BÀI TẬP CÁ NHÂN
Môn học: Quản trị hành vi tổ chức
CHỦ ĐỀ: BÁO CÁO VỀ TÍNH CÁCH VÀ CÁC HÀNH VI CƯ XỬ CỦA
BẢN THÂN
Đề bài:
Bạn hãy hoàn thành các bài tập Big 5 và MBTI. Sau đó hãy chuẩn bị một bài
báo cáo về tính cách bản thân cùng các hành vi cư xử của bạn (Số lượng từ: Tối
đa 2000 từ.). Báo cáo của bạn cần giải thích:
• Các bài tập đó giúp bạn hiểu gì về bản thân?
• Bạn có thể sử dụng các thông tin để định hướng cho các hành vi cư xử của bạn
trong tương lai như thế nào?
• Nêu những ví dụ về kết quả và hành vi cư xử của bạn giúp bạn xác định và giải
thích những hành vi đó như thế nào?
• Bạn hãy phân tích và giải thích hành vi cư xử của mình, sự giao tiếp của bạn với
người khác, các hoạt động yêu thích và thái độ của bạn đối với công việc qua
những kết quả từ bản điều tra thái độ, giá trị và tính cách.
Báo cáo:
I. HOÀN THÀNH CÁC BÀI TẬP BIG 5 VÀ MBTI.
BIG 5
Mười điểm ghi nhận tính cách cá nhân
Một số tính cách cá nhân (có thể đúng hoặc không đúng với bạn) được
liệt kê trong bảng dưới đây. Hãy đánh dấu vào các ô tương ứng bên cạnh mỗi
câu để thể hiện sự đồng ý hay không đồng ý của bạn với nó. Bạn nên đánh dấu
thể hiện sao cho các mức độ của mỗi tính cách phù hợp nhất với mình ngay cả
khi có một tính cách khác phù hợp hơn nó.
1 = Cực kỳ phản đối
2 = Rất phản đối
3 = Phản đối
4 = Trung lập
5 = Đồng ý
6 = Rất đồng ý
7 = Cực kỳ đồng ý
Tôi tự thấy mình
1
2
3
4
5
1. Hướng ngoại, nhiệt huyết
6
√
2. Chỉ trích, tranh luận
√
3. Đáng tin cậy, tự chủ
4. Lo lắng, dễ phiền muộn
√
√
5. Sẵn sàng trải nghiệm, một con
√
người phóng khoáng
6. Kín đáo, trầm lặng
√
7. Cảm thông, nồng ấm
8. Thiếu ngăn nắp, bất cẩn
√
√
9. Điềm tĩnh, cảm xúc ổn định
10. Nguyên tắc, ít sáng tạo
7
√
√
MBTI
Tính cách cá nhân – Bản đánh giá học viên bắt đầu ở đây:
Q1. Nguồn năng lượng định hướng tự nhiên nhất của bạn là gì? Mỗi con
người đều có hai mặt. Một mặt hướng ra thế giới bên ngoài của hành động,
của sự nhiệt tình, con người, và sự vật. Một mặt khác lại hướng vào thế giới
bên trong của suy nghĩ, mối quan tâm, sáng tạo và sự tưởng tượng.
Đây là hai mặt khác biệt nhưng không thể tách rời của bản chất con người, hầu
hết mọi người đều thiên về nguồn năng lượng của thế giới bên trong hay bên
ngoài một cách tự nhiên. Vì vậy một mặt nào đó của họ, có thể là Hướng
ngoại (E) hoặc Hướng nội (I), sẽ dẫn dắt sự phát triển tính cách và đóng vai
trò chủ đạo trong hành vi của họ.
Tính cách hướng ngoại
Tính cách hướng nội
Hành động trước, suy nghĩ/ suy
xét sau
Nghĩ/ suy xét trước, rồi mới
hành động
Cảm thấy chán nản khi bị cắt
mối giao tiếp với thế giới bên ngoài
Thường cởi mở và được khích
Thường cần một khoảng "thời
gian riêng tư" để tái tạo năng lượng
Được khích lệ từ bên trong, tâm
lệ bởi con người hay sự việc của thế hồn đôi khi như "đóng lại" với thế giới
giới bên ngoài
bên ngoài
Tận hưởng sự đa dạng và thay
đổi trong mối quan hệ con người
Chọn điều phù hợp
nhất:
Thích các mối quan hệ và giao
tiếp một – một
Hướng ngoại (E)
Hướng nội (I)
Q2. Cách lĩnh hội hoặc hiểu biết nào “tự động” hoặc tự nhiên?
Phần giác
quan (S) của bộ não chúng ta cảm nhận hình ảnh, âm thanh, mùi vị và tất cả các chi
tiết cảm nhận được của HIỆN TẠI. Nó phân loại, tổ chức, ghi nhận và lưu giữ các
chi tiết của thực tại. Nó dựa trên THỰC TẠI, giải quyết việc "là cái gì." Nó cung
cấp những chi tiết cụ thể của trí nhớ & và thu thập lại từ các sự kiện trong QUÁ
KHỨ. Phần Trực giác (N) của bộ não chúng ta tìm kiếm sự hiểu biết, diễn giải và
hình thành mô hình TỔNG QUÁT của các thông tin đã được thu thập, và ghi nhận
các mô hình và các mối quan hệ này. Nó suy đoán dựa trên CÁC KHẢ NĂNG,
bao gồm cả việc xem xét và dự đoán TƯƠNG LAI. Nó là quá trình hình tượng hóa
và quan niệm. Trong khi cả hai sự lĩnh hội đều cần thiết và được sử dụng bởi mọi
người, mỗi người chúng ta vẫn vô thức sử dụng một cách nhiều hơn cách kia.
Các đặc điểm giác quan
Các đặc điểm trực giác
Tinh thần sống với Hiện Tại,
chú ý tới các cơ hội hiện tại
Tinh thần sống với Tương Lai, chú ý
tới các cơ hội tương lai
Sử dụng các giác quan thông
Sử dụng trí tưởng tượng và tạo ra/
thường và tự động tìm kiếm các giải
khám phá các triển vọng mới là bản năng tự
pháp mang tính thực tiễn
nhiên
Tính gợi nhớ giàu chi tiết về
Tính gợi nhớ nhấn mạnh vào sự bố
thông tin và các sự kiện trong quá khứ trí, ngữ cảnh, và các mối liên kết
Ứng biến giỏi nhất từ các kinh
nghiệm trong quá khứ
Ứng biến giỏi nhất từ các hiểu biết
mang tính lý thuyết
Thích các thông tin rành mạch
Thoải mái với sự không cụ thể, dữ
và rõ ràng; không thích phải đoán khi
liệu không thống nhất và với việc đoán biết
thông tin "mù mờ"
ý nghĩa của nó
Chọn điều phù hợp
nhất:
Giác quan (S)
Trực giác (N)
Q3. Việc hình thành sự Phán xét và lựa chọn nào là tự nhiên nhất? Phần Lý trí
(T) của bộ não chúng ta phân tích thông tin một cách TÁCH BẠCH, khách quan. Nó
hoạt động dựa trên các nguyên tắc đáng tin cậy, rút ra và hình thành kết luận một cách
hệ thống. Nó là bản chất luận lý của chúng ta. Phần Cảm tính (F) của bộ não chúng ta
rút ra kết luận một cách CẢM TÍNH và chút nào đó hành xử mang tính thiếu công
minh, dựa vào sự thích/ không thích, ảnh hưởng tới những thứ khác và tính nhân bản
hay các giá trị thẩm mỹ. Đó là bản chất cảm tính của chúng ta. Trong khi mọi người
sử dụng hai phương tiện này để hình thành nên kết luận, mỗi chúng ta đều có xu
hướng thiên lệch về một cách nào đó vậy nên khi chúng hướng ta theo những hướng
đối lập nhau – sẽ chỉ có một cách được lựa chọn.
Các đặc điểm suy nghĩ
Các đặc điểm cảm tính
Tự động tìm kiếm thông tin
Tự động sử dụng các cảm xúc cá nhân và
và sự hợp lý trong một tình huống ảnh hưởng tới người khác trong một tình huống
cần quyết định
cần quyết định
Luôn phát hiện ra công việc
và nhiệm vụ cần phải hoàn thành.
Nhạy cảm một cách tự nhiên với nhu cầu
và phản ứng của con người.
Dễ dàng đưa ra các phân tích
giá trị và quan trọng
Tìm kiếm sự đồng thuận và ý kiến tập thể
một cách tự nhiên
Chấp nhận mâu thuẫn như
Không thoải mái với mâu thuẫn; có phản
một phần tự nhiên và bình thường ứng tiêu cực với sự không hòa hợp.
trong mối quan hệ của con người
Chọn điều phù hợp nhất:
Lý trí (T)
Cảm tính (F)
Q4. "Xu hướng hành xử của bạn" với thế giới bên ngoài thế nào? Mọi người đều
sử dụng cả hai quá trình đánh giá (suy nghĩ và cảm xúc) và lĩnh hội (ghi nhận và cảm
nhận) để chứa thông tin, tổ chức các ý kiến, ra các quyết định, hành động và thu xếp
cuộc sống của mình. Tuy vật chỉ một trong số chúng (Đánh giá hoặc Lĩnh hội) dường
như dẫn dắt mối quan hệ của chúng ta với thế giới bên ngoài . . . trong khi điều còn
lại làm chủ nội tâm. Phong cách Đánh giá (J) tiếp cận thế giới bên ngoài VỚI MỘT
KẾ HOẠCH và mục tiêu tổ chức lại những gì xung quanh, chuẩn bị kỹ càng, ra quyết
định và hướng tới sự chỉn chu, hoàn thành.
Phong cách Lĩnh hội (P) đón nhận thế giới bên ngoài NHƯ NÓ VỐN CÓ và sau đó
đón nhận và hòa hợp, mềm dẻo, kết thúc mở và đón nhận các cơ hội mới và thay đổi
kế hoạch.
Tính cách đánh giá
Tính cách lĩnh hội
Lập kế hoạch tỉ mỉ và cụ thể trước khi
hành động.
Thoải mái tiến hành công việc mà
không cần lập kế hoạch; vừa làm vừa tính.
Tập trung vào hành động hướng
Thích đa nhiệm, đa dạng, làm và
công việc; hoàn thành các phần quan trọng chơi kết hợp
trước khi tiến hành.
Thoải mái đón nhận áp lực về thời
Làm việc tốt nhất và tránh stress khi hạn; làm việc tốt nhất khi hạn chót tới
cách xa thời hạn cuối.
gần.
Sử dụng các mục tiêu, thời hạn và
chu trình chuẩn để quản lý cuộc sống.
Chọn điều phù hợp nhất:
Tránh sự ràng buộc gây ảnh hưởng
tới sự mềm dẻo, tự do và đa dạng.
Đánh giá (J)
Lĩnh hội (P)
Bốn chữ cái biểu hiện tính của tôi
E
S
T
J
II. BẢN BÁO CÁO CỦA HỌC VIÊN: Đinh Gia Dũng
Lớp: GaMBA01.M0809
Ở phương Tây có nhiều học thuyết khác nhau về nhân cách như thuyết
phân tâm của S. Phơrớt “cấu trúc nhân cách con người gồm: Cái ấy, cái tôi và
cái siêu tôi, tương ứng với vô thức, ý thức và siêu thức”, hoặc thuyết phát huy
bản ngã của A.Matxlâu, thuyết Nhu cầu tâm lý của H. Murây, thuyết Siêu đẳng
và bù trừ của A.Átlơ, thuyết Tương tác xã hội của G.Mít, thuyết Cái tôi của C.
Rôgơ, thuyết Trường tâm lý của K. Lêvin ... có xu hướng ngày càng phủ định
nguyên nhân sinh vật của sự thù địch giữa nhân cách và xã hội, nhấn mạnh đến
nhu cầu “nhân văn”của con người, đều cố gắng chứng minh khả năng phát triển
không ngừng của nhân cách, phát hiện những hiện tượng, những sự kiện phong
phú trong đời sống tâm lý thực tế của con người và chú ý đến tính đặc trưng và
tính cơ động của nhân cách.
Các nhà tư tưởng triết học phương Đông cổ đại cho rằng con người là tiểu
vũ trụ, mang những đặc tính của vũ trụ. Những đặc tính này chi phối sự phát
triển con người. Con người liên hệ với vũ trụ bao la nên con người cần biết
được các thông tin của vũ trụ. Thực thể con người là sản phẩm của nguyên lý
âm dương, vừa đối lập vừa thống nhất, chứa đựng và chuyển hoá lẫn nhau, trời đất - người hợp thành một: thiên - địa - nhân hợp nhất. Mạnh Tử nhận xét “Khi
phát triển hết mình, con người có thể biết trời mà còn hợp nhất với trời làm
một”. Tính cách của con người chịu ảnh hưởng của ngũ hành và chia ra: Kim,
Hoả, Thổ, Mộc, Thuỷ.
Ở Việt Nam theo tác giả Nguyễn Ngọc Bích trong cuốn Tâm lý học nhân
cách thì chưa có một định nghĩa nhân cách nào một cách chính thống. Tác giả
Nguyễn Quan Uẩn trong cuốn tâm lý học đại cương (NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội) đã nêu định nghĩa nhân cách như sau: “Nhân cách là tổ hợp những đặc
điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân, biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội
của con người. Nhân cách là sự tổng hoà không phải các đặc điểm cá thể của
con người mà chỉ là những đặc điểm quy định con người như là một thành viên
của xã hội, nói lên bộ mặt tâm lý - xã hội, giá trị và cốt cách làm người của mỗi
cá nhân”.
Mỗi con người đều có một tính cách cá nhân khác nhau, với mức độ cao
thấp khác nhau.
Qua thời gian học tập môn OB kết hợp với tra cứu tài liệu tham khảo và
gợi ý của Giảng viên, tôi đã nghiên cứu 10 điểm ghi nhận tính cách cá nhân
trong năm mảng lớn của nhân cách (Big5) - CANOE và 4 tính cách điển hình
trong phương pháp đánh giá Myers-Briggs (MBTI) trong 2 bài tập trắc nghiệm
để tự đánh giá tính cách cá nhân. Bản thân tôi cảm thấy rất khó khi đưa ra kết
quả cuối cùng, nhiều khi đứng trước một vấn đề, một công việc cần giải quyết,
con người tôi nảy sinh nhiều mẫu thuẫn, nhưng dù sao tôi cũng sẽ chọn những
điều phù hợp với bản thân tôi, bởi vì không ai có thể hiểu mình bằng chính con
người mình. Bài tập này đã giúp tôi tự đánh giá tính cách cá nhân của mình,
hiểu hơn nữa hành vi của mình trong các hoạt động mình đã trải qua và có
những định hướng có ích cho các hành vi trong tương lai. Tôi nhận thấy mình là
người có xu hướng hướng ngoại và nhiệt huyết với bạn bè, đồng nghiệp. Tuy có
lúc ngồi một mình suy nghĩ lại về những sự kiện đã trải qua và nghĩ rất nhiều về
tương lai sắp tới, phản ứng với nhưng điều sai trái, tranh luận để đưa ra luận
điểm của mình, cũng đôi khi tôi học được từ họ thật nhiều điều, nhưng không
hẳn là con người chỉ trích và tranh luận. Đặc biệt tôi rất thích sự đổi mới và
không ngừng học hỏi và sáng tạo; tôi luôn tự chủ trong công việc và làm chủ
cảm xúc của bản thân; Tôi luôn sống có nguyên tắc, nghiêm túc nhưng không
cứng nhắc, luôn phóng khoáng và sẵn sàng trải nghiệm trước bất kỳ hoàn cảnh
nào.
Hiểu bản thân tốt sẽ giúp tăng sự tự tin và tính khẳng định. Hiểu bản thân
tốt hơn cũng đồng nghĩa là có một công cụ hữu ích để kiểm soát bản thân mình.
Cũng giống như thương hiệu hàng hóa, xây dựng được một thương hiệu cá nhân
cho riêng mình là giúp phân biệt cá nhân mình với những người khác. Thương
hiệu cá nhân không chỉ đơn thuần là gây dựng một hình ảnh ra thế giới bên
ngoài mà nó còn là sự tự nhận thức về các điểm mạnh, điểm yếu, kỹ năng, cảm
xúc... cũng như cách sử dụng các yếu tố đó để tạo nên sự khác biệt cho bản thân
và định hướng cho các quyết định, các hành vi cư xử của cá nhân đó trong
tương lai. Chính vì vậy mà hành vi tổ chức (OB) là một lĩnh vực nhận được
nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trên thế giới trong nhiều năm qua,
đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi nhân tố con người nổi lên là yếu tố quyết
định cho sự tồn tại và phát triển của tổ chức thì nhu cầu hiểu biết về hành vi và
những kỹ năng con người trở thành một trong những nhân tố quyết định sự
thành công hay thất bại của nhà quản trị. Môn học OB đã giúp tôi hiểu hơn được
bản thân, giúp tôi cần có những điều chỉnh cho những hành vi trong tương lai để
xây dựng một thương hiệu cá nhân vững chắc và một khi đã tạo dựng được
thương hiệu cho riêng mình thì đó chính là một công cụ hữu hiệu giúp phân biệt
bạn với đồng nghiệp và các đối thủ cạnh tranh.
Ngạn ngữ Trung Quốc có câu “Biết người là trí, biết mình là sáng”. Thật
là sáng suốt khi mình biết rõ bản thân mình là người như thế nào, chẳng ai có
thể hiểu rõ tính cách, con người mình bằng chính bản thân mình. Bài tập này
giúp cho tôi một lần nữa khẳng định tôi có tính cách: Extroversion (Hướng
ngoại) - Sense (Giác quan) - Thinking (Lý trí) - Judging (Đánh giá).
E
S
T
J
Để đạt được mục đích đánh giá tính cách cá nhân của một con người cụ
thể cần xem xét và nhận định các thiên hướng rõ ràng, xem họ là người hướng
nội (I) hay hướng ngoại (E), chú trọng đến sự phản ảnh của các giác quan (S)
hay trực giác (N), xử sự theo cảm tính (F) hay lý trí (T) và điều quan trọng nữa
là xu hướng hành xử theo tính cách đánh giá (J) hay lĩnh hội (P).
1- “Mỗi con người đều có hai mặt, một mặt hướng ra thế giới bên ngoài
của hành động, của sự nhiệt tình, con người và sự vật. Mặt khác lại hướng vào
thế giới bên trong của suy nghĩ, mối quan tâm, sáng tạo và sự tưởng tượng. Đây
là hai mặt khác biệt nhưng không thể tách rời của bản chất con người. Hầu hết
mọi người đều thiên về nguồn năng lượng của thế giới bên trong hay bên ngoài
một cách tự nhiên, vì thế một mặt nào đó của họ có thể là hướng ngoại hoặc
hướng nội, sẽ dẫn dắt sự phát triển tính cách và đóng vai trò chủ đạo trong hành
vi của họ” (Tiêu chí 1 - Phần bài tập MBTI, tr 3).
“Đi một bước ra đường ta thấy khôn lên một chút và tự thấy trí óc mình
thật bé nhỏ vô cùng” (Leptonxtoi – Nga).
Tôi là người ham học hỏi có tính cách hướng ngoại, luôn cởi mở, thích
giao tiếp, chan hoà và quyết đoán; thích tụ tập, giao lưu, tìm kiếm những người
có cùng sở thích trong các câu lạc bộ, hội đoàn; thích chọn công việc có tiếp xúc
với nhiều người, thích làm việc ngoài văn phòng, xa bàn giấy, quan tâm, thích
thú từ hiệu quả thực tế của công việc, thường hành động nhanh, thường bực
mình khi công việc phải kéo dài. Đối với thế giới bên ngoài luôn luôn tràn ngập
tâm lý tìm hiểu tri thức, thích giao kết bạn bè.
Đôi khi tôi cũng cần một khoảng thời gian ngồi một mình để suy nghĩ về
những việc đã làm, sẽ làm, cảm nhận những cảm xúc thông qua sự thành công
hay hạnh phúc của mình.
Tôi cũng thường tranh luận để bảo vệ quan điểm của mình nhưng ít khi
chỉ trích người khác. Đôi khi cũng do lời nói thiếu cẩn trọng mà có lỗi với người
khác, nhưng người ta cũng thấy vì bản tính không xấu mà dễ dàng tha thứ.
Tôi luôn tự tin vào bản thân mình, tự chủ trong cuộc sống và công việc,
luôn sống có nguyên tắc, nghiêm túc, chín chắn, không phóng khoáng nhưng
sẵn sàng trải nghiệm trước bất kỳ hoàn cảnh nào, tôi là người biết cảm thông và
rất cẩn thận, ngăn nắp.
Trong thời gian đã qua, hiện tại và tương lai, so sánh với phần lý luận đã
được kiểm chứng, tôi nhận thấy với tính cách hướng ngoại nhiệt huyết mình là
gần là người trung lập. Tuy nhiên trong sự lựa chọn tính cách hướng ngoại (E),
hay hướng nội (I) thì tôi nhận thấy mình hướng ngoại (E) nhiều hơn.
2- “Phần giác quan (S) của bộ não chúng ta cảm nhận hình ảnh, âm
thanh, mùi vị và tất cả các chi tiết cảm nhận được của hiện tại. Phần trực giác
(N) của bộ não chúng ta tìm kiếm sự hiểu biết, diễn giải và hình thành mô hình
tổng quát các thông tin thu thập …. cả hai sự lĩnh hội đều cần thiết. Mỗi người
đều có một trong hai thiên hướng trên” (Tiêu chí 2 - Phần bài tập MBTI, tr 3).
“Giác quan là năm bộ phận của cơ thể con người và động vật có tác dụng
cảm nhận các kích thích của môi trường bên ngoài cơ thể. Các cơ quan này bao
gồm: Thị giác, Thính giác, Vị giác, Khứu giác, Xúc giác. Ngoài ra còn có một
giác quan nữa liên quan đến tâm linh và suy nghĩ mà người ta hay gọi là giác
quan thứ sáu: đó là trực giác”. (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
/>Hành vi của con người được điều chỉnh bởi tính cách của họ. Những
chuẩn mực và quan hệ xã hội của lối sống xác lập những định chuẩn tạo nên
tính cách. Đó là những mục tiêu tạo cơ sở để con người làm chủ xã hội, làm chủ
tự nhiên, làm chủ bản thân trong quá trình phát triển mọi mặt của tính cách.
Chính do sự hiểu biết và nhận thức đã tạo cho tôi có một cách nhìn rất thực tế,
luôn quan tâm đến các cơ hội hiện tại, sử dụng các giác quan thông thường và tự
động tìm kiếm các giải pháp mang tính thực tiễn, tôn trọng các kinh nghiệm và
thành quả trong quá khứ. Trong cuộc sống, trước một vấn đề, công việc cần giải
quyết để ra quyết định, tôi thường dựa vào kinh nghiệm mà tôi có được trong
quá khứ; sử dụng tối đa các giác quan thông thường và tự động tìm kiếm các
giải pháp mang tính thực tiễn, tôi thường sử dụng các thông tin rành mạch và rõ
ràng, tôi không thích phải phán đoán khi thông tin còn mù mờ.
Nhưng đôi khi quá thận trọng tôi đã đánh mất nhiều cơ hội của mình. Tôi
nhận thấy rằng, trong cuộc sống cũng như trong công việc, nên giải quyết vấn
đề thật khéo léo, không nên quá cứng nhắc, không nên quá thận trọng mà đôi
khi cũng cần linh hoạt sử dụng trí tưởng tượng khám phá triển vọng và cơ hội
trong tương lai, ứng biến nhiều khi cũng nên căn cứ vào những hiểu biết lý
thuyết không nhất nhất theo những kinh nghiệm trong quá khứ sẽ dẫn đến thành
công hơn. Nhất là trong những tình huống cấp bách, buộc phải quyết định nhanh
chóng trước khi có thể thu thập và phân tích các dữ kiện liên quan, đôi khi tôi
phải dựa vào trực giác để ra quyết định.
Tuy nhiên tôi thiên về cách lĩnh hội hiểu biết “tự động” theo phản ảnh của
giác quan (S)
3- “Phần lý trí của bộ não chúng ta phân tích thông tin một cách tách
bạch, khách quan. Nó dựa trên các nguyên tắc đáng tin cậy. Rút ra và hình thành
kết luận một cách hệ thống. Nó là bản chất lý luận của chúng ta. Phần cảm tính
của bộ não rút ra kết luận một cách cảm tính, hành xử thường thiếu công minh.
Đó là bản chất tình cảm của chúng ta. Mỗi người đều có thiên lệch về một cách
nào đó” (Tiêu chí 3 - Phần bài tập MBTI, tr
Theo Carl Jung, ông là người đầu tiên nghiên cứu các loại tính cách ở
con người vào đầu thế kỷ XX: Mọi người hướng bản thân mình vào thế giới
theo một trong hai cách theo lý trí hoặc cảm tính. Theo lý trí (trội về suy nghĩ)
“sẽ là người mạnh mẽ về suy nghĩ logic và rõ ràng, đó là người có phương pháp
và có khả năng phân tích các vấn đề” (Tâm lý học Quản lý - NXB Chính trị
Quốc gia, tr 166).
Ngạn ngữ Ả rập có câu “Hỏi ý kiến người khác nhưng nên tin vào trí tuệ
của chính mình”, hay Goorky – Nga có nói “Phải có trí tuệ, dù là nhỏ bé cũng
được nhưng phải là của mình”. Trước khi ra quyết định tôi chủ động tìm kiếm
thông tin và sự hợp lý liên quan, tôi luôn lên kế hoạch cụ thể đến khi nào phải
hoàn thành và phải làm như thế nào; chấp nhận mâu thuẫn như một phần tự
nhiên và bình thường trong mối quan hệ của con người. Đối chiếu với phần lý
luận trên, tôi thấy mình có tính cách thuộc loại lý trí (T).
Do là người có tính chính trực đề cao tính cần cù, chịu khó, sự lười biếng ít
khi được thông cảm và với suy nghĩ và cách làm như vậy đôi khi đã làm tôi thất
bại và sau khi nghiên cứu và làm bài tập này, tôi cần phải điều chỉnh lại mình,
để đạt được hiệu quả như mong muốn cần phải biết kết hợp hài hoà giữa lý trí
và cảm tính.
4- “Mọi người đều sử dụng cả hai quá trình đánh giá (suy nghĩ và cảm
xúc) và lĩnh hội (ghi nhận và cảm nhận) để chứa thông tin, tổ chức các ý kiến, ra
các quyết định, hành động và thu xếp cuộc sống của mình. Tuy vậy chỉ một
trong số chúng (Đánh giá hoặc Lĩnh hội) dường như dẫn dắt mối quan hệ của
chúng ta với thế giới bên ngoài . . . trong khi điều còn lại làm chủ nội tâm.
Phong cách đánh giá (J) tiếp cận thế giới bên ngoài với một kế hoạch và mục
tiêu tổ chức lại những gì xung quanh, chuẩn bị kỹ càng, ra quyết định và hướng
tới sự chỉn chu, hoàn thành. Phong cách Lĩnh hội (P) đón nhận thế giới bên
ngoài như nó vốn có và sau đó đón nhận và hòa hợp, mềm dẻo, kết thúc mở và
đón nhận các cơ hội mới và thay đổi kế hoạch” (Tiêu chí 4 - Phần bài tập
MBTI, tr 5).
Trong hành vi cư xử, trong giao tiếp với người khác, trong các hoạt động
ưa thích và có thái độ rõ ràng đối với công việc. Tôi cũng luôn chú ý đến thời
hạn hoàn thành kế hoạch, chủ động làm việc khoa học, sử dụng các mục tiêu,
thời hạn và chu trình chuẩn để quản lý công việc và cuộc sống của mình, sắp
xếp và phân bổ thời gian hợp lý để thực hiện cân bằng giữa công việc và cuộc
sống. Do vậy trong công việc tôi luôn hoàn thành nhiệm vụ được giao cũng như
phân bổ thời gian hợp lý cho học tập không bị đảo lộn bởi công việc và các áp
lực ngoài xã hội.
Nhưng nhiều khi tôi cũng cảm thấy nếu thực hiện các kế hoạch một cách
quá nguyên tắc chuẩn bị sẵn thì bản thân mình như một cỗ máy, tự thấy mình
đánh mất đi tính sáng tạo trong công việc, đôi khi không tạo ra được hứng thú
trong công việc. Do vậy nhiều khi tôi cũng điều chỉnh lại hành vi và tác phong
làm việc của mình, tự tạo cho mình sự kết hợp giữa những kế hoạch sẵn có, đôi
khi có thể phá bỏ những quy tắc phát huy sự sáng tạo và kết hợp mềm dẻo thời
gian và các bước thực hiện công việc để đạt kết quả cuối cùng cao nhất.
Đúc kết từ lý luận và thực tiễn, tôi tự đánh giá mình có xu hướng ứng xử
với thế giới bên ngoài theo tính cách đánh giá (J).
* Định hướng các hành vi xử xự của bản thân
Hiện tại tôi đang có sự thay đổi trong vị trí làm việc. Tôi đã từ mội sinh
viên ra trường lập nghiệp cách đây gần 20 năm, từ những nấc thanh đầu tiên cho
sự nghiệp của mình, tôi đã đạt được những thành công nhất định và cũng không
ít lần nếm trải sự thất bại. Tôi đang đi những chặng đường đầu tiên trong sự
nghiệp của mình, để vươn tới thành công hơn nữa trong tương lai, tôi cần phải
có những định hướng cụ thể cho hành vi cá nhân trong tổ chức, trong gia đình
và xã hội sao cho hợp lý và hài hòa nhất, cụ thể:
Giá trị cá nhân: Trước hết phải hiểu rõ chính bản thân mình là người như
thế nào, điểm mạnh nào cần phát huy và điểm yếu nào khắc phục. Điều quan
trọng là phải hiểu chính bản thân mình, suy nghĩ đúng và hành động đúng.
Pascal có nói: “Tư tưởng tạo nên sự cao cả của con người”
Giá trị xã hội (đối với gia đình, bạn bè, xã hội): tôi luôn nhiệt tình, chân
thành và cởi mở, sẵn sàng chia sẻ những thuận lợi và khó khăn trong cuộc sống.
Cần có kế hoạch cụ thể cho công việc, tránh để công việc ảnh hưởng đến việc
học hành, sắp xếp thời gian để tham gia một số hoạt động xã hội, đó cũng là
cách để giảm stress đồng thời cũng là cơ hội tăng cường mối quan hệ giao lưu
với bên ngoài.
Giá trị nghề nghiệp: Công việc đối với tôi rất quan trọng nhưng không phải
là hàng đầu, nhưng đối với công việc tôi luôn tận tâm, ham học hỏi, vì đó là nơi
tôi được khẳng định vị trí của mình với xã hội, cũng là nơi tạo nên cho tôi
những mối quan hệ phong phú hơn. Trong công việc và cuộc sống, khi giải
quyết một vấn đề nào đó không nên quá cứng nhắc tuân theo một nguyên tắc
nào đó mà đôi khi cần kết hợp hài hòa giữa lý tính và cảm giác để đạt được kết
quả cao nhất. Đồng thời cần có những sáng tạo, không nên quá rập khuôn theo
một kế hoạch cứng nhắc nào cả sẽ tạo ra tâm lý thỏa mái và thực hiện công việc
thuận lợi hơn.
***
Môn học hành vi tổ chức đã giúp tôi phương pháp nhận định, đánh giá
chính xác hơn về tính cách của mình, hiểu sâu hơn về hành vi tổ chức, kiểm soát
được hành vi của bản thân từ đó định hướng những hành vi ứng xử của mình
trong tương lai sẽ giúp tôi đạt được những thành công của cá nhân góp phần vào
thành công chung của tổ chức. Đồng thời môn học đã giúp tôi nhận định đúng
đắn các vấn đề mà tôi đã, đang và sẽ đối mặt, giúp tôi làm việc một cách hiệu
quả hơn
Sau thời gian nghiên cứu, học tập và tham khảo tài liệu có liên quan đến
môn học OB, qua hai bài tập đánh giá tính cách cá nhân, được Giảng viên gợi ý,
chỉ dẫn. Tôi tự đánh giá về tính cách và hiểu rất rõ về bản thân mình trong quá
khứ, hiện tại và tương lai, hiểu rõ và có những điều chỉnh phù hợp hành vi cư xử
của mình trong giao tiếp với người khác, trong cuộc sống và trong công việc để
đem lại nhiều thành công trong cuộc sống và làm cho cuộc sống của mình có
ngày một có ý nghĩa hơn.