chỉ là hình ảnh mà cả kênh
âm thanh (giáo viên chọn nhạc nền, đó có thể là những bài hát nổi tiếng của đất nước mà
tác giả đó sinh ra) cho các slide hình ảnh về đất nước, nền văn hóa, tác giả cũng được
lồng vào trong quá trình sử dụng hiệu ứng gây một ấn tượng sâu sắc cho học sinh.

Hình ảnh con người và đất nước Ấn Độ
Ngoài ra, ở phần tóm tắt tác phẩm, giáo viên có thể sử dụng phần mềm mindmap để
hướng dẫn học sinh tự tóm tắt thành sơ đồ những tác phẩm như: Truyện Kiều, Truyện
Lục Vân Tiên, Làng, Chiếc Lược ngà, Lặng lẽ Sa Pa, Những ngôi sao xa xôi, Người con
gái Nam Xương...
Bên cạnh đó, theo tinh thần của chương trình văn học nước ngoài đổi mới, giảng dạy
tác phẩm gắn với thể loại, trước khi vào một tác phẩm cụ thể, giáo viên sử dụng phần
mềm mindmap để giới thiệu hạt nhân cơ bản của thể loại đó.
Hơn thế nữa, ở những tiết ôn tập, củng cố, hệ thống hóa kiến thức, chúng ta cũng có
thể yêu cầu học sinh sử dụng sơ đồ bản đồ tư duy để tự làm việc. Phần mềm này cũng rất
phù hợp với việc giúp giáo viên giới thiệu những kiến thức mở rộng, đào sâu trong quá
trình phân tích, cảm thụ tác phẩm.

12


Ngoài ra, các phần mềm như photostory, webquest cũng được ứng dụng để giảng dạy
phần tác giả - tác phẩm.

Đồng thời giáo viên có thể cho học sinh nghe đọc thơ và xem một đoạn phim tư liệu
về tác giả từ máy tính.
Tổ chức ngoại khóa văn học Việt Nam, văn học nước ngoài, giáo viên có thể sử dụng
phần mềm potatoes để làm trò chơi ô chữ.
Trên đây là những ưu điểm của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học
văn, tuy nhiên trong quá trình ứng dụng có thể có những trục trặc về mặt kĩ thuật. Nhiều
giáo viên thời gian đầu khi sử dụng phần mềm powerpoint để giảng dạy có tâm sự rằng
thay vì đọc chép là chiếu chép. Với kinh nghiệm của một người đã sử dụng, tôi thấy rằng,
để khắc phục điều này, giáo viên phải nắm thật kĩ nội dung bài dạy, không phải kiến thức
nào cũng chiếu hết lên. Chỉ chiếu lên những nội dung mang ý chính của bài. Kết hợp với
việc giảng của giáo viên, phải mở rộng ý ra, phát triển sâu hơn. Lúc đó cái tài của người
giáo viên sẽ hiển lộ. Vì công nghệ thông tin chỉ là phương tiện chứ không thể thay thế
được vai trò của người thầy. Đồng thời, để học sinh không thụ động trong quá trình học,
giáo viên cần giao nhiệm vụ, hoặc các chủ đề để học sinh làm việc nhóm, chuẩn bị trước
ở nhà.
Nói tóm lại, việc ứng dụng công nghệ thông tin khiến dạy văn học có rất nhiều ưu
điểm như nâng cao hiệu quả tiếp nhận, tạo hứng thú cho người học, tiết kiệm được thời
gian. Như vậy máy tính, Internet không phải là những công cụ vô hồn, nếu chúng ta biết
cách ứng dụng thì chúng sẽ hỗ trợ rất đắc lực cho việc dạy môn Văn vốn rất đặc trưng.
Chính vì thế giáo viên cần phải nâng cao trình độ sử dụng công nghệ thông tin để đáp
ứng yêu cầu của thời đại.
Sau đây là: Việc thiết kế giáo án điện tử trong giờ dạy Văn

13


* Việc thiết kế giáo án điện tử được chuẩn bị như sau:
- Bước 1: Để tiến hành soạn giáo án điện tử, trước hết giáo viên cần soạn kỹ giáo án
truyền thống để thực thi trên lớp theo đúng mẫu qui định của tổ chuyên môn và sự thống
nhất chung của Sở giáo dục và đào tạo.

- Bước 2: Giáo viên tiến hành soạn giáo án điện tử để giảng dạy trên lớp bằng máy
Projector:
Bước 2.1: Xác định nội dung bài dạy, phần kiến thức cần ghi bảng để học sinh theo dõi
bài, từ đó tính toán các slide (trang) tương ứng.
Ví dụ: Với bài đọc – hiểu văn bản thì:
- Slide 1: Chào hỏi

14


- Slide 2 : Số thứ tự tiết theo phân phối chương trình, tên tác phẩm (tên bài dạy).

- Slide 3: Phần tìm hiểu chung gồm:
1- Tác giả:
Ở Slide 3: GV có thể chèn hình chân dung tác giả hoặc các hình ảnh, tư liệu có
liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của tác giả nhằm cung cấp tư liệu trực quan kích thích
việc học tập của học sinh.

Tác giả: Nguyễn Du

Tác giả: Viễn Phương

2- Tác phẩm:
Có thể chèn các hình ảnh minh họa về tác phẩm từ tranh tư liệu hoặc băng hình,
phim tư liệu liên quan đến tác phẩm nhằm giúp học sinh có ấn tượng rõ hơn về tác phẩm.

15


Lăng Chủ Tịch Hồ Chí Minh


Hình ảnh Bác Hồ

Phần đọc tác phẩm, có thể vận dụng băng tư liệu, băng ngâm thơ, băng hình minh họa…

Nhân vật Ro Bin Xơn

Truyện Lục Vân Tiên

- Slide 4 đến các slide tiếp theo:
Là các nội dung tương ứng với từng phần trong nội dung bài dạy và tương ứng với
từng phần trong thiết kế giảng dạy của giáo án. Trong các slide này, giáo viên có thể chèn
các hình ảnh, câu hỏi, bài tập để học sinh thảo luận nhóm rút ra nội dung được bài học.

16


Hình ảnh đầu

Hình ảnh hàng tre

súng trăng treo trong bài thơ Hình ảnh hàng tre trước lăng Bác
“ĐồngChí”

Học sinh nhìn vào các hình ảnh này để tóm tắt truyện ngắn “Chiếc Lược Ngà” của
Nguyễn Quang Sáng

- Slide ở phần củng cố bài:

17



Giáo viên có thể vận dụng việc củng cố bài bằng hình thức câu hỏi trắc nghiệm
khách quan một cách thuận lợi trong slide này. Hoặc có thể củng cố bài bằng sơ đồ mà
không cần bảng phụ. Có thể củng cố bài bằng bài hát, băng hình minh họa (nếu có).

Qua hình ảnh những cô gái thanh niên xung phong trong truyện “Những ngôi sao
xa xôi” – Lê Minh Khuê, hãy nêu cảm nhận của em về cuộc sống và chiến đấu của tuổi
trẻ Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

18


Sơ đồ tư duy truyện“Những ngôi sao xa xôi” Sơ đồ tư duy bài thơ“Ánh trăng”
Minh Khuê

của Lê

của Nguyễn Duy

- Slide ở phần dặn dò: Giáo viên có thể cho các hình ảnh sinh động, ngộ nghĩnh.
Ví dụ: Với bài tiếng Việt và Tập làm văn thì:
- Slide 1: Chào hỏi
- Slide 2 : Số thứ tự tiết theo phân phối chương trình, tên bài học.

- Các slide tiếp theo là nội dung bài học.
+ Tư liệu hỗ trợ cho bài học: Bài tập mẫu, hình ảnh, âm thanh, các đề bài luyện tập,
bảng biểu, sơ đồ để minh họa cho bài học …

19



Qua hình ảnh học sinh nêu cảm nhận về tình cảm mẹ con trong bài thơ “ Mây và
Sóng” của Ta go.
+ Hệ thống bài luyện tập …
- Slide trò chơi.
- Slide củng cố bài.

TRẢ LỜI CÁC CÂU HỎI SAU

Học sinh chọn hình để trả lời câu hỏi

Ghép tác giả với tác phẩm

- Slide dặn dò.

Bước 2.2: Tiến hành soạn nội dung bài vào các slide và chọn cách trình chiếu thích hợp.
Bước 2.3: Yêu cầu chung cho việc chuẩn bị giáo án điện tử bằng các slide:
a. Yêu cầu chung:

20


- Vận dụng công nghệ thông tin phải đúng lúc, đúng chỗ, bảo đảm đặc trưng bộ môn
nhằm tạo hiệu quả cao cho giờ học.
- Giáo án điện tử không thể thay thế giáo án truyền thống mà đó chỉ là phương tiện hỗ trợ
cho giáo viên trong việc thực hiện các phương pháp dạy học theo hướng đổi mới phương
pháp, các khâu của quá trình dạy học.
- Giáo án điện tử giúp giáo viên tiết kiệm thời gian ghi bảng, góp phần thể hiện đồ dùng
dạy học, thay thế hệ thống bảng phụ cồng kềnh cho giáo viên, trình chiếu các tư liệu dạy

học mà giáo viên dùng để minh họa cho bài học.
- Giáo viên không quá lạm dụng công nghệ thông tin vào giờ dạy mà làm mất chất văn
thật sự của một giờ dạy ngữ Văn.
b. Yêu cầu với việc thiết kế các slide:
- Nền Slide thường sử dụng màu sáng nhạt, không nên sử dụng màu quá tương phản với
các đối tượng trình bày. Nên sử dụng nền trắng, màu chữ đen hoặc xanh đậm, các đề mục
lớn có thể sử dụng màu chữ đỏ tác động vào mắt học sinh. Nếu sử dụng nền xanh thẫm
thì phải dùng chữ màu trắng thì chữ mới rõ khi chiếu các slide này qua máy Projector.
- Font chữ và màu chữ: Nên dùng một loại font chữ phổ biến, chân phương, đồng thời sử
dụng cách viết đậm, nghiêng, hoa, chữ thường một cách hợp lí. Cỡ chữ thường từ 24 trở
nên, phối hợp nhiều nhất là ba màu chữ để làm rõ các nội dung trọng tâm khác nhau. Sử
dụng các background (khung, nền) thống nhất trong toàn bộ các slide.
Khai thác và sử dụng tiện ích Powerpoint là hết sức thuận lợi trong giảng dạy ngữ Văn
nhưng phải phù hợp với nội dung bài dạy và không nên quá lạm dụng. Do đó, tránh tạo
các kí hiệu với các hoạt hình quá sinh động, hoặc chèn các âm thanh quá lạ chỉ có mỗi
mục đích thu hút sự tò mò của học sinh.

21


Bước 3: Một số vấn đề cần lưu ý khi giảng dạy bằng giáo án điện tử:
- Việc chuẩn bị và kiểm tra trước giờ dạy là hết sức cần thiết vì giáo viên phải lường
trước mọi tình huống có thể xảy ra với máy móc: sự tương thích giữa máy tính của giáo
viên và máy tính của trường, sự tương thích giữa máy tính và Projector.
- Việc trình chiếu qua các slide bài dạy để kiểm tra là rất quan trọng, đặc biệt là các giáo
án có sử dụng hình ảnh, âm thanh, các đoạn băng hình minh họa … buộc giáo viên phải
kiểm tra trước các hiệu ứng của các slide này.
- Nên sử dụng cả bảng đen trong giờ dạy để giáo viên ghi những nội dung chính về bài
học.
- Ngoài sự tương tác giữa học sinh với màn hình, giáo viên phải để ý đến mối quan hệ

giữa giáo viên và học sinh qua hệ thống bài tập, câu hỏi nêu vấn đề... cũng như giữa học
sinh – học sinh khi thảo luận nhóm. Đặc biệt, giáo viên phải lưu ý đến mối quan hệ mật
thiết giữa nội dung trình chiếu với giáo án văn bản nhằm bảo đảm tính trực quan mà vẫn
phát huy được tính tích cực của học sinh và kế hoạch lên lớp của tiết dạy.
- Tránh tình trạng biến giờ ngữ Văn thành giờ trình chiếu phim ảnh, tư liệu. Đặc biệt,
đối với giờ đọc - hiểu nếu sử dụng phim ảnh quá lạm dụng sẽ làm học sinh có ấn tượng
về nhân vật trong phim mà không tự hình dung, tưởng tượng về nhân vật văn học.
- Việc giảng dạy bằng giáo án điện tử phải thật sự «ăn khớp» giữa lời giảng của giáo
viên và nội dung trình chiếu trên các slide, tránh tình trạng lời giáo viên một đằng, nội
dung bài chạy ra một nẻo.
- Đặc biệt, giáo án điện tử phải là sản phẩm của chính mình, tự mình thiết kế, không sử
dụng các giáo án có sẵn trên mạng.

22


Với một tiết đọc – hiểu văn học Việt Nam hiện đại cần thận trọng trong việc vận dụng
công nghệ thông tin. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học cần kết hợp được
một cách hài hòa giữa ý tưởng thiết kế nội dung và kĩ thuật vi tính. Một mặt phải bảo
đảm đặc trưng bộ môn, chuyển tải được các đơn vị kiến thức cơ bản cần thiết, mặt khác
cần bảo đảm tính thẩm mĩ, khoa học và thuận tiện trong việc sử dụng. Đối với bộ môn
ngữ Văn, việc ứng dụng công nghệ thông tin cần nghiên cứu một cách kĩ lưỡng hơn. Cần
đặt ra nhiều câu hỏi để trả lời trước khi vận dụng: Ứng dụng những gì? Ứng dụng vào bài
nào? Khi nào? Và bằng cách nào? …
- Khi thiết kế bài giảng PowerPoint cần bảo đảm được tính hệ thống, tính mạch lạc, tính
chính xác và hướng đến các hoạt động phát huy tính tích cực của học sinh, nên làm cho
học sinh được bộc lộ suy nghĩ của mình qua giờ học..Sự trình diễn đừng quá cầu kì phô
diễn mà phải chú ý mục tiêu đặt ra từ bài học.
Tuy nhiên, không phải bài nào ta cũng dạy qua máy, cần có sự chọn, không nên chạy
theo phong trào mà không nghĩ đến tính hiệu quả. Khâu chuẩn bị bài cũng phải chu đáo

và luôn tìm tòi sáng tạo, phương pháp có thay đổi, có phong phú bài dạy mới có kết quả
tốt, và luôn tâm niệm một điều: “Máy móc chỉ là phương tiện, chỉ có phương pháp giảng
dạy làm sao đạt hiệu quả mới là cần thiết”. Nhà viết kịch Lưu Quang Vũ đã có câu nói:
“Có cái hôm qua nó đúng nhưng hôm nay nó đã lỗi thời vì sự vật không đứng yên” cho
nên mỗi giáo viên cũng phải luôn luôn làm mới kiến thức của mình...
Để có một giờ dạy tốt dù bằng cách nào, phương pháp nào cũng rất cần cái tâm và tài
của người thầy....
IV. Hiệu quả của sáng kiến:

23


Sau khi tôi áp dụng vào thực tế lớp học có thể thấy việc đổi mới phương pháp giảng
dạy môn ngữ Văn theo hướng vận dụng công nghệ thông tin và các thiết bị dạy học hiện
đại đã mang lại nhiều hiệu quả. Kết quả đạt được như sau:
Khối lớp 8:

Trước khi áp dụng
Năm học

Loại giỏi

Loại khá

Loại

trung Loại yếu

bình
2009 - 2010 6 %


39 %

41 %

14 %

2010 - 2011 8 %

37,5 %

41,4 %

13,1 %

2009 - 2010 9,6 %

45,2 %

35,7 %

9,5%

2010 - 2011 11,6 %

37,2 %

49,2 %

2%


Học kì I

40,2 %

40,9 %

0%

Sau khi áp dụng

14,6 %

2011 - 2012

Khối lớp 9:

Trước khi áp dụng
Năm học

Loại giỏi

Loại khá

Loại

24

trung Loại yếu



bình
2009 - 2010 8 %

29,6 %

48,9 %

13,5 %

2010 - 2011 9 %

25.4 %

54 %

11.6 %

Sau khi áp dụng
2009 - 2010

11,6 %

37,2 %

49,2 %

2%

2010 - 2011


13,6 %

40,5 %

45,9 %

0%

Học kì I

15.2 %

42,3 %

42,5 %

0%

2011 - 2012

Qua kết quả trên chúng ta thấy các em tiến bộ rõ rệt trong học tập. Khi ứng dụng
công nghệ thông tin vào giảng dạy, bài học trở nên sinh động, thu hút sự chú ý của học
sinh, học sinh dễ tiếp thu bài. Hơn nữa bài học đã để lại dấu ấn sâu sắc trong tâm trí học
sinh. Từ đó học sinh trở nên năng động, sáng tạo hơn và yêu thích môn học hơn.
C. KẾT LUẬN
Tóm lại, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học là một hướng đi trong xu thế đổi
mới phương pháp dạy học hiện nay mà giáo viên nên vận dụng, chính nó sẽ làm cho mỗi
giờ lên lớp của chúng ta phong phú hơn bởi chúng ta đang làm mới chính mình. Với môn
ngữ Văn, khi ứng dụng công nghệ thông tin đưa các hình ảnh, âm thanh, các đoạn Clip về

các nghệ sĩ ngâm thơ, bình thơ… hầu hết các em đều rất thích thú say mê học văn, giờ
học nhẹ nhàng hơn, sinh động hơn, lôi cuốn hơn. Từ đó nâng cao chất lượng bộ môn.
* Bài học kinh nghiệm:

25


×