Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Chuyên đề tốt nghiệp Công tác giảm nghèo tại xã Ea Hiu, huyện Krông Pắk, tỉnh Đăk Lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.48 KB, 64 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN
KHOA KINH TẾ

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

CÔNG TÁC GIẢM NGHÈO
TẠI XÃ EA HIU, HUYỆN KRÔNG PẮK, TỈNH ĐĂK LẮK

Sinh viên

:

Mun Loi Kham Ra Lu

Chuyên ngành:

Kinh tế Nông lâm

Khóa học

2011-2015

Đắk Lắk,05/2015
i

:


TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN
KHOA KINH TẾ


CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

CÔNG TÁC GIẢM NGHÈO
TẠI XÃ EA HIU, HUYỆN KRÔNG PẮK, TỈNH ĐĂK LẮK

Sinh viên

: Mun Loi Kham Ra Lu

Chuyên ngành

: Kinh tế Nông lâm

Khóa học

: 2011-2015

Người hướng dẫn: CN.Ao Xuân Hòa

.

ĐăkLăk, 05/2015
ii


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài chuyên đề này, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi đã nhận
được sự quan tâm giúp đỡ của các đoàn thể cá nhân trong và ngoài trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy Ao Xuân Hòa đã trực tiếp hướng dẫn
và nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình thực tập và hoàn thành chuyên đề này.

Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy, cô giáo Khoa Kinh tế, trường Đại học Tây
Nguyên đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập tại trường.
Xin chân thành cảm ơn các cô, chú và các anh chị tại UBND xã Ea Hiu, huyện
Krông Păk, tỉnh Đăk Lăk, ban tự quản các thôn, buôn cùng bà con nông dân xã Ea
Hiu đã tạo mọi điều kiện thuận lợi trong suốt thời gian thực hiện đề tài.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè và người thân đã giúp
đỡ, động viên, khích lệ tôi trong suốt thời gian học tập cũng như quá trình thực hiện
chuyên đề này.

ĐăkLăk, tháng 05 năm 2015
Sinh viên thực hiện

Mun Loi Kham Ra Lu

iii


DANH MỤC VIẾT TẮT

BHYT

Bảo hiểm y tế

BQ

Bình quân

DS-KHHGĐ

Dân số kế hoạch hóa gia đình


LHQ

Liên hợp quốc

XĐGN

Xóa đói giảm nghèo

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

UBND

Uỷ ban nhân dân

iv


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Tỷ lệ hộ nghèo đói theo tiêu chuẩn 2001-2005 của Bộ LĐTBXH, giai đoạn
1996-2004 ...................................................................................................................... 13
Bảng 3.1: Hiện trạng và cơ cấu các loại đất .................................................................. 24
Bảng 4.1 :Tỷ lệ hộ nghèo theo thành phần dân tộc ....................................................... 32
Bảng 4.2 : Tỷ lệ hộ nghèo theo các thôn buôn qua các năm từ 2012-2014 .................. 33
Bảng 4.3: Tình hình sử dụng đất đai, nhân khẩu, lao động........................................... 35
Bảng 4.4 : Tình hình nhà ở, phương tiện sinh hoạt chủ yếu ......................................... 37
Bảng 4.5: Phương tiện sản xuất của các hộ .................................................................. 38
Bảng 4.6 : Tình hình vay vốn của các hộ năm điều tra ................................................. 39

Bảng 4.7 : Cân đối thu chi của các hộ ........................................................................... 40
Bảng 4.8 :Số hộ thoát nghèo qua các năm từ 2012-2014.............................................. 41
Bảng 4.9: Tình hình vay vốn của các hộ qua các năm ................................................. 42

v


MỤC LỤC

PHẦN MỘT: ĐẶT VẤN ĐỀ ........................................................................................ 7
1.1. Lý do chọn đề tài................................................................................................... 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu.............................................................................................. 2
PHẦN HAI: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU ................................................ 2
2.1. Cơ sở lý luận ......................................................................................................... 3
2.1.1. Một số khái niệm liên quan ............................................................................ 3
2.1.2. Chuẩn mực đói nghèo ở Việt Nam và trên Thế giới.......................................... 5
2.1.3. Phương pháp tiếp cận và chỉ tiêu đánh giá ..................................................... 7
2.1.4. Nguyên nhân nghèo đói ở Việt Nam .............................................................. 9
2.2. Cơ sở thực tiễn .................................................................................................... 12
2.2.1.Thực trạng đói nghèo ở Việt Nam ................................................................. 12
2.2.2. Kinh nghiệm công tác giảm nghèo của các nước trên thế giới..................... 14
PHẦN BA: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.............................. 20
3.1. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.................................................... 20
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................... 20
3.2. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu.............................................................................. 20
3.2.1. Điều kiện tự nhiên......................................................................................... 20
3.2.2. Tài nguyên .................................................................................................... 21
3.2.3. Điều kiện kinh tế - xã hội ............................................................................. 23
3.2.4. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội ........................................................... 24
3.2.5. Đánh giá tổng quan về đặc điểm của địa bàn nghiên cứu ............................ 28

3.3. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................... 29
3.3.1. Phương pháp chọn địa điểm nghiên cứu ...................................................... 29
3.3.2. Phương pháp thu thập số liệu và thông tin ................................................... 29
3.3.3. Phương pháp xử lí số liệu và thông tin ......................................................... 30
3.3.4. Phương pháp phân tích ................................................................................. 30
3.3.5. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu........................................................................ 30
PHẦN BỐN: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................................. 32
4.1. Thực trạng hộ nghèo của xã ................................................................................ 32
4.1.1. Thực trạng hộ nghèo theo thành phần dân tộc.............................................. 32
vi


4.1.2. Thực trạng hộ nghèo theo địa bàn ................................................................ 33
4.2. Đặc điểm của các hộ điều tra .............................................................................. 35
4.2.1. Tình hình sử dụng đất đai, nhân khẩu, lao động........................................... 35
4.2.2. Tình hình nhà ở ,phương tiện sinh hoạt chủ yếu ......................................... 36
4.2.3. Tình hình phương tiện sản xuất của hộ......................................................... 37
4.2.4. Tình hình vay vốn của các hộ nghèo ............................................................ 38
4.2.5 Mức tích lũy của nông hộ .............................................................................. 40
4.3. Công tác giảm nghèo tại xã................................................................................. 41
4.3.1. Kết quả đạt được........................................................................................... 41
4.3.3. Tác động của các chính sách giảm nghèo..................................................... 43
4.3.4. Những hạn chế trong công tác giảm nghèo tại địa bàn xã............................ 43
4.3.5.Những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nghèo đói của xã ............................... 44
4.3.6. Giải pháp giảm nghèo tại xã ......................................................................... 45
PHẦN NĂM : KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ........................................................... 47
5.1.Kết luận ................................................................................................................ 47
5.2. Kiến nghị ............................................................................................................. 47
5.2.1. Đối với nhà nước .......................................................................................... 47
5.2.2. Đối với chính quyền địa phương .................................................................. 48

5.2.3. Đối với người dân địa phương...................................................................... 48
5.2.4. Đối với nhà trường........................................................................................ 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................... 50
PHIẾU PHỎNG VẤN CỦA NÔNG HỘ ................................................................... 51

.

vii


PHẦN MỘT: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Lý do chọn đề tài
Nghèo đói đang là một vấn đề nóng bỏng luôn được thế giới quan tâm. Cùng
với sự phát triển của quá trình toàn cầu hóa, nền kinh tế thế giới đã có bước chuyển
biến mạnh mẽ, đời sống của người dân khắp các quốc gia đã được nâng lên rõ rệt.
Nhưng bên cạnh đó đói nghèo vẫn là vấn đề xã hội bức xúc của các quốc gia trên thế
giới. Số liệu điều tra cho thấy mỗi ngày trên thế giới có đến 35.000 trẻ em phải chết vì
những căn bệnh có thể chữa khỏi bằng các phương pháp dinh dưỡng và sự chăm sóc y
tế sơ đẳng nhất. Các quốc gia phát triển, giàu có cũng không tránh khỏi điều đó. Tại
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ những năm 80 của thế kỷ 20 đã có thêm 4 triệu trẻ em rơi
vào cảnh bần hàn. Nhưng nạn nghèo đói đặc biệt nghiêm trọng ở các quốc gia đang
phát triển. Việt Nam cũng nằm trong bối cảnh như vậy. Trên thực tế, từ sau đại hội đại
biểu lần thứ VI (Tháng 12/1986) toàn Đảng, toàn dân tiến hành công cuộc đổi mới và
đã đạt được thành tựu đáng kể. Cũng chính sự thay đổi đó đã khiến nhiều người Việt
Nam có thể cải thiện được cuộc sống của mình hay bắt đầu sự cải thiện đó. Các cá
nhân, hộ gia đình và các tổ chức kinh tế, xã hội cũng như các công ty ngày càng kiểm
soát được nguồn lực phát triển. Song song với điều đó là sự có mặt ngày càng tăng của
các loại hàng hóa dịch vụ. Tuy nhiên ở nước ta vẫn tồn tại những yếu kém nhất định
về kinh tế xã hội: một số nhóm lại không ở vị thế tốt để có thể tận dụng được các thị
trường và kiểm soát nguồn lực; sự thay đổi của nền kinh tế đã gây nên sự chênh lệch

ngày càng lớn giữa các giai tầng xã hội. Vì vậy trong xã hội xuất hiện sự chênh lệch
giữa nhóm giàu và nhóm nghèo. Nhóm giàu tập chung chủ yếu ở đô thị. Nhóm nghèo
tập chung chủ yếu ở nông thôn, trung du, miền núi. Theo báo cáo về tình hình phát
triển quốc tế của ngân hàng thế giới (WB), Việt Nam vẫn đứng thứ 19 kể từ nước
nghèo nhất (1999). Qua nguồn số liệu điều tra mức sống dân cư ở Việt Nam các năm
1993 và 1998, WB đã xác định ngưỡng nghèo chung theo mức chi tiêu tối thiểu
96.700đ (1993) và 149.156đ (1998) 1người/tháng. Theo cách tính này thì Việt Nam
năm 1993 có 58,1% và 1998 vẫn còn 37,4% dân cư nghèo đói. Ở Việt Nam, trong
những năm gần đây Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong việc xóa đói giảm
nghèo. Trong 10 năm qua, hầu như 1/3 tổng dân số đã thoát khỏi cảnh nghèo đói. Vậy
thì để tiến tới xóa bỏ dần vấn đề này phải cần nhìn nhận thực trạng của nó đúng về bản
chất và xem xét nó trong bối cảnh mới.. Việt Nam coi XĐGN là yếu tố cơ bản để đảm
1


bảo công bằng xã hội và tăng trưởng nhanh và bền vững bền vững. Vì vậy việt nam
coi XĐGN là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất
nước theo định hướng XHCN.
Đắk Lắk là một tỉnh có những bước tiến rõ rệt trong công tác giảm nghèo: số hộ
thoát nghèo ngày càng tăng và khá nhiều hộ vươn lên làm giàu.trong 3 năm 20112013, tỷ lệ hộ nghèo Đắk Lắk giảm xuống còn 12,26%; hộ cận nghèo giảm còn 6,69%,
số xã có tỷ lệ hộ nghèo cao (trên 50%) giảm xuống còn 5 xã.Tuy nhiên, kết quả giảm
nghèo vẫn chưa thật bền vững,chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng ,nhóm dân cư
chưa được thu hẹp ; tỷ lệ hộ tái nghèo và phát sinh hộ nghèo mới còn cao so với tổng
số hộ thoát nghèo.[4]
Xã Ea Hiu là một xã nông nghiệp,thu nhập chủ yếu dựa vào nông nghiệp.Xã có
1.213 hộ với 6.061 nhân khẩu trong đó hộ nghèo có 213 hộ chiếm 17,56 %[8]. Tỷ lệ
hộ nghèo của xã còn cao nên công tác giảm nghèo của xã luôn là vấn đề cấp thiết và
nan giải, từ những khó khăn và nhu cầu bức thiết của người dân, nhằm tăng cường
công tác giảm nghèo và nhu cầu của người dân việc nghiên cứu đề tài “Công tác giảm
nghèo tại xã Ea Hiu, huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk ” trở nên cấp thiết.


1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu công tác giảm nghèo tại xã Ea Hiu, Huyện Krông Pắk, Tỉnh Đắk Lắk.
- Tìm hiểu các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến đói nghèo tại tại xã Ea Hiu, Huyện
Krông Pắk, Tỉnh Đắk Lắk.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu cho công tác giảm nghèo tại tại xã Ea Hiu, Huyện
Krông Pắk, Tỉnh Đắk Lắk.

2


PHẦN HAI: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU

2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Một số khái niệm liên quan
2.1.1.1. Khái niệm về nghèo đói
* Khái niệm về nghèo khổ của của UNDP-1998
Năm 1998, UNDP công báo một bản báo cáo nhan đề “ Khắc phục sự nghèo
khổ của con người” đã tạo ra những định nghĩa về nghèo như sau:
Sự nghèo khổ của con người: Thiếu những quyền cơ bản của con người như
biết đọc, biết viết và được nuôi dưỡng tạm đủ.
Sự nghèo khổ về tiền tệ: Thiếu thu nhập tối thiểu thích đáng và khả năng chi
tiêu tối thiểu.
Sự nghèo khổ cực độ: Nghèo khổ khốn cùng tức là không có khả năng thỏa mãn
những nhu cầu cơ bản tối thiểu.
Sự nghèo khổ chung: Mức độ nghèo kém nghiêm trọng hơn được xác định như
sự không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu lương thực và phi lương thực chủ yếu,
những nhu cầu này đôi khi được xác định khác nhau ở những nước khác nhau.
Sự nghèo khổ tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng
và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản tối thiểu của cuộc sống như: ăn mặc, nhà ở, sinh hoạt,

vệ sinh và môi trường.
Sự nghèo khổ tuyệt đối: Sự nghèo khổ được xác định bằng một chuẩn mực nhất
định . Chẳng hạn ngưỡng quốc tế của sự nghèo khổ là 1usd/người/ngày.
*.Khái niệm về nghèo đói của Ngân hàng thế giới (WB).
Ngưỡng nghèo thứ nhất là số tiền cần thiết để mua một rổ hàng hóa lương thực
hàng ngày trong năm 1993 và được gọi là “ Ngưỡng nghèo về lương thực, thực phẩm”.
Ngưỡng nghèo này thường thấp bởi vì nó không tính đến số tiền chi tiêu cho những
sản phẩm phi lương thực khác.
Ngưỡng thứ hai là “Ngưỡng nghèo chung” bao gồm cả chi tiêu cho lương thực
thực phẩm và chi tiêu cho sản phẩm phi lương thực.

3


2.1.1.2.Khái niệm về nghèo đói của Việt Nam
Ở nước ta căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội và mức thu nhập của nhân dân
trong những năm qua thì khái niệm đói nghèo được xác định như sau:
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có những điều kiện thoả mãn những
nhu cầu tối thiểu và cơ bản nhất trong cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống
của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
Một cách hiểu khác: Nghèo là một bộ phận dân cư có mức sống dưới ngưỡng
quy định của sự nghèo. Nhưng ngưỡng nghèo còn phụ thuộc vào đặc điểm cụ thể của
từng địa phương, từng thời kỳ cụ thể hay từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội cụ thể
của từng địa phương hay từng quốc gia.
Ở Việt Nam thì nghèo được chia thành các mức khác nhau: nghèo tuyệt đối,
nghèo tương đối, nghèo có nhu cầu tối thiểu.
- Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo không có
khả năng thoả mãn nhu cầu tối thiểu của cuộc sống: ăn, mặc, ở, đi lại...
- Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo có mức
sống dưới mức sống trung bình của cộng đồng và địa phương đang xét.

- Nghèo có nhu cầu tối thiểu: Đây là tình trạng một bộ phận dân cư có những
đảm bảo tối thiểu để duy trì cuộc sống như đủ ăn, đủ mặc, đủ ở và một số sinh hoạt
hàng ngày nhưng ở mức tối thiểu.
- Khái niệm về hộ đói: Hộ đói là một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức tối
thiểu không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống hay nói cách khác đó
là một bộ phận dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa, thường xuyên phải vay nợ và thiếu
khả năng trả nợ.
- Khái niệm về hộ nghèo: Hộ nghèo là tình trạng của một số hộ gia đình chỉ thoả
mãn một phần nhu cầu tối thiểu của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống
trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
Ngoài ra còn có khái niệm xã nghèo và vùng nghèo.
+ Xã nghèo là xã có những đặc trưng như sau:
- Tỷ lệ hộ nghèo cao hơn 40% số hộ của xã.
- Không có hoặc thiếu rất nhiều những công trình cơ sở hạ tầng như: Điện sinh
hoạt, đường giao thông, trường học, trạm y tế và nước sinh hoạt.
- Trình độ dân trí thấp, tỷ lệ người mù chữ cao.
4


+ Khái niệm về vùng nghèo:
Vùng nghèo là chỉ địa bàn tương đối rộng có thể là một số xã liền kề nhau hoặc
một vùng dân cư nằm ở vị trí rất khó khăn hiểm trở, giao thông không thuận tiện, cơ
sở hạ tầng thiếu thốn, không có điều kiện phát triển sản xuất đảm bảo cuộc sống và là
vùng có số hộ nghèo và xã vùng cao.
2.1.2. Chuẩn mực đói nghèo ở Việt Nam và trên Thế giới
Ở mỗi thời kỳ phát triển của nền kinh tế đều phải đưa ra một chuẩn mực riêng,
để xác định mức đói nghèo cho phù hợp với mức thu nhập bình quân chung của dân
chúng trong từng giai đoạn khác nhau.
2.1.2.1. Chuẩn mực đói nghèo của một số nước trên thế giới
Theo Ngân hàng thế giới (WB), từ những năm 80 cho đến nay chuẩn mực để

xác định ranh giới giữa người giàu và người nghèo ở các nước đang phát triển và các
nước ở khu vực ASEAN được xác định bằng mức chi phí lương thực thực phẩm cần
thiết để duy trì cuộc sống với mức tiêu dùng nhiệt lượng từ 2100-2300
calo/ngày/người hoặc mức thu nhập bình quân tính ra tiền là 370USD/người/năm.
* Ở Ấn Độ: Lấy tiêu chuẩn là 2250 calo/người/ngày.
* Ở BănglaĐesh lấy tiêu chuẩn là 2100 calo/người/ngày.
* Inđônêxia : vào đầu những năm 80 lấy mức tiêu dùng nhiệt lượng là 2100
calo/người/ngày làm chuẩn mực để xác định ranh giới giữa giàu và nghèo.
* Ở Trung Quốc năm 1990 lấy mức tiêu dùng là 2150 calo/người/ngày.
* Các nước công nghiệp phát triển Châu Âu :2570 calo/người/ngày.
2.1.2.2. Chuẩn mực đói nghèo của Việt Nam
Năm 1993 theo Tổng cục thống kê lấy mức tiêu dùng là 2100 calo nếu quy đổi
tương đương với lượng tiêu dùng lương thực phẩm theo giá phù hợp với từng thời
điểm, từng địa phương thì người dân Việt Nam phải có mức thu nhập bình quân tối
thiểu là 50000/người/tháng ở vùng nông thôn và 70000 đồng đối với khu vực thành
thị, để làm ranh giới xác định giữa người giàu và người nghèo.
Theo cách tính này thì mức thu nhập bình quân đầu người ở các hộ khu vực
nông thôn nước ta được quy ra tiền để xác định ranh giới giữa những hộ giàu và hộ
nghèo như sau:
- Loại hộ nghèo : có mức thu nhập bình quân dưới 50000/người /tháng.Hộ đói
dưới 30000/ngưới/tháng.
5


- Loại hộ trung bình : có mức thu nhập bình quân từ 70000125000/người/tháng.
- Loại hộ trên trung bình: có mức thu nhập bình quân từ 125000250000/người/tháng.
Sau một thời gian căn cứ vào trình độ phát triển của nền kinh tế thì tại thông
báo số 1751/LĐ-TBXH của Bộ LĐ-TBXH ngày 20/5/1997 thì chuẩn mực về đói
nghèo được quy định lại như sau:
+ Hộ đói : là hộ có mức thu nhập bình quân theo đầu người dưới 13 kg

gạo/tháng tương đương 45000/tháng đối với tất cả các vùng.
+ Hộ nghèo : là hộ có mức thu nhập bình quân theo đầu người 15/kg
gạo/người/tháng tương đương 55000 ở khu vực nông thôn, miền núi.
 20 kg gạo đối với khu vực nông thôn đồng bằng và trung du.
 25 kg gạo/người/tháng đối với khu vực thành thị.
Tại quyết định số 09/2011/QĐ -TTg ngày 30/1/2011 của Bộ trưởng Bộ LĐTBXH đã phê duyệt chuẩn mức đói nghèo mới giai đoạn 2011-2015 theo mức thu
nhập bình quân đầu người cho từng vùng cụ thể như sau:
- Vùng nông thôn : 400.000 đồng/người/tháng tương đương với 4.800.000
đồng/người/năm trở xuống
- Vùng thành thị: 500.000 đồng/người/tháng tương đương 6.000.000/người/năm
trở xuống
Theo tiêu chuẩn này thì tính đến năm 2011, cả nước có khoảng 2.580.885 hộ
nghèo, chiếm tỷ lệ từ 24-25% tổng số hộ trong nước. Trong đó 4 vùng có tỷ lệ nghèo
đói trên 30%. Ước tính tỷ lệ hộ nghèo ở các vùng như sau:
Tỷ lệ hộ nghèo

Vùng

(%)

Miền núi phía Bắc

53,03

Đồng Bắng Sông Hồng

6,5

Bắc Trung Bộ


18,25

Duyên Hải Miền Trung

14,49

Tây Ngyên

18,62

Đông Nam Bộ

1,7

Đồng Bằng sông Cửu Long

11,39
6


Đặc biệt, tỷ lệ hộ đói nghèo ở các xã miền núi,vùng sâu,vùng xa tỷ lệ này còn
cao hơn mức trung bình của cả nước:Bắc Trung Bộ 18,25;Tây Nguyên 18,62%; Miền
núi phía bắc 53,03%;Duyên Hải Miền Trung 14,49 %.[10]
2.1.3. Phương pháp tiếp cận và chỉ tiêu đánh giá
2.1.3.1. Phương pháp tiếp cận
Chuẩn nghèo là tiêu chuẩn để đo mức độ nghèo của các hộ dân, là căn cứ cho
các hỗ trợ về chính sách cho hộ đó. Trải qua hơn một nửa thế kỷ. Trên thế giới đã hình
thành ba phương pháp tiếp cận chủ yếu sau: Phương pháp dựa vào nhu cầu chi tiêu ;
phương pháp vào nhu cầu thu nhập thực tế; phương pháp dựa vào đánh giá của người
dân. Tromh ba phương pháp này 2 phương pháp đầu được sử dụng phổ biến.

2.1.3.2 Tiêu chí đánh giá hộ nghèo
* Chỉ tiêu thu nhập
Thu nhập bình quân theo đầu người là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh được
quy mô, trình độ phát triển kinh tế và mức sống của người dân trong một nước .
Hiện nay trên thế giới tồn tại hai phương pháp tính toán chủ yếu của WB.
WB phân ra làm 6 loại nước (là mức thu nhập năm 1990). Nước cực giàu
>25.000USD/người/năm. Nước giàu : 20.000-<25000 USD/người/năm. Nước khá giàu
:

10.000-<

20.000

USD/người/năm.

Nước

trung

bình

:

2.500-<

10.000

USD/năm/người. Nước nghèo : 500-<2.500/người/năm.Nước cực nghèo < 500
USD/người/năm.
Theo phương pháp định giá này, Việt Nam có thu nhập 1.064 USD năm 2009,

khoảng 1200 USD năm 2010 thuộc nhóm nước nghèo.
Tuy nhiên theo phương pháp trên, việc chuyên đổi thường bị sai lệch không
phản ánh được tính ngang bằng sức mua. Do đó từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX.
Liên hợp quốc (LHQ) đã đề ra phương pháp tính bình quân thu nhập mỗi nước theo
sức mua tương đương (PPP).
- Phương pháp sức mua tương đương (PPP)
Đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi so sánh chỉ tiêu thu nhập bình quân
giữa các nước, nhằm đưa ra chỉ tiêu định lượng so sánh các nước bằng cách đưa đồng
tiền của mỗi nước về đơn vị đo lường thống nhất USD.

7


WB sau nhiều cuộc điều tra trên toàn cầu đã đưa ra ngưỡng nghèo chung ( theo
PPP). Đối với các nước thu nhập thấp < 1 USD/người/ngày. Đối với các nước thu nhập
trung bình thấp:,<2 USD/người/ngày.
* Chỉ tiêu dinh dưỡng
Nhu cầu về dinh dưỡng là nhu cầu cơ bản và tối thiểu của con người để tồn tại,
hoạt động và tái tạo sức lao động. Chỉ tiêu cơ bản nhất về lượng dinh dưỡng đưa vào
cơ thể là lượng calo tiêu dùng hàng ngày. Để xây dựng ngưỡng nghèo cần phải xác
định nhu cầu tiêu dùng của toàn bộ dân số, Lượng dinh dưỡng 2.100 calo mà tổ chức
Y tế thế giới (WHO) dựa trên nhiều đánh giá kinh nghiệm.
Ngưỡng nghèo hay mức nghèo, là mức chi tiêu dùng tối thiểu được xác định
như số tiền chi cho tiêu dùng trong thời gian nhất định, và gồm một lượng tối thiểu
lương thực phẩm cá nhân cần thiết bảo đảm cuộc sống và sức khỏe người trưởng thành
và các khoản chi bắt buộc khác. WB xây dựng ngưỡng nghèo trên cơ sở xác định nhu
cầu tiêu dùng về lương thực của con người. Cụ thể là:
- Ngưỡng nghèo thứ nhất : là số tiền cần thiết để mua số lương thực. Lượng
lương thực này phải đảm bảo đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng đủ 2.100 calo cho mỗi
ngày( gồm 40 loại lương thực ), được gọi là nghèo lương thực.

- Ngưỡng thứ hai: Bao gồm chi tiêu cho sản phẩm lương thực và phi lương thực
Nghèo đói chịu tác động của nhiều nhân tố nên chưa thể coi 3 phương pháp trên
là căn cứ để xác định mức độ giàu nghèo của một quốc gia. Vì vậy LHQ đã sử dụng
chỉ số nghèo khổ của Human Poverty Indea (HPI) . Cách tính HPI dành cho các nước
đang phát triển – dựa vào các chỉ số phát triển con HDI.
Chỉ só HPI được tính theo công thức :
HPI=[1/3(P13+P23+P33)]1/3
Trong đó : P1 là xác suất những người không thọ quá 40 tuổi(
P2 Tỷ lệ người lớn mù chữ
P3 : Giá trị bình quân phi gia quyền của tỷ lệ người dân không
tiếp cận bền vững các nguồn nước sạch (1) và tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng (2).( Giá trị
bình quân phi gia quyền = ½ tỉ lệ (1)tỉ lệ (2))
Giá trị HPI càng cao thì mức độ nghèo khổ càng lớn và ngược lại. Giá trị HPI
của một nước nói lên rằng sự nghèo khổ của con người ảnh hưởng lên bao nhiêu phần
dân số nước đó
8


Hệ số GINI là thước đo được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu bất bình đẳng
về phân phối thu nhập, hệ số này lượng hóa được mức độ bất bình đẳng về phân phối
thu nhập, hệ số từ 0 đến 1. Hệ số này càng lớn mức độ bất bình đẳng càng cao[5].
2.1.4. Nguyên nhân nghèo đói ở Việt Nam
Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu vừa trải qua một cuộc chiến tranh
lâu dài và gian khổ, cơ sở hạ tầng bị tàn phá, ruộng đồng bị bỏ hoang, bom mìn, nguồn
nhân lực chính của các hộ gia đình bị sút giảm do mất mát trong chiến tranh, thương
tật, hoặc phải xa gia đình để tham gia chiến tranh, học tập cải tạo trong một thời gian
dài.
2.1.4.1. Chính sách nhà nước thất bại:
Sau khi thống nhất đất nước việc áp dụng chính sách tập thể hóa nông nghiệp,
cải tạo công thương nghiệp và chính sách giá lương tiền đã đem lại kết quả xấu cho

nền kinh tế vốn đã ốm yếu của Việt Nam làm suy kiệt toàn bộ nguồn lực của đất nước
và hộ gia đình ở nông thôn cũng như thành thị, lạm phát tăng cao có lúc lên đến 700%
năm.
Hình thức sở hữu: việc áp dụng chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước và tập
thể của các tư liệu sản xuất chủ yếu trong một thời gian dài đã làm thui chột động lực
sản xuất.
Việc huy động nguồn lực nông dân quá mức, ngăn sông cấm chợ đã làm cắt rời
sản xuất với thị trường, sản xuất nông nghiệp đơn điệu, công nghiệp thiếu hiệu quả,
thương nghiệp tư nhân lụi tàn, thương nghiệp quốc doanh thiếu hàng hàng hóa làm thu
nhập đa số bộ phận giảm sút trong khi dân số tăng cao.
Lao động dư thừa ở nông thôn không được khuyến khích ra thành thị lao động,
không được đào tạo để chuyển sang khu vực công nghiệp, chính sách quản lý bằng hộ
khẩu đã dùng biện pháp hành chính để ngăn cản nông dân di cư, nhập cư vào thành
phố.
Thất nghiệp tăng cao trong một thời gian dài trước thời kỳ đổi mới do nguồn
vốn đầu tư thấp và thiếu hệu quả vào các công trình thâm dụng vốn của Nhà nước.
2.1.4.2. Các nguyên nhân theo vùng địa lý
Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, cơ cấu sản xuất đa phần dựa vào nghề nông. Đa
số người nghèo sống bằng nghề nông nên dễ bị ảnh hưởng bởi thiên tai, điều kiện thời
tiết không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.
9


Bên cạnh đó, khả năng đối phó và khắc phục rủi ro này của người nghèo rất
kém do nguồn thu nhập thấp, bấp bênh và khả năng tích lũy kém nên họ khó có khả
năng chống chọi với những biến cố xảy ra trong cuộc sống (mất mùa, thiên tai, mất
nguồn lao động, mất sức khỏe,...). Với năng lực kinh tế mong manh của các hộ gia
đình nghèo trong khu vực nông thôn, những đột biến này sẽ tạo ra những bất ổn trong
cuộc sống của họ và tất nhiên người nghèo thì càng nghèo hơn.
Ngoài ra người nghèo chủ yếu sản xuất nông nghiệp năng suất thấp do không

có trình độ áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. khả năng nâng năng suất là rất khó
khăn trong khi do áp lực của đô thị hóa ngày càng mạnh, diện tích đất canh tác ngày
càng thu hẹp.
Những tác động của chính sách vĩ mô đến người nghèo chưa hợp lý, tỷ lệ đầu tư
cho nông nghiệp và nông thôn còn thấp. Việc phân phối lợi ích tăng trưởng trong các
nhóm dân cư gồm cả các nhóm thu nhập phụ thuộc vào đặc tính của tăng trưởng chưa
hợp lý. Thông thường, người giàu hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế nhiều hơn những
người nghèo và như vậy đã làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo giữa nội thành và
ngoại thành là điều khó tránh khỏi.
2.4.1.3. Các nguyên nhân từ cộng đồng:
Công việc của phụ nữ thường là ở nhà. Họ có ít thời gian để tiếp xúc với xã hội.
Hộ nghèo có chủ hộ là nữ cảm thấy rất xa lạ với những quyết định có liên quan tới
chính bản thân họ.
Sự bất bình đẳng giữa các dân tộc vẫn còn tồn tại. Những nhóm dân tộc thiểu số
nghèo hơn rất nhiều so với đa số người Kinh.
2.4.1.4. Các nguyên nhân về mặt nhân khẩu học:
Đông con vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của nghèo đói. Tỷ lệ sinh con trong
các hộ gia đình nghèo và khu vực nông thôn thường là rất cao. Mức độ hiểu biết của
các cặp vợ chồng nghèo về vệ sinh, an toàn tình dục, cũng như mối liên hệ giữa tình
trạng nghèo đói, sức khỏe sinh sản và gia tăng nhân khẩu còn hạn chế. Dân số tăng
nhanh, quy mô gia đình nhiều con ở khu vực ngoại thành là áp lực lớn đối với vấn đề
giải quyết việc làm và xóa đói giảm nghèo đồng thời tỷ lệ người ăn theo cao trong các
hộ nghèo chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói của họ. Tỉ lệ phụ thuộc
còn cao. (54%) (Nguồn: TCTK. Điều tra biến động DS-KHHGĐ 2005-2007).

10


Thành kiến về vai trò của người phụ nữ còn tương đối khắc khe. Những hộ có
chủ hộ là nữ có nhiều khả năng rơi vào cảnh nghèo hơn so với chủ hộ là nam giới.Trẻ

em gái ít được đi học hơn , nếu có cũng ít được đi học cao. Phụ nữ thường phải nhận
mức lương thấp hơn nam giới ở cùng một công việc và ít được tham gia vào các công
việc điều hành quan trọng. Chẳng may trong trường hợp mất đi người chồng, người
phụ nữ thường thiếu khả năng chống chọi nên dễ rơi vào đói nghèo.
2.4.1.5. Các nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế hộ gia đình
Tính ổn định và liên tục của nguồn thu nhập còn hạn chế nhất là trong khu vực
nông thôn do phải chịu nhiều rủi ro không lường trước được như thiên tai, dịch bệnh,
sâu bọ hay giá nông sản thấp.
Những người nghèo là những người thường có trình độ học vấn thấp, ít có cơ
hội kiếm được việc làm tốt và ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ đủ để đảm
bảo cho nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu và do vậy không có điều kiện nâng cao trình độ
của mình trong tương lai để thoát nghèo.
Trình độ học vấn thấp làm hạn chế khả năng kiếm việc làm trong các khu vực
khác, trong các ngành phi nông nghiệp, những công việc mang lại thu nhập cao và ổn
định. Các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu đô thị mới ngày càng phát triển ở khu
vực ngoại thành là cơ hội cho người dân sống nơi đây nhưng đồng thời đây cũng là
thách thức lớn đối với người nghèo, bởi lẽ do trình độ học vấn thấp họ khó có thể tìm
được việc làm tốt hơn trong các khu công nghiệp, khu chế xuất. Nếu tìm được chỗ làm
cũng chỉ là lao động phổ thông.
Người nghèo thường thiếu nhiều nguồn lực, họ bị rơi vào vòng luẩn quẩn của
sự nghèo đói và thiếu nguồn lực. Người nghèo có khả năng tiếp tục nghèo vì họ không
thể đầu tư vào nguồn nhân lực của họ, đồng thời nguồn vốn nhân lực thấp lại cản trở
họ thoát khỏi nghèo đói. Thông thường họ lựa chọn phương án sản xuất tự cung, tự
cấp, họ vẫn giữ các phương thức sản xuất truyền thống với giá trị kinh tế thấp, thiếu cơ
hội thực hiện các phương án sản xuất mang lợi nhuận cao, giá trị sản phẩm và năng
suất các loại cây trồng, vật nuôi còn thấp, thiếu tính cạnh tranh trên thị trường. Xu
hướng này tất yếu dẫn tới một bộ phận không nhỏ nông dân sống ở các huyện ngoại
thành phải chuyển đổi nghề nghiệp, nhưng trên thực tế không phải nông dân nào cũng
biết cách thay đổi “phương thức sản xuất” của mình, tức là phải tăng năng suất trên
một đơn vị diện tích đất canh tác nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật nông nghiệp, chuyển

11


dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao,... Một số người khác sau khi nhận
được số tiền đền bù từ mảnh ruộng của mình trong các dự án quy hoạch không biết sử
dụng hoặc sử dụng không hiệu quả dẫn đến hệ quả là:
Thứ nhất, chỉ thoát được cảnh đói nghèo trong một thời gian ngắn.Thứ hai, khi
diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp không tìm được việc làm mới, thất nghiệp gia
tăng
Thứ ba, khi giá đất tăng lên do tác động của đô thị hóa, người nông dân bán đất ồ ạt,
nhiều ngôi nhà mới được xây dựng nhưng đó là những ngôi nhà của những người ở
nơi khác đến, đất canh tác cũng thu hẹp lại, vì vậy người nông dân khó có cơ hội để
duy trì hoạt động sản xuất nông nghiệp
Bên cạnh đó, đa số người nghèo chưa có nhiều cơ hội tiếp cận với các dịch vụ
sản xuất nông nghiệp như khuyến nông, khuyến ngư, bảo vệ động, thực vật; các yếu tố
đầu vào phục vụ cho sản xuất nông nghiệp như: điện, nước, giống cây trồng, vật nuôi,
phân bón… đã làm tăng chi phí tính trên một đơn vị giá trị sản phẩm. Một mặt, do
không có tài sản thế chấp, người nghèo phải dựa vào tín chấp với các khoản vay nhỏ,
hiệu quả thấp đã làm giảm khả năng hoàn trả vốn. Mặt khác, đa số người nghèo không
có kế hoạch sản xuất cụ thểhoặc sử dụng vốn vay không đúng mục đích, do vậy họ
khó có điều kiện tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước cũng như
các tổ chức tín dụng.
Ý chí vươn lên thoát nghèo của người dân còn thấp, vẫn tồn tại thái độ tiêu cực
với cuộc sống. Nhiều người không thật sự muốn làm ăn, quanh năm họ chỉ trông chờ
vào sự cứu trợ của chính quyền, thậm chí khi chưa đến mức bần cùng họ cũng không
thể hiện chút nỗ lực nào, ngược lại là tìm mọi cách để có tên trong sổ nghèo với hi
vọng được thụ hưởng một số quyền lợi cho không. Một số cá nhân khác do có vấn đề
tâm lý (làm ăn thất bại, gia đình đổ vỡ…) nên không thiết tha với cuộc sống và trở nên
rất tiêu cực (nghiện rượu, bài bạc…). Đây là những trường hợp rất khó để thoát nghèo
cho dù cá biện pháp chính sách có tốt đến đâu đi chăng nữa.


2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1.Thực trạng nghèo ở Việt Nam
Theo chuẩn đói nghèo của TCTK thì tỷ lệ hộ đói nghèo của Việt Nam đã giảm
mạnh từ 70% năm 1990 xuống còn 32% năm 2000 và dến năm 2002, tỷ lệ này chỉ còn
28,9%.So với mục tiêu giảm ½ tỷ lệ hộ nghèo đói giai đoạn 1990-2015 thì Việt Nam
12


đã về trước mục tiêu này và được cộng đồng quốc tế đánh giá là nước giảm tỷ lệ hộ
nghèo đói tốt nhất .Tuy nhiên Việt Nam là một trong những nước nghèo - đứng hàng
thứ 133/174 nước trên thế giới theo GDP bình quân đầu người.[3]
Theo chuẩn đói của Bộ LĐTBXH là hộ có thu nhập bình quân một người một
tháng ở vùng miền núi hải đảo,trung du,đồng bằng ,đô thị lần lượt dưới 55-70-90
nghìn đồng áp dụng cho thời kỳ 1996-2000 và dưới 80-100-150 nghìn đồng cho thời
kỳ 2001-2005 được thể hiện ở bảng 2.1[3].
Bảng 2.1. Tỷ lệ hộ nghèo đói theo tiêu chuẩn 2001-2005 của Bộ LĐTBXH, giai
đoạn 1996-2004
Đvt %
Các vùng

1996

1997

1998

1999

2000


2001

2002

2004

2005

- Đông Bắc

22,7

25,4

22,4

15,5

13,5

22,3

14,5

10,4

36,1

- Tây Bắc


27,2

25,4

22,4

15,5

13,5

33,9

21,8

14,9

62,3

- Đồng bằng sông Hồng

11

9,8

8,4

6,5

5,3


9,7

8,6

6,1

19,8

- Bắc Trung Bộ

30,8

27,8

24,6

20,2

16

25,6

17,0

13,2

39,7

- Duyên Hải miền Trung


23,1

24,4

17,8

15,9

11,2

22,3

13,2

9,6

23,3

- Tây Nguyên

29,4

27,8

25,6

15,7

13,1


24,9

19,4

11,0

52,2

- Đông Nam bộ

6,4

5,5

4,7

4

3,5

8,8

6,9

2,3

10,2

- ĐB sông Cửu Long


16,2

15,6

15,4

15,4

11,1

14,2

10,3

7,4

20,8

Cả nước

19,23

17,7

15,6

13

10


17,2

11,7

8,3

26,7

2.2.1.1. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh
Qua bảng 2.1 cho thấy tỷ lệ hộ đói nghèo ở nước ta giảm tử 19,23% năm 1996
xuống 10% năm 2000. Năm 2001, do thay đổi chuẩn nghèo nên cả nước có 2.8 triệu
hộ nghèo chiếm 17,2% tổng số hộ nghèo trong cả nước, đến cuối năm 2002, còn
11,7% giảm từ 2,8 triệu hộ xuống còn 1,97 triệu hộ. Tỷ lệ hộ nghèo đói măm 2004 tiếp
tục giảm chỉ còn 8,3 % trong đó vùng Đông Nam bộ có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất
(từ 9,6% năm 2002 còn 7,4 % năm 2004)[3]
2.2.1.2.Tốc độ giảm nghèo không đồng đều
Các vùng núi cao, vùng sâu vùng xa, có tỷ lệ đói nghèo khá cao. Có tới 64% số
hộ nghèo đói tập trung tại các vùng núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên và
13


Duyên Hải Miền Trung.Tỷ lệ hộ nghèo ở những vùng này cao gấp từ 1,7-2 lần so với
cả nước. Đó là những vùng tài nguyên thiên nhiên rất nghèo nàn , kiện tự nhiên khó
khăn…
Trong những năm gần đây tỷ lệ hộ nghèo đói ở nước ta được cải thiện nhưng
mức cải thiện ở nhóm người nghèo chậm hơn so với mức chung. Cụ thể là sự gia tăng
chênh lệch thu nhập giữa nhóm 20% giàu nhất và 20% nghèo nhất (từ 7,3 lần năm
1995 lên 9,1 lần năm 2002) cho thấy hố ngăn cách giữa giàu nghèo đang có xu hướng
ngày càng gia tăng.[3]

2.2.1.2. Kết quả giảm nghèo chưa bền vững
Nghèo đói ở nước ta phổ biến là trong những hộ có thu nhập thấp và bấp bênh.
Phần lớn thu nhập của người nghèo là từ nông nghiệp với điều kiện nguồn lực rất hạn
chế(đất đai, lao động..) 90% số nghèo đói nước ta sống ở nông thôn, trình độ tay nghề
thấp, ít có khả năng tiếp cận nguồn lực các nguồn lực trong sản xuất như vốn kỹ thuật,
công nghệ… không có điều kiện tiếp cận với công nghệ thông tin nên rất khó có khả
năng chuyển đổi việc làm sang các nghành nghề phi nông nghiệp để có thu nhập cao
hơn. Hiện vẫn còn một tỷ lệ khá lớn hộ gia đình nằm sát cận ngưỡng nghèo và nếu
gặp rủi ro hay sự thay đổi chính sách thì nguy cơ tái nghèo của nhóm này rất cao.[3].
2.2.1.3.Tốc độ giảm nghèo của các dân tộc thiểu số còn chậm .
Mặc dù số lượng hộ nghèo của các dân tộc thiểu số đã giảm nhưng tỷ lệ trong
tổng số hộ nghèo của cả nước vẫn tăng lên.
2.2.2. Kinh nghiệm công tác giảm nghèo của các nước trên thế giới
2.2.2.1. Giải quyết đói nghèo ở Hàn Quốc
Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, chính phủ Hàn Quốc không chú ý đến việc
phát triển nông nghiệp nông thôn mà đi vào tập trung phát triển ở các vùng đô thị, xây
dựng các khu công nghiệp tập trung ở các thành phố lớn, thế nhưng 60% dân số Hàn
Quốc sống ở khu vực nông thôn, cuộc sống nghèo đói, tuyệt đại đa số là tá điền, ruộng
đất tập trung vào sở hữu của giai cấp địa chủ, nhân dân sống trong cảnh nghèo đói tột
cùng. Từ đó gây ra làn sóng di dân tự do từ nông thôn vào thành thị để kiếm việc làm,
chính phủ không thể kiểm soát nổi, gây nên tình trạng mất ổn định chính trị -xã hội.
Để ổn định tình hình chính trị -xã hội, chính phủ Hàn Quốc buộc phải xem xét lại các
chính sách kinh tế -xã hội của mình, cuối cùng đã phải chú ý đến việc điều chỉnh các

14


chính sách về phát triển kinh tế -xã hội ở khu vực nông thôn và một chương trình phát
triển nông nghiệp nông thôn được ra đời gồm 4 nội dung cơ bản:
- Mở rộng hệ thống tín dụng nông thôn bằng cách tăng số tiền cho hộ nông dân vay.

- Nhà nước thu mua ngũ cốc của nông dân với giá cao.
- Thay giống lúa mới có năng suất cao.
- Khuyến khích xây dựng cộng đồng mới ở nông thôn bằng việc thành lập các HTX
sản xuất và các đội ngũ lao động để sửa chữa đường xá, cầu cống và nâng cấp nhà ở.
Với những nội dung này, chính phủ Hàn Quốc đã phần nào giúp nhân dâncó việc làm,
ổn định cuộc sống, giảm bớt tình trạng di dẩna các thành phố lớn dể kiếm việc làm.
chính sách này đã được thể hiện thông qua kế hoạch 10 năm cải tiến cơ cấu nông thôn
nhằm cải tiến cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp,
từng bước đưa nền kinh tế phát triển nhằm xoá đói giảm nghèo cho dân chúng ở khu
vực nông thôn.
Tóm lại: Hàn Quốc đã trở thành 1 nước công nghiệp phát triển nhưng chính phủ
vẫn coi trọng những chính sách có liên quan đến việc phát triển kinh tế nông nghiệp
nông thôn nhằm xoá đói giảm nghèo cho dân chúng ở khu vực nông thôn, có như vậy
mới xoá đói giảm nghèo cho nhân dân tạo thế ổn định và bền vững cho nền kinh tế .
2.2.2.2. Giải quyết đói nghèo ở Đài Loan
Đài Loan là một trong những nước công nghiệp mới (NIES), nhưng là 1 nước
thành công nhất về mô hình kết hợp chặt trẽ giữa phát triển công nghiệp với phát triển
kinh tế nông nghiệp nông thôn ( mặc dù Đài Loan không có các điều kiện thuận lợi
như một số nước trong khu vực) đó là chính phủ Đài Loan đã áp dụng thành công một
số chính sách về phát triển kinh tế -xã hội như:
- Đưa lại ruộng đất cho nông dân, tạo điều kiện hình thành các trang trại gia
đình với quy mô nhỏ, chủ yếu đi vào sản xuất nông phẩm theo hướng sản xuất hàng
hoá.
- Đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn,
mở mang thêm những nghành sản xuát kinh doanh ngoài nông nghiẹp cũng được phát
triển nhanh chóng, số trang trại vừa sản xuất nông nghiệp, vừa kinh doanh ngoài nông
nghiệp chiếm 91% số trang trại sản xuất thuần nông chiếm 90%. Việc tăng sản lượng
và tăng năng suất lao động ttrong nông nghiệp đến lượt nó lại tạo điều kiện cho các
nghành công nghiệp phát triển .
15



- Đầu tư cho kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để phát triển nông thôn.
Đài Loan rất coi trọng phát triển mạng lưới giao thông nông thôn cả về đường bộ,
đường sắt và đường thuỷ.
Trong nhiều thập kỷ qua, Đài Loan coi trọng việc phát triển giao thông nông
thôn đều khắp các miền, các vùng sâu vùng xa, công cuộc điện khí hoá nông thôn góp
phàn cải thiện điều kiện sản xuất, điều kiện sinh hoạt ở nông thôn. Chính quyền Đài
Loan cho xây dựng các cơ sở sản xuất công nghiệp ngay ở vùng nông thôn để thu hút
những lao đông nhàn rỗi của khu vực nông nghiệp, tăng thu nhập cho những người
nông dân nghèo, góp phần cho họ ổn định cuộc sống. Đài Loan áp dụng chế độ giáo
dục bắt buộc đối với những người trong độ tuổi, do đó trình độ học vấn của nhân dân
nông thôn được nâng lên đáng kể, cùng với trình độ dân trí được nâng lên và điều kiện
sống được cải thiện, Tỷ lệ tăng dân số đã giảm từ 3,2%/năm(1950) xuống còn
1,5%/năm(1985). Hệ thống y tế, chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân cũng được
quan tâm đầu tư thích đáng.
Ngoài Hàn Quốc, Đài Loan còn 1 số nước ASEAN cũng có những chương trình
phát triển kinh tế -xã hội bằng con đường kết hợp giữa những ngành công nghiệp mũi
nhọn với việc phát triển kinh tế nông thôn với mục đích xoá đói giảm nghèo trong dân
chúng nông thôn. Điều đặc trưng quan trọng của các nước ASEAN là ở chỗ những
nước này đều có nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, bước vào công nghiệp hoá có
nghĩa là vào lúc khởi đầu của quá trình công nghiệp hoá.Tất cả các nước ASEAN (trừ
Singapo) đều phải dựa vào sản xuất nông nghiệp, lấy phát triển nông nghiệp là một
trong những nguồn vốn cho phát triển công nghiệp, điền hình là những nước như Thái
Lan, InĐôNêXiA, Philipin và Malaxia. Tất cả những nước này phần lớn dân cư sống ở
khu vực nông thôn, đời sống kinh tế nghèo nàn lạc hậu, thu nhập chủ yếu từ sản xuất
nông nghiệp. Chính vì vậy mà chính phủ các nước này trong quá trình hoạch định các
chính sách kinh tế -xã hội họ đều rất chú trọng đến các chính sách nhằm phát triển
kinh tế nông nghiệp nông thôn , giành cho nông nghiệp nông thôn những ưu tiên cần
thiết về vốn đầu tư để tiến hành cuộc cách mạng xanh trong nông nghiệp.Tuy nhiên

khi bước vào giai đoạn 2 của quá trình công nghiệp hoá, tất cả các nước ASEAN đều
nhận thấy rằng không thể đi lên chỉ bằng con đường nông nghiệp mà phải đầu tư cho
các ngành công nghiệp, dịch vụ. Chính vì lẽ đó mà các chính sách về phát triển nông
nghiệp nông thôn cũng như các chương trình phát triển khác như chương trình xoá đói
16


giảm nghèo không được chú trọng như ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá.
Do vậy khoảng cách về thu nhập của những người giàu với những người nghèo là rất
lớn. Sự phân tầng xã hội là rõ rệt gây mất ổn định về tình hình chính trị xã hội , từ đó
làm mất ổn định trong phát triển kinh tế .
Sự phồn vinh của Băng Cốc, Manila được xây dựng trên nghèo khổ của các
vùng nông thôn như ở vùng đông bắc Thái Lan, ở miền trung đảo Ludon. Cho đến nay
sự bất bình đẳng về thu nhập ở Thái Lan vẫn tiếp tục gia tăng, các thành phố lớn, các
khu công nghiệp vẫn có tỷ lệ tăng trưởng cao, năm 1981 Bangkoc đóng góp 42%
GDP, đến năm 1989 lên tới 48% cho GDP trong khi đó phần đóng góp cho GDP ở các
vùng khác lại giảm xuống như ở miền bắc và miền nam Thái lan phần đóng góp đã
giảm xuống từ 14,7% năm 1981 xuống còn 10% năm 1989.
Ở Malaixia chính phủ đã thực hiện chính sách phân phối lại trong nền kinh tế
quốc dân, nhưng việc phân phối lại thì lợi ích vẫn chủ yếu tập trung cho tầng lớp giàu
có, những người nghèo khổ đặc biệt là nông dân hầu như không được chia sẻ lợi ích
đó, khái niệm công bằng ở đây là sự công bằng giữa tầng lớp giàu có.
Vào năm 1985 ở Malayxia có tới 82.000 hộ gia đình ở khu vực nông thôn thuộc
diện nghèo đói.
Tình trạng nghèo khổ ở Philipin còn tồi tệ hơn, năm 1988 tỷ lệ nghèo đói ở
Philippin lên tới 49,5% dân số trong 3,1 triệu hộ gia đình đói nghèo thì tới 2,2 triệu gia
đình (72,8%) sống ở khu vực nông thôn, đời sống chủ yếu dựa vào nghề nông , còn
843.000 hộ (27,2%) sống ở khu vực phi nông nghiệp. Điều này cho thấy đa số những
người nghèo Philippin sống tập trung ở khu vực nông thôn.
Tình trạng nghèo khổ ở các nước ASEAN vẫn tiếp tục gia tăng, cùng với quá

trình tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này, điều này cho thấy do sự tăng trưởng
kinh tế không theo kịp sự tăng trưởng dân số, mặt khác là do quá trình chuyển dịch cơ
cấu sang những ngành sản xuất công nghệ cao của một số nước ASEAN hiện nay làm
cho nạn thất nghiệp ngày càng trầm trọng hơn. Để giải quyết tình trạng đói nghèo,
chính phủ các nước ASEAN có rất nhều cố gắng.
Chính phủ Inđônêxia trong kế hoạch 5 năm lần năm đã tăng chỉ tiêu cho các
hoạt động tạo ra những việc làm mới cho những người chưa có việc làm, nhằm tạo thu
nhập ổn định cho người lao động, góp phần tích cực cho công cuộc xoá đói giảm
nghèo cho nhân dân.
17


Ở Thái Lan, một trong những biện pháp chống nghèo khổ mà nước này đã áp
dụng là phân bố cơ sở sản xuất công nghiệp xây dựng mới về khu vực nông thôn, nơi
có sẵn tài nguyên thiên nhiên nhằm thu hút số lao động dôi dư ở khu vực nông nghiệp(
để khắc phục tình trạng dân lao động di cư vào thành phố kiếm việc làm) làm tăng thu
nhập cho người dân và gia đình họ. Biện pháp này còn nhằm mục đích đô thị hoá nông
thôn, đưa những vùng nông thôn hẻo lánh xa xôi vào dòng phát triển chung của đất
nước.
Những nỗ lực trong các giải pháp chống nghèo khổ của các nước ASEAN đã
đem lại những kết quả đáng kể, song để khắc phục tình trạng đói nghèo có tính lâu dài
bền vững thì chính phủ các nước này phải duy trì và đẩy mạnh nhịp độ tăng trưởng
kinh tế. Khi nền kinh tế phát triển tạo nên cơ sở vật chất để phân phối lại thu nhập qua
sự điều tiết của chính phủ và khi nền kinh tế phát triển thì tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế
được nâng cao, từ đó chính phủ đầu tư cho việc xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng
và giải quyết các vấn đề xã hội, nhất là chương trình xoá đói giảm nghèo một cách
hiệu quả nhất.
2.2.2.3. Giải quyết đói nghèo ở Trung Quốc
Ngay từ khi Đại Hội Đảng XII của Đảng cộng sản Trung Quốc năm 1984,
chính phủ Trung Quốc đã thực hiện cải cách trên nhiều lĩnh vực, nhưng cái chính là cải

cách cơ cấu nông nghiệp nông thôn. Mục đích của nó là làm thay đổi các quan hệ
chính trị, kinh tế ở nông thôn, giảm nhẹ gánh nặng về tài chính đã đè quá nặng lên
những người nghèo khổ ở nông thôn trong nhiều năm qua, phục hồi ngành sản xuất
nông nghiệp.
Năm 1985 Đặng Tiểu Bình đã nói:" Sự nghiệp của chúng ta sẽ không có ý
nghĩa gì nhiều nếu không có sự ổn định ở nông thôn..". Sau khi áp dụng một loạt các
chính sách cải cách kinh tế ở khu vực nông thôn, Trung Quốc đã thu được những
thành tựu đáng kể, đã tạo ra những thay đổi quan trọng trong thể chế chính trị , thay
đổi về căn bản về cơ cấu kinh tế nông thôn, chuyển đổi phương thức quản lý, thay đổi
căn bản phương thức phân phối, phân phối theo lao động đóng vai trò chính, và Trung
Quốc đã thực hiện thành công việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự điều
tiết cuả Nhà nước , thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Trong những năm Trung Quốc thực hiện chuyển hướng sang nền kinh tế thị
trường thì sự phân hoá giàu nghèo đã tăng lên rõ rệt trong xã hội .Do chính sách mở
18


×