Tải bản đầy đủ (.docx) (111 trang)

Luận văn đánh giá hiện trạng và biến động sử dụng đất làm cơ sở đề xuất định hướng sử dụng hợp lý đất đai huyện bình chánh TP hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (804.64 KB, 111 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Như chúng ta đều biết quá trình khai thác sử dụng đất luôn gắn liền với quá trình
phát triển của xã hội. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu sử dụng đất càng cao. Bởi vì đất
đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt không gì thay thế được,
là môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các công trình kinh tế, văn
hóa, an ninh quốc phòng ... Thế nhưng cuộc sống nhân lọai lại theo quy luật, con người số
lượng ngày càng nhiều, nhưng đất đai có giới hạn về không gian, nhưng vô hạn về thời gian
sử dụng. Vì thế đất đai ngày càng khan hiếm và trở nên quý giá hơn. Chính vì vậy mà việc
sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả và bền vững luôn là nhu cầu cấp thiết, đòi hỏi phải cân nhắc
kỹ càng và hoạch định khoa học hơn để sử dụng nguồn đất đai cho phù hợp, hiệu quả đáp
ứng nhu cầu chung của con người.
Các Mác đã khẳng định: "Đất là kho tàng cung cấp cho con người mọi thứ cần
thiết, vì vậy trong quá trình sử dụng đất muốn đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất thiết phải
có kế hoạch cụ thể về thời gian và lập quy hoạch về không gian"
Định hướng sử dụng hợp lý tài nguyên đất thông qua quy hoạch và chiến lược
phát triển, với mục tiêu hướng đến là sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả và bền vững đang và
sẽ đặt ra nhiệm vụ, nhu cầu quan trọng, cấp thiết nhằm cân nhắc, xác định kỹ càng và hoạch
định khoa học hơn các chỉ tiêu phân bổ sử dụng nguồn đất đai cho phù hợp và hiệu quả với
sự phát triển kinh tế - xã hội.
Việc định hướng dụng hợp lý tài nguyên đất có ý nghĩa quan trọng nhằm định
hướng trong quản lý Nhà nước trên lĩnh vực đất đai; Là cơ sở pháp lý cho công tác quản lý
Nhà nước về đất đai, làm căn cứ cho việc giao đất, cho thuê, chuyển mục đích sử dụng
đất ...
Khu vực nghiên cứu huyện Bình Chánh là một trong những địa bàn của thành phố
chịu tác động của biến đổi khí hậu triều cường, ngập úng làm ảnh hưởng đến sử dụng đất
đai không nhỏ. Áp lực của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá trình đô thị hóa
thành phố Hồ Chí Minh nói chung và huyện Bình Chánh nói riêng đã tác động rất lớn đến
quá trình sử dụng đất.
Để phát huy tiềm năng sẵn có, hướng tới sử dụng hợp lý tài nguyên đất và bảo vệ


môi trường, đồng thời thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố Hồ


Chí Minh và Huyện Bình Chánh trong những năm tới, cần thiết phải có những phân tích
hiện trạng và đánh giá biến động sử dụng đất. Đây sẽ là cơ sở khoa học và thực tiễn để đưa
ra phương án định hướng sử dụng đất đai bền vững, hoạch định chính sách khoa học hơn,
định hướng sử dụng đất hợp lý hơn trong từng giai đọan phát triển, đồng thời giải quyết
mâu thuẫn về quan hệ đất đai.
Do vậy, đánh giá hiện trạng sử dụng đất, sẽ nắm bắt được những thông tin liên
quan đến đất đai về vị trí địa lý, hình dạng kích thước, cấu trúc lọai hình sử dụng đất của
từng thửa đất, từng đơn vị đất đai. Qua sự tác động chủ quan và khách quan của con người
trong quá trình phát triển sẽ làm thay đổi thông tin không gian (hình dạng, kích thước) và
thuộc tính của đất đai. Song song đó, việc khảo sát, đánh giá, phân tích hiện trạng và biến
động sử dụng đất sẽ cung cấp chính xác, rõ ràng những thông tin cần thiết, cấp thiết về áp
lực đất đai phải gánh chịu theo xu thế phát triển. Đặc biệt là việc sử dụng đất như thế nào
cho hợp lý và có hiệu quả.
Chính vì vậy đề tài luận văn "Đánh giá hiện trạng và biến động sử dụng đất
giai đoạn 2005 - 2014 làm cơ sở đề xuất định hướng sử dụng hợp lý đất đai Huyện
Bình Chánh - Thành phố Hồ Chí Minh" được đặt ra nghiên cứu.

2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu đề xuất định hướng sử dụng hợp lý đất đai trên cơ sở phân tích hiện
trạng, đánh giá biến động sử dụng đất giai đoạn 2005-2014 huyện Bình Chánh, thành phố
Hồ Chí Minh.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu
-

Nghiên cứu cơ sở khoa học đánh giá hiện trạng và biến động sử dụng đất phục vụ định
hướng sử dụng hợp lý đất đai huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.


-

Điều tra, thu thập tài liệu, số liệu, bản đồ liên quan hướng đề tài và khu vực nghiên cứu

-

Nghiên cứu các nhân tố thành tạo và ảnh hưởng tới đặc điểm và biến động sử dụng đất khu
vực nghiên cứu.

-

Phân tích hiện trạng và đánh giá biến động sử dụng đất giai đoạn 2005 - 2010, 2010- 2014,
dự báo xu thế biến động sử dụng đất khu vực nghiên cứu đến năm 2020.

-

Phân tích nguyên nhân biến động sử dụng đất giai đoạn 2005 - 2014 tại khu vực nghiên
cứu.


-

Đánh giá tiềm năng đất đai phục vụ phát triển kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu.

-

Đề xuất định hướng sử dụng hợp lý đất đai đến năm 2020 khu vực nghiên
cứu.


4. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi không gian: Huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh
Phạm vi nội dung khoa học: Tập trung nghiên cứu hiện trạng và biến động sử
dụng đất từ đó đề xuất định hướng sử dụng hợp lý đất đai của Huyện Bình Chánh, Thành
phố Hồ Chí Minh

5. Phương pháp nghiên cứu:
-

Phương pháp điều tra, khảo sát, thu thập tài liệu, số liệu

-

Phương pháp thống kê, so sánh

-

Phương pháp phân tích, đánh giá tổng hợp

-

Phương pháp chuyên gia

-

Phương pháp bản đồ

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.
-


Ý nghĩa khoa học: Đề tài góp phần xây dựng cơ sở đánh giá hiện trạng và biến động sử
dụng đất phục vụ đề xuất định hướng sử dụng hợp lý đất đai.

-

Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là tài liệu giúp cho địa phương có cơ sở
phục vụ quản lý và quy hoạch sử dụng đất, đề ra các giải pháp sử dụng đất quỹ đất đai hợp
lý và hiệu qủa.

7. Cơ sở tài liệu để thực hiện
-

Các văn bản, tiêu chuẩn quy hoạch sử dụng đất;

-

Luật đất đai năm 2003; các văn bản quy phạm dưới Luật qui định có liên quan đến quản lý
sử dụng đất.

-

Luật đất đai năm 2013; các văn bản quy phạm dưới Luật qui định có liên quan đến quản lý
sử dụng đất.

-

Các văn bản của Chính phủ, các Bộ ngành liên quan đến quản lý sử dụng đất trên địa bàn
Thành phố.

-


Các văn bản của Thành phố Hồ Chí Minh về quản lý sử dụng đất, quy hoạch nông thôn
mới.


-

Số liệu hiện trạng sử dụng đất năm 2005, 2010 của Huyện Bình Chánh.

-

Bản đồ hiện trạng sử dụng đất năm 2005, 2010 của Huyện Bình Chánh.

-

Bản đồ đồ án quy họach chung xây dựng huyện Bình Chánh đến năm 2020 được Ủy ban
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phê duyệt theo Quyết định số 6013/QĐ-UBND ngày 26
tháng 11 năm 2012.

-

Tài liệu khoa học tham khảo: Các giáo trình cơ sở địa chính, hồ sơ địa chính, hệ thống
chính sách pháp luật đất đai...

-

Các kết quả điều tra thực địa của học viên.

8. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, nội dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương I: Cơ sở khoa học đánh giá hiện trạng và biến động sử dụng đất phục vụ
định hướng sử dụng hợp lý đất đai
Chương II: Phân tích, đánh giá thực trạng và biến động sử dụng đất huyện Bình
Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh
Chương III: Đề xuất định hướng sử dụng đất đai đến năm 2020 huyện Bình
Chánh, TP Hồ Chí Minh
CHƯƠNGI
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG VÀ BIẾN ĐỘNG
SỬ DỤNG ĐẤT PHỤC VỤ ĐỊNH HƯỚNG SỬ DỤNG ĐẤT HỢP LÝ

1.1.

Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất
1.1.1.

Đất đai
Đất là một dạng vật chất tự nhiên hình thành trong quá trình kiến tạo của trái đất.

Có nhiều lọai đất: đất cát, đất đỏ bazan ...hoặc Đất là một dạng tài nguyên vật liệu của con
người.
Đất theo nghĩa thổ nhưỡng là vật thể thiên nhiên có cấu tạo độc lập lâu đời, hình
thành do kết quả của nhiều yếu tố: đá gốc, động thực vật, khí hậu, địa hình và thời gian.
Thành phần cấu tạo của đất gồm các hạt khoáng chiếm 40%, hợp chất humic 5%, không khí
20% và nước 35%.
Khái niệm về đất V.V. Đôcutraiep (1846-1903) người Nga là người đầu tiên đã xác
định một cách khoa học về đất rằng: Đất là tầng ngoài của đá bị biến đổi một cách tự nhiên


dưới tác dụng tổng hợp của nhiều yếu tố. Theo Đôcutraiep: Đất trên bề mặt lục địa là một
vật thể thiên nhiên được hình thành do sự tác động tổng hợp cực kỳ phức tạp của 5 yếu tố:

Sinh vật, đá mẹ, địa hình, khí hậu và tuổi địa phương.
Đất đai là một từ ghép gồm đất và đai. Đai là vành đai xung quanh khu đất, thửa
đất, nó chỉ phạm vi ranh giới cụ thể của đất. Đất đai chỉ một khu đất, thửa đất cụ thể không
phải là đất chung chung hoặc đất đai là nơi ở, xây dựng cơ sở hạ tầng của con người và thổ
nhưỡng là mặt bằng để sản xuất nông lâm nghiệp.
Đất đai về mặt thuật ngữ khoa học được hiểu theo nghĩa rộng như sau: "đất đai là
một diện tích cụ thể của bề mặt trái đất, bao gồm tất cả các cấu thành của môi trường sinh
thái ngay trên vỏ dưới bề mặt đó bao gồm: khí hậu, bề mặt, thổ nhưỡng, dáng địa hình, mặt
nước (hồ, sông, suối, đầm lầy,...). Các lớp trầm tích sát bề mặt cùng với nước ngầm và
khoáng sản trong lòng đất, tập đoàn thực vật và động vật, trạng thái định cư của con người,
những kết quả của con người trong quá khứ và hiện tại để lại (san nền, hồ chứa nước hay hệ
thống tiêu thoát nước, đường xá, nhà cửa. ..)".
Như vậy, "đất đai" là khoảng không gian có giới hạn, theo chiều thẳng đứng (gồm
khí hậu của bầu khí quyển, lớp đất phủ bề mặt, thảm thực vật, động vật, diện tích nước, tài
nguyên nước ngầm và khóang sản trong lòng đất ), theo chiều nằm ngang trên mặt đất (là
sự kết hợp giữa thổ nhưỡng, địa hình, thuỷ văn, thảm thực vật cùng các thành phần khác)
giữ vai trò quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động sản xuất cũng như cuộc sống
của xã hội loài người.
Đất đai là sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động và cùng với quá trình lịch sử
phát triển kinh tế-xã hội, đất đai là điều kiện lao động. Đất đai đóng vai trò quyết định cho
sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Nếu không có đất đai thì rõ ràng không có bất
kỳ một ngành sản xuất nào, cũng như không thể có sự tồn tại của loài người. Đất đai là một
trong những tài nguyên vô cùng quý giá của con người, điều kiện sống cho động vật, thực
vật và con người trên trái đất.
Đất đai tham gia vào tất cả các hoạt động của đời sống kinh tế, xã hội. Đất đai là địa
điểm, là cơ sở của các thành phố, làng mạc các công trình công nghiệp, giao thông, thuỷ lợi
và các công trình thuỷ lợi khác. Đất đai cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp, xây
dựng như gạch ngói, xi, măng, gốm sứ. ..



Đất đai là nguồn của cải, là một tài sản cố định hoặc đầu tư cố định, là thước đo sự
giầu có của một quốc gia. Đất đai còn là sự bảo hiểm cho cuộc sống, bảo hiểm về tài chính,
như là sự chuyển nhượng của cải qua các thế hệ và như là một nguồn lực cho các mục đích
tiêu dùng.
“Đất đai là một diện tích cụ thể của bề mặt trái đất bao gồm tất cả các cấu thành của
môi trường sinh thái ngay trên và dưới bề mặt đó như: khí hậu bề mặt, thổ nhưỡng, trong
lòng đất, tập đoàn động thực vật, trạng thái định cư của con người, những kết quả của con
người trong quá khứ và hiện tại để lại (san nền, hồ chứa nước hay hệ thống tiêu thoát nước,
đường sá, nhà cửa...)” (Hội nghị quốc tế về Môi trường ở Rio de Janerio, Brazil, 1993).
Luật đất đai 1993 của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có ghi: “ Đất đai là
tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu
của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn
hoá xã hội, an ninh quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ, nhân dân ta đã tốn bao nhiêu công
sức, xương máu mới tạo lập, bảo vệ được vốn đất đai như ngày nay !".
1.1.2.

Sử dụng đất đai
Sử dụng đất đai là hệ thống các biện pháp của nhà nước (thể hiện đựơc đồng thời

ba tính chất kinh tế, kỹ thuật và pháp chế) về tổ chức sử dụng đất đai phải hợp lý, đầy đủ và
tiết kiệm nhất, thông qua việc phân bổ quỹ đất đai (khoanh định cho các mục đích và các
ngành) và tổ chức sử dụng đất như tư liệu sản xuất của xã hội, tạo điều kiện bảo vệ đất đai
môi trường.
Sử dụng đất đai là quá trình hình thành các quyết định nhằm tạo điều kiện đưa đất
đai vào sử dụng bền vững để mang lại lợi ích cao nhất, thực hiện đồng thời hai chức năng:
Điều chỉnh các mối quan hệ đất đai và tổ chức sử dụng đất như tư liệu sản xuất đặc biệt với
mục đích nâng cao hiệu quả sản xuất của xã hội kết hợp bảo vệ đất và môi trường.
Sử dụng đất đai là biện pháp hữu hiệu của nhà nước nhằm tổ chức lại việc sử dụng
đất đai, hạn chế sự chồng chéo gây lãng phí đất đai, tránh tình trạng chuyển mục đích tuỳ
tiện, làm giảm sút nghiêm trọng quỹ đất nông nghiệp, lâm nghiệp (đặc biệt là đất trồng lúa

và đất lâm nghiệp có rừng), ngăn ngừa được các hiện tượng tiêu cực, tranh chấp, lấn chiếm
huỷ hoại đất, phá vỡ môi trường sinh thái, gây ô nhiễm môi trường dẫn đến những tổn thất
hoặc kìm hãm sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội và rất nhiều các hiện tượng gây ra các


hiệu quả khó lường về tình hình bất ổn chính trị, an ninh quốc phòng ở từng địa phương,
đặc biệt là nền kinh tế theo hướng thị trường, một cơ chế vô cùng phức tạp.
Sử dụng đất đai hợp lý hơn trên cơ sở phân hạng đất đai, bố trí sắp xếp các loại
đất đai theo mô hình sử dụng đất đai tạo ra cái khung bắt các đối tượng quản lý và sử dụng
đất đai theo khung đó. Điều đó cho phép việc sử dụng đất đai sẽ hợp lý, tiết kiệm và hiệu
quả hơn. Bởi vì, khi các đối tượng sử dụng đất đai hiểu rõ được phạm vi ranh giới và chủ
quyền về các loại đất thì họ yên tâm đầu tư khai thác phần đất đai của mình, do vậy hiệu
quả sử dụng sẽ cao hơn.
Sử dụng đất đai có ý nghĩa rất quan trọng cho các ngành, các lĩnh vực hoạt động
trong xã hội. Nó định hướng sử dụng đất đai cho các ngành, chỉ rõ các địa điểm để phát
triển các ngành, giúp cho các ngành yên tâm trong đầu tư phát triển.
1.1.3.

Phân loại các nhóm đất sử dụng
Căn cứ vào mục đích sử dụng, đất đai được phân loại như sau (Điều 13 Luật đất đai

năm 2003):

1.1.3.1.

Nhóm đất nông nghiệp: Là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản

xuất nông nghiệp, bao gồm các loại đất:

a) Đất trồng cây hàng năm bao gồm đất trồng lúa, đất cỏ dùng vào chăn nuôi, đất trồng cây

hàng năm khác;

b) Đất trồng cây lâu năm;
c) Đất rừng sản xuất;
d) Đất rừng phòng hộ;
e) Đất rừng đặc dụng;
f) Đất nuôi trồng thuỷ sản;
g) Đất làm muối;
h) Đất nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ.
1.1.3.2.

Nhóm đất phi nông nghiệp: bao gồm các loại đất:

a) Đất ở gồm đất ở tại nông thôn, đất ở tại đô thị;
b) Đất xây dựng trụ sở cơ quan, xây dựng công trình sự nghiệp;
c) Đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh;
d) Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp gồm đất xây dựng khu công nghiệp; đất làm mặt


bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh; đất sử dụng cho hoạt động khoáng sản; đất sản
xuất vật liệu xây dựng, làm đồ gốm;

e) Đất sử dụng vào mục đích công cộng gồm đất giao thông, thuỷ lợi; đất xây dựng các công
trình văn hoá, y tế, giáo dục và đào tạo, thể dục thể thao phục vụ lợi ích công cộng; đất có
di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh; đất xây dựng các công trình công cộng khác
theo quy định của Chính phủ;

f) Đất do các cơ sở tôn giáo sử dụng;
g) Đất có công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ;
h) Đất nghĩa trang, nghĩa địa;

i) Đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối và mặt nước chuyên dùng;
j) Đất phi nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ.
1.1.3.3.

Nhóm đất chưa sử dụng: bao gồm các loại đất chưa xác định mục đích sử

dụng.
1.1.4.

Tính chất, vai trò và ý nghĩa của đất đai
1.1.4.1. Các tính chất cơ bản của đất đai
Khái niệm về đất đai gắn liền với nhận thức con người về thế giới tự nhiên và sự

nhận thức này không ngừng thay đổi theo thời gian. Hiện nay, con người đã thừa nhận đất
đai đối với loài người có rất nhiều chức năng, trong đó có những chức năng cơ bản sau:

-

Chức năng sản xuất: Là cơ sở cho nhiều hệ thống phục vụ cuộc sống của con người, qua
quá trình sản xuất, đất đai cung cấp lương thực, thực phẩm và rất nhiều sản phẩm khác cho
con người sử dụng trực tiếp hay gián tiếp thông qua chăn nuôi và trồng trọt.

-

Chức năng môi trường sống: Đất đai là cơ sở của mọi hình thái sinh vật sống trên lục địa
thông qua việc cung cấp các môi trường sông cho sinh vật và gen di truyền để bào tồn nòi
giống cho thực vật, động vật và các cơ thể sống cả trên và dưới mặt đất.

-


Chức năng cân bằng sinh thái: Đất đai và việc sử dụng nó là nguồn và là tấm thảm xanh đã
hình thành một thể cân bằng năng lượng trái đất thông qua việc phản xạ, hấp thụ và chuyển
đổi năng lượng phóng xạ từ mặt trời và tuần hoàn khí quyển của địa cầu.

-

Chức năng tàng trữ và cung cấp nguồn nước: Đất đai là kho tàng lưu trữ nước mặt và nước
ngầm vô tận, có tác động mạnh tới chu trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và có vai trò
điều tiết nước rất to lớn.


-

Chức năng dự trữ: Đất đai là kho tài nguyên khoáng sản cung cấp cho mọi nhu cầu sử dụng
của con người.

-

Chức năng không gian sự sống: Đất đai có chức năng tiếp thu, gạn lọc, là môi trường đệm
và làm thay đổi hình thái, tính chất của các chất thải độc hại.

-

Chức năng bảo tồn, bào tàng lịch sử: Đất đai là trung gian để bảo vệ các chứng tích lịch sử,
văn hóa của loài người, là nguồn thông tin về các điều kiện khí hậu, thời tiết và cả quá trình
sử dụng đất trong quá khứ.

-

Chức năng vật mang sự sống: Đất đai cung cấp không gian cho sự chuyển vận của con

người, cho đầu tư sản xuất và cho sự dịch chuyển của động vật... giữa các vùng khác nhau
của hệ sinh thái tự nhiên.

-

Chức năng phân dị lãnh thổ: Sự thích hợp của đất đai về các chức năng chủ yếu nói trên thể
hiện rất khác biệt ở các vùng lãnh thổ của mỗi quốc gia nói riêng và trên toàn trái đất nói
chung. Mỗi phần lãnh thổ mang những đặc tính tự nhiên, kinh tế, xã hội rất đặc thù.
Đất đai có nhiều chức năng và công dụng, tuy nhiên không phải tất cả đều bộc lộ
ngay tại một thời điểm. Có nhiều chức năng của đất đai đã bộc lộ trong quá khứ, đang thể
hiện ở hiện tại và nhiều chức năng sẽ xuất hiện từng triển vọng. Do vậy, đánh giá tiềm năng
đất đai là công việc hết sức quan trọng nhằm phát hiện ra các chức năng hiện có và sẽ có
trong tương lai.
Thực tế cho thấy trong quá trình phát triển xã hội lòai người, sự hình thành và phát
triển của mọi nền văn minh vật chất-văn minh tinh thần, các tinh thành tựu kỹ thuật vật
chất-văn hoá khoa học đều được xây dựng trên nền tảng cơ bản- sử dụng đất.

1.1.4.2.

Vai trò của đất đai
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt trong số những điều kiện vật chất cần thiết cho

hoạt động sản xuất và đời sống của con người, đất với lớp phủ thổ nhưỡng và mặt bằng
lãnh thổ (bao gồm các tài nguyên trên mặt đất, trong lòng đất và mặt nước) là điều kiện đầu
tiên.
Đất đai là sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động. Trong quá trình lao động con
người tác động vào đất đai để tạo ra các sản phẩm cần thiết phục vụ cho con người, vì vậy
đất đai là sản phẩm của tự nhiên, đồng thời là sản phẩm lao động của con người.
Đất đai giữ vai trò quan trọng, là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản



xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố
các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng.
Nói về tầm quan trọng của đất, Các Mác viết: “Đất là một phòng thí nghiệm vĩ đại,
là kho tàng cung cấp các tư liệu lao động, vật chất là vị trí để định cư, là nền tảng của tập
thể”.
Nói về vai trò của đất với sản xuất, Mác khẳng định “Lao động không phải là nguồn
duy nhất sinh ra của cải vật chất và giá trị tiêu thụ. Lao động chỉ là cha của của cải vật chất,
còn đất là mẹ”. Đất là sản phẩm của tự nhiên, xuất hiện trước con người và tồn tại ngoài ý
muốn của con người. Đất được tồn tại như một vật thể lịch sử tự nhiên. Cần nhận thấy
Sự khẳng định vai trò của đất như trên hoàn toàn có cơ sở. Đất đai là điều kiện
chung đối với mọi quá trình sản xuất của các ngành kinh tế quốc doanh và hoạt động của
con người. Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là điều kiện cho sự sống của động - thực
vật và con người. Đất đai là điều kiện rất cần thiết để con người tồn tại và tái sản xuất các
thế hệ kế tiếp nhau của loài người. Bởi vậy việc sử dụng đất tiết kiệm có hiệu quả và bảo vệ
lâu bền nguồn tài nguyên vô giá này là nhiệm vụ vô cùng quan trọng và cấp bách đối với
mỗi quốc gia.
Đất đai có vai trò quan trọng đối với đời sống của con người và các hoạt động xã
hội, mang tính tổng hợp rất cao, đề cập đến nhiều lĩnh vực về khoa học, kinh tế - xã hội
như: Khoa học tự nhiên, khoa học xã hội dân số và đất đai, sản suất công nông nghiệp, môi
trường sinh thái. .. Tuy vậy đối với từng ngành cụ thể đất đai có vị trí khác nhau; Trong
công nghiệp và các ngành khác (trừ ngành nông nghiệp, công nghiệp khai khoán) đất đai
nói chung làm nền móng, làm địa điểm; Trong nông nghiệp đất đai vừa là đối tượng lao
động, vừa là tư liệu lao động.

1.1.4.3.

Ý nghĩa của đất đai
Diện tích đất đai của mỗi quốc gia có giới hạn. Sự giới hạn đó là do toàn bộ diện


tích bề mặt của trái đất cũng như diện tích đất đai của mỗi lãnh thổ bị giới hạn. Giới hạn đó
còn thể hiện ở chỗ nhu cầu sử dụng đất đai của ngành kinh tế quốc dân trong quá trình phát
triển kinh tế xã hội ngày càng tăng.
Đất đai tham gia vào tất cả các hoạt động của đời sống kinh tế, xã hội. Đất đai là địa
điểm, là cơ sở của các thành phố, làng mạc các công trình công nghiệp, giao thông, thủy


lợi. Đất đai cũng cung cấp các nguyên liệu cho ngành sản xuất như gạch, xi măng, gốm
sứ...
Đất đai là nguồn của cải, là một tài sản cố định hoặc đầu tư cố định, là thước đo sự
giàu có của một quốc gia. Đất đai còn là bảo hiểm cho cuộc sống, bảo hiểm về tài chính,
như là sự chuyển nhượng của cải qua các thế hệ và như là một nguồn lực cho các mục đích
tiêu dùng.

1.2.
-

Các yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng đất

Vị trí địa lý: Đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới việc sử dụng đất. Nơi có vị trí thuận
tiện về giao thông, gần các thành thị, thành phố lớn thì việc đầu tư và tận dụng các nguồn
lực đất đai, lao động cũng như khai thác tiềm năng đất đai sẽ có ưu thế hơn so với các khu
vực xa trung tâm đô thị hoặc các vùng miền núi.

-

Yếu tố địa hình: Là một trong những yếu tố quyết định đến việc sử dụng đất, đặc biệt đối
với đất nông nghiệp, lâm nghiệp. Sự khác nhau giữa các địa hình các vùng, khu vực dẫn
đến sự khác nhau về đất đai và khí hậu; đối với nông nghiệp ảnh hưởng đến cơ cấu cây
trồng; đối với phi nông nghiệp gây khó khăn cho việc đầu tư xây dựng công trình và thi

công.

-

Điều kiện khí hậu, thủy văn: Các yếu tố khí hậu ảnh hưởng trực tiếp đến sử dụng đất và
điều kiện sinh hoạt của con người; ảnh hưởng đến sự phân bố cây trồng và thực vật. Hệ
thống sông, suối, ao hồ, kênh, mương ... có vai trò quan trọng trong việc tổ chức sử dụng
đất đai, vừa là nguồn cung cấp nước sinh hoạt, nước tưới, vừa là nơi tiêu, thoát nước cho
khu vực khi có ngập úng.

-

Yếu tố thổ nhưỡng: Quyết định đến việc sử dụng đất phục vụ cho mục đích phát triển nông
nghiệp.

-

Thảm thực vật: Là một yếu tố môi trường có vai trò quan trọng. Thảm thực vật bao gồm các
vùng rừng nguyên sinh, rừng đầu nguồn, rừng sản xuất, đồng cỏ, cây trồng hàng năm, cây
trồng lâu năm ... là yếu tố điều tiết khí hậu, chế độ nước sông, suối, chế độ nhiệt, độ ẩm,
nước ngầm. Trong nhiều trường hợp nó tạo nên cảnh quan thiên nhiên, làm nơi du lịch, nghỉ
mát.

-

Tai biến thiên nhiên: Các hiện tượng bão, lũ, lụt, hạn hán, xói lở... tác động mạnh và nhiều
khi ảnh hưởng nghiêm trọng đến sử dụng đất.


-


Các yếu tố kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến sử dụng đất:
Trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế - xã hội, khi mức sống của con người còn
thấp, công năng chủ yếu của đất đai là tập trung vào sản xuất vật chất, đặc biệt trong sản
xuất nông nghiệp. Thời kì cuộc sống xã hội phát triển ở mức cao, công năng của đất đai
từng bước được mở rộng, sử dụng đất đai cũng phức tạp hơn vừa là căn cứ của khu vực và
vừa là không gian của địa bàn. Điều này có nghĩa đất đai đã cung cấp cho con người tư liệu
vật chất để sinh tồn và phát triển, cũng như cung cấp điều kiện cần thiết về hưởng thụ và
đáp ứng nhu cầu cho cuộc sống của nhân loại. Mục đích sử dụng đất nêu trên được biểu lộ
càng rõ nét trong các khu vực kinh tế phát triển.
Các yếu tố kinh tế - xã hội bao các yếu tố như dân số và lao động; mức độ tăng
trưởng kinh tế; cơ cấu các ngành kinh tế và sự phát triển ngành; hiện trạng cơ sở hạ tầng;
trình độ khoa học công nghệ; trình độ quản lý, tổ chức sản xuất của người dân và chính
sách chính trị xã hội (các chính sách về đất đai, chính sách môi trường, các yêu cầu an ninh
quốc phòng...). Trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, nhu cầu về đất cho
phát triển kinh tế - xã hội ngày càng gia tăng, nhất là đề phát triển công nghiệp, dịch vụ,
phát tiển cơ sở hạ tầng.
Kinh tế - xã hội phát triển mạnh, cùng với sự tăng dân số nhanh đã làm cho mối
quan hệ giữa người và đất ngày càng căng thẳng những sai lầm liên tục của con người trong
quá trình sử dụng đất đã dẫn đến huỷ hoại môi trường đất, một số công năng nào đó của đất
đai bị yếu đi, vấn đề sử dụng đất đai càng trở nên quan trọng và mang tính toàn cầu.
Do đó việc phát triển kinh tế - xã hội ảnh hưởng rất quan trọng tới việc sử dụng đất
do vậy quy hoạch sử dụng đất được đặt ra phải mở rộng hơn, bao trùm cả các yếu tố môi
trường, biến đổi khí hậu, kinh tế và xã hội cũng như tạo điều kiện để các bên chịu ảnh
hưởng từ các thay đổi trong sử dụng đất có thể tham gia vào quá trình quy hoạch. Do vậy
đòi hỏi phải điều chỉnh lại cách tiếp cận đối với quy hoạch sử dụng đất sao cho hài hòa với
xu thế toàn cầu hóa và tạo ra một hành lang để quản lý quá trình phát triển đất nước một
cách hợp lý, bền vững.
Tăng trưởng kinh tế diễn ra với tốc độ nhanh làn tăng áp lực đối với tài nguyên đất
và tài nguyên nước. Biến đổi khí hậu cũng đang là một thách thức lớn đối với quá trình phát

triển; Tác động trực tiếp đến cuộc sống, kinh tế, tài nguyên thiên nhiên, cấu trúc xã hội, hạ


tầng kỹ thuật và nền kinh tế.
Ví dụ vấn đề sử dụng đất đai đối với từng ngành kinh tế rất khác nhau :
Trong các ngành phi nông nghiệp: Đất đai giữ vai trò thụ động với chức năng là cơ
sở không gian và vị trí để hoàn thiện quá trình lao động, là kho tàng dự trữ trong lòng đất
(các ngành khai thác khoáng sản). Quá trình sản xuất và sản phẩm được tạo ra không phụ
thuộc vào đặc điểm, độ phì nhiêu của đất, chất lượng thảm thực vật và các tính chất tự
nhiên có sẵn trong đất.
Trong các ngành nông - lâm nghiệp: Đất đai là yếu tố tích cực của quá trình sản
xuất, là điều kiện vật chất - cơ sở không gian, đồng thời là đối tượng lao động (luôn chịu sự
tác động của quá trình sản xuất như cày, bừa, xới xáo....) và công cụ hay phương tiện lao
động (sử dụng để trồng trọt, chăn nuôi...). Quá trình sản xuất nông-lâm nghiệp luôn liên
quan chặt chẽ với độ phì nhiêu quá trình sinh học tự nhiên của đất.
Yếu tố kinh tế - xã hội thường có ý nghĩa quyết định đối với việc sử dụng đất. Điều
kiện tự nhiên của đất đai cho phép xác định tiềm năng và mức độ thích hợp của đất đai với
các mục đích sử dụng. Còn việc sử dụng đất như thế nào được quyết định bởi sự năng động
của con người và các điều kiện kinh tế - xã hội, kỹ thuật hiện có; Và vấn đề đặt ra hiện nay
là sử dụng đất cho phát triển kinh tế xã hội phải gắn với bảo vệ môi trường.

1.3.

Sử dụng đất hợp lí và bền vững đất đai
“Sử dụng hợp lý đất đai là sự sử dụng phù hợp với lợi ích của nền kinh tế trong

tổng thể, đạt hiệu quả nhất đối với mục đích đặt ra trong khi vẫn đảm bảo tác động thuận
với môi trường xung quanh và bảo vệ một cách hữu hiệu đất đai trong quá trình khai thác
sử dụng” V.P. Trôiski [14].
Năm nguyên tắc chính đóng vai trò nền tảng của việc sử dụng đất bền vững[5]:


-

Duy trì nâng cao sản lượng (khả năng sản xuất)

-

Giảm thiểu tối đa rủi ro trong sản xuất (an toàn)

-

Bảo vệ tiềm năng tài nguyên tự nhiên và ngăn chặn sự thoái hóa chất lượng đất đai (Bảo
vệ).

-

Có thể tồn tại về mặt kinh tế (khả năng thực hiện).

-

Có thể chấp nhận về mặt xã hội (khả năng chấp nhận).
Khái niệm về tính bền vững của một hệ thống quản lý sử dụng đất đã được các nhà


khoa học đưa ra, bao gồm 3 phương diện [5]: Bền vững về kinh tế (sử dụng đất phải cho
năng xuất cao và tăng dần; chất lượng cao và giảm rủi ro; được thị trường chấp nhận), được
sự chấp nhận của xã hội (đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng đất, thu hút lao động,
giải quyết việc làm, nâng cao đời sống của người dân) và bền vững về môi trường (giảm
thiểu lượng đất mất hàng năm, ngăn chặn được sự thoái hóa, ô nhiễm đất, bảo vệ được môi
trường sinh thái).


1.4.

Nội dung và phương pháp đánh giá hiện trạng và biến động sử dụng đất
Đánh giá nói chung là sự ước lượng vai trò, giá trị của các đối tượng nghiên cứu và

tùy thuộc vào mục đích mà cùng một đối tượng có thể đánh giá bằng nhiều cách khác nhau.
Nói cách khác, nhiệm vụ đánh giá thường gắn với mục tiêu, đối tượng nghiên cứu cụ thể và
từ đó có những chỉ tiêu đánh giá và phương pháp đánh giá thích hợp.
Tùy thuộc vào mức độ yêu cầu mà có thể phân chia đánh giá thành các hình thức
sau:
1.4.1.

Đánh giá định tính: đánh giá định tính đã có từ lâu, từ những cảm nhận đơn

giản, chủ quan người ta phân chia thành các mức độ “tốt, xấu” và “nhiều, ít”, cho đến
những phân tích, đánh giá một cách khoa học. Như vậy, đánh giá định tính cũng có hai mức
độ là: định tính theo cảm tính của thời kỳ trước đây và định tính trên cơ sở nhận định có
tính khoa học trong giai đoạn hiện nay. Đánh giá định tính là đánh giá tiềm năng hay mức
độ thích hợp của các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên cho các mục đích sử dụng
nhất định. Kết quả đánh giá định tính thường không cụ thể thành các con số mà chủ yếu là
đưa ra nhận xét.
1.4.2.

Đánh giá định lượng: Nếu không tiến hành đánh giá định lượng thì kết quả

nghiên cứu sẽ phụ thuộc nhiều vào trình độ hay kinh nghiệm của nhà nghiên cứu và kết quả
đánh giá sẽ thiếu khách quan, tính thuyết phục sẽ giảm. Kết quả đánh giá định lượng
thường được biểu diễn dưới dạng các con số, giá trị cụ thể hoặc số lượng sản phẩm thu
được.

Qua xem xét các hình thức đánh giá ở trên, đối với đánh giá hiện trạng sử dụng đất
đai cần kết hợp cả hai phương pháp đánh giá định tính và định lượng để làm rõ mức độ phù
hợp, hạn chế trong khai thác, sử dụng và hiệu quả đối với các mục đích kinh tế, xã hội và
bảo vệ môi trường trên lãnh thổ nghiên cứu.


Như vậy, đánh giá hiện trạng sử dụng đất là việc phân tích để làm rõ hiện trạng sử
dụng các loại đất về mặt số lượng, chất lượng, cơ cấu sử dụng đất và hiệu quả kinh tế, xã
hội, môi trường trong sử dụng đất đai. Kết quả đánh giá là cơ sở cho việc xây dựng định
hướng quy hoạch sử dụng đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường của
địa phương trong giai đoạn tương lai.
Để đánh giá hiện trạng sử dụng đất của một đơn vị lãnh thổ hành chính, bao gồm hệ
thống các chỉ tiêu sau [4]:

a. Mức độ khai thác sử dụng quỹ đất: được xác định bằng tỷ lệ diện tích đất đang sử dụng so
với tổng diện tích tự nhiên, thể hiện mức độ khai thác và tận dụng quỹ đất sử dụng cho các
mục đích phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Chỉ tiêu này cũng phần nào phản ánh trình
độ sử dụng đất tại địa phương.

b. Hệ số sử dụng đất: thường áp dụng để đánh giá mức độ khai thác sử dụng đất sản xuất nông
nghiệp (đất trồng cây hàng năm).

c. Cơ cấu sử dụng đất đai theo mục đích sử dụng và đánh giá mức độ hợp lý về cơ cấu sử
dụng đất đai so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường của lãnh thổ
nghiên cứu.

d. Cơ cấu sử dụng đất đai phân theo đối tượng sử dụng, quản lí đất (các tổ chức; hộ gia đình,
cá nhân; nước ngoài và liên doanh với nước ngoài; Ủy ban nhân dân xã, thị trấn quản lý và
sử dụng; các đối tượng khác).


e. Bình quân diện tích đất đai trên đầu người (bình quân diện tích đất tự nhiên/người; diện
tích đất sản xuất nông nghiệp/người; diện tích đất ở/hộ hoặc theo đầu người).

g. Hiệu quả kinh tế sử dụng đất:
-

Hiệu quả kinh tế sử dụng đất sản xuất nông nghiệp: được xác định bằng phương pháp phân
tích chi phí - lợi ích với các chỉ tiêu chủ yếu bao gồm: tổng thu, tổng chi, giá trị hiện ròng
(lợi nhuận), hiệu quả đồng vốn (tỷ suất lợi ích chi phí).

-

Hiệu quả kinh tế sử dụng đất lâm nghiệp (rừng trồng sản xuất) thể hiện qua giá trị khai thác
lâm sản.
- Hiệu quả kinh tế sử dụng đất sản xuất, kinh doanh: có thể đánh giá bằng các chỉ
tiêu sau:
+ Mức độ thuận lợi về vị trí cho các mục đích sản xuất công nghiệp, thương mại,


dịch vụ: được đánh giá bằng lợi nhuận theo vị trí đối với mục đích thương mại, dịch vụ và
giảm chi phí đối với sản xuất công nghiệp.
+ Mật độ xây dựng.
+ Giá đất.
+ Tiền thuê đất.
- Hiệu quả kinh tế sử dụng đất giao thông: được đánh giá bằng các chỉ tiêu:
+ Mức độ thuận lợi về giao thông đối với sản xuất kinh doanh và sinh hoạt.
+ Tỷ lệ đất giao thông trong cơ cấu sử dụng đất.
+ Mức đầu tư và thời gian hoàn vốn (đối với các công trình theo kiểu BOT).

h. Hiệu quả kinh tế sử dụng đất ở: được đánh giá thông qua giá trị đất ở và mức độ sử dụng

không gian (trên cùng một diện tích đất) cho mục đích ở nhằm tiết kiệm diện tích đất ở
trong điều kiện quỹ đất của nước ta hạn chế.

i. Hiệu quả sử dụng đất về mặt xã hội: được đánh giá bằng các chỉ tiêu:
+ Mức độ đáp ứng các chỉ tiêu về đảm bảo an toàn lương thực, nâng cao đời sống của
người dân, thu hút lao động, giải quyết việc làm.
+ Mức độ phù hợp so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của hiện trạng sử dụng
đất ở, đất xây dựng các công trình công cộng, thương mại, dịch vụ, giao thông.
g. Hiệu quả sử dụng đất về mặt môi trường:
+ Mức độ giảm thiểu thoái hóa đất (xói mòn, rửa trôi,...) và tình hình áp dụng các
biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn.
+ Mức độ giảm thiểu ô nhiễm đất, ô nhiễm nguồn nước, không khí.
1.4.3.

Biến động sử dụng đất:
Biến động được hiểu là biến đổi, thay đổi, thay thế trạng thái này bằng một trạng thái

khác liên tục của sự vật, hiện tượng tồn tại trong môi trường tự nhiên cũng như môi trường
xã hội.
* Biến động về diện tích đối tượng - biến động về số lượng
Giả sử cùng đối tượng A ở thời điểm T1 có diện tích S1, ở thời điểm T2 có diện tích
S2 (đối tượng A thu nhận được từ hai ảnh vệ tinh có thời điểm chụp khác nhau). Như vậy ta
nói rằng A bị biến đổi diện tích ở thời điểm T1 so với T2 (sự biến đổi này có thể bằng nhau,
lớn hơn hay nhỏ hơn) nếu ta dùng kỹ thuật để chồng xếp hai lớp thông tin này thì phần diện


tích của phần trùng nhau sẽ được gán giá trị cũ của đối tượng A, còn các giá trị khác sẽ là
giá trị của phần biến động. Giá trị biến động này là bao nhiêu, tăng hay giảm phụ thuộc vào
thuật toán được sử dụng.


1.5.

Các quan điểm và phương pháp nghiên cứu

1.5.1.

Quan điểm lịch sử
Đối với một đơn vị đất đai, hướng sử dụng và khai thác tiềm năng trong đơn vị đất

đai đó được quy định bởi một quá trình sản xuất lâu dài của con người. Sự thay đổi hướng
sử dụng phụ thuộc vào sự phát triển của nhận thức, sự thay đổi thể chế chính trị, thay đổi
quan hệ và phương thức sản xuất, ...
Sự hình thành sử dụng đơn vị đất đai là kết quả tác động tương hỗ giữa các hợp phần
tự nhiên và con người theo thời gian và không gian. Việc nghiên cứu lịch sử phát triển sử
dụng đất đai khu vực nghiên cứu tạo cơ sở vững chắc cho mục tiêu cuối cùng của quá trình
nghiên cứu đánh giá thực trạng, biến động sử dụng đất phục vụ định hướng sử dụng hợp lý
lãnh thổ.
1.5.2.

Quan điểm hệ thống
Khi tiến hành nghiên cứu đánh giá thực trạng và biến động sử dụng đất làm cơ sở cho

đề xuất định hướng quy hoạch sử dụng đất đai cần đặt lãnh thổ nghiên cứu trong một hệ
thống thống nhất và hoàn chỉnh cả về tự nhiên và xã hội. Các dạng tài nguyên thiên nhiên
có trong khu vực đều có sự tương tác lẫn nhau để tạo thành một hệ thống đầy đủ về cấu trúc
và chức năng. Giữa các thành phần và bộ phận cấu tạo nên hệ thống đều có những mối
tương tác qua lại qua các dòng vật chất, năng lượng và thông tin. Khi một thành phần hay
bộ phận nào đó bị tác động thì kéo theo sự thay đổi dây chuyền của các thành phần khác.
1.5.3.


Quan điểm tổng hợp
Theo quan điểm tổng hợp, phải nghiên cứu đất đai trong mối liên hệ chặt chẽ với các

yếu tố khác trong lãnh thổ, đó là các yếu tố địa chất, địa hình, khí hậu, thuỷ văn, sinh vật và
các tác động của con người. Thường trong tư liệu về cơ sở lý luận của khoa học địa lý, tính
tổng hợp được xem xét dưới hai góc độ khác nhau:

-

Tổng hợp với nghĩa là nghiên cứu đồng bộ, toàn diện về điều kiện tự nhiên và tài nguyên
thiên nhiên với quy luật phân hoá của chúng cũng như mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa
các hợp phần của tổng thể địa lý.


-

Tổng hợp là sự kết hợp có quy luật, có hệ thống trên cơ sở phân tích đồng bộ và toàn diện
các yếu tố hợp phần của tổng thể lãnh thổ tự nhiên, đồng thời phát hiện và xác định những
đặc điểm đặc thù của các thể tổng hợp lãnh thổ địa lý.

1.5.4.

Quan điểm phát triển bền vững
Quan điểm phát triển bền vững hiện nay đã trở thành phổ biến và áp dụng rộng rãi

trong tất cả các hoạt động của nền kinh tế quốc dân, đặc biệt trong khai thác sử dụng tài
nguyên và bảo vệ môi trường. Phát triển bền vững được xác định ngay từ khi bắt đầu tiến
hành quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Phát triển kinh tế-xã hội phải gắn liền với bảo vệ
môi trường để đảm bảo rằng việc khai thác tài nguyên và phát triển sản xuất đó đáp ứng cho
nhu cầu phát triển kinh tế của hiện tại mà vẫn đảm bảo cho thế hệ tương lai. Do đó, trong

đề xuất định hướng quy hoạch sử dụng đất cần phải cân nhắc, phân tích một cách tổng hợp,
toàn diện các đặc điểm điều kiện địa lý tự nhiên trên quan điểm lịch sử, hệ thống, tổng hợp
với các mục đích phát triển kinh tế-xã hội gắn liền bảo vệ môi trường.

1.6.
-

Các phương pháp nghiên cứu

Phương pháp điều tra, khảo sát, thu thập tài liệu, số liệu: Nhằm thu thập các tài liệu, số liệu
về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, các số liệu thống kê về diện tích các loại đất để phục
vụ cho việc đánh giá hiện trạng và biến động sử dụng đất đai huyện Bình Chánh.

-

Phương pháp thống kê, so sánh: Trên cơ sở các số liệu, tài liệu thu thập được, tiến hành
thống kê, so sánh số liệu qua các năm để thấy được sự biến động, thay đổi về cơ cấu các
loại đất.

-

Phương pháp phân tích, đánh giá tổng hợp: Từ số liệu thu thập được và hiện trạng sử dụng
đất tiến hành phân tích làm rõ những tồn tại, những điểm chưa hợp lý trong sử dụng đất của
huyện.

-

Phương pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến của cơ quan chuyên môn, cán bộ địa phương
về các giải pháp sử dụng hợp lý đất đô thị và định hướng phát triển quỹ đất của huyện.
Phương pháp bản đồ: Phương pháp này có ưu điểm là tiết kiệm thời gian và kinh phí trong

nghiên cứu, dùng để trình bày và biên tập bản đồ hiện trạng sử dụng đất khu vực nghiên
cứu.


CHƯƠNG II
PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ BIẾN ĐỘNG SỬ DỤNG ĐẤT
HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1.

Các nhân tố tự nhiên ảnh hưởng sử dụng đất khu vực nghiên cứu
2.1.1.

Vị trí địa lý
Bình Chánh nằm về phía Tây - Tây Nam của nội thành thành phố Hồ Chí Minh, cách

trung tâm thành phố khoảng 15 km. Huyện có diện tích tự nhiên 25.255ha và được chia thành 16
xã, thị trấn. Ranh giới hành chánh được xác định như sau:
+ Phía Bắc giáp Hóc Môn;
+ Phía Nam giáp huyện Bến Lức và huyện Cần Giuộc tỉnh Long An.
+ Phía Đông giáp quận Bình Tân, Quận 8, Quận 7 và huyện Nhà Bè.
+ Phía Tây giáp huyện Đức Hòa tỉnh Long An.
Với vị trí là cửa ngõ phía Tây Thành phố Hồ Chí Minh, có các trục đường giao thông
quan trọng như Quốc lộ 1A, đường Trần Văn Giàu, đường Nguyễn Văn Linh, Quốc lộ 50 và đặc
biệt là đường cao tốc Sài Gòn - Trung Lương nối kết các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long với
Tp.HCM... Tạo cho Bình Chánh trở thành cầu nối giao lưu kinh tế, giao thương đường bộ giữa
vùng đồng bằng Sông Cửu Long với vùng Đông Nam Bộ và các khu công nghiệp trọng điểm ở
phía Nam. Ngoài ra, Bình Chánh còn là một địa bàn quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế
cũng như an ninh quốc phòng bảo vệ Thành phố.
2.1.2.


Địa hình, địa mạo
Bình Chánh có dạng địa hình đồng bằng tương đối phẳng và thấp, bị chia cắt bởi rất nhiều

sông rạch, kênh mương. Hướng dốc không rõ rệt với độ dốc nền rất nhỏ, hầu như bằng 0.
Cao độ mặt đất phổ biến thay đổi từ 0,2m đến 1,1m, riêng khu vực ở phía bắc xã Vĩnh Lộc
B có cao độ nền đất từ 1,1m lên đến 4,2m và độ dốc mặt đất thay đổi từ 0,1% đến 1%.
Phần lớn diện tích huyện Bình Chánh hiện nay được bảo vệ không bị ngập do triều cao
trên sông rạch nhờ vào hệ thống thủy lợi với đê bao-cống ngăn triều.
Đê bao có chiều rộng mặt phổ biến 3,0m và mặt đê được thiết kế với cao độ 2,0m (cao độ Quốc
gia).
2.1.3.

Khí hậu, thủy văn
Bình Chánh nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa cận xích đạo với nền nhiệt độ cao và ổn

định, lượng bức xạ phong phú, số giờ nắng dồi dào, với 2 mùa mưa và khô rõ rệt. Mùa mưa tương
ứng với gió mùa Tây Nam bắt đầu từ cuối tháng 5 đến hết tháng 11, mùa khô ứng với gió Đông


Nam bắt đầu từ tháng 12 đến cuối tháng 5.
Lượng bức xạ bình quân trong năm 12 Kcal/cm2, thời gian chiếu sáng trong ngày trong
các tháng ít thay đổi dao động từ 12 giờ trong tháng 3 và tháng 4 đến 11 giờ trong các tháng 7,8.
Nhiệt độ: tương đối ổn định, cao đều trong năm và ít thay đổi, trung bình năm khoảng
26,6oC. Nhiệt độ trung bình tháng cao nhất là 28,8oC (tháng 4), nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất
24,8oC (tháng 12). Tuy nhiên, biên độ nhiệt độ giữa ngày và đêm chênh lệch khá lớn, vào mùa khô
có trị số 8 - 10oC.
Số giờ nắng: mùa khô có giờ nắng trung bình từ 7,4 đến 8,1giờ, hầu như không có sương
mù. Từ tháng 5 đến tháng 10 có số giờ nắng bình quân 6 giờ/ngày. Số giờ nắng bình quân trong
năm là 6,5giờ/ngày.

Bốc hơi: so với nhiệt độ lượng bốc hơi biến đổi lớn và theo mùa, tăng dần từ tháng 12
đến tháng 5 và đạt cực đại 150mm-250mm, sau đó giảm dần từ 190mm- 130mm từ tháng 6 đến
tháng 9. Độ ẩm không khí bình quân hàng năm là 79,5%.
Chế độ gió: khu vực này chịu ảnh hưởng của khu vực gió mùa cận xích đạo với 2 hướng
gió chính:

-

Từ tháng 2 đến tháng 5 gió có hướng Đông Nam hoặc Nam với vận tốc trung bình từ 1,5 - 2,0 m/s.

-

Từ tháng 5 đến tháng 9 thịnh hành gió Tây - Tây Nam, vận tốc trung bình từ 1,5 - 3,0 m/s.

-

Ngoài ra, từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau có gió Đông Bắc, vận tốc trung bình 1 - 1,5 m/s.

-

Lượng mưa trung bình năm từ 1300 mm - 1770 mm, tăng dần lên phía Bắc theo chiều cao địa hình.
Mưa phân bổ không đều giữa các tháng trong năm,
mưa tập trung vào các tháng 7, 8, 9; vào tháng 12, tháng 1 lượng mưa không đáng
kể.
Nhìn chung, thời tiết của huyện với các đặc điểm khí hậu nóng ẩm, nhiệt độ tương đối ổn
định, thuận lợi cho sản xuất nông lâm nghiệp và sinh hoạt của nhân dân. Tuy nhiên, lượng mưa tập
trung theo mùa nên có những kỳ xảy ra hạn hán làm thiệt hại cho năng suất hoa màu trong nông
nghiệp và đời sống dân sinh.
2.1.4.


2.14.1.

Các nguồn tài nguyên
Tài nguyên đất
Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện 25.255,29 ha, chiếm tỷ trọng 11,97% diện tích toàn

Thành Phố và gấp 1,8 lần diện tích khu vực nội thành. Trong đó: có 888ha đất sông suối mặt nước
chuyên dùng, còn lại 24.376,29 ha đất mặt, chia làm 3 nhóm đất chính:


Bảng 2.1: Diện tích các loại đất huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí Minh
Chuyển đổi
Ký hiệu
ST
Diện tích
Phân
loại
theo
HTVN
Fao/UNESCO
theo FAO
T
Ha
%
2 Đất xám
Acrisols
AC
2.749,16
10,89
1

Đất xám trên phù sa cổ
haplic Acrisols
ACha
659,52
2,61
2 Đất xám gley
gley Acrisols
ACg
2.089,65
8,27
I
Đất phù sa
Fluvisols
FL
11.174,74
44,25
cambic
1
Đất phù sa loang lỗ đỏ vàng Fluvisols
FLca
7.211,36
28,55
2 Đất phù sa gley
gley Fluvisols
FLg
3.963,38
15,69
thionic
V Đất phèn
FLt

10.452,39
41,39
Fluvisols
1
2

Đất phèn phát triển

orthithionic
Fluvisols

FLto

5.950,52

23,56

Đất phèn tiềm tàng

protothionic
Fluvisols

FLtp

4.501,86

17,83

888,00


4,48

25.255,29

100,00

V

Sông suối

TỔNG CỘNG
\
>
ĩ
(Nguồn: Thông kê của Uy ban nhân dân Huyện Bình Chánh)

- Đất xám: phân bố chủ yếu ở các xã như xã Vĩnh Lộc A, Vĩnh Lộc B. Có diện tích
2.749,16 ha (chiếm 10,89% diện tích đất mặt trên địa bàn toàn huyện). Trong đó chia làm hai nhóm
phụ: đất xám phù sa cổ có diện tích 659,52ha và xám gley với diện tích 2.089,65 ha. Đất có thành
phần cơ giới nhẹ (cát pha thịt), kết cấu rời rạc, hàm lượng cấp hạt cát ở tầng mặt đạt đến 60%
nhưng càng xuống sâu hàm lượng cát giảm, lượng sét tăng lên. Hàm lượng chất hữu cơ thay đổi từ
1-2%, độ pH = 4-5, nếu được cải tạo sẽ rất thích hợp cho hoa màu.
+ Đất xám trên phù sa cổ: có tầng đất dày, cơ giới nhẹ, dễ thoát nước, nghèo dinh dưỡng,
nghèo lân và kali tổng số. Xét về mức độ thích nghi thì đất này phù hợp với loại đất xây dựng hơn
là đất nông nghiệp vì có nền móng tương đối ổn định.
+ Đất xám gley là nhóm đất có thời gian bị ngập nước (từ 1-3 tháng/năm) có thể trồng lúa
nước 1-2 vụ, tuy nhiên hiệu quả không cao, thích hợp cho hoa màu hơn.

-


Đất phù sa: có diện tích 11.174,74 ha (44,25% diện tích đất mặt trên địa bàn toàn huyện) do hệ
thống sông Cần Giuộc và Chợ Đệm bồi đắp, phân bố chủ yếu ở các xã Tân Quý Tây, An Phú Tây,
Hưng Long, Quy Đức, Đa Phước, Bình Chánh, Tân Túc. Đây là nhóm đất tốt nhất cho sản xuất
nông nghiệp trên địa bàn huyện, đất có thành phần cơ giới trung bình, hàm lượng hữu cơ khá (210%), nghèo lân, kali khá.

-

Đất phèn : thuộc vùng đất thấp trũng, bị nhiễm phèn mặn, phân bổ chủ yếu tại các xã Tân Nhựt,
Bình Lợi, Phạm Văn Hai, Lê Minh Xuân, có diện tích 10.452,39 ha (41,39% diện tích đất mặt trên


địa bàn toàn huyện). Chia làm 2 nhóm đất phèn hoạt động (đất phèn phát triển) có diện tích
5.950,52 ha và đất phèn tiềm tàng với diện tích 4.501,86 ha. Đất có thành phần cơ giới nặng (hàm
lượng sét đạt 40-50%), hàm lượng chất hữu cơ cao nhưng độ phân hủy kém nên đất dễ thiếu N,
nghèo lân, kali ở mức trung bình, đất chua, pH<4,5, hàm lượng SO2-, Al3+, Fe2+ cao. Nhóm đất
này có độ phì tiềm tàng cao nhưng do chua và hàm lượng độc tố lớn nên trong sử dụng cần chú ý
các biện pháp cải tạo và sử dụng (“ém phèn”, rửa phèn, lên líp đúng kỹ thuật, lựa chọn cây trồng
phù hợp như mía, dứa, dừa, tràm...)

2.I.4.2.

Tài nguyên nước
a. Tài nguyên nước mặt
Các sông, rạch trên địa bàn huyện chịu ảnh hưởng bởi chế độ thủy triều của 3 hệ thống

sông lớn: Nhà Bè - Xoài Rạp, Vàm Cỏ Đông và sông Sài Gòn. Mùa khô độ mặn xâm nhập vào sâu
nội đồng, độ mặn khoảng 4%0, mùa mưa mực nước lên cao nhất 1,62 m, gây lụt cục bộ ở các vùng
trũng của huyện.
Phần lớn sông, rạch của huyện nằm ở khu vực hạ lưu, nên thường bị ô nhiễm bởi nguồn
nước thải ở đầu nguồn, từ các khu công nghiệp của Thành phố đổ về như: kênh Tàu Hủ, kênh Tân

Hóa - Lò Gốm, kênh Đôi, rạch Nước Lên, sông Cần Giuộc... gây ảnh hưởng đến sản xuất nông
nghiệp (đặc biệt là nuôi trồng thủy sản) cũng như môi trường sống của dân cư.
b. Tài nguyên nước ngầm
Nguồn nước ngầm cũng tham gia một vai trò lớn trong việc phát triển KT- XH huyện.
Nước ngầm phân bố rộng khắp, nhưng chất lượng tốt vẫn là khu vực đất xám phù sa cổ (Vĩnh Lộc
A,B) độ sâu từ 5 - 50m và có nơi từ 50 - 100m, đối với vùng đất phù sa và đất phèn thường nước
ngầm bị nhiễm phèn nên chất lượng nước không đảm bảo.
Nhìn chung: nguồn nước ngầm phân bố khá rộng nhưng ở độ sâu từ 150 - 300m, nước
ngầm ngọt phân bố chủ yếu ở các tầng chứa nước Pleitoxen, trong đó có nơi 30 - 40m. Trừ các xã
phía Bắc là Vĩnh Lộc A và Vĩnh Lộc B nguồn nước ngầm không bị nhiễm phèn, nên khai thác nước
tưới phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp cũng như nước sinh hoạt, vào tháng nắng mực
nước ngầm cũng tụt khá sâu trên 40 m, các xã còn lại nguồn nước ngầm đều bị nhiễm phèn.

2.1.4.3.

Tài nguyên khoáng sản
Bình Chánh không có khoáng sản quý hiếm, vật liệu xây dựng khá phong phú. Theo tài

liệu của Đoàn Địa chất thành phố sơ bộ đánh giá như sau :

-

Thân quặng 1 : Sét gạch ngói nằm trên địa bàn xã Vĩnh Lộc, chiếm diện tích 200 ha, trữ lượng 4
triệu m3.


-

Thân quặng 2 : Cùng nằm trên địa bàn xã Vĩnh Lộc, trữ lượng dự đoán tới 20 triệu m3.


-

Thân quặng 3 : Sét gạch ngói nằm trên địa bàn xã Tân Túc, trữ lượng dự đoán khoảng 10 triệu m3.

-

Than bùn nằm rải rác phía cầu An Hạ, nông trường Lê Minh Xuân.

2.1.4.4.

Tài nguyên rừng
Theo kết quả thống kê đất đai năm 2011, diện tích đất lâm nghiệp trên địa bàn huyện

981,94 ha, chiếm 3,89% tổng diện tích tự nhiên toàn huyện. Tập trung ở 2 xã Lê Minh Xuân, Phạm
Văn Hai do lâm trường Láng Le và công ty TNHH Một Thành Viên Cây Trồng quản lý. Trong đó,
diện tích rừng sản xuất chiếm chủ yếu với 718,37 ha (73,16% diện tích đất lâm nghiệp), diện tích
đất rừng phòng hộ 234,46 ha, còn lại diện tích rừng đặc dụng 29,11 ha (trại thực nghiệm lâm
nghiệp)
Ngoài ra trên địa bàn huyện còn khoảng 3.370ha đất trồng cây lâu năm khác (chủ yếu là
tràm) phân bố ở hầu hết ở các xã. Trong đó, diện tích cây lâu năm khác trồng mang tính tập trung
phân bổ chủ yếu ở các xã Vĩnh Lộc A 164ha; Vĩnh Lộc B 123ha, Bình Lợi 224ha...

2.1.4.5.

Tài nguyên nhân văn
Bình Chánh hiện nay được chính thức thành lập vào ngày 02/12/2003 (thực hiện theo

Nghị định 130/2003/NĐ ngày 5 tháng 11 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc chia tách địa
giới hành chánh) trên cơ sở tách 4 xã, thị trấn: Tân Tạo, Bình Trị Đông, Bình Hưng Hòa và Thị trấn
An Lạc thuộc huyện Bình Chánh cũ để thành lập quận Bình Tân, phần còn lại tái lập lại huyện Bình

Chánh bây giờ với tổng diện tích là 25.255ha, chia ra thành 16 xã - thị trấn, dân số trung bình năm
2011 là 467.459 người.
Trong chiến tranh, Bình Chánh là địa bàn có truyền thống yêu nước và đấu tranh dũng
cảm. Ngay thế kỷ 19, đây là địa bàn hoạt động của Bình Tây Đại Nguyên Soái Trương Định và các
lực lượng kháng chiến khác. Những năm 1931- 1945, Trung Huyện là địa bàn hoạt động của Xứ ủy
Nam Kỳ, Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ, Công an Nam Bộ, quân khu 7. Đặc biệt, khu vực cạnh
sông Chợ Đệm, thuộc ấp 4, xã Tân Kiên chính là nơi được Xứ ủy Nam Kỳ họp quyết định cuộc
khởi nghĩa giành chính quyền ngày 25-8-1945.
2.1.5.

2.1.5.1.

Thực trạng môi trường
Cảnh quan thiên nhiên
Nằm ở khu vực ngoại thành, diện tích đất nông nghiệp còn nhiều (theo số liệu thống kê

đất đai năm 2011, diện tích đất nông nghiệp trên địa bàn còn 17.183 ha chiếm 68,04% tổng diện
tích tự nhiên) tạo ra những mảng xanh vùng đệm cho khu vực nội thành. Cùng với hệ thống sông,
rạch nằm ở khu vực hạ nguồn, nên Bình Chánh có 3 vùng sinh thái tự nhiên: nước ngọt, phèn và


phèn mặn thích hợp với nhiều loại thực vật đa dạng, môi trường sống thuận lợi cho nhiều loài cá,
động vật thủy sinh và loài chim... thích hợp cho việc phát triển tham quan du lịch cũng như nghiên
cứu, học tập.
Là một huyện ngoại thành có ưu thế về đất đai, nhưng hiện có rất ít khoảng xanh và vườn
hoa được bố trí để tạo cảnh quan và bóng mát. Dọc theo các trục lộ chính và đường nội bộ, cây
xanh ven đường hầu như chưa có hoặc rất ít. Trên địa bàn huyện hiện có điểm văn hóa du lịch được
nhiều người dân Thành phố và các tỉnh lân cận biết đến là khu Bát Bửu Phật Đài (Phật Cô Đơn),
được tôn tạo thành một điểm du lịch văn hóa của Thành phố. Khu di tích Láng Le - Bàu Cò tại Tân
Nhựt quy mô 1,24 ha, hàng năm thu hút 200.000 lượng khách đến tham quan, khu du lịch Khải

Hoàn tại ấp 6 xã Vĩnh Lộc A diện tích 5 ha, khu tưởng niệm liệt sỹ Tết Mậu Thân ở xã Tân Nhựt
diện tích 12ha. Các khu công viên có quy mô lớn cũng đang được đầu tư xây dựng như khu công
viên hồ sinh thái tại xã Vĩnh Lộc B, khu công viên Sinh Việt...
Ngoài ra còn một số điểm, địa danh lịch sử của huyện trong giai đoạn trước năm 75 cũng
được nhiều người biết đến đã và đang được quan tâm đầu tư xây dựng đúng mức để thành điểm văn
hóa - du lịch hoặc vui chơi giải trí, góp phần giáo dục truyền thống ... như các vùng căn cứ cũ: đình
Tân Túc, vùng bưng Vĩnh Lộc, khu vực Lê Minh Xuân.

2.I.5.2.

Môi trường
Trong thời gian qua quá trình phát triển kinh tế xã hội, đô thị hóa trên địa bàn huyện Bình

Chánh diễn ra nhanh chóng, đời sống người dân ngày càng được cải thiện và nâng cao. Đi cùng với
quá trình phát triển đó là vấn đề ô môi trường của huyện ngày một nhiều hơn. Ở một số vùng nông
thôn của Huyện vẫn còn không ít các hộ dân sống trong môi trường chưa hợp vệ sinh, vẫn còn sử
dụng nhà vệ sinh lộ thiên. Nước thải, chất thải trong các hoạt động sản xuất công, nông nghiệp,
sinh hoạt chưa được kiểm soát chặt chẽ là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường ảnh hưởng trực
tiếp tới đời sống, sức khỏe của cộng đồng dân cư và ngoài ra nó còn ảnh hưởng ngược lại tới chính
hoạt động sản xuất.
Nước thải từ 2 Khu công nghiệp Lê Minh Xuân, Vĩnh Lộc A trên địa bàn huyện có các chỉ
tiêu COD, BOD5, Coli vượt quá nguồn nước loại B, C do đó làm suy giảm chất lượng nguồn nước
mặt khi xả thải vào nguồn tiếp nhận. Ngoài ra, hiện tượng sống trên sông, đồ phế thải, đất đá thải
trực tiếp xuống dòng chảy cũng đã tác động không nhỏ đến chất lượng nguồn nước mặt của Huyện.
Các chỉ tiêu về môi trường không khí so với tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN 5937, 59381995): kết quả các chỉ tiêu SO2, NO2, CO, Pb, THC đạt. Chỉ tiêu bụi trước cổng bưu điện Láng Le,
ngã tư đường số 6 và đường số 9, ngoài khuôn viên khu công nghiệp (cách khu công nghiệp 100 m


theo hướng về vòng xoay An Lạc) vượt đáng kể do ảnh hưởng luồng gió tại thời điểm đo đạc.
Chất lượng môi trường nước bề mặt:

- Các tuyến kênh rạch từ mức độ ô nhiễm và nhiễm bẩn đã được cải thiện chất lượng
nguồn nước, dòng chảy thông thoáng, nước trong, các loài thủy sinh phát triển bình thường. Số
tuyến ô nhiễm nặng có sự gia tăng và các tuyến kênh, rạch ô nhiễm không cải thiện được chất
lượng mà còn chuyển biến từ mức độ ô nhiễm nhẹ lên mức độ ô nhiễm nặng.

2.1.5.3.

Đánh giá về biến đổi khí hậu tác động đến sử dụng đất
Biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại trong thế kỷ 21.

Biến đổi khí hậu sẽ tác động nghiêm trọng đến sản xuất, đời sống và môi trường trên phạm vi toàn
thế giới. Nhiệt độ tăng, mực nước biển dâng gây ngập lụt, gây nhiễm mặn nguồn nước, ảnh hưởng
đến nông nghiệp, gây rủi ro lớn đối với công nghiệp và các hệ thống kinh tế - xã hội trong tương
lai.
Đối với Việt Nam, Bộ TN&MT (2011) chọn 3 kịch bản phát thải nhà kính để xây dựng
kịch bản biến đổi khí hậu: (i) Kịch bản phát thải thấp (B1), (ii) Kịch bản phát thải trung bình (B2),
(iii) Kịch bản phát thải cao (A2). Bộ TN&MT khuyến nghị các Bộ, Ngành và các Địa phương nên
sử dụng kịch bản trung bình (B2) để đánh giá tác động của biến đổi khí hậu và xây dựng hành động
ứng phó với biến đổi khí hậu.
Kịch bản phát thải trung bình (B2), vào cuối thế kỷ 21 nhiệt độ trung bình năm ở Nam Bộ
tăng khoảng từ 1,6-2,00C so với thời kỳ 1980-1999; lượng mưa trung bình năm ở Nam Bộ tăng
khoảng từ 2-3%, lượng mưa từ tháng III đến tháng
V sẽ giảm từ 10-15%, lượng mưa của tháng cao điểm sẽ tăng khoảng dưới 1% so với thời kỳ 19801999; Kết quả xác định vùng có nguy cơ bị ngập theo các mực nước biển dâng cho thấy: Nếu mực
nước biển dâng 1m, khu vực thành phố Hồ Chí Minh có nguy cơ bị ngập là trên 20% diện tích.
Tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất nông nghiệp huyện Bình Chánh: diện tích đất
nông nghiệp bị ngập lụt, bị xâm nhập mặn dẫn đến sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp, rừng bị ảnh
hưởng. Cây trồng, vật nuôi phát triển theo mô hình nông nghiệp đô thị bị ảnh hưởng (huyện Bình
Chánh được quy hoạch vùng trồng cây kiểng lâu năm lớn nhất của thành phố với quy mô 550 ha
vào năm 2025).
Biến đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng đến hầu hết tất cả lĩnh vực trong đời sống kinh tế - xã hội

một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Trong đó rõ nét ở khu vực ven bờ hoặc lĩnh vực nông nghiệp, sẽ
có sự dịch chuyển lao động, dân cư đến các khu vực cao, khu vực có hoạt động kinh tế thuận tiện,
ổn định hơn. Các bệnh viện, trạm xá, trường học, cơ sở công nghiệp nằm trên các địa bàn ngập


×