Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

ĐÁNH GIÁ TÀI NGUYÊN DU LỊCH SINH THÁI Ở VÙNG NÚI ĐÁ VÔI TỈNH NINH BÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (752.08 KB, 16 trang )

ĐÁNH GIÁ TÀI NGUYÊN DU LỊCH SINH THÁI
Ở VÙNG NÚI ĐÁ VÔI TỈNH NINH BÌNH
GS. TS Trương Quang Hải
Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển, ĐHQGHN

1. Đặt vấn đề
Phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu trong chính sách phát triển
hiện nay của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt đối với một nước đang
phát triển như Việt Nam. Du lịch với tư cách là một ngành quan trọng,
mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế, luôn được chú trọng phát triển.
Tuy nhiên, tình trạng khai thác chưa hợp lý các nguồn tài nguyên du lịch ở
nhiều nơi dẫn tới những tác động tiêu cực đến môi trường. Do vậy, trong
những thập kỷ gần đây, việc phát triển kinh tế, trong đó có du lịch được đặt
ra phải gắn liền với bảo tồn di sản và bảo vệ môi trường.
Du lịch sinh thái là việc đi lại có trách nhiệm tới các khu vực thiên
nhiên mà bảo tồn được môi trường và cải thiện phúc lợi cho người dân địa
phương [11]. Ở nước ta, du lịch sinh thái (Ecotourism) là loại hình du lịch
phát huy được lợi thế đa dạng và độc đáo về tài nguyên du lịch tự nhiên.
Tài nguyên du lịch sinh thái là một bộ phận quan trọng của tài nguyên
du lịch, bao gồm các giá trị tự nhiên thể hiện trong một hệ sinh thái cụ thể
và giá trị văn hóa bản địa tồn tại và phát triển không tách rời hệ sinh thái tự
nhiên đó [2]. Như vậy, chỉ các tài nguyên tự nhiên và văn hóa bản địa gắn
với cảnh quan cụ thể có khả năng khai thác cho phát triển du lịch sinh thái
mới được xem là tài nguyên du lịch sinh thái.
Đánh giá tài nguyên du lịch là phân loại các tài nguyên du lịch theo
mức độ thuận lợi của chúng cho các hoạt động du lịch - nghỉ dưỡng, liên
quan tới tất cả hoặc một loại hình du lịch. Đánh giá tài nguyên du lịch được
hiểu là việc xác định mức độ phù hợp của tài nguyên cho các loại hình du
lịch khác nhau [8].

| 561




25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Vùng núi đá vôi tỉnh Ninh Bình nằm trong miền karst Tây Bắc, đó là
dải karst gần như liên tục từ biên giới Việt - Trung ở vùng Phong Thổ, Sìn
Hồ, Tủa Chùa, qua Sơn La, Hòa Bình, Hà Tây, Ninh Bình đến bờ biển vịnh
Bắc Bộ, với chiều dài trên 400km, chiều rộng trung bình 20km. Đó là khu
vực karst có sự phân hóa khá đa dạng và điển hình với các cảnh quan khối
núi karst phân cắt yếu (khu vực Cúc Phương), cảnh quan karst bị phân
cắt mạnh với các khối sót (khu vực Trường An - Bích Động) và cảnh quan
thung lũng, đáy trũng và đồng bằng karst [4,9]. Các cảnh quan karst này
được hình thành chủ yếu trên đá vôi thuộc hệ tầng Đồng Giao tuổi Triat
giữa (T2đg).
Nằm trong tọa độ 19050’ đến 20027’ vĩ độ Bắc và 105032’đến 106033’kinh
độ Đông, vùng núi đá vôi Ninh Bình là khu vực cầu nối giao lưu kinh tế văn hoá, gắn kết về môi trường giữa châu thổ sông Hồng với khu vực Tây
Bắc và Bắc Trung Bộ. Trên lãnh thổ tỉnh tập trung nhiều tài nguyên du lịch
(cả nhân văn và tự nhiên), cùng với vị trí thuận lợi về giao thông (đường
bộ, đường sắt, đường sông, đường biển) tạo khả năng phát triển du lịch
thành một ngành kinh tế quan trọng.

1. Đặc điểm và giá trị các dạng tài nguyên du lịch sinh thái
Các vùng cảnh quan khu vực có núi đá vôi tỉnh Ninh Bình được
xác định dựa trên sự phân hóa về điều kiện tự nhiên. Đây cũng là cơ sở
chính để phân chia ra các vùng cảnh quan. Sự phân chia này được thực
hiện trong khuôn khổ của công tác nghiên cứu tổng hợp lãnh thổ phục
vụ cho việc định hướng quy hoạch sử dụng hợp lý tài nguyên. Việc phân
chia các vùng cảnh quan chủ yếu thực hiện từ dưới lên. Qua phân tích
đặc điểm sự phân bố có quy luật của các đơn vị phân loại cảnh quan,
vùng núi đá vôi Ninh Bình phân hóa thành 6 tiểu vùng cảnh quan (hình

1), bao gồm: 1. Tiểu vùng cảnh quan đồng bằng tích tụ Yên Mô - Ninh
Bình; 2. Tiểu vùng cảnh quan karst Trường Yên; 3. Tiểu vùng cảnh quan
đồng bằng tích tụ sông - biển Holocen sớm Gia Viễn; 4. Tiểu vùng cảnh
quan ngập nước Vân Long; 5. Tiểu vùng cảnh quan đồng bằng tích tụ
sông - biển Pleixtocen Nho Quan - Gia Viễn; 6. Tiểu vùng cảnh quan
karst Tam Điệp [3].

562 |


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Hình 1. Bản đồ phân vùng cảnh quan khu vực có núi đá vôi tỉnh Ninh Bình

Ninh Bình có nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch. Cố đô
Hoa Lư và Tam Cốc – Bích Động là điểm du lịch có ý nghĩa quan trọng
không chỉ đối với tỉnh Ninh Bình mà còn đối với sự phát triển du lịch của
cả nước. Ninh Bình có các nguồn tài nguyên du lịch sinh thái đa dạng, độc
đáo do nằm ở vị trí đặc biệt, mang tính chất chuyển tiếp của các hệ thống tự
nhiên: đồng bằng sông Hồng, vùng núi phía Tây Bắc trong khu đệm Hoà
Bình-Thanh Hoá và vùng Biển Đông. Tài nguyên du lịch sinh thái có thể
được đánh giá theo loại hình hoặc theo lãnh thổ (các tiểu vùng cảnh quan).

1.1 Tài nguyên hang động
Trong các dạng tài nguyên du lịch của vùng núi đá vôi tỉnh Ninh Bình,
tài nguyên hang động chiếm vị trí quan trọng hàng đầu. Đây là một tài
nguyên du lịch đặc thù của Ninh Bình. Một quần thể hang động kéo dài
khoảng 50km, chiều rộng khoảng 10-15km, tạo nên cảnh quan karst đặc
sắc. Lãnh thổ này được mệnh danh là “Hạ Long trên cạn”. Vẻ đẹp hang
động Ninh Bình hài hoà với môi trường thiên nhiên và vẻ đẹp văn hoá, lịch

sử của một miền đất cố đô Hoa Lư.

| 563


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Địa hình karst đã tạo nên nhiều cảnh quan đẹp, đặc biệt là quần thể
hang động. Ở khu vực Cố đô Hoa Lư và Tam Cốc-Bích Động hang động
rất phong phú về số lượng, đa dạng về hình thái và chủng loại. Mỗi hang
đều có một sắc thái riêng biệt. Một điều đáng chú ý là hang động ở khu
vực này thường tập trung thành từng cụm có quan hệ mật thiết với nhau.
Trong mỗi hang do hiện tượng hoà tan và lắng đọng đá vôi đã tạo nên
nhiều thạch nhũ muôn màu muôn vẻ. Hơn nữa, hang động được phân bố
thành các tầng. Đó là dấu vết của thời kỳ biển tiến, biển thoái nên những
mực xâm thực cơ sở và các hang động liên thông với nhau. Ngay trong mỗi
động có nhiều ngách, nhiều tầng hang với vẻ đẹp riêng.
Hang động ở Ninh Bình phân bố thành từng cụm trong các hệ
thống núi. Ở Tam Cốc- Bích Động có Tam Cốc động, động Tiên, Xuyên
Thuỷ động, Bích Động... ở Cố Đô Hoa Lư có động Thiên Tôn, động Am
Tiên, động Liên Hoa, hang Quàn, hang Muối, hang Lôi, hang Luồn...
Trong khu rừng nguyên sinh Cúc Phương có động Con Moong, động
Người Xưa, động Vui Xuân, động Phò Mã, động Chùa... Ngay cả những
hang động đứng tách biệt như động Tam Giao, động Địch Lộng... xung
quanh cũng còn nhiều hang động khác chưa được khai thác hoặc chưa
được phát hiện.
Lượng thạch nhũ trong hang động Ninh Bình rất nhiều và đa dạng.
Măng đá như mọc lên từ lòng hang, nhũ đá rủ xuống từ trên vòm hang,
xung quanh động là những mảng nhũ kết cấu thành nhiều hình thù kỳ lạ,
gợi cảm và đẹp mắt.

Theo đặc tính có thể phân chia hang động ở Ninh Bình thành 3 loại [4]:
Loại thứ nhất: hang động xuyên thủng như Tam Cốc động, hang Luồn,
hang Lôi, Xuyên Thủy động. Đây là loại hang động nằm giữa những quả núi
lớn và có dòng sông chảy xuyên qua. Du lịch qua các loại hang này phải ngồi
trên những chiếc thuyền vào động. Vẻ đẹp hang động trên nền mây nước
thường lung linh huyền ảo và gây được ấn tượng mạnh mẽ đối với du khách.
Loại thứ hai: hang động thông thường phân bố ở lưng chừng núi hoặc
có những mảng thông lên trời và những đường thông xuống dưới lòng
đất. Loại hang động này thường có nhiều thạch nhũ đẹp và lạ.
Loại thứ ba, hang ngầm có số lượng ít hơn, cửa hang ngay chân núi
và hang thường ăn sâu vào trong lòng núi. Hầu hết các hang loại này đã
bị bùn đất lấp đầy và cây bụi che khuất, con người chưa có thời gian khôi
564 |


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

phục trở lại (hang Ngọc Mỹ Nhân, hang Trình, và hang ngay dưới động
Địch Lộng...).
Đặc biệt, hang động ở Ninh Bình không chỉ có vẻ đẹp thần tiên mà mỗi
hang động đều gắn với những giá trị lịch sử, văn hoá và tín ngưỡng, trong
đó một số hang động gắn với truyền thuyết và có văn bia. Các tuyến du
lịch kết nối các hang động được hoạch định trong các tiểu vùng cảnh quan
karst ở Ninh Bình (bảng 1)
Bảng 1: Đánh giá khả năng phát triển du lịch hang động của cảnh quan
Stt

Tài nguyên hang động

Tiểu vùng cảnh quan


Tuyến du lịch sinh thái

1

Động Tam Cốc, hang Múa, Động
Thiên Hương, Bích Động, Hang
Xuyên Thuỷ, Động Tiên, Ngũ Cốc,
Động Liên Hoa, Hang Luồn, Động
Am Tiên, Động Thiên Tôn

Tiểu vùng cảnh quan
karst Trường Yên (II)

Tuyến du lịch Tam
Cốc-Bích Động-Cố đô
Hoa Lư

2

Động Vân Trình, Địch Lộng động
(Nam Thiên đệ Tam Động), Hang
Vồng (hang ông Thăng)

Tuyến Kênh Gà-Vân
Tiểu vùng cảnh quan
đồng bằng tích tụ sông- Trình (Gia Viễn-Nho
Quan)
biển Pleixtocen Nho
Quan-Gia Viễn (V)


3

Hang Nhị, Hang Bóng, Hang Cá,
Động Bái Đĩnh

Tiểu vùng cảnh quan
Tuyến Kênh Gà-Vân
ngập nước Vân Long (IV) Trình (Gia Viễn-Nho
Quan)

4

Động Người xưa

Tiểu vùng cảnh quan
karst Tam Điệp (VI)

Tuyến du lịch Cúc
Phương

1.2 Các dạng tài nguyên địa hình khác
Các kiểu địa hình độc đáo hoặc tổ hợp các kiểu địa hình: địa hình
karst rất có ý nghĩa trong việc thu hút du khách. Ninh Bình có tổng diện
tích 4.320 ha đá vôi tuổi Triat (cách ngày nay khoảng 200 - 250 triệu năm),
hầu hết các kiểu và dạng địa hình có nét đặc trưng của karst nhiệt đới
với tính chất karst già, tập trung chủ yếu ở khu vực Cố đô Hoa Lư và
Tam Cốc-Bích Động. Địa hình karst rất phong phú, phổ biến hơn cả ở hai
khu vực này là karst dạng xiên (Monocline Karst), một dãy núi đá vôimột phần của cánh uốn nếp. Các lớp được sắp xếp tuần tự có góc dốc và
phương vị giống nhau. Chính những dãy núi dạng đơn nghiêng này đã

tạo nên nhiều dạng địa hình lý thú.
Địa hình karst phân bố tập trung trong các tiểu vùng cảnh quan
Trường Yên, Tam Điệp và Vân Long (bảng 2). Khu vực núi đá vôi Trường

| 565


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Yên là trung tâm của một khối karst không bị phân chia thành những
khối núi sót riêng biệt mà hình thành từng dãy, từng dãy nối với nhau
như tấm lưới mắt cáo thông qua các phễu karst treo hoặc các thung
lũng karst.
Bảng 2: Đánh giá thành phần tài nguyên địa hình của cảnh quan
STT

Địa hình

Giá trị thẩm mỹ

Tiểu vùng
cảnh quan

Tuyến du lịch
sinh thái

1

Địa hình đá vôi
dạng khối lớn tuổi

T2đg2

Tổ hợp địa hình núisông độc đáo được
mệnh danh là “Hạ Long
trên cạn”

Tiểu vùng cảnh
quan karst
Trường Yên (II)

Tuyến du lịch Tam
Cốc-Bích ĐộngCố đô Hoa Lư

2

Địa hình karst chia
cắt mạnh phát triển
trên đá vôi phân lớp
tuổi T2đg1

Tổ hợp địa hình núi - đồi Tiểu vùng cảnh
quan karst Tam
- cao nguyên - thung
lũng karst độc đáo, tạo Điệp (VI)
dãy núi Tam Điệp

Tuyến du lịch Cúc
Phương

3


Địa hình đá vôi
dạng khối lớn tuổi
T2đg2

Tổ hợp địa hình núi-hồ
đầm độc đáo, được
mệnh danh là “Hạ Long
không sóng”

Tiểu vùng cảnh Tuyến du lịch Vân
quan ngập nước Long
Vân Long

1.3 Tài nguyên khí hậu
Nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng nên khí hậu ở Ninh Bình cũng
mang đặc điểm tương tự với khí hậu của vùng. Đó là khí hậu nhiệt đới gió
mùa với một mùa đông lạnh, ít mưa và một mùa hè nóng, mưa nhiều. Khu
vực nghiên cứu nằm trong vùng núi thấp, ít chịu ảnh hưởng của quy luật
đai cao, đặc trưng bởi nền nhiệt độ trung bình từ 23-240C, lượng mưa trung
bình năm khoảng 1800-1900mm.
Tuy nhiên một đặc trưng khí hậu của khu vực nghiên cứu cũng ảnh
hưởng rất lớn tới hoạt động phát triển du lịch tại địa phương đó là các hiện
tượng thời tiết đặc biệt như mưa phùn và bão.
Những phân tích về đặc điểm khí hậu của khu vực nghiên cứu kết hợp
với bảng phân loại khí hậu tốt xấu đối với sức khoẻ cho thấy nhìn chung
điều kiện khí hậu ở đây thuận lợi cho phát triển du lịch.
Các chỉ tiêu phân loại khí hậu đối với sức khỏe được đưa vào đánh giá
mức độ thích hợp của điều kiện khí hậu ở cấp phụ lớp cảnh quan đối với
hoạt động du lịch và nghỉ dưỡng (bảng 3).

566 |


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Bảng 3: Đánh giá các điều kiện khí hậu vùng núi đá vôi Ninh Bình
đối với sức khỏe con người phục vụ du lịch và nghỉ dưỡng [3]
Mức độ thích hợp

Số tháng có
nhiệt độ >270C

Tốt (S1)

0

0

>1.500

<50

2-3

Bình thường (S2)

1-3

2


1.200-1.500

50-80

1,5-2,0

Xấu (N1)

4-5

3

1.000-1.200

80-100

1-1,5

Rất xấu (N2)

>5

>4

<1.000

>100

<1


Trạm Nho Quan

N1(4)V-VIII

S1(0)

Trạm Ninh Bình

N1(5)V-IX

S2(1)III

Số tháng có Số giờ nắng Số ngày trời Tốc độ gió
độ ẩm ≥90% toàn năm
đầy mây trung bình
(m/s)

Bảng 4: Đánh giá các chỉ tiêu sinh học đối với con người phục vụ
du lịch và nghỉ dưỡng vùng núi đá vôi Ninh Bình [3]
Mức độ đánh giá

Rét

Nhiệt độ trung bình Nhiệt độ trung Biên độ nhiệt
năm (0C)
bình tháng
trung bình
nóng nhất (0C)
năm (0C)


Lượng mưa
trung bình
năm (mm)

<10

-

-

-

Rất lạnh

10-12

-

-

-

Lạnh

12-15

-

-


-

Mát

15-20

-

-

-

>20

-

-

-

Thích nghi (S1)

18-24

24-27

<6

1250-1900


Khá thích nghi (S2)

24-27

27-29

6-8

1900-2550

Nóng (N1)

27-29

29-32

8-14

>2550

Rất nóng (N2)

29-32

32-25

14-19

<1250


>32

>35

>19

<650

Trạm Nho Quan

S1, hơi nóng (23,3)

S2(28,9/VII)

N1(12,7)

S2 (1908,6)

Trạm Ninh Bình

S1, hơi nóng (23,4)

S2 (29,2/VII)

N1(12,9)

S1 (1828,5)

Hơi nóng


Không thích nghi (N)

Kết quả đánh giá cho thấy chỉ tiêu nhiệt độ thuộc loại hơi nóng nhưng
vẫn trong khoảng thích hợp với cơ thể con người (hạng S1). Tuy vậy, số
tháng có nhiệt độ cao (>270C) nhiều (đánh giá ở mức xấu N1, trạm Nho
Quan 4 tháng, các tháng V-VIII; trạm Ninh Bình 5 tháng, các tháng V-IX),

| 567


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

cộng với thời tiết ít gió gây ra nóng bức cho hoạt động du lịch ngoài trời,
đặc biệt vào tháng VI-VIII. Lượng mưa cao (>1800mm/năm) tạo không khí
mát mẻ cho con người, trong đó vùng núi karst Tam Điệp được đánh giá ở
mức khá thích nghi (S2, lượng mưa 1.908,6 mm/năm, do cản trở hoạt động
du lịch ngoài trời), các vùng còn lại ở mức rất thích nghi (S1, lượng mưa
1.828,5 mm/năm). Ở trạm Nho Quan, khoảng thời gian tháng XII-II không
phù hợp với các hoạt động du lịch, do nền nhiệt thấp (<180C), kết hợp
với độ ẩm không khí rất cao (tháng XI-XII trung bình 87-88%, tháng I-II
trung bình 89-90%) càng làm cho cơ thể con người thấy lạnh thêm. Số ngày
mưa vào thời kỳ này ít nhất trong năm (5-10 ngày/tháng), phần lớn là mưa
phùn; sương mù khá nhiều (3-9 ngày/tháng).

1.4 Tài nguyên nước (Tài nguyên nước mặt và nước ngầm phục vụ du lịch):
- Tài nguyên sông suối: Hệ thống sông suối của tỉnh cũng có giá trị du
lịch lớn, nhất là sông Đáy, sông Hoàng Long, sông Bôi, sông Vân Sàng, sông
Ngô Giang, sông Sào Khê, sông Bút cùng hệ thống hồ phong phú, đặc biệt là
các hồ, đầm có giá trị khai thác du lịch như: hồ đầm Vân Long, hồ Yên Đồng,
hồ Yên Thắng, hồ Đồng Chương, hồ Yên Quang. Mạng lưới sông suối trong

khu vực khá dày, các sông ngoài nhiệm vụ tiêu thoát nước vào mùa lũ còn
có giá trị lớn đối sinh hoạt và sản xuất, trong đó có hoạt động du lịch. Ở khu
vực Tam Cốc - Bích Động vào mùa lũ, mực nước dâng không ảnh hưởng
mà ngược lại tạo điều kiện tốt hơn để chuyên chở du khách đi thưởng thức
phong cảnh hữu tình.
- Tài nguyên suối khoáng: Ninh Bình có 2 điểm suối khoáng Kênh Gà
và Kỳ Phú. Suối nước nóng Kênh Gà ở xã Gia Thịnh, huyện Gia Viễn có
nhiệt độ trung bình 530C, lưu lượng lớn (5m3/h). Năm 1941 được M.Autret
khảo sát, đến 1962 được đưa vào sử dụng cho phát triển du lịch dưới hình
thức sử dụng tại chỗ hoặc đóng chai phục vụ khách du lịch. Suối Kỳ Phú ở
Nho Quan, Hoàng Long, mới được phát hiện, bước đầu đang được khai thác
phục vụ du lịch.

1.5 Tài nguyên sinh vật:
Trong dạng tài nguyên này, trước tiên phải kể đến các cảnh quan rừng
nguyên sinh đặc sắc, có thể sử dụng phục vụ cho hoạt động du lịch thăm
quan ngắm cảnh. Vườn Quốc gia Cúc Phương, Khu Bảo tồn thiên nhiên
Vân Long chứa đựng các hệ sinh thái nhiệt đới có độ đa dạng sinh học cao
568 |


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

và nhiều loài đặc hữu. Cúc Phương là Vườn Quốc gia đầu tiên của cả nước
với diện tích 22.200 ha. Cúc Phương còn lưu giữ một hệ sinh thái rừng trên
núi đá vôi độc đáo và giầu tính đa dạng sinh học vào bậc nhất Việt Nam.
Với hệ thực vật rừng mưa nhiệt đới điển hình, Cúc Phương có 19 quần xã
thực vật, trên 2000 loài thực vật bậc cao được phân bố trong 231 họ, 931
chi, trong đó có 118 loài quý hiếm, 11 loài đặc hữu, 433 loài cây thuốc, 229
loài cây ăn được, 240 loài có thể dùng làm thuốc nhuộm, 137 loài cho tanin

[6,10]. Khu hệ động vật Cúc Phương cũng vô cùng phong phú và đa dạng.
Chỉ tính riêng các loài động vật có xương sống, Cúc Phương đã có tới 659
loài, bao gồm: 66 loài cá, 67 loài bò sát, 43 loài ếch nhái, 336 loài chim và
135 loài thú. Về động vật không xương sống đã ghi nhận được 1899 loài và
dạng loài, thuộc 169 họ, 33 bộ, 6 lớp và 3 ngành. Trong số đó có 81 loài quý
hiếm được ghi trong sách đỏ Việt Nam và sách đỏ IUCN.
Khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long là khu đất rừng ngập nước ngọt
hoang sơ lớn nhất còn sót lại trong đồng bằng châu thổ sông Hồng. Vân
Long chịu ảnh hưởng của 3 con sông lớn chảy qua lãnh thổ Ninh Bình:
sông Đáy, sông Hoàng Long và sông Bôi. Đất ngập nước với mức nước
sâu khoảng vài mét, đan xen là các dãy núi đá vôi nổi lên cao sàn sàn dưới
300m, cao nhất là đỉnh Ba Chon (428m). Rừng Vân Long có 457 loài thực vật
bậc cao có mạch thuộc 327 chi, 127 họ. Đặc biệt có 7 loài thực vật được ghi
trong sách đỏ Việt Nam là: Kiêng, Lát hoa, Tuế lá rộng, Cốt toái bồ, Sắng,
Bách bộ, Mã tiên hoa tán [5,7]. Về động vật: có 39 loài, 19 họ, 7 bộ thú, có
12 loài động vật quý hiếm như: Gấu ngựa, Sơn dương, Cu li lớn, khỉ mặt
đỏ, cầy vằn, báo gấm, báo hoa mai. Đặc biệt, Voọc quần đùi trắng là loài
động vật đặc hữu sinh sống ở Vân Long với số lượng lớn nhất so với các
khu vực khác ở Việt Nam. Trong các loài bò sát có 9 loài được ghi trong sách
đỏ của Việt Nam như: rắn Hổ chúa, kỳ đá hoa, trăn đất, rắn ráo trâu, rắn
ráo thường, rắn sọc đầu đỏ, rắn cạp nong, rắn hổ mang, tắc kè. Chim có 62
loài, 32 họ và 12 bộ.

2. Đánh giá tổng hợp tài nguyên du lịch sinh thái theo lãnh thổ
Khác với việc đánh giá thành phần cho phát triển du lịch hoặc đánh
giá cho các mục đích khác như nông nghiệp, xây dựng, nghỉ dưỡng, đánh
giá tổng hợp cảnh quan cho phát triển du lịch có rất nhiều các nhân tố cùng
tham gia vào (ví dụ, giá trị thẩm mỹ, giá trị khoa học, tính đa dạng, tính độc

| 569



25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

đáo và tính duy nhất...). Hiện nay có nhiều phương pháp đánh giá tiềm
năng lãnh thổ cho mục đích du lịch, nghỉ dưỡng, nhưng tất cả các phương
pháp đó đều phải dựa trên các nguyên tắc đánh giá.
Khi đánh giá hệ thống cảnh quan khu vực núi đá vôi Ninh Bình cho
mục đích phát triển du lịch sinh thái yêu cầu phải đảm bảo 3 nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc 1 (nguyên tắc đáp ứng của tiềm năng sinh thái cảnh quan
lãnh thổ đối với các yêu cầu của du lịch sinh thái): cần phải xuất phát từ các
yêu cầu của các nhóm du khách khác nhau đối với điều kiện sinh thái cảnh
quan. Do đó cần phải xác định những tính chất của cảnh quan tự nhiên mà
trong bất kỳ trường hợp nào cũng là những điều kiện thuận lợi cho mục
đích du lịch sinh thái như tính đa dạng, tính ngoạn mục của cảnh quan,
tính dễ chịu của các điều kiện khí hậu, độ che phủ rừng tối ưu, sự có mặt
của các hồ chứa nước... Do vậy, cơ sở khách quan tốt nhất để đánh giá các
tiềm năng du lịch nhiều mặt của lãnh thổ chính là bản đồ cảnh quan với
các đặc tính thích hợp.
- Nguyên tắc 2 (nguyên tắc xác định sức chứa du lịch): cần phải nghiên
cứu độ bền vững của lãnh thổ đối với các loại hình du lịch, nghỉ dưỡng. Hay
nói cách khác là phải nghiên cứu các tác động tiêu cực đến các cảnh quan tự
nhiên. Từ đó xác định một cách khoa học về sức chứa của lãnh thổ cho du
lịch cũng như sự cần thiết phải có những biện pháp bảo vệ môi trường.
- Nguyên tắc 3 (nguyên tắc dựa vào cộng đồng): khi đánh giá cảnh
quan, ngoài việc phát hiện ra những nhân tố tích cực, một điều rất quan
trọng nữa là phải dự đoán được sự thay đổi của môi trường và ảnh hưởng
đến tình trạng sức khoẻ, bệnh tật, đời sống sinh hoạt, văn hoá tinh thần,
phong tục tập quán của dân cư địa phương.
Quy trình đánh giá được sử dụng gồm 2 bước sau: (1) Từ cấu trúc sinh

thái cảnh quan của lãnh thổ, tiến hành phân loại các nhân tố thuận lợi và
hạn chế đối với phát triển du lịch sinh thái (2) Đánh giá tổng hợp mức độ
thuận lợi của lãnh thổ đối với mục đích du lịch sinh thái.
Đánh giá mức độ thuận lợi được thực hiện trên phạm vi các tiểu vùng
cảnh quan, dựa trên 4 bậc phân loại: Rất thuận lợi (S1), Khá thuận lợi (S2),
Thuận lợi đối với sử dụng từng bộ phận (S3), Ít thuận lợi (N). Kết quả đánh
giá tiềm năng phát triển du lịch sinh thái theo lãnh thổ cho thấy: các Tiểu
vùng karst Trường Yên, Tiểu vùng karst Tam Điệp rất thuận lợi cho phát
triển du lịch; Tiểu vùng ngập nước Vân Long khá thuận lợi; Tiểu vùng
570 |


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

đồng bằng tích tụ Yên Mô-Ninh Bình và Tiểu vùng đồng bằng tích tụ sôngbiển Pleixtocen Nho Quan-Gia Viễn: thuận lợi trung bình; Tiểu vùng đồng
bằng tích tụ sông-biển Holocen sớm Gia Viễn: ít thuận lợi (bảng 5).
Bảng 5: Kết quả đánh giá tổng hợp tài nguyên du lịch theo lãnh thổ
ở vùng núi đá vôi Ninh Bình
STT

Tiểu vùng cảnh
quan

Diện
tích
(km2)

1 Tiểu vùng đồng
bằng tích tụ Yên
Mô-Ninh Bình


247,1

2 Tiểu vùng karst
Trường Yên

60,21

3 Tiểu vùng đồng
bằng tích tụ sôngbiển Holocen sớm
Gia Viễn

54,19

4 Tiểu vùng ngập
nước Vân Long

53,26

Cảnh Di tích Di tích Mức
Các loại hình du lịch thích Đánh
quan
đặc đã xếp độ tập
hợp phát triển
giá
rừng
biệt hạng trung
tổng
Nghỉ Thăm Chuyên Văn
nguyên quan

di tích
hợp
dưỡng quan
đề
hóa
sinh trọng
ngắm
cảnh

z

z

5 Tiểu vùng đồng
323,7
bằng tích tụ sôngbiển Pleixtocen
Nho Quan-Gia Viễn
6 Tiểu vùng karst
Tam Điệp

350,6

Đánh giá xếp hạng:

z

0

8


Tập
trung

z

z

2

11

Rất tập
trung

z

z

0

0

Thưa
thớt

z

0

4


Tập
trung

0

2

Trung
bình

z

z

0

2

Thưa
thớt

z

z

z

z


P3

z

P1
PN

z

z

z

z

P2

z

P3

z

P1

(P1): Rất thuận lợi; (P2): Khá thuận lợi;

(P3): Thuận lợi trung bình; (PN): Ít thuận lợi.
- Tiểu vùng cảnh quan đồng bằng tích tụ Yên Mô-Ninh Bình: khu vực
Ninh Bình có nhiều danh lam thắng cảnh như núi Non Nước, hồ Kỳ Lân,

núi Ngọc Mỹ Nhân, Bảo tàng Ninh Bình; đền thờ Trương Hán Siêu. Khu
vực Yên Mô có hồ Đồng Thái, động Mã Tiên, hang Trời và Sân golf Yên
Thắng là những điểm du lịch rất hấp dẫn. Ở Yên Mô có 12 di tích lịch sử
văn hoá được xếp hạng, nhiều nhất là chùa. Yên Mô có 11 làng nghề truyền
thống như nghề dệt vải, dệt chiếu, làm mộc, làm nề, khai thác đá, chế biến
lương thực, thực phẩm, mây tre đan.

| 571


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

- Tiểu vùng cảnh quan karst Trường Yên:
Tại đây phân bố chủ yếu địa hình núi thấp với độ cao trung bình từ
150 – 200m, bị phân cắt mạnh mẽ tạo cảnh quan các dải karst, núi sót karst
với các đỉnh dạng tháp, dạng chuông, sườn dốc. Giữa các khối karst sót là
thung lũng và đáy trũng karst mở rộng, phần lớn đều thấp trũng, dễ ngập
nước vào mùa mưa. Quá trình karst hoá trong khối đá vôi phát triển lâu
dài, tạo nên nhiều cảnh quan có giá trị khoa học và có ý nghĩa đối với sự
phát triển kinh tế – xã hội của khu vực.
Hệ thống hang động ở Tràng An – Bích Động bao gồm cả hang hoạt
động lẫn hang đã ngừng hoạt động (còn gọi là hang hóa thạch). Hệ
thống hang hoạt động điển hình là Tam Cốc và các hang ở Tràng An. Đó
là các hệ thống “hang sông” ngập nước thường xuyên, ngay cả trong
mùa khô. Do đó, các hang này đang có điều kiện để mở rộng. Vào mùa
nước lớn, nước có thể ngập đến trần hang và tạo ra các vết sóng trên
trần do tác động của nước. Đồng thời, vào mùa mưa, nước karst từ các
khe nứt rỏ xuống cũng tạo nên những “vú đá” với kích thước nhỏ. Các
hang ngừng hoạt động (hang hóa thạch) tuy không nhiều, song cũng có
tính phân bậc khá rõ. Hiện nay, mới biết được một số hang loại này, điển

hình là Bích Động và một số hang nhỏ khác thuộc Hoa Lư. Bên trong các
động này đều phát triển các thành tạo tích tụ dưới dạng nhũ đá, măng
đá và cột đá.
Tam Cốc-Bích Động tập trung một số hang động đẹp là động Vàng,
động Bích Động, động Tiên (dài 83m), động Thiên Hương, động Múa,
hang Xuyên Thủy (dài 135m), hang Chùa, hang Ghé, hang Cả (172m), hang
Giữa, hang Ba. Phần lớn các hang này là hang xuyên thủy, tương đối cao và
rộng. Hệ thống hang động trong khu vực khá đa dạng, tạo nên cảnh đẹp
đặc sắc, có sức hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước.
Vẻ đẹp hang động Tràng An – Bích Động hài hoà với môi trường thiên
nhiên và vẻ đẹp văn hoá - lịch sử. Trong khu vực, các di tích văn hóa, lịch
sử, nổi tiếng nhất là đền thờ Vua Đinh – Vua Lê, điện Thái Vi với lễ hội hàng
năm; động Thiên Hương (thờ bà Trần Thị Dung, vợ Thái sư Trần Thủ Độ);
chùa Bích Động, Linh Cốc Tự (chùa Móc) và hàng loạt di tích thời Đinh,
Tiền Lê.
- Tiểu vùng cảnh quan đồng bằng tích tụ sông-biển Holocen sớm Gia
Viễn: Đặc trưng nổi bật nhất để phát triển loại hình du lịch ở khu vực Gia
572 |


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Viễn là phía bắc huyện có dãy núi đá vôi điệp trùng, có nhiều hang động
đẹp như động Thung Lau (Gia Hưng), Hang Cá (Gia Vân), động Địch Lộng
(Nam thiên đệ tam động). Phía đông nam huyện có dãy núi đá Gia Sinh
giáp Cố đô Hoa Lư. Một số hang động khá rộng và nằm trong dự án xây
dựng khu du lịch Tràng An. Ngoài ra Gia Viễn có nguồn nước khoáng Kênh
Gà nhiệt độ trung bình 60°C. Ngã ba Kênh Gà, hợp lưu giữa hai con sông
Hoàng Long và sông Lạng, được gọi là Vọng Ấm (vì thời tiết luôn ấm), khu
vực quần tụ của nhiều loài cá. Vì vậy, ở đây đã hình thành một làng chài

Kênh Gà. Gia Viễn có rất nhiều di tích lịch sử và thắng cảnh như: đền thờ
vua Đinh Tiên Hoàng-tại quê ông ở thôn Vân Long, xã Gia Phương. Đền có
kiến trúc giống đền vua Đinh ở Cố đô Hoa Lư; đền Thánh Nguyễn thuộc
đất xã Gia Thắng xưa là chùa (Viên Quang tự), tương truyền do Quốc sư
Nguyễn Minh Không lập nên để tu hành. Kiến trúc của đền thời Hậu Lê
theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Đền Thánh Nguyễn là một điểm sáng
trong nghệ thuật điêu khắc dân gian ở thế kỷ XVI-XVIII. Trên đất Gia Viễn
nhiều đình, chùa, hang động nằm ở hầu hết các xã trong huyện đều in đậm
dấu ấn lịch sử. Nhiều công trình đã được Nhà nước công nhận di tích lịch
sử cấp quốc gia.
Bảng 6: Đánh giá các hang động khu vực Gia Viễn
STT

Tên
hang

Loại Độ cao Độ dài Độ rộng
hang
(m)
(m)
(m)

Nền
hang

Chênh Thạch Khả năng
Lưu
thông lệch nhiệt nhũ khai thác
độ (oC)
không

du lịch
khí

1

Hang Xuyên
Bóng thuỷ

4

73

13

Phẳng

Tốt

3

ít

Rất tốt

2

Hang Xuyên

thuỷ


8

250

10

Gồ ghề

Tốt

2,2

ít

Rất tốt

3

Ông Xuyên
Thang thuỷ

3

132

9

Ngập
nước


Tốt

3

ít

Tốt

4

Bụt

Xuyên
thuỷ

-

150

12-20

Ngập
nước

Tốt

3

ít


Tốt

5

Địch
Lộng

Xuyên
thuỷ

-

-

-

Ngập
nước

Tốt

3

ít

Rất tốt

6

Con

Mèo

Xuyên
thuỷ

-

Hẹp

-

Bùn đất

Kém

-

Không

Kém

- Tiểu vùng cảnh quan ngập nước Vân Long: Các danh lam thắng cảnh
có giá trị nổi bật là động Thung Lau, Hang Cá, động núi Địch Lộng hay

| 573


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

nguồn nước nóng tự nhiên Kênh Gà, khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long.

Đặc biệt, tiểu vùng này có khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước kết hợp
du lịch sinh thái đang được Nhà nước đầu tư và xây dựng cơ sở hạ tầng
phục vụ du khách, các nhà khoa học tới nghiên cứu hệ động thực vật khu
bảo tồn sinh thái Vân Long rộng 3.500 ha trải dài trên 6 xã (Gia Vân, Gia Hoà,
Gia Lập, Gia Thanh, Liên Sơn, Gia Hưng) với 12.000 ha đất ngập nước, 2.000
ha núi đá vôi. Khu ngập nước Vân Long không chỉ có sự đa dạng về thành
phần loài mà còn đa dạng về nguồn gen và hệ sinh thái. Sự đa dạng về địa
hình dẫn tới sự đa dạng về các sinh cảnh sống của các loài sinh vật. Tại khu
vực chia thành hai sinh cảnh chính: sinh cảnh trên cạn và sinh cảnh dưới
nước. Trong sinh cảnh trên cạn lại chia ra thành các sinh cảnh sống trên
đỉnh và sườn núi đá vôi, sinh cảnh sống trong các thung khô hạn,... Trong
sinh cảnh dưới nước chia thành các quần xã nước nông, quần xã nước sâu,
quần xã sống trôi nổi trên mặt nước,... Sự đa dạng về sinh cảnh sống tạo
nên sự đa dạng về nhóm, thành phần động thực vật, điều đó tạo nên mức
đa dạng sinh học cao cho vùng. Vân Long là nơi sinh sống của các loài quý
hiếm như Voọc mông trắng, loài linh trưởng quý hiếm với quần thể lớn
nhất Việt Nam, khoảng hơn 70 cá thể. Trong số 72 loài chim được thống kê
ở đây có đến 25 loài chim nước có thể quan sát dễ dàng trên đầm nước và
vách núi với nhiều loài chim độc đáo như sâm cầm, ngỗng trời, ó cá, le hôi,
mồng két, cò bợ, cò ngang lớn, cò ruồi, vạc [5].
- Tiểu vùng cảnh quan karst Tam Điệp: Khu vực Nho Quan có 2 khu
du lịch hấp dẫn là hồ Đồng Chương và vườn quốc gia Cúc Phương. Hồ
Đồng Chương là một hồ nước rộng, trong xanh, nằm ở 2 xã Phú Lộc và Phú
Long. Xung quanh hồ là những đồi thông soi bóng xuống mặt nước. Vườn
quốc gia Cúc Phương: khu rừng nguyên sinh được phát hiện năm 1960
đến năm 1962 được công nhận là vườn quốc gia. Trong khu rừng có động
Người Xưa, suối nước nóng, cây chò trên 1.000 năm tuổi... Khu vực Tam
Điệp được công nhận 2 khu di tích lịch sử danh thắng Tam Điệp - Biện Sơn
gồm: Khu A: có đèo Ba Dội, Kẽm Đó, luỹ Quang Trung, núi Cắm Gươm,
núi Cắm Cờ, núi Chong Đèn, núi Hầu Vua, Vương Ngự, gắn với di tích đền

Dâu, đền Quán Cháo, động Tam Giao, đèo Tam Điệp. Khu B: có luỹ Quèn
Thờ, lũy Quang Trung, đền Quèn Thờ gắn với danh thắng động Trà Tu, hồ
Yên Thắng, hồ Mừng, hồ Đoòng Đèn. Hiện tại khu vực này đang xây dựng
khu vui chơi giải trí sân golf Yên Thắng hứa hẹn nhiều tiềm năng mới cho
phát triển du lịch.
574 |


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Kết luận
Kết quả đánh giá thành phần và đánh giá tổng hợp các dạng tài nguyên
du lịch theo các tiểu vùng cảnh quan cho thấy khu vực núi đá vôi Ninh
Bình có tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn phong phú, đặc biệt là
cảnh quan karst và hệ thống hang động độc đáo. Đây là lợi thế quan trọng
cho phát triển một số loại hình du lịch thích hợp như thăm quan, nghiên
cứu khoa học, nghỉ dưỡng, nhằm góp phần đẩy mạnh ngành du lịch phát
triển với nhịp độ nhanh hơn trong những năm tới.
Tài nguyên du lịch ở vùng núi đá vôi Ninh Bình được phân bố tập
trung ở một số khu vực chính như cố đô Hoa Lư, Tam Cốc - Bích Động,
Cúc Phương. Đây là cơ sở tài nguyên cực kỳ quan trọng cho việc tổ chức
các khu du lịch lớn, có sức thu hút du khách cao so với các trung tâm du
lịch khác trong cả nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Phùng Ngọc Lan, Nguyễn Nghĩa Thìn và Nguyễn Bá Thụ, 1996, Tính đa dạng
của quần thực vật tại Cúc Phương, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.


2.

Phạm Trung Lương, 2000, Du lịch sinh thái những vấn đề lý luận và thực tiễn phát
triển ở Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội

3.

Trương Quang Hải (chủ nhiệm), 2007, Nghiên cứu và xác lập cơ sở khoa học cho
việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và phát triển bền vững vùng núi đá vôi
tỉnh Ninh Bình. Đề tài nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp Đại học Quốc gia
Hà Nội, mã số QGTĐ.04.11.

4.

Trương Quang Hải, Đặng Văn Bào, 2008, Khu du lịch sinh thái Tràng An – Bích
Động: Những giá trị nổi bật của cảnh quan karst, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt
Nam học lần thứ ba, tập IV, tr. 538-549, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

5.

Vũ Trung Tạng, 2003, Đất ngập nước Vân Long và vai trò của nó trong việc bảo tồn
đa dạng sinh học, tr. 225-229. NVĐNCCBTKHSS. Nxb Khoa học và Kỹ thuật.
Hà Nội.

6.

Thái Văn Trừng, 1997, Đặc điểm của khu rừng nguyên sinh Cúc Phương, Tạp chí
Lâm nghiệp, tr.30-36, số 11/1997, Hà Nội.

7.


Nguyễn Hữu Tứ, Huỳnh Nhung, Trần Thị Vân, 1998, Thảm thực vật vùng Hoa
Lư tỉnh Ninh Bình, Tuyển tập các công trình nghiên cứu địa lý. Nxb Khoa học
và Kỹ thuật, Hà Nội .

| 575


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

8.

Brian Boniface, MA, Chris Cooper, Robyn Cooper, 2012, Worldwide Destinations:
The geography of travel and tourism, Routledge, New York, USA

9.

Do Tuyet, Tran Tan Van and Pham Kha Tuy, 2004, Characteristics of humid
tropical karst of Vietnam, Proceedings of the International Transdisciplinary
Conference on Development and Conservation of Karst Regions, Hanoi,
Vietnam, 13-18.9.2004. p.240-249.

10. Nguyen Nghia Thin, 1997, The vegetation of Cuc Phuong National Park,
Vietnam. SIDA 17(4), p. 719-759.
11. David Bruce Weaver, 2001, The Encyclopedia of Ecotourism. Cabi Publishing,
New York, USA

576 |




×