Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

cac bai thuoc đong y chua benh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.83 KB, 56 trang )

MỤC LỤC
1
1. Chữa sỏi mật bằng y học cổ truyền
Sỏi mật thường có các triệu chứng: đau bụng vùng hạ sườn phải, đau lên vai phải; sốt cao liên tục có rét run; vàng
da, có thể có ngứa; có thể có gan to, túi mật to... Sỏi mật có thể gây ra các biến chứng như: viêm túi mật cấp, viêm
màng bụng mật, viêm đường mật, túi mật tích nước, xơ gan ứ mật. Tây y điều trị sỏi mật bằng nội khoa, hoặc ngoại
khoa (phẫu thuật) - nếu đau dữ dội hoặc tái phát nhiều lần thì phẫu thuật cắt bỏ túi mật hoặc mổ ống mật chủ yếu lấy
hết sỏi và sau đó dẫn lưu.
Ngoài ra, sỏi mật có thể điều trị bằng y học cổ truyền. Tùy theo thể bệnh mà có những bài thuốc trị khác nhau,
chẳng hạn: Sỏi mật do can đởm khí trệ (triệu chứng: sườn phải đau quặn từng cơn, lan sau lưng lên vai, có sốt rét ở
mức độ nhẹ, miệng đắng không muốn ăn, buồn nôn hoặc nôn...) thì dùng bài thuốc gồm: sài hồ 6g, chỉ xác 9g, bạch
thược 9g, xuyên khung 6g, hương phụ 9g, cam thảo 3g, xuyên luyện tử 9g, diên hồ sách 9g, kim tiền thảo 30g. Còn sỏi
mật do can đởm thấp nhiệt (triệu chứng: sườn phải trướng đau kéo dài hoặc có cơn lan lên vai, sốt cao sợ rét, miệng
đắng họng khô, buồn nôn...) thì dùng bài thuốc gồm: kim tiền thảo 60g, nhân trần 15g, uất kim 9g, chỉ xác 9g, mộc
hương 9g, hổ tượng căn 9g, bồ công anh 30g, liên kiều 12g, diên hồ sách 9g, kê nội kim 6g. Sỏi mật do huyết ứ nhiệt
kết (triệu chứng: sườn phải nhói đau kéo dài nhiều ngày, sốt, rét, đêm nặng hơn, vùng đau có thể sờ thấy u cục, bụng
trướng, đại tiện táo...), thì dùng bài thuốc gồm: đào nhân, mang tiêu 9g (chiêu), diên hồ sách 9g sinh hoàng 9g (cho
sau) - mỗi thứ 9g, cam thảo 6g, nhân trần 12g, kim tiền thảo 30g. Sỏi mật do nhiệt độc nội thịnh (triệu chứng: bụng
sườn quặn đau trướng đầy, sốt cao rét run, đại tiện táo, tiểu tiện đỏ, ra nhiều mồ hôi, chất lưỡi đỏ sẫm...) thì dùng bài
thuốc: nhân trần 15g, sơn chi 9g, đại hoàng 6g, kim ngân hoa 9g, liên kiều 12g, đan bì 9g, xích thược 9g.
Các bài thuốc trên, sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Lương y Vũ Quốc Trung (Hà Nội)
2. Bài thuốc chữa bệnh suy nhược cơ thể
Đông y gọi bệnh suy nhược cơ thể là chứng hư lao, do lao động nặng trong thời gian dài, ăn uống kém chất dinh
dưỡng, do mắc bệnh cấp tính nặng nay đang bình phục, phụ nữ sau sinh nở và thời kỳ nuôi con. Một nguyên nhân nữa
là do bẩm sinh. Cơ thể suy yếu từ trong bào thai, quá trình phát triển cơ thể chậm chạp. Dù bất kỳ nguyên nhân nào dẫn
đến cơ thể suy nhược đều chung một điểm là có sự giảm sút về tinh thần, khí huyết, tân dịch, làm mất sự điều hòa công
năng của các tạng phủ. Xin giới thiệu những bài thuốc sau, tùy từng bệnh nhân suy nhược ở tạng nào, ta lựa chọn bài
thuốc cho thích hợp.
Khí hư: Chủ yếu thương tổn ở hai tạng phế và tỳ.
- Phế khí hư: Thường gặp ở những người bị suy hô hấp do viêm phế quản mạn, tâm phế mạn, giãn phế quản, giãn


phế nang. Bệnh nhân thở yếu, ho nhỏ tiếng, thở ngắn, thở gấp, tiếng nói nhỏ, người mệt vô lực, tự ra mồ hôi. Nét mặt
trắng bệch, gai rét sợ lạnh. Phương pháp điều trị chủ yếu là bổ phế khí, nâng cao thể trạng.
Bài thuốc: Đẳng sâm, hoàng kỳ, ngũ vị tử mỗi thứ 10g. Thục địa, tử uyển, tang bạch bì mỗi thứ 12g. Sắc uống
ngày một thang.
- Tỳ khí hư: hay gặp ở những người mệt mỏi sau lao động nặng, người bị rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy mạn do viêm
đại tràng mạn, đau dạ dày, mới ốm dậy. Người mệt mỏi ăn không thấy ngon, sôi bụng, ậm ạch khó tiêu, đi ngoài lỏng,
sút cân, chân tay lạnh, cơ nhẽo, chất lưỡi bệu, rêu lưỡi trắng, mạch chậm.
Bài thuốc: Đẳng sâm 16g, ý dĩ, bạch truật, hoài sơn, biển đậu, liên nhục mỗi thứ 12g, cát cánh, phục linh mỗi thứ
8g, trần bì, sa nhân mỗi thứ 6g. Ngày uống 20g, thuốc tán dạng bột.
Huyết hư: Chủ yếu thương tổn ở 2 tạng tâm và can
- Tâm huyết hư: Hay gặp ở người thiếu máu, phụ nữ sau sinh, người bệnh có triệu chứng hồi hộp, mất ngủ, đánh
trống ngực, hay quên, chóng mặt, hoa mắt, sắc mặt vàng, môi nhạt, lưỡi nhạt, mạch yếu.
Bài thuốc: Thục địa 16g, đương quy, bạch thược, xuyên khung, dạ giao đằng, mỗi thứ 12g, bá tử nhân, táo nhân,
phục linh mỗi thứ 8g. Sắc uống ngày một thang. Tác dụng dưỡng huyết an thần.
- Can huyết hư: Hay gặp ở người già xơ vữa động mạch, tăng huyết áp, phụ nữ sau sinh. Triệu chứng ù tai đau
đầu, mất ngủ, hoa mắt, chóng mặt.
Bài thuốc: Đẳng sâm 16g, hoàng kỳ, thục địa, bạch thược, đại táo mỗi thứ 12g, bạch truật, đương quy, xuyên
khung, viễn chí mỗi thứ 8g, cam thảo 6g. Sắc uống ngày một thang. Tác dụng bổ huyết dưỡng can.
Dương hư: Thường gặp ở hai tạng tỳ và thận
- Tỳ dương hư: Gặp ở những người hay rối loạn tiêu hóa, viêm đại tràng mạn, loét dạ dày và tiêu chảy mạn tính.
Trời lạnh hay đau bụng, đầy bụng, sợ gió, người lạnh, chân tay lạnh, lưỡi nhạt, rêu trắng, ăn kém, mạch trầm.
Bài thuốc: Hoài sơn 16g, hạt sen 12g, sa nhân, vỏ quýt, mạch nha, bán hạ, cây vú bò, mỗi thứ 8g. Sắc uống ngày
một thang để ôn trung kiện tỳ.
- Thận dương hư: Gặp ở người già, lão suy, thần kinh kém hưng phấn, hay đau lưng, đi tiểu đêm. Chân tay lạnh,
răng lung lay hay rụng, rêu lưỡi trắng, đi ngoài lỏng, mạch trầm trì.
2
Bài thuốc: Thục địa 16g, sơn thù, hoài sơn mỗi thứ 12g, trạch tả, đan bì, phục linh, phụ tử chế mỗi thứ 8g, nhục
quế 4g. Sắc uống nóng ngày một thang. Tác dụng ôn bổ thận dương.
Âm hư: Gồm phế, tâm, tỳ, can và thận âm hư.
- Phế âm hư: Những người bị viêm họng, viêm phế quản mạn tính, suy nhược do lao. Người gầy, ho khan, ho ra

máu, ra mồ hôi, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng.
Bài thuốc: Sa sâm 20g, hoài sơn 16g, mạch môn, thiên môn, thục địa mỗi thứ 12g, mạch nha, quy bản, tang bạch bì
đều 10g, trần bì 4g. Sắc uống ngày một thang. Tác dụng tư âm dưỡng phế.
- Tâm âm hư: Thường gặp ở những người thiếu máu, phụ nữ sau sinh, mất máu nhiều, ngủ kém hay mơ màng,
mộng mị, hồi hộp, hay quên, miệng khô, lưỡi đỏ, chân tay nóng, người nóng.
Bài thuốc: Kỷ tử, mạch môn, sa sâm, liên nhục mỗi thứ 12g. Long nhãn, tâm sen, táo nhân, đăng tâm mỗi thứ 8g,
sắc uống ngày một thang. Tác dụng an thần định trí.
- Can âm hư: Hay gặp ở phụ nữ mãn kinh, tăng huyết áp, xơ vữa động mạch ở người già. Người bồn chồn khó chịu,
hoa mắt, nhức đầu, chóng mặt, lưỡi khô, môi đỏ, mạch huyền.
Bài thuốc: Kỷ tử, hà thủ ô, thục địa, đỗ đen sao, sa sâm mỗi thứ 12g. Tang thầm, long nhãn, cúc hoa, mạch môn
mỗi thứ 8g. Sắc uống ngày một thang.
- Thận âm hư: Hay gặp ở người suy nhược thần kinh, tăng huyết áp, bệnh rối loạn chất tạo keo, sau khi mắc các
bệnh truyền nhiễm. Người hoa mắt, chóng mặt, đau lưng, mỏi gối, tai ù, miệng khô, lưỡi đỏ, vã mồ hôi.
Bài thuốc: Thục địa 16g, sơn thù, hoài sơn mỗi thứ 12g, trạch tả, đan bì, phục linh mỗi thứ 8g. Sắc uống ngày một
thang, uống nguội.
Bài thuốc trên chữa bệnh suy nhược cơ thể, nếu thấy mình có bệnh cần đến khám tại các cơ sở chữa bệnh của bác
sĩ đông y hay lương y gia truyền để được điều trị kịp thời và hiệu quả.
(Sức khoẻ và Đời sống)

3. Tỏi trộn mật ong
Dùng rượu tỏi có cảm giác bị xót bao tử có thể là do ảnh hưởng của rượu. Chứ tỏi có tác dụng làm lành vết thương,
tỏi cũng nóng, nhưng không đến mức làm xót bao tử. Dân gian còn có một cách khác dùng tỏi thay cho rượu tỏi đó là tỏi
trộn mật ong, được làm bằng cách: dùng tỏi còn tươi có tép nhỏ, xay nát rồi đem trộn với mật ong, cho vào trong chai
để dành dùng dần (mật ong có tác dụng bảo quản tỏi không hư). Dùng tỏi trộn mật ong, ngoài những tác dụng gần
giống như rượu tỏi: hỗ trợ tiêu hóa, tiêu diệt các loại vi khuẩn, các nấm gây bệnh (nhờ tỏi có một số tinh dầu, chất
kháng khuẩn, có tác dụng ức chế các loại vi khuẩn, các nấm gây bệnh), còn giúp kháng được một số gốc oxy hóa, các
yếu tố thuận lợi dẫn đến ung thư... Theo y học cổ truyền, tỏi có vị cay, tính ấm, có công dụng sát trùng, giải độc, hành
khí. Mật ong khi trộn với tỏi, ngoài công dụng bảo quản tỏi không hư, mật ong còn là chất bổ dưỡng cung cấp các
vitamin, giúp làm lành các vết loét bao tử. Người bình thường mỗi ngày dùng một muỗng mật ong cũng rất tốt, có thể
dùng riêng một mình mật ong, hoặc có thể pha với nước chanh để dùng. Nói thêm: dân gian còn có cách dùng mật ong

đánh với lòng đỏ trứng gà (trứng gà đã được kiểm dịch), đánh đến khi lòng đỏ trứng chuyển sang màu trắng hơi vàng
lợt (lúc này mật ong đã làm chín lòng trứng), xong rót bia vào và đánh đều lên sẽ có một thức uống rất thơm ngon và bổ
dưỡng.
Lương y Trần Duy Linh (TP.HCM)
4. Cây ớt chữa được nhiều bệnh
Ngoài giá trị kinh tế, cây ớt còn là cây thuốc có công dụng chữa bệnh. Sau đây là một số bài thuốc được lương y Lê
Ngọc Vân (Ninh Thuận) sưu tầm trong dân gian, chữa trị một số bệnh rất hiệu quả.
Bị trúng phong miệng cứng, lấy một nắm lá ớt chỉ thiên (loại ớt trái nhỏ, trái mọc ngược quay lên trời) thêm một ít
nước và muối ăn giã nhuyễn, vắt lấy nước nhỏ vào miệng, xác lá chà mạnh vào chân răng, người bệnh sẽ tỉnh lại. Chữa
rắn rết cắn: lá ớt giã nhỏ đắp vào vết thương, có tác dụng hút độc, đắp cho đến khi đưa đến bệnh viện điều trị. Chữa
bệnh vẩy nến: cạo một chén vỏ cây tre có thân màu vàng, một nắm lá ớt sao chín, 7 - 10 lá sống đời, thiên niên kiện
300 gam (có bán ở tiệm thuốc Đông y), cho cả bốn vị vào ấm, đổ 2,5 lít nước, nấu đậm uống thay nước hằng ngày,
uống liên tục trong 5 ngày, bệnh thuyên giảm, hết vẩy nến. Chữa bệnh chàm: một nắm lá ớt tươi, một muỗng mẻ chua
(mẻ ủ bằng cơm nguội dùng để nấu ăn) giã nhỏ, gói trong vải thưa, đắp lên vết chàm đã rửa sạch bằng nước muối, giữ
trong 12 giờ. Mỗi ngày đắp một lần, liên tục trong 10 ngày sẽ lành bệnh. Rễ cây ớt, cây chanh, cây xuyên tiêu (có bán ở
tiệm thuốc Đông y), mỗi thứ 15 gam, cho vào ấm, đổ hai chén nước, sắc còn nửa chén, ngày uống một lần, liên tục
trong một tuần sẽ chữa được chứng đau bụng kinh niên do rối loạn đại tràng chức năng.
Theo y học cổ truyền, trái ớt có vị cay, tính nóng, có công dụng trừ hàn, mạnh tỳ vị, giải độc, tiêu viêm, kích thích
tiêu hóa, dùng chữa các chứng lạnh bụng, cảm lạnh, đau nhức ngoài da, viêm nấm, kém ăn... Những người hay bị đau
lưng, đau khớp, mua 15 trái ớt chín, vài lá đu đủ, lá ngải cứu, giã nhỏ, sau đó đem ngâm rượu nồng độ cao, xoa bóp
thường xuyên vào chỗ đau nhức sẽ thuyên giảm được chứng bệnh.
Theo Thanh Niên
3
5. Rau dền: “Rau trường thọ”
Rau dền có vị hơi ngọt, tính mát. Theo đông y, rau dền có công hiệu thanh nhiệt lợi thấp (làm mát, khử nhiệt),
lương huyết chỉ huyết (mát máu, cầm máu), chỉ lỵ (chữa kiết). Thường dùng chữa các chứng kiết lỵ trắng và đỏ, bí đại
tiểu tiện, đau mắt đỏ, đau họng, chảy máu cam...
Rau dền chứa nhiều protid, lipid, glucid, nhiều vitamin và chất khoáng. Các protid chứa trong đó được cơ thể hấp thu
triệt để. Chất bêta-caroten trong dền hơn gấp 2 lần so với loại cà, cung cấp nhiều chất dinh dưỡng cho cơ thể, giúp ích
cho việc tăng cường cơ thể, nâng cao sức miễn dịch, nên được mệnh danh “rau trường thọ”.

Hàm lượng chất sắt trong rau dền nhiều hơn so với bó xôi, hàm lượng canxi gấp 3 lần, là “kẻ đứng đầu” của các loại
rau tươi. Điều quan trọng hơn là, trong rau dền không chứa acid oxalic; canxi và sắt trong dền sau khi đi vào cơ thể rất
dễ được tận dụng và hấp thu, vì vậy, rau dền thúc đẩy phát triển cơ thể cho trẻ, có giá trị dinh dưỡng cao, giúp xương
gãy mau liền.
Rau dền luộc: Có công hiệu khai vị trợ tiêu hóa, thích hợp dùng cho các chứng khẩu vị kém, bụng no đầy...
Món canh rau dền: Công hiệu thanh nhiệt giải độc, có tác dụng hỗ trợ điều trị cho người đau mắt đỏ, sưng đau hầu
họng do “hỏa bốc lên”. Món canh thanh nhạt tươi mát, thông đại tiểu tiện, là thức ăn lý tưởng cho người táo bón do
nhiệt.
Rau dền xào: Công hiệu bồi bổ, giúp tăng trưởng, rất thích hợp cho trẻ em.
Món cháo rau dền tía: Công hiệu thanh nhiệt chữa kiết, thích hợp dùng cho các chứng già yếu suy nhược, đại tiện
không thông, bệnh lỵ cấp tính, viêm ruột cấp tính... Thường dùng giúp bổ ích tì vị, mạnh cơ thể.
Tuy nhiên, do rau dền có tính mát, nên không thích hợp dùng cho người thể chất lạnh; tiêu lỏng và tiêu chảy mạn
tính (lâu ngày).
Theo NLĐ
6- 12 bài thuốc từ cây dâu
Việc vội vàng động phòng khi kinh nguyệt chưa dứt dễ sinh chứng toàn thân đau nhức như dùi đâm. Nên dùng lá
dâu già và lược gãy, nệm rách, tóc rối lượng bằng nhau, đem đốt tồn tính, tán nhỏ, mỗi lần uống 3 đồng cân (khoảng 12
g) với nước nóng thì khỏi.
Bổ huyết, dưỡng huyết
Phù tang chí bảo là một bài thuốc hay đã được đề cập đến trong nhiều y thư cổ. Uống ba tháng thì thân thể mọc
đầy mụn do sức thuốc đẩy ra; sau đó khắp mình sẽ tươi sáng, da dẻ mịn màng. Nếu uống liên tục nửa năm, khí lực trở
nên mạnh mẽ, bệnh tật dần dần tiêu tan. Trường kỳ uống mãi thì gân cốt rắn chắc, khí huyết dồi dào, rõ tai, sáng mắt,
tinh thần khoan khoái,
Tăng thêm tuổi thọ.
Chọn lá dâu non, hái lúc mặt trời mọc, rửa sạch bụi phấn, phơi nắng cho khô. Vừng đen phân nửa, xát tróc vỏ, đem
đồ chín “cửu chưng cửu sái” (có nghĩa là chín lần đồ, chín lần phơi), cùng lá dâu tán bột, có thể đem xay nhỏ, cho luyện
mật làm thành viên hoàn.
Cũng hai vị thuốc này, Tuệ Tĩnh còn dùng nấu với nước vo gạo để gội đầu, chỉ 7 lần mà tóc dài được vài “thước”!
Nếu đúng như vậy thì bài thuốc này có tác dụng kích thích mọc tóc.
Chữa thong manh, đau mắt

Tuệ Tĩnh cũng giới thiệu dùng chữa chứng thong manh bằng lá dâu tươi đem về giã nát, phơi khô, đốt thành than,
nấu lấy nước mà rửa mắt. Xưa có người thong manh đến 20 năm mà đã chữa khỏi bằng bài thuốc này.
Để chữa đau mắt gió hay chảy nước mắt: Lá dâu hái vào tháng chạp, hãm lấy nước mà rửa hàng ngày.
Chữa hen suyễn lâu ngày: Lá dâu già, lá thầu dầu già, trấu sao mật, các vị tán nhỏ, thắng mật làm viên bằng hạt
ngô đồng, mỗi lần uống một viên với nước sôi. Bài thuốc này được Tuệ Tĩnh cho là rất hay.
Chữa huyết áp cao: Lá dâu bánh tẻ một nắm nhỏ, cá diếc sống một con. Đem cá diếc bỏ vào châu pha nước muối
cho nhả hết nhớt, không mổ, để nguyên con đem luộc, gỡ lấy thịt nấu canh với lá dâu mà ăn.
Hoặc: Vỏ rễ dâu 15,5 g, sinh địa 9 g, hoài sơn (củ mài) 15,5 g, phục linh 6 g, mẫu đơn bì 9 g, tri mẫu 15,5 g, sa sâm
bắc 15,5 g, táo ta 10 g, mai rùa 10 g, thạch xương bồ 6 g, huyền sâm 15,5 g, đương quy 6 g, hà thủ ô đỏ 10 g, hoàng
cầm 6 g. Sắc uống ngày một thang. Uống liên tục 2-3 tháng.
4
Hoặc: Trai sông 50-100 g, lá dâu tươi 20 g thái nhỏ, nấm hương 20 g, hành củ khô 2-3 củ. Nấu cháo ăn hàng ngày,
có tác dụng hạ huyết áp tốt. Bài thuốc này thích hợp với người già bị tăng huyết áp và u xơ tiền liệt tuyến có các dấu
hiệu tiểu không thông, tiểu đêm, tiểu nhiều lần… Đặc biệt là người tăng huyết áp bị chứng “trên bảo dưới chẳng chịu
nghe” thì cũng nên dùng.
Tẩy sán: Lấy dao tre cạo lấy vỏ trắng ở cành dâu 3 nắm, nước 3 bát sắc lấy 1 bát. Tối hôm trước phải nhịn ăn, sáng
mai bụng đói thì uống, sán sẽ xuống hết. Uống 2-3 lần.
Chữa tiểu buốt, nước tiểu đục: Tổ bọ ngựa trên cây dâu, mỗi lần chỉ cần một cái nướng khô, tán nhỏ, uống với rượu
lúc đói, nặng thì uống 2-3 lần là khỏi. Chuyên trị chứng “cao lâm” tiểu buốt. Ngài tằm bỏ đầu, chân, cánh, sấy khô, tán
nhỏ, giã với cơm vo thành viên bằng hạt ngô đồng, uống với nước muối lúc đói, chữa được nước tiểu đục, trắng.
Chữa viêm họng: Mộc nhĩ cây dâu lấy vào ngày 5 tháng 5 âm lịch, thứ trắng như vẩy cá, giã nhỏ, lấy lụa bọc lại
thành viên, tẩm mật ngậm, có tác dụng chữa bệnh viêm họng.
Chữa viêm tuyến vú: Đọt dâu non một nắm, giã nhỏ đắp vào chỗ vú sưng, lấy giấy dấp nước đắp ngoài, khi khô lại
thay, hết viêm thì thôi.
Chữa thiếu máu, mất ngủ: Quả dâu chín ngâm với đường (hoặc mật ong), mỗi ngày pha nước uống. Uống liên tục
trong nhiều ngày càng tốt. Nếu mất ngủ, nên uống vào buổi tối trước khi đi ngủ.
Theo Sức Khỏe Đời Sống
7- 5 bài thuốc dân gian trị cảm mạo
Thời tiết thay đổi làm bạn dễ bị cảm mạo. Trị bệnh bằng thuốc tây đôi khi gây ra những tác dụng phụ không mong
muốn. Những bài thuốc trị cảm mạo có nguồn gốc từ thiên nhiên sau đây sẽ là giải pháp tốt nhất cho bạn.

1. Trà
Lấy 1 thìa cà phê nước cốt chanh, 1 thìa mật ong hoà với 200ml nước trà đặc ở nhiệt độ 80oC. Uống khi còn ấm.
Tác dụng: Nước trà ấm giúp các mạch máu được lưu thông, đẩy nhanh quá trình toát mồ hôi. Chanh giàu vitamin C,
là chất khử độc và sát trùng an toàn. Mật ong có chứa các loại men giúp hấp thụ các vitamin, khoáng chất và tăng
cướng quá trình trao đổi chất của cơ thể.
2. Cây mâm xôi
Lấy 100g quả mâm xôi tươi trộn với 50g mứt hoa quả rồi đun sôi với 500ml nước trong vòng 15 - 20phút. Dùng nước
này để uống.
Tác dụng: Trong thành phần của cây mâm xôi chứa rất nhiều vitamin C, aspirin tự nhiên và axit salixilic có tác dụng
giải nhiệt và hạ sốt. Các chất có trong mứt hoa quả làm ức chế sự phát triển của quá trình viêm nhiễm trong cơ thể.
3. Tỏi
Tỏi xay nhỏ, ép lấy nước, trộn với mật ong theo tỉ lệ 1:1. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 1-2 thìa cà phê.
Xay nhỏ 200g tỏi, đun sôi kỹ với 500ml nước trong vòng 15 - 20phút. Sau đó đổ ra cốc, đặt gần mũi và hít thật sâu.
Lưu ý: Tỏi giúp chống nghẹt mũi. Tuy nhiên tuyệt đối không được dùng nước ép từ tỏi nhỏ thẳng vào mũi. Lớp niêm
mạc phía trong mũi rất dễ bị bỏng.
Hãy nghiền nhỏ tỏi, gói lại bằng vải băng rồi đặt ở mỗi bên lỗ mũi từ 5-7 phút. Mũi bạn sẽ thông trở lại.
Tác dụng: Tỏi có chứa nhiều fitoxit - chất kháng sinh tự nhiên giúp khử trùng, tiêu độc.
4. Sữa
Hoà 4 - 5 thìa cà phê mật ong với 1lít sữa. Cho thêm vào hỗn hợp 1thìa vani, 1thìa rượu nho và 1 ít quế. Đun sôi hỗn
hợp từ 10 - 15 phút. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 100ml.
Tác dụng: các men vi sinh, axit amin có trong thành phần của sữa tốt cho hệ thần kinh, làm tăng cường khả năng
miễn dịch của cơ thể.
5. Ớt
Nhai 1/2 quả ớt đỏ, sau đó uống 50ml rượu trắng. Hoặc đổ 1 thìa cà phê ớt xay nhỏ vào 50ml rượu trắng rồi uống.
Tác dụng: Ớt đỏ giàu vitamin C, làm giãn và thông mạch. Rượu được xem như chất khử trùng, chứa axit amin, giúp
xoa dịu cảm giác cay nóng của ớt.
Tuy nhiên, không nên dùng phương pháp này cho trẻ em và những người mắc bệnh gan và tim mạch.
Theo Dân Trí
8- 5 bài thuốc Đông y chữa béo phì
5

Đông y có nhiều bài thuốc để chữa béo phì đơn thuần (không phải bệnh lý), mắc phải do chế độ ăn uống sinh hoạt
không hợp lý. Tuy nhiên, không có bài thuốc chung cho tất cả người béo, vì mỗi thể bệnh cần một bài thuốc riêng.
Béo phì được phân ra hai loại chính: Béo phì đơn thuần (simple obesity) và béo phì bệnh lý (pathological obesity).
Béo phì thông thường chủ yếu do năng lượng hấp thụ vào cơ thể vượt quá mức năng lượng tiêu hao gây nên.
Thông thường, khi chỉ số BMI vượt quá 30, đã loại trừ béo phì do một số bệnh nội tiết như Hội chứng Cushing
(lượng hoóc môn cortisosteroid trong cơ thể quá cao), suy tuyến giáp trạng, buồng trứng đa nang... thì đó là béo phì
đơn thuần.
Ngoài ra, bệnh còn được chia thành béo phì thể chất (do di truyền) và béo phì mắc phải (do sinh hoạt và ăn uống
không hợp lý).
Trong Đông y, béo phì đơn thuần, mắc phải thuộc phạm vi của các chứng đàm ẩm, thủy thũng và hư lao. Béo phì là
chứng bệnh thuộc loại hình "gốc hư ngọn thực", nghĩa là người to béo trong khi cơ thể suy yếu, hoạt động của tạng phủ
bị rối loạn. Nguyên nhân thường là: chức năng sinh lý suy giảm, đàm thấp ứ đọng; dạ dày nóng, chức năng tiêu hóa hấp
thụ suy yếu; âm dương mất cân bằng.
Thực tế lâm sàng cho thấy, để chữa khỏi chứng bệnh béo phì, đối với mỗi người cần có phép chữa và bài thuốc thích
hợp. Không thể sử dụng một loại thuốc giảm béo cho tất cả mọi người.
Những người béo phì đơn thuần, mắc phải có thể căn cứ vào những biểu hiện của bản thân mà chọn dùng một
trong các bài thuốc dưới đây:
1. Bổ khí hóa đàm thang
Phòng kỷ, bạch truật, sơn tra (sao cháy), đẳng sâm mỗi thứ 12 g; hoàng kỳ, phục linh mỗi thứ 15 g; trư linh, bán
hạ, lá sen mỗi thứ 9 g, trần bì 6 g. Nấu với 1.500 ml nước, còn 600 ml, chia 3 lần uống trong ngày. Uống liên tục 20
ngày, nghỉ 5 ngày rồi tiếp tục liệu trình khác. Thường sau 1 liệu trình bắt đầu có chuyển biến.
Bài thuốc này dùng cho người béo phì thuộc loại hình “Khí hư đàm tích” (chức năng sinh lý suy giảm, đàm thấp ứ
đọng). Thể bệnh này hay gặp ở sau độ tuổi trung niên, chức năng tiêu hóa và hô hấp đã suy giảm, khiến cho “đàm trọc”
(sản vật bệnh lý, mỡ dư thừa) tích đọng lại, thành ra béo phì.
Biểu hiện: Người béo phì, hễ hoạt động là thở hụt hơi, vã mồ hôi, da nhợt nhạt, tinh thần uể oải, người mệt mỏi,
thích ngủ, kém ăn, bụng ngực trướng đầy, đại tiện phân nhão hoặc tiêu chảy, thân thể nặng nề hoặc phù thũng; chất
lưỡi bệu, rêu lưỡi trắng.
2. Lợi thấp hóa đàm thang
Trần bì (vỏ quít để lâu ngày) 10 g, bán hạ 8 g, phục linh 16 g, xương bồ 8 g, viễn chí 6 g, trạch tả 12 g, đông qua bì
(vỏ bí đao) 20 g. Sắc uống thay nước trong ngày, liên tục 20 ngày, nghỉ 5 ngày lại tiếp tục liệu trình khác.

Bài thuốc áp dụng cho trường hợp béo phì thuộc loại hình “Đàm nhiệt tích trệ”, hay gặp ở những người ăn nhiều đồ
béo ngọt, uống nhiều rượu. Biểu hiện: Thân hình to béo, người nặng nề đuối sức, có thể kèm theo đầu choáng, mắt hoa,
ngực đầy tức, ngột ngạt khó chịu; phụ nữ bế kinh hoặc không thụ thai được, rêu lưỡi nhớt hoặc vàng nhớt.
3. Thanh vị thông phủ thang
Đại hoàng, bán hạ, thần khúc mỗi thứ 8 g; chỉ thực, trạch tả, sơn tra mỗi thứ 12 g; mạch nha 10 g, phục linh 16 g,
kê nội kim 6 g. Sắc uống thay nước trong ngày; uống theo từng liệu trình 20 ngày.
Bài thuốc có tác dụng trừ hỏa nhiệt ở phủ vị - dạ dày, kiện tỳ, trừ đàm thấp, chữa béo phì thuộc loại hình “vị nhiệt tỳ
hư” (dạ dày nóng, chức năng tiêu hóa hấp thụ suy yếu). Dạng bệnh này hay gặp ở thanh thiếu niên, phụ nữ có mang
hoặc phát phì sau khi sinh đẻ. Biểu hiện: Ăn nhiều, mau đói, miệng khát, uống nước nhiều, thân hình béo phì, mặt đỏ
tươi, tinh thần sung mãn, đại tiện bí kết, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng mỏng.
4. Thanh nhiệt hóa đàm thang
Hoàng liên 3 g, hoàng cầm, hậu phác, bán hạ, sơn chi tử mỗi thứ 9 g, thạch cao 15 g (sắc trước 30 phút), đại hoàng
5 g (cho vào sau, trước khi bắc thuốc ra 5 phút), cam thảo 5 g. Sắc uống thay nước trong ngày; uống theo từng liệu
trình 20 ngày.
Bài thuốc có tác dụng thanh nhiệt, làm tan đờm, chữa béo phì thể “đàm nhiệt nội trở” với những biểu hiện: Người
béo phì, da mặt bóng loáng như bôi mỡ, ăn rất khỏe, mau đói, sợ nóng, phiền táo, miệng đắng, họng khô, tiểu tiện vàng
sẻn hoặc đại tiện bí kết. Chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng mỏng.
5. Hóa tích thang
Đan sâm, xích thược mỗi thứ 15 g; đào nhân, lai phục tử, lá sen, hồng hoa, xuyên khung, diên hồ sách mỗi thứ 9 g,
thanh bì 6 g, trạch lan, trạch tả, phục linh mỗi thứ 12 g. Sắc uống thay nước trong ngày; uống theo từng liệu trình 20
ngày.
Bài thuốc có tác dụng chữa béo phì thuộc loại hình “đàm ứ nội tích”, với những biểu hiện: Người béo phì, hoạt động
một chút là mệt mỏi, thở dốc, dễ ra mồ hôi, đầu choáng váng, ngực bụng trướng đầy, mạng sườn căng tức, đau hoặc
nổi cục; chất lưỡi tối bệu, rêu lưỡi trắng mỏng hoặc nhớt.
Theo Tiền Phong
9. Chữa bệnh đổ mồ hôi chân tay bằng lá lốt
6
Có một cách chữa bệnh đổ mồ hôi chân tay không cần mổ và không mất tiền nhưng khá hiệu nghiệm.
Tôi bị bệnh ra mồ hôi chân tay từ thời tuổi trẻ. Đi tất buổi sáng, buổi chiều đã phải thay vì mùi hôi. Một người bạn dân
tộc Nùng đã mách tôi cách chữa bệnh. Nhưng hồi ấy tôi không để ý. Cách đây hơn 10 năm nhớ lại, tôi đã thử chữa. Thật

bất ngờ, một tuần sau khi dùng thuốc, bệnh của tôi đã thuyên giảm cơ bản.
Bài thuốc đơn giản như sau: nhổ những cây lá lốt lấy cả rễ, cắt bỏ phần ngọn rồi chặt thành từng khúc dài bằng hai
đốt ngón tay. Rửa thật sạch, đem phơi cho tái đi, sau đó đem sao vàng. Khi mẻ cây lá lốt sao chuyển sang màu vàng, đổ
xuống đám đất sạch cho nguội đi. Phương pháp này dân gian gọi là "hạ thổ" để lấy "âm dương".
Mỗi ngày, lấy một nắm lá lốt đã sao vàng ấy cho vào ấm đun sôi chừng 15 phút. Nước lá lốt này không nên đặc quá
hoặc loãng quá. Uống cả ngày như uống nước chè. Mỗi ngày một ấm thuốc, uống liên tục trong vòng 7 ngày. Sau khi
ngừng uống 4 đến 5 ngày tiếp tục uống thuốc thêm một tuần nữa chắc chắn bạn không còn phải khó chịu vì bệnh ra mồ
hôi chân tay nữa.
Nhiều năm qua, khi tiếp xúc với nhiều người, hễ bắt tay ai ướt mồ hôi tôi đều mách cho họ cách chữa. Rất nhiều
người đã khỏi bệnh khi chữa bằng phương pháp uống cây lá lốt như cách mà tôi trình bày ở trên. Riêng tôi, cứ sau 2
năm tôi lại dùng lại một đợt thuốc lá lốt cho "chắc ăn".
Tôi mong nhiều người sẽ chữa khỏi bệnh bằng phương pháp đơn giản này. Nếu bạn ở nông thôn thì chắc chắn sẽ
không tốn tiền vì cây lá lốt rất sẵn trong vườn nhà bạn. (Nếu có gì chưa rõ, bạn đọc có thể liên hệ tôi theo địa chỉ: số 5
Hòa Mã, Hà Nội, ĐT: 0913219865).
10. Lợi ích của trà thảo mộc
Các loại trà có nguồn gốc từ thảo mộc ngày càng trở thành đồ uống phổ biến với nhiều công dụng tốt cho sức khoẻ
của con người.
1. Trà cúc La Mã
Có tác dụng giảm chứng khó tiêu, giảm lo âu và căng thẳng hệ thần kinh nên rất tốt cho những người bị chứng mất
ngủ.
2. Trà hoa Lavender
Trà hoa Lavender thường được biết đến với tác dụng giúp cải thiện giấc ngủ, làm cơ thể thư giãn và sảng khoái.
3. Trà bạc hà
Trà bạc hà giúp giảm căng thẳng, hỗ trợ hệ tiêu hoá và có tác dụng hạ sốt do bị cảm lạnh hoặc cảm cúm.
Uống trà sau bữa ăn giúp hỗ trợ quá trình tiêu hoá, giảm đầy hơi và cảm giác buồn nôn, giảm các triệu chứng của
cảm lạnh và cảm cúm.
4. Trà hoa chanh
Trà từ hoa chanh giúp giảm stress và đau đầu, giảm căng thẳng hệ thần kinh nên tốt cho tinh thần và cải thiện giấc
ngủ.
5. Trà lá cây tầm ma

Giúp bồi bổ cho cơ thể vì trong thành phần có chứa nhiều vitamin và chất khoáng đặc biệt là chất sắt giúp giảm các
bệnh dị ứng.
6. Trà lá cây mâm xôi
Trà lá cây mâm xôi có tác dụng làm sạch nên rất hữu hiệu giúp sạch miệng, là nước súc miệng trị chứng viêm họng.
Không nên dùng loại trà này trong suốt thời gian đầu khi mang thai.
7. Trà hương thảo
Thường được uống khi bắt đầu một ngày mới hoặc khi năng lượng trong cơ thể thấp vì trà hương thảo có tác dụng
hữu hiệu giúp tăng cường năng lượng cho cơ thể, rất hiệu quả trong việc giảm đau đầu và chứng khó tiêu.
8. Trà hoa tầm xuân
Trà hoa tầm xuân giàu vitamin C nên rất hiệu quả với những người đang bị cảm lạnh hoặc cảm cúm, thêm ít nước
cốt chanh vào trà để có tác dụng tối ưu.
Theo BSGĐ
11. Bài thuốc chữa bệnh quai bị
7
Quai bị là một bệnh truyền nhiễm do virut gây ra, bệnh thường xảy ra vào mùa đông xuân khi tiết trời mưa, lạnh, độ
ẩm cao. Bệnh hay gặp ở trẻ em từ 5-10 tuổi, bệnh lây nhanh ở các lớp học, nhà trẻ mẫu giáo. Có khi người lớn cũng mắc
ở các vùng dân trí thấp, vệ sinh kém. Bệnh lây qua đường hô hấp khi tiếp xúc trực tiếp như nói chuyện, ho, hắt hơi, virut
khuyếch tán trong không khí nên dễ thành dịch. Theo quan niệm của Đông y cho rằng, đây là dịch độc xâm nhập vào cơ
thể qua mũi, miệng vào kinh thiếu dương, đi theo đởm kinh ra ngoài phát bệnh. Đởm và can có quan hệ biểu lý tạng
phủ, nên có các triệu chứng của can và kinh can kèm theo viêm tinh hoàn, sốt cao co giật... Chính vì vậy, nên khi bị quai
bị thường có biến chứng viêm tinh hoàn dẫn đến teo tinh hoàn và vô sinh sau này.
Triệu chứng của quai bị xuất hiện nhanh, rầm rộ. Sau một đêm ngủ, sáng ra đã thấy má sưng ở quai hàm, có thể
một hoặc hai bên cùng một lúc, sưng ngày càng to, rất nóng và đau, sờ thấy rắn, người có sốt, đau đầu, mệt mỏi, không
muốn ăn, nhai đau nên chỉ nuốt chửng. Môi khô, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, người háo nhiệt, khát nước nhiều. Bệnh kéo dài
từ 7-15 ngày có khi hơn. Trường hợp nặng còn sốt cao, mê sảng, viêm tuyến mang tai, viêm tinh hoàn, đau đầu dữ dội,
nôn thốc nôn tháo...
Phương pháp điều trị: Chống viêm, thanh nhiệt, giải độc, chỉ thống.
Bài 1: Sài đất 20g, bồ công anh 16g, kinh giới, kim ngân, thổ phục linh mỗi thứ 12g, chỉ xác 8g, cam thảo nam 8g,
bạc hà 6g. Sắc uống ngày một thang chia 3 lần.
Bài 2: Bồ công anh 16g, hạ khô thảo, kim ngân, sài hồ, mỗi thứ 12g, ngưu bàng tử, liên kiều, hoàng cầm mỗi thứ

8g. Sắc uống ngày một thang chia 3 lần.
Bài 3: Thạch cao 16g, ngưu bàng, cát căn mỗi thứ 12g, thăng ma, hoàng cầm, liên kiều, cát cánh, thiên hoa phấn
mỗi thứ 8g, cam thảo 4g. Sắc uống ngày một thang, chia 3 lần.
Nếu có viêm tinh hoàn dùng thêm hạt vải 12g, khổ luyện tử 8g.
Tại chỗ vùng mang tai dùng hạt gấc mài với dấm bôi vào chỗ viêm ngày 3-4 lần.
Để bệnh nhân nghỉ ngơi tuyệt đối, tránh đi lại nhiều đề phòng biến chứng. Ăn uống chất mềm, đủ dinh dưỡng để
bệnh mau chóng bình phục.
Khi có đau bụng dưới ở trẻ gái hoặc đau tinh hoàn ở trẻ trai cần dùng kháng sinh theo chỉ định của thầy thuốc.
Theo BS. Nguyễn Kim Lan SK&ĐS
12. Những bài thuốc từ vừng
Hạt vừng (còn gọi là mè) có 2 loại: vừng vàng và vừng đen, có tên khoa học là Sésamum indim D.C. Theo Đông y,
vừng có tác dụng ích gan (tăng cường chức năng gan), bổ thận, dưỡng huyết, nâng cao thể lực, nuôi dưỡng não tủy,
bền gân cốt, minh mục (làm sáng mắt), kéo dài tuổi thọ, tăng tiết sữa, làm vết thương mau lành, chống táo kết, trị
bỏng, chống loãng xương, đặc biệt là làm quên cảm giác đói, rất có lợi đối với người thừa cân (để điều trị béo phì).
Một số bài thuốc đơn giản từ hạt vừng:
- Làm thuốc bổ dưỡng: dùng dầu vừng từ 10 - 25 ml/ngày, dùng liên tục khoảng 30 - 40 ngày; hoặc dùng viên vừng
(thường dùng loại vừng đen): sao chín, giã nhỏ, dùng nước cơm nhào đều, viên thành từng viên nhỏ (bằng hạt đậu
xanh), sấy khô, ngày dùng từ 15 - 30 gr (hoặc tán thành bột và cũng dùng như trên).
- Lợi sữa: Phụ nữ sau sinh nếu ít sữa dùng vừng (vừng vàng hay đen đều được) sao cho chín, hoặc giã nát (thêm ít
muối để dễ ăn), hoặc để nguyên cả hạt, mỗi ngày ăn khoảng 50 gr (nếu để nguyên hạt cần nhai thật nhuyễn).
- Bị bỏng hoặc vết thương lâu lành: bôi dầu vừng lên vết thương (sau khi đã làm sạch vết thương), sau 5 - 7 ngày
vết thương sẽ lên da non và mau lành, có thể tránh được sẹo lồi.
- Trị cao huyết áp, bán thân bất toại (di chứng của tai biến mạch máu não), xơ vữa mạch máu...: Vừng đen đã sao
chín, dùng cùng với hà thủ ô, ngưu tất, liều lượng bằng nhau, số lượng không hạn chế, tán mịn, dùng nước cơm trộn
đều viên thành từng viên nhỏ, ngày dùng 30 - 40 gr (chia làm 3 lần: sáng, trưa, chiều), chiêu với nước ấm. Trị táo bón:
dầu vừng 40 - 60 ml/ngày (uống 1 lần) hoặc ăn vừng 50 gr/ngày.
Phong trào ăn gạo lứt muối mè lâu nay cũng xuất phát từ những tác dụng của gạo lứt và vừng như đã trình bày,
riêng về tác dụng của gạo lứt, chúng tôi sẽ đề cập trong một dịp khác.
Theo BSGĐ
13. Chữa ho gà băng đông y

8
Ho gà là bệnh nhiễm khuẩn, lây theo đường hô hấp, có thể gây dịch do vi khuẩn Bordetella pertissus, đôi khi do
Bordetella parapertissis gây nên. Ho gà rất hay lây. Nguồn bệnh là người bị ho gà lây truyền, nhất là ở thời kỳ viêm long,
bắt đầu có cơn ho, sau đó mức độ giảm dần.
Bệnh lây trực tiếp do các bụi nước bắn ra trong cơn ho. Sau khi mắc bệnh ho gà thì có khả năng miễn dịch bền
vững, nên rất ít khi mắc bệnh lần thứ hai.
Theo Đông y, nguyên nhân ho gà là do tạng phủ trẻ non yếu, bì phu cơ nhục không kín đáo, ngoài thì bị ngộ độc tà
thời khí xâm phạm, trong lại có đờm hỏa ẩn nấp, phế kinh bị bế tắc nên phế khí không thông sướng, nhân đó phát ho
từng cơn kịch liệt. Không chữa bệnh kịp thời thì bệnh dễ kiêm phát các chứng khác.
Các triệu chứng ho gà thường thấy: trẻ ho ngày nhẹ, đêm nặng; ho không kịp thở, không khóc được. Hoặc ho sặc từ
bụng dưới xốc lên, ho liên tiếp vài chục tiếng, nghỉ một tí lại ho; nặng nữa thì khi ho lại nôn mửa, căng tức 2 bên sườn,
nước mắt nước mũi chảy, lâu ngày không khỏi.
Thời gian nung bệnh từ 1-3 tuần. Bệnh diễn biến qua 3 thời kỳ, tùy từng thời kỳ mà dùng các bài thuốc thích hợp.
Thời kỳ đầu, cảm nhiễm phế hàn:
Triệu chứng: chảy nước mũi, ngạt mũi, ho liên tục, ngày nhẹ đêm nặng, rêu lưỡi trắng mỏng. Mạch phù khẩn. Phép
chữa: khu phong tán hàn chỉ khái.
Bài thuốc: Tử tô 12g, bách bộ 12g, lá dâu tằm 16g, trần bì 8g. Nước 300ml, sắc còn 100ml, chia uống 3 lần trong
ngày.
Hoặc bài “Tiểu thanh long thang”: Ma hoàng 4g, chích thảo 4g, bạch thược 6g, bán hạ chế 12g, quế chi 4g, ngũ vị tử
4g, tế tân 4g, can khương 4g. Nước 150ml, sắc còn 50ml chia uống 3 lần trong ngày.
- Nếu thiên về phế nhiệt: ho có đờm vàng, rêu lưỡi vàng. Mạch sác. Phép chữa: sơ biểu thanh nhiệt.
Bài thuốc: Kinh giới 6g, lá xương sông 10g, bạc hà 6g, lá chanh 8g, lá hẹ tươi 6g, bối mẫu 6g, rau má 12g, nghệ
vàng nướng 3 lát. Nước 300ml, sắc còn 100ml, ngày uống 3 lần.
Thời kỳ ho cơn: Vào cuối tuần thứ 2 sau khi phát bệnh: thời gian dài hay ngắn tùy bệnh nặng hay nhẹ. Nói chung từ
3-6 tuần, nặng có thể kéo dài vài tháng hoặc hơn. Lúc này ho sặc sụa, nhẹ thì một ngày ho 10 cơn, nặng thì 20 cơn. Lúc
ho mặt đỏ bừng, thè lưỡi, còng lưng, gân cổ kéo lên, mắt đỏ, nước mắt nước mũi trào ra, mu mắt sưng húp, ho liên tiếp
không nghỉ; cuối cùng thở sâu vào 1 cái thì đỡ ho. Trong khi thở vào nghe kêu như tiếng sáo hoặc như gà gáy, đến khi
ngừng tiếng kêu thì ho lại như trước. Về đêm cơn ho này càng nhiều hơn; ho chấn động gây chảy máu mũi đờm có dây
máu, chảy máu mắt, kết thành ban đỏ. Nếu ho kéo dài mãi, thân thể càng suy nhược, dễ phát sưng phổi, ho suyễn.
Đây là thể đàm nhiệt bế phế. Phép chữa: thanh nhiệt hóa đàm.

Bài thuốc:
Bài 1: Lá chanh 300g, địa liền 400g, vỏ rễ dâu (tẩm mật sao) 1.000g, rau sam 1.000g, tía tô 300g. Nước 6 lít, sắc
còn 2 lít, cho ít đường đủ ngọt. Cách dùng: trẻ từ 1-3 tuổi mỗi lần uống 15-20ml (1 thìa canh). Trẻ từ 3-5 tuổi mỗi lần
uống 2 thìa canh, ngày uống 3 lần.
Bài 2: “Ma hạnh gia vị”: Ma hoàng 6g, tiền hồ 12g, hạnh nhân 6g, cát cánh 12g, thạch cao 12g, trần bì 6g, cam thảo
4g, bối mẫu 6g. Nước 300ml, sắc còn 100ml, chia 3-4 lần uống trong ngày.
- Ho nặng không ngủ được, gia: Viễn chí 4g, câu đằng 8g.
- Đờm nhiều, gia: La bặc tử 8g, tô tử 8g.
- Nôn nhiều, gia: Trúc nhự 8g, bán hạ chế 8g, gừng tươi 2 lát.
- Ho ra máu, chảy máu mũi, gia: chi tử sao 8g, a giao 8g (sắc thuốc xong mới cho a giao).
Bài 3: “Tả bạch tán gia giảm”: Tang bạch bì 12g, địa cốt bì 12g, cam thảo 4g, sinh địa 12g, mạch môn 12g, cát cánh
8g, tri mẫu 8g, trúc nhự 8g, gừng tươi 2 lát. Sắc uống và gia giảm như bài trên.
Bài 4: “Lô tử hoàn”: Bắc hạnh nhân, sơn chi tử (sao đen), thạch cao, cáp phấn, thiên hoa phấn, mỗi vị 2 lạng (80g).
Ngưu bàng tử 120g, cam thảo 16g, ma hoàng 32g, thanh đại 40g. Tán bột hòa mật ong quyết nhuyễn làm viên bằng hạt
nhãn. Ngày uống 1-2 viên theo lứa tuổi. Dùng đăng tâm thảo (bấc đèn) và lá tre nấu nước để uống thuốc.
Bài 5: Dùng khi ho ra máu: Tang bạch bì 12g, cam thảo 4g, địa cốt bì 12g, chi tử (sao đen) 4g, trắc bá diệp (sao
đen) 4g, bồ hoàng (sao đen) 4g, a giao 4g (cho vào sau khi sắc xong thuốc). Nước 300ml, sắc còn 100ml, chia uống
ngày 3-4 lần.
Bài 6: Dung dịch tỏi: 50% nước cốt tỏi, 50% nước sôi hòa chung dùng. Trẻ trên 5 tuổi mỗi lần uống 10-20ml. Ngày
4 lần sau bữa ăn 45 phút. Trẻ dưới 5 tuổi giảm một nửa.
9
Bài 7: Mật gà sấy khô, tán mịn trộn một ít đường. Cách dùng: trẻ dưới 1 tuổi dùng 1 cái, chia 3 ngày, mỗi ngày uống
2 lần. Trẻ 1-2 tuổi dùng 1 cái, chia 2 ngày, mỗi ngày uống 2 lần. Trẻ 3-5 tuổi dùng 1 cái, uống trong 1 ngày, chia 2 lần.
Trẻ 5-10 tuổi, dùng 2 cái, uống trong 1 ngày, chia 2 lần.
Thời kỳ hồi phục: Phế khí hư hoặc phế âm hư.
Triệu chứng: Cơn ho giảm dần, số lần ho ít hơn, tiếng rít giảm dần đến hết, cơn ho yếu, thở ngắn, dễ ra mồ hôi,
khát nước, triều nhiệt, chất lưỡi đỏ. Phép chữa: tư dưỡng phế ấm, phế khí, kiện tỳ.
Bài thuốc: “Sa sâm mạch đông thang” gia giảm. Sa sâm 12g, thiên hoa phấn 12g, liên nhục 8g, mạch môn 12g, bạch
biển đậu 12g, trần bì 6g, tang bạch bì 12g, ý dĩ 12g, cam thảo 4g. Nước 300ml, sắc còn 100ml, chia uống 3 lần trong
ngày. Nếu sốt nhiều, mồm khô. Mạch tế sác, gia: địa cốt bì 12g, bối mẫu 8g, bạch thược 12g. Mồ hôi trộm gia: mẫu lệ

12g, lá dâu 12g; ăn kém, đầy bụng, gia: hậu phác, mạch nha đều 8g.
Cháo thuốc dân gian chữa bệnh ho gà
- Hạt dẻ, bí đao 50g, râu ngô 10g. Đun sôi lấy nước hòa đường phèn uống.
- Lấy 1 củ tỏi to, bóc vỏ, giã nát ngâm nước sôi 20 phút, rồi đun sôi 30 phút, pha mật ong, uống.
- Lấy 100g hồ đào, sao vàng uống với mật ong.
- Lấy 1 bộ gan gà ép lấy nước hòa với 15ml, nước đường. Trẻ dưới 1 tuổi uống mỗi lần 5ml. Trẻ 2-3 tuổi uống 8ml. 4
tuổi trở lên uống 15ml. Uống 2 lần trong ngày vào buổi sáng và tối, liên tục trong 3-5 ngày.
- Cháo nhị bì cam thảo: Vỏ rễ dâu 9g, địa cốt bì 9g, cam thảo bột 3g, gạo lứt 50g. Trước hết đun 3 vị trên với nước
vừa đủ, đun 30 phút, bỏ bã lấy nước rồi cho gạo lứt vào nấu cháo ăn.
- Cháo đậu cô ve, táo đỏ: Đậu cô ve 16g, táo đỏ 10 quả, gạo lứt 30g, đường phèn vừa đủ. Tất cả rửa sạch cho vào
nồi, nước vừa đủ nấu thành cháo loãng rồi cho đường phèn, ăn nóng.
- Nước cơm hòa xuyên bối, đường phèn: Khi nấu cơm sôi, múc lấy nước cơm đựng vào bát, cho xuyên bối mẫu 9g
và đường phèn 15g, hấp cách thủy (hoặc hấp trên cơm đang cạn). Uống ngày 2 lần sáng và tối.
- Nước cà rốt, táo tàu: Cà rốt 200g, rửa sạch thái lát cùng với 25g táo tàu, nước 1.200ml, đun cạn còn 400ml, cho
đường phèn vừa đủ, khuấy tan là được, uống 2 lần trong ngày. Day bấm mạch 2 huyệt ngư tế để thanh nhiệt tả phế,
giảm ho và 2 huyệt xích trạch để điều hòa và sơ thông phế khí khỏi ho, dễ thở.
Bài thuốc kinh nghiêm của lương y Thái Vạn...
Theo Lương y Minh Chánh/Sức Khỏe&Đời Sống
14. Chữa bệnh bằng hoa cúc bách nhật
Cúc bách nhật mọc hoang hoặc được trồng làm cảnh ở nhiều nơi. Trong dân gian, người ta thường thu hái hoa vào
mùa hè, phơi hoặc sấy khô rồi cất giữ để làm thuốc.
Theo y thư cổ, hoa cúc bách nhật vị ngọt, tính bình, có công dụng thanh can tán kết (làm mát tạng can và làm mất
hiện tượng kết tụ), minh mục (làm sáng mắt), chỉ khái định suyễn (làm ngừng ho hen); thường được dùng để chữa các
chứng bệnh như đầu phong (đau đầu do phong hỏa, khi đau khi không, có sự xúc động thì đau), mục thống (đau mắt),
khí suyễn khái thấu (ho hen), lỵ tật (bệnh kiết lỵ), bách nhật khái (ho gà), tiểu nhi kinh phong (trẻ em co giật), loa lịch
(lao hạch), sang dương (lở loét)... Một số cách dùng cụ thể như sau:
Đau đầu do phong hỏa: (1) Hoa cúc bách nhật 9g, mã tiên thảo 12g, sắc uống. (2) Hoa cúc bách nhật 6g, câu
đằng 6g, cương tàm 6g, cúc hoa 10g, sắc uống ngày 1 thang.
Tăng huyết áp: Hoa cúc bách nhật 15g, hạ khô thảo 30g, cúc hoa 15g, sắc uống hằng ngày.
Hội chứng tiền đình: Hoa cúc bách nhật 15g, cúc hoa 15g, mạch môn 10g, thạch hộc 10g, tang diệp 10g, sắc

uống ngày 1 thang.
Ho do ngoại cảm phong nhiệt: Hoa cúc bách nhật 20g, tỳ bà diệp 30g, bạc hà 10g, sắc uống ngày 1 thang.
Hen và viêm phế quản: (1) cụm hoa cúc bách nhật tươi hoặc 15-20g hoa khô sắc uống ngày 1 thang. (2) Hoa cúc
bách nhật trắng 20 bông, tỳ bà diệp 5 cái, sắc uống ngày 1 thang. (3) Hoa cúc bách nhật 30g, kim tiền thảo 30g, sắc
uống ngày 1 thang. (4) Hoa cúc bách nhật 6g, rễ cúc bách nhật 9g, sắc uống ngày 1 thang. (5) Hoa cúc bách nhật 15g,
nga bất thực thảo 30g, cam thảo dây 30g, sắc uống ngày 1 thang. (6) Hoa cúc bách nhật 10g, địa long 10g, tỳ bà diệp
10g, ma hoàng sao 6g, hạnh nhân 10g, sắc uống ngày 1 thang.
Ho gà: (1) Hoa cúc bách nhật 19g, nga bất thực thảo 15g, sắc kỹ lấy nước hòa thêm một chút đường phèn uống
ngày 1 thang. (2) Hoa cúc bách nhật 10g, bách bộ sao 15g, bối mẫu 6g, bạch cương tàm 10g, câu đằng 10g, sắc uống
ngày 1 thang.
Giảm thị lực: Hoa cúc bách nhật 10g, hạn liên thảo 10g, chử thực tử 10g, cam thảo 15g, sắc uống ngày 1 thang.
10
Kiết lỵ: (1) Hoa cúc bách nhật 10 cụm sắc kỹ lấy nước, hòa thêm một chút rượu vàng uống trong ngày. (2) Hoa cúc
bách nhật 15g, tần bì 15g, bạch thược 20g, mộc hương 6g, sắc uống ngày 1 thang.
Viêm đại tràng mạn tính thể lỏng: Hoa cúc bách nhật 15g, câu cốt diệp 30g, hoàng kinh tử 10g, sắc uống ngày
1 thang.
Đau mắt đỏ: Hoa cúc bách nhật 10g, cúc hoa 15g, tang diệp 15g, sắc uống thay trà trong ngày.
Tiểu tiện bất lợi: Hoa cúc bách nhật 9g sắc uống hằng ngày.
Trẻ em khóc dạ đề: Hoa cúc bách nhật tươi 5 cụm, thuyền thoái 3 cái, cúc hoa 3g, sắc uống ngày 1 thang.
Trẻ em trướng bụng: (1) Hoa cúc bách nhật khô 6-9g sắc uống ngày 1 thang. (2) Hoa cúc bách nhật 5g, lai phục
tử 6g, sắc uống ngày 1 thang.
Trẻ em kinh phong: (1) Hoa cúc bách nhật 10 cái, con cào cào khô 7 con, sắc uống ngày 1 thang. (2) Hoa cúc
bách nhật 6g sắc uống ngày 1 thang.
Trẻ em đi lỏng: Hoa cúc bách nhật 6g, bạch truật 12g, cát căn sao 12g, bạch linh 12g, xa tiền tử 10g, sắc uống
ngày 1 thang.
Viêm loét da: Hoa cúc bách nhật 15-30g, sắc uống hoặc nấu nước rửa hằng ngày.
Một công trình nghiên cứu của các nhà y học cổ truyền Trung Quốc đã dùng dịch 100% và 200% tiêm bắp thịt chế
từ cúc bách nhật để điều trị viêm phế quản mạn tính cho thấy: trên 120 bệnh nhân được tiêm dịch 200% mỗi ngày 1
lần, mỗi lần 2ml, 10 ngày là một liệu trình, sau 5 liệu trình đạt hiệu quả 93,3%; trên 125 bệnh nhân được tiêm dịch
100%, sau 4 liệu trình đạt hiệu quả 73,6%. Có tác giả còn dùng dịch tiêm cúc bách nhật 30% để thủy châm vào các

huyệt vị châm cứu như phế du, định suyễn, thiên đột, phong long, đản trung, mỗi huyệt tiêm 0,3ml để điều trị 40 ca hen
phế quản và viêm phế quản thể hen, đạt hiệu quả 70%. Cũng có tác giả dùng dưới dạng viên nén cúc bách nhật (mỗi
viên tương đương với 3,2g dược liệu sống), mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 2 viên, 10 ngày là một liệu trình, dùng liên tục
2 liệu trình, điều trị 500 bệnh nhân viêm phế quản mạn tính, đạt hiệu quả 77,1% và điều trị 174 bệnh nhân hen phế
quản, đạt hiệu quả 81,8%.
Theo Sức Khỏe&Đời Sống
15. Lá mơ trị kiết lị
Lá mơ tam thể còn gọi là mơ lông (vì cả hai mặt của lá đều có nhiều lông, rất mịn), mặt trên của lá có màu xanh,
mặt dưới có màu tim tím. Tên khoa học là Paederia tomentosa lour, là loại cây leo, mọc hoang ở mọi nơi (thường ở các
hàng rào). Có thể trồng bằng dây (lấy những đoạn dây ở gần gốc, dài khoảng 30 cm, vùi ở hàng rào). Chỉ trồng một lần,
có thể dùng nhiều năm. Ngoài việc dùng làm gia vị đối với các món ăn như thịt cầy, bê thui..., lá mơ còn là một vị thuốc
để trị một số bệnh hiệu quả.
Chứng kiết lỵ, viêm ruột mãn tính: Lá mơ tam thể: 50 -100g, rửa hay lau sạch lông, giã nhuyễn, trộn với 1 - 2 quả
trứng gà (cả lòng đỏ và lòng trắng), cho thêm 5 - 10g muối, trộn đều, xào hoặc cuộn vào lá chuối nướng cho đến khi có
mùi thơm. Mỗi ngày ăn 2 - 3 lần liên tục trong 7 - 10 ngày, rất công hiệu.
Chứng phong tê thấp (đau nhức xương khớp, luôn có cảm giác nặng nề, bứt rứt), dùng theo hai cách:
- Uống: lấy cả lá và dây, cắt nhỏ, mỗi đoạn chừng 1 - 2 cm, sao vàng. Mỗi lần dùng 50g, sắc với 200 ml, còn 100 ml,
chia đều, uống 3 lần trong ngày, liên tục 10 - 15 ngày.
- Dùng để xoa bóp: cũng dùng cả lá và thân: thái nhỏ, phơi khô, sao vàng, ngâm trong rượu (trên 40 độ) lắc đều
mỗi ngày. Xoa tại các vùng đau nhức.
Ngoài ra ở một số nước, người ta còn dùng nước sắc lá mơ để trị chứng bí tiểu tiện và sỏi thận, liều dùng cũng như
trên. Tuy nhiên điều này chưa được thử nghiệm ở Việt Nam.
Theo Bác sĩ gia đình
11
16. Chữa ngứa chân
Bài 1:
Chân ngứa, gãi nhiều nên sứt sát da thịt. Cách chữa: lá chè tươi 1 nắm, giã nát, hòa thêm ít nước, vắt lấy nước đặc,
rửa chân vài lần là hết.
Bài 2:
Chân ngứa, có khi ngứa cả đùi cả bắp, gãi nhiều sước da, chảy nước vàng. Cách chữa: cây kinh giới, 2 đồng cân (8

g), tán nhỏ hòa với nước cốt hành hương, xoa mỗi ngày vài ba lần, làm nhiều ngày sẽ khỏi.
Bài 3:
Trời mưa đi lại nơi nước bẩn, bị nước ăn chân, các ngón chân bị nứt, chảy nước vàng, gây đau và xót. Cách chữa:
dùng dầu tây (dầu lửa) nhỏ vào vài lần là hết. Hoặc lấy lá khế tươi giã nát với muối đắp vào, tuỳ theo nặng nhẹ, một vài
lần sẽ hết.
Bài 4:
Vì tiếp xúc với nước không sạch, chân tay hoặc cả người bị ngứa ngáy, gãi mãi không hết. Cách chữa: khế chín, 5-10
quả, nướng nóng, bóp nát lấy nước thoa vào chỗ ngứa, làm một vài lần là khỏi.
Theo TK
17. Trà dược phòng chống viêm khớp mùa lạnh
Tiết trời mưa phùn gió bấc lạnh lẽo là điều kiện thuận lợi cho bệnh lý viêm khớp phát sinh và phát triển, trong đó
phải kể đến các chứng bệnh thường gặp như hư xương sụn cột sống cổ, hư xương sụn cột sống thắt lưng, viêm quanh
khớp vai, viêm khớp dạng thấp, viêm thoái hóa khớp gối, viêm cột sống dính khớp... Khi bị các chứng bệnh này, việc
dùng các thuốc chống viêm, giảm đau và thực hành lý liệu pháp là hai vấn đề không thể thiếu trong thực tiễn lâm sàng
của y học hiện đại. Tuy nhiên, vì còn khá nhiều các tác dụng phụ nên những tân dược loại này không hẳn đã là chỗ dựa
đáng tin cậy của người bệnh.
Trong y học cổ truyền, các bệnh khớp nói chung đều thuộc phạm vi chứng tý, phát sinh do nhiều nguyên nhân,
trong đó phải kể đến 4 nhân tố chính là phong, hàn, thấp và nhiệt. Tùy theo từng mùa mà các nhân tố này giữ vai trò
chính phụ khác nhau, về mùa lạnh, phong, hàn và thấp là 3 nhân tố chủ đạo mà cổ nhân thường gọi là chứng phong hàn
thấp tý. Về mặt trị liệu, ngoài việc kê đơn bốc thuốc và châm cứu xoa bóp, người xưa còn sử dụng một chế phẩm rất
độc đáo được gọi là trà dược. Trong bài viết này xin được giới thiệu với độc giả một số công thức trà dược điển hình để
phòng chống viêm khớp về mùa lạnh.
Bài 1: Thổ ngưu tất (rễ cỏ xước) 30g, kê huyết đằng 30g. Hai vị tán vụn, hãm với nước sôi trong bình kín, sau 30
phút có thể dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: thanh nhiệt khứ thấp, hoạt huyết thư cân, dùng cho bệnh
viêm khớp có dấu hiệu sưng nóng. Trong bài, thổ ngưu tất vị đắng chua, tính bình, có công dụng hoạt huyết hóa ứ, trừ
thấp lợi niệu, thanh nhiệt giải độc; kê huyết đằng vị đắng, tính ấm, có công dụng hoạt huyết bổ huyết, thư cân hoạt lạc.
Nghiên cứu hiện đại cho thấy cả hai vị đều có tác dụng chống viêm khá tốt, riêng thổ ngưu tất đã có những công trình
nghiên cứu ứng dụng điều trị viêm họng và bệnh bạch hầu đạt hiệu quả cao.
Bài 2: Thổ phục linh 40g, uy linh tiên 30g, phòng kỷ 10g. Các vị tán vụn, mỗi ngày lấy 30g hãm với nước sôi trong
bình kín, sau 30 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: trừ thấp hoạt lạc, giải độc giảm đau, dùng

cho bệnh viêm khớp có triệu chứng đau cố định, tại chỗ nề nhẹ. Trong bài, thổ phục linh vị ngọt, tính bình, có công dụng
giải độc, trừ thấp, lợi quan tiết; uy linh tiên vị cay mặn, tính ấm, có công dụng trừ phong thấp, thông kinh lạc và giảm
đau; phòng kỷ vị cay đắng, tính lạnh, có công dụng trừ phong thấp, lợi niệu giảm đau. Nghiên cứu hiện đại đã chứng
minh cả 3 vị đều có tác dụng kháng khuẩn chống viêm, uy linh tiên và phòng kỷ còn có tác dụng giảm đau rất thích hợp
đối với việc trị liệu viêm khớp.
Bài 3: Sinh địa 50g, khương hoạt 30g, độc hoạt 30g, kê huyết đằng 40g, đương quy 30g, thiên ma 20g, ngưu tất
20g, tỳ giải 20g. Tất cả sấy khô tán vụn, mỗi ngày lấy 20 - 30g hãm với nước sôi trong bình kín, sau 30 phút thì dùng
được, uống thay trà trong ngày, người uống được rượu có thể pha thêm chút ít hoàng tửu thì càng tốt. Công dụng: khu
phong trừ thấp, hoạt huyết giảm đau, dùng cho bệnh viêm khớp lâu ngày, khí huyết suy nhược, các khớp có biểu hiện
viêm dính và biến dạng. Trong bài, sinh địa và đương quy có tác dụng tư âm bổ huyết; khương hoạt trừ phong thấp nửa
trên, độc hoạt trừ phong thấp nửa dưới cơ thể; ngưu tất và kê huyết đằng hoạt huyết bổ thận; tỳ giải thải thấp qua
đường tiết niệu. Nghiên cứu hiện đại đã chứng minh thiên ma, ngưu tất và độc hoạt đều có tác dụng chống viêm và
giảm đau rõ rệt.
Bài 4: Dâm dương hoắc 30g, uy linh tiên 30g, xuyên khung 30g, nhục quế 30g, ké đầu ngựa 30g. Tất cả tán vụn,
mỗi ngày lấy 30 - 40g hãm với nước sôi trong bình kín, sau 30 phút có thể dùng được, uống thay trà trong ngày, có thể
12
pha thêm một chút rượu thì càng tốt. Công dụng: tráng dương hoạt huyết, khứ phong trừ thấp, dùng cho chứng viêm
khớp giai đoạn muộn khi các khớp đã biến dạng, thể trạng suy yếu, toàn thân đau mỏi, sợ lạnh, tay chân lạnh... Trong
bài, dâm dương hoắc vị ngọt, tính ấm, có công dụng bổ thận tráng dương, khứ phong trừ thấp; nhục quế vị ngọt, tính
nóng, có công dụng bổ nguyên dương, ấm tỳ vị, trừ hàn, thông huyết mạch; xuyên khung hoạt huyết; uy linh tiên và ké
đầu ngựa trừ phong thấp. Nghiên cứu hiện đại đã chứng minh dâm dương hoắc có tác dụng chống viêm; xuyên khung,
nhục quế, uy linh tiên và ké đầu ngựa đều có khả năng giảm đau rõ rệt.
Bài 5: Hoàng kỳ sống 10g, quế chi 4,5g, bạch thược sao 7,5g, ngũ gia bì 6g, gừng tươi 2 lát. Các vị thái vụn hãm
với nước sôi trong bình kín, sau 20 phút có thể dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: bổ khí huyết, trừ
phong thấp, dùng cho chứng viêm khớp ở người suy nhược cơ thể, thiếu máu, các khớp đau nhưng không sưng nóng,
chườm nóng đỡ đau.
Nhìn chung, các phương trà dược nói trên đều rất đơn giản, dễ chế, dễ dùng, rẻ tiền và đạt hiệu quả ở một mức độ
nhất định. Có thể sử dụng để điều trị dự phòng, điều trị hỗ trợ các thuốc khác trong giai đoạn bệnh tái phát và điều trị
duy trì khi bệnh đã ổn định.
Sức khoẻ & đời sống

18. Công dụng của Tía tô
Nếu bị đau bụng đi ngoài, nôn mửa do ăn các loại thực phẩm như cua cá, có thể lấy một nắm lá tía tô giã lấy nước
cốt để uống. Nếu có ngứa, nổi mẩn (dị ứng) thì lấy bã đã sắc hoặc lá tươi xoa xát lên da.
Ngoài ra, có thể dùng bài "Tử tô giải độc thang" gồm lá tía tô 10 g, gừng tươi 8 g, sinh cam thảo 2 g. Nước 600 ml sắc
còn 200 ml, chia 2-3 lần trong ngày, uống nóng.
Để tránh rối loạn tiêu hóa, nên ăn kèm tía tô tươi trong bữa ăn có các loại thủy hải sản tanh lạnh. Không ăn lá tía tô
với cá chép vì có thể sinh nhọt.
Chữa táo bón ở người già suy nhược:
Hạt tía tô, hạt me lượng bằng nhau, giã nhuyễn cho nước lắng, lấy nước nấu
chín để uống. Hoặc hạt tía tô, hạt vừng đều 10 g, giã nhuyễn, cho nước để gạn lấy nước nấu cháo, dùng cả khi táo bón
do ung thư ruột.
Ngoài việc chữa các rối loạn ở đường tiêu hóa, tía tô còn có rất nhiều công dụng khác.
Giải cảm
Xông:
Lấy lá tía tô cùng các lá thơm khác tạo thành nồi lá xông và lau rửa. Nếu lá xông được rửa sạch kỹ thì có thể
lấy ra một bát để uống trước hay sau khi xông. Xông xong lau khô mồ hôi cả người, đắp chăn nằm nghỉ. Nhớ nước sôi
mới cho lá xông vào nồi - đậy kín và khi xông mở vung. Cần chú ý kẻo bỏng và chỉ xông cho người lớn ngồi trong chăn.
Thận trọng với người già yếu và trẻ em.
Cháo tía tô:
Nấu cháo gạo tẻ cho ra bát, trộn lá tía tô non thái chỉ. Ăn nóng, có thể thêm hành lá tươi thái nhỏ. Xông
xong nghỉ một lúc, dậy ăn bát cháo giải cảm này là phương pháp giải cảm lạnh dân gian rất có hiệu nghiệm.
Uống nước tía tô:
Tía tô tươi 15-20 g giã nát, chế nước sôi, gạn nước trong để uống. Hoặc lá tía tô khô hãm nước sôi
uống. Uống xong đi nằm đắp chăn. Hai cách này đều kém ra mồ hôi. Dùng cho trẻ em người già yếu.
Ngâm chân:
Dùng lượng lớn lá tía tô bỏ vào nồi nước đang sôi để sôi lại, đổ ra chậu, đậy bằng 1 cái rổ thưa, đặt 2
bàn chân lên xông. Khi nước nguội, cho 2 chân vào ngâm rửa… công hiệu vô cùng.
Chữa ho hen
Thương hàn, ho hen:
1 nắm lá tía tô nấu nước uống dần là dứt cơn hen suyễn (Thiên kim phương).

Người lớn hay có cơn hen:
Hạt tía tô 1 lạng, sao qua tán bột, đổ 2 bát nước vào quấy đều, lọc bỏ bã. Nấu cháo ăn
lúc đói.
Trẻ em ho nhiều thở gấp, mặt tím tái:
Hạt tía tô 20 g tán thành bột, hòa với nước đun sôi để còn âm ấm, lọc bỏ bã
cho uống. Cẩn thận hơn thì cho bột vào túi vải hãm vào nước sôi. Hoặc lấy bột này hòa vào cháo, hãm vào nước sôi
hoặc hòa vào nước cơm cho trẻ uống.
Ho do phế hư hoặc đàm trắng đục dính, nặng ngực:
Hạt tía tô 90 g sao thơm, tán bột, ngâm với 1 lít rượu gạo ngon
trong 10 hôm, chắt lấy nước trong bỏ bã. Uống mỗi lần 15-30 ml. Ngày uống 3 lần sáng, trưa, tối (nếu đàm vàng, cổ
khô, miệng khát, môi đỏ thì không dùng).
An thai
Động thai:
Sắc cành lá cây tía tô để uống. Hoặc sắc lấy nước nấu cháo để ăn.
13
Có thai sắp sinh bị phù:
Cành, lá tía tô 80 g, vỏ gừng tươi 30 g, cho 3 bát nước đun sôi kỹ (đậy vung kín) lấy nước
uống và xông. Công thức này cũng có tác dụng an thai.
Có thai cảm sốt:
Lá tía tô, kinh giới mỗi thứ một nắm sắc lấy nước uống, tiếp đó ăn cháo trứng gà nóng. Trứng gà
đen tốt nhất.
Vú sưng:
Lá tía tô 1 nắm nấu nước nóng, đồng thời lấy 1 nắm lá tía tô giã nhuyễn đắp lên vú sưng.
Nôn mửa dữ dội khi có thai, động thai:
Cành tía tô 12 g, sắn dây 12 g. Sắc chung lấy nước uống.
Thiếu máu:
Uống nước lá tía tô (30 lá xay nhuyễn). Để cho dễ uống, xay kèm vài quả táo, ít đường phèn. Nước này
cũng có tác dụng an thai tuy có kém hơn cành tía tô.
Chăm sóc da
Người Nhật rất chuộng trà tía tô dùng uống thay trà, đồng thời dùng nước trà tía tô để gội đầu, tắm rửa để bảo vệ

da, dưỡng da tươi nhuận, trừ vết nhăn, vết nám, khô ngứa da, vì tía tô làm ẩm da, dịu da, tăng cường trao đổi chất.
Súc miệng bằng trà tía tô sẽ tẩy sạch miệng, làm thơm miệng. Gội đầu bằng tía tô làm tóc bền mượt, tóc không rụng
và không bị chẻ, sạch gầu.
Da mẩn ngứa, mụn cóc, dùng lá tía tô xoa sát trực tiếp hoặc nghiền nhuyễn cho vào túi vải mà xoa xát.
Theo SK
19. Năm bài thuốc hay từ nghệ đen
Nghệ đen thường được dùng chữa đau bụng, ăn không tiêu, đầy hơi, bế kinh, tích huyết... Xin giới thiệu năm bài
thuốc thông dụng sử dụng vị thuốc này.
Theo y học cổ truyền, nghệ đen là tên gọi của vị thuốc “nga truật”, thuộc họ gừng (Zingiberaceae).
Hiện nay, khoa học hiện đại đã có nhiều nghiên cứu về thành phần hóa học của nghệ đen; gồm: tinh bột 82,6%,
tinh dầu 1 - 1,5%, khá nhiều chất tương tự có trong thành phần của nghệ vàng và một số khoáng vi lượng. Nghiên cứu
thực nghiệm trên động vật cho thấy nghệ đen có tác dụng tăng cường sự bài tiết mật rõ rệt trên chuột cống trắng, đồng
thời ức chế nhẹ sự tiết dịch dạ dày; giảm tốc độ di chuyển than hoạt trong ruột chuột nhắt trắng. Ngoài ra, nghệ đen
còn có tác dụng kích thích tiêu hóa, tăng trương lực ống tiêu hóa.
Các nghiên cứu của một số nước cho thấy, tinh dầu nghệ đen có tính kháng khuẩn. Y học hiện đại dùng nghệ đen
để chế rượu bổ trường sinh (Elixir de longue vie) gồm các vị: nghệ đen, lô hội, long đởm thảo, đại hoàng, phan hồng
hoa và tá dược.
Theo y học cổ truyền, nghệ đen (nga truật) có vị cay, đắng, tính ôn, vào kinh can; có tác dụng hành khí, phá huyết,
thông kinh, tiêu tích, hóa thực.
Nghệ đen thường được dùng làm thuốc chữa đau bụng, ăn không tiêu, đầy hơi, bế kinh, tích huyết, hành kinh không
thông, nhiều máu cục (huyết khối). Liều dùng 3-6g dưới dạng sắc uống hoặc tán bột.
Dưới đây là một số bài thuốc thông dụng có sử dụng nghệ đen.
Bài 1: Chữa chứng huyết ứ, hành kinh không thông, có nhiều huyết khối; bế kinh, máu ra kéo dài, đen, đông thành
khối nhỏ. Người bệnh thường kèm theo đau bụng trước khi thấy kinh.
Nghệ đen và ích mẫu, lượng bằng nhau 15g. Sắc uống ngày một thang.
Bài 2: Chữa chứng nôn ở trẻ đang bú: Nghệ đen 4g, muối ăn 3 hạt, đun với sữa cho sôi chừng 5 phút, hòa tan tý
chút ngưu hoàng (lượng bằng hạt gạo). Cách dùng: Chia uống nhiều lần trong ngày.
Bài 3: Chữa cam tích, trẻ biếng ăn, suy dinh dưỡng, đại tiện phân thối khẳn: Nghệ đen 6g, hạt muồng trâu 4g. Sắc
uống ngày 1 thang.
14

Bài 4: Nghệ đen hoàn: Nghệ đen 160g, cốc nha 20g, khiên ngưu (sao) 40g, hạt cau 40g, đăng tâm (bấc lùng) 16g,
nam mộc hương 16g, thanh bì 20g, thanh mộc hương 20g; củ gấu 160g, tam lăng 160g, đinh hương 16g. Tất cả các vị
tán thành bột mịn, hoàn thành viên. Liều dùng: Ngày uống 8 đến 12g với nước sắc gừng (nướng chín).
Tác dụng: Chữa chứng ăn kém, chậm tiêu, đầy hơi, mệt mỏi, lạnh bụng, đại tiện phân sống, nấm mạn tính đường
ruột.
Bài 5: Nghệ đen tán: Nghệ đen, bạch chỉ, hồi hương, cam thảo, đương quy, thục địa, bạch thược, xuyên khung.
Lượng các vị bằng nhau (đều 40g). Tất cả các vị tán bột, hoàn thành viên. Liều dùng: uống 8 đến 12g.
Tác dụng: Bổ khí, dưỡng huyết, trị nhiều bệnh về khí huyết.
Đây là bài thuốc bổ khả dụng, dùng chữa nhiều chứng bệnh thuộc phạm vi chứng suy nhược, tiêu hóa hấp thu kém,
thể trạng xanh xao, thiếu máu, dễ cảm vặt... mà “Trung Quốc bách khoa đại từ điển” gọi là chữa bách bệnh (liệt kê 33
chứng bệnh khác nhau). Tuy nhiên, kinh nghiệm thực tế cho thấy nếu bài thuốc được làm thành thang sắc uống thì hiệu
quả kém hẳn, do việc sắc đã làm thay đổi tính chất bài thuốc, đặc biệt là một số vị thuốc chứa tinh dầu như bạch chỉ, hồi
hương... bị bay mất tinh dầu và làm mất cái “hay” của bài thuốc.
20. Chữa bệnh bằng vỏ trứng gà
Bệnh hôi miệng, viêm loét dạ dày - tá tràng có thể chữa khỏi bằng cách dùng vỏ trứng gà sống nghiền nát, rây bột
mịn, uống ngày 3 lần với nước sôi để nguội, mỗi lần 2 g.
Sau đây là một số bài thuốc khác từ vỏ trứng gà:
- Chữa khí hư: Vỏ trứng sống 200 g, hạt bông (sao đen cho hết khói) 80 g. Tất cả tán nhỏ, trộn với rượu, làm thành
viên bằng hạt ngô, uống cùng với nước cơm vào lúc đói, mỗi lần 20 viên.
- Chữa ho gà: Vỏ trứng sống 1 cái, rễ cỏ gà 20 g, lá chanh 20 g, lá táo 20 g, vỏ quýt 10 g, tất cả thái nhỏ, sao vàng,
sắc với 400 ml nước đến khi còn 100 ml, uống 2 lần/ngày.
- Chữa sốt cao, sốt kéo dài: Vỏ trứng đã nở con 20 g, rửa sạch, nghiền nát, phơi khô, sao vàng, tán bột để uống.
- Chữa lở loét: Lấy vỏ trứng đã nở con sao vàng, tán bột mịn, hòa với dầu vừng, bôi lên chỗ lở loét hằng ngày.
- Chữa mắt sưng đỏ, chảy nước mắt, nhiều dử, sợ ánh sáng: Vỏ trứng đã nở con 50 g, sao vàng, tán bột mịn, uống
mỗi lần 1-4 g với nước nóng.
DS Huyền Hoa, KH&ĐS
21. Tác dụng chữa bệnh của rau cần
Nếu bị cao huyết áp hoặc ho lâu ngày không khỏi, có thể lấy rau cần ta rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước
uống ngày 2 lần (sáng và chiều) trong 5-7 ngày, có thể uống với mật ong. Còn khi chân bị nứt nẻ, hãy lấy
250 lá rau cần tây sắc với 1 lít nước để ngâm chân.

Cả cần ta và cần tây đều có thể dùng để chữa bệnh. Cần ta vị ngọt, tính mát, có tác dụng lợi đại tràng, thông tiểu,
ích khí, kích thích vị giác... Sau đây là một số bài thuốc từ 2 loại rau này:
- Chữa đi ngoài phân lỏng ở trẻ:
Rau cần ta 40 g bỏ rễ, rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô, sắc với 400 ml nước còn 100 ml, uống 2 lần trong ngày.
- Chữa tiểu buốt, tiểu ra máu:
Rau cần ta cả rễ, để tươi, rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước uống hằng ngày, càng nhiều càng tốt.
Ngoài ra, có thể dùng rau cần ta (200-300 g) sắc với táo tàu (30-50 g) uống trong ngày để chữa tiểu buốt, tiểu rắt.
- Chữa loét miệng, viêm họng, khản tiếng: Súc miệng hằng ngày bằng nước ép lá cần tây.
- Chữa cao huyết áp:
Mỗi ngày dùng vài cây cần tây tươi rửa sạch, thái nhỏ, vắt lấy nước uống; hoặc phơi dược liệu trong bóng râm rồi
sắc uống. Cũng có thể xào cần tây với thịt cho chín tới (không xào kỹ) ăn hằng ngày trong bữa cơm chiều. Khi có kết
quả thì dừng ngay, không nên dùng kéo dài.
Khoa Học & Đời Sống
22. Tác dụng chữa bệnh của xoài
15
Theo y học cổ truyền, xoài có tác dụng cầm máu, lợi tiểu, được dùng để chữa ho ra máu, chảy máu
đường ruột, đau răng, rong kinh, trừ giun sán. Tất cả các loại xoài ở Việt Nam đều có thể dùng làm thuốc.
Sau đây là một số bài thuốc từ xoài:
- Ho ra máu: Vỏ trái xoài chín nấu thành cao lỏng, mỗi lần dùng 10 g hòa với 120 ml nước, cách 1-2 giờ uống 1 thìa
cà phê.
- Chảy máu đường ruột hoặc tử cung:
Lấy vỏ quả xoài cát chín nấu thành cao lỏng. Khi dùng, lấy 10 g cao hòa
với 120 ml nước sôi, cách 3 giờ uống 2 thìa cà phê.
- Đau răng, lở loét chân răng:
Vạt lấy một miếng vỏ cây xoài bằng 2 bàn tay, thái nhỏ, đổ 3 bát nước, đun nhỏ
lửa cho đến khi còn 1 bát. Mỗi ngày ngậm (thỉnh thoảng súc cho thuốc thấm vào chân răng) 3 lần, mỗi lần 10 phút.
Hoặc: Vỏ cây xoài sao khô 3 phần, bồ kết sao khô 1 phần, quả na sao khô 1 phần. Tất cả tán mịn, trộn đều, rắc vào
chỗ răng đau hoặc xát vào lợi.
- Thổ tả:
Lá xoài 100 g (sao vàng), lá chanh 100 g, đổ 2 bát nước vào sắc còn 1 bát, sau đó cho vào 10 ml rượu

bạc hà (hoặc thêm 50 g lá bạc hà vào nấu chung), uống nóng, từng hớp một.
- Rong kinh và khí hư:
Vỏ quả xoài chín 30 g, sắc uống hằng ngày.
- Đi ngoài ra máu, lỵ mạn tính:
Vỏ quả xoài chín 50 g, phơi khô, sắc uống hằng ngày.
- Trừ giun đũa:
Nhân hạt xoài 20 g, hạt chanh 15 g, 2 thứ giã nát, đổ 2 bát nước, sắc còn 1 bát, uống vào sáng
sớm lúc còn đói, uống liền trong 2-3 ngày.
- Làm săn da:
Lá xoài tươi 50 g, giã nát, đắp mặt trong 20 phút rồi rửa mặt thật sạch.
- Rửa vết thương:
Lá xoài tươi 200 g, cho vào 1 lít nước, đun sôi 10 phút, dùng để rửa vết thương.
- Ho, viêm họng:
Lá xoài tươi 200 g, cho vào 1 lít nước, đun nhỏ lửa cho sôi 15 phút, sau đó bắc xuống, dùng
khăn trùm kín đầu để xông. Khi xông nhớ há miệng để đưa hơi vào cổ họng. Làm mỗi ngày 1 lần.
Lưu ý:
- Thịt quả xoài có tác dụng lợi tiểu, chữa hoại huyết, nhưng nếu ăn nhiều sẽ nóng.
- Mủ xoài có chất độc gây nôn mửa, tiêu chảy, viêm da.
BS Đỗ Văn Sơn, Sức Khỏe & Đời Sống
23. Chữa phong thấp bằng cách lấy độc trị độc
Hiếm ai trong đời không vài lần bị tê mỏi chân tay hay nhức đau xương khớp (dân gian gọi là phong
tê thấp). Bệnh được cải thiện rất hiệu quả bằng phương thuốc cổ nổi tiếng có mã tiền - một vị thuốc độc -
làm chủ đạo.
Phong tê thấp là bệnh khá phổ biến, với những biến chứng tai hại, ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng cuộc sống của
người bệnh. Đông y đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý chữa bệnh này, trong đó có việc dùng hạt mã tiền theo
nguyên tắc "lấy độc trị độc".
Mã tiền giúp thúc đẩy sự vận hành của huyết dịch, trừ khử ứ trệ, thông kinh hoạt lạc, chống tê mỏi và cắt cơn đau.
Do đó hầu hết các bài thuốc chữa phong tê thấp đều có nó. Các nghiên cứu hiện đại cho thấy, vị thuốc này khi sử dụng
với liều nhỏ sẽ kích thích thần kinh trung ương, làm mạnh tim, giảm đau, chống ho, trừ đờm và tăng tiết dịch vị.
Mã tiền sống là thuốc rất độc (bảng A), sau khi bào chế theo phương pháp truyền thống thì độ độc giảm bớt (bảng

B), nhưng vẫn chỉ được sử dụng với liều lượng rất nhỏ. Trong Đông y truyền thống, mã tiền chế chủ yếu được dùng
chữa trị tê liệt, đau nhức kinh niên do phong thấp hoặc ngoại thương. Trên lâm sàng hiện đại, nó được sử dụng để chữa
trị tổn thương phần mềm, viêm khớp xương trong bệnh phong thấp, đau do ung thư, nhược cơ nặng, liệt nửa người do
tai biến mạch máu não, bại liệt do ngoại thương.
Trong phương "Thuốc phong bà Giằng" nổi tiếng, mã tiền được sử dụng cùng các vị thuốc khác theo cấu trúc "quân
- thần -tá -sứ" kinh điển:
- Mã tiền là "quân" (vua, tức vị thuốc chủ đạo).
- Thương truật là "thần" - vị tể tướng hỗ trợ trực tiếp cho quân vương. Nó tăng cường tác dụng giảm đau của mã
tiền.
- Hương phụ, mộc hương, thương truật là "tá", tức phụ tá để hạn chế tác dụng phụ của vị thuốc chính. Các vị này
giúp tăng tác dụng giảm đau, hạn chế các tác dụng phụ của thuốc.
- Địa liền, quế chi là "sứ", tức có tác dụng dẫn đường, đưa thuốc tới vị trí bệnh và điều hòa phương thuốc.
Phương thuốc trên phối hợp các vị nóng và lạnh nên có tính bình, thích hợp cho cả người tạng hàn lẫn tạng nhiệt. Sự
phối hợp trên lại phát huy được sở trường và hạn chế sự độc hại của mã tiền nên an toàn, ít tác dụng phụ. Nó giúp chữa
trị các chứng tê mỏi chân tay, đau xương khớp, đau thần kinh tọa, đau thần kinh liên sườn... do phong tê thấp, đau do
gút. Những người bị tiểu đường, tăng mỡ máu, tăng huyết áp và một số chứng bệnh tiêu hóa mạn tính cũng có thể
dùng.
Bài thuốc phong bà Giằng hiện cũng được bào chế dưới dạng viên nén bao phim để tiện sử dụng và dễ xác định liều
lượng hơn. Đó là thuốc Vimatine do Đại học Dược Hà Nội bào chế. Thay vì phải uống hàng chục viên hoàn, bệnh nhân
chỉ cần dùng 2-3 viên nén mỗi lần.
Lương y Huyên Thảo, Sức Khỏe & Đời Sống
24. Những điều cần biết khi uống thuốc bắc
16
Đối với các thuốc chữa bệnh tỳ vị hoặc dùng để công hạ, nên uống giữa hai bữa ăn để thức ăn không
ảnh hưởng đến thuốc. Còn với các thuốc diệt trùng thì nên uống cách đêm (trước khi ngủ uống một lần,
sáng hôm sau uống lần nữa khi còn đói) để tiện cho việc thải các loại trùng bị diệt ra khỏi cơ thể.
Đối với thuốc bắc, việc uống trước hay sau khi ăn, uống nóng hay lạnh, ngâm hay sắc tùy thuộc vào loại thuốc và
bệnh cần điều trị. Sau đây là một số hướng dẫn cụ thể:
- Uống trước bữa ăn 30-60 phút:
Áp dụng với các thuốc chữa bệnh can thận hư, bệnh đường ruột, dạ dày và các bệnh từ lưng trở xuống. Trong trạng

thái bụng đói, dược tính dễ dàng chuyển xuống dưới, thuốc uống vào sẽ tiếp xúc trực tiếp với niêm mạc đường tiêu hóa,
nhanh chóng đi qua dạ dày, xuống ruột. Nhờ đó, thuốc sẽ nhanh chóng được hấp thu và phát huy tác dụng, không bị
thức ăn trong dạ dày làm loãng.
- Uống sau bữa ăn 15-30 phút:
Áp dụng cho các bệnh phía trên như tâm, phế, ngực và trên dạ dày. Các loại thuốc gây kích thích đối với đường tiêu
hóa hoặc có độc tính khá cao cũng nên uống sau khi ăn để tránh hấp thu quá nhanh, gây trúng độc.
- Uống vào sáng sớm khi đói:
Áp dụng cho các loại thuốc thang bồi bổ để thuốc được hấp thu đầy đủ. Các thuốc dùng để diệt trùng, công hạ và
chữa bệnh mạch máu tứ chi cũng nên uống lúc đói, nhằm làm cho thuốc nhanh đến ruột, nồng độ thuốc không bị giảm
đi.
- Uống trước khi ngủ 15-20 phút: Áp dụng cho các thuốc bổ tâm tỳ, an thần, ngủ ngon và chữa các bệnh ứ trệ, bệnh
vùng ngực. Uống xong nên nằm ngửa, nếu là thuốc trầm giáng thì nên nằm nghiêng.
- Uống ấm: Các thuốc sắc ôn hòa và bổ dưỡng.
- Uống nguội: Các thuốc sắc giải độc, phòng nôn, thanh nhiệt.
- Uống nóng: Các thuốc sắc giải biểu (cho ra mồ hôi) nên uống nóng để toát được mồ hôi. Các loại thuốc khử hàn,
thông huyết mạch cũng nên uống nóng.
- Uống liền một mạch:
Nghĩa là uống một lần hết ngay, hợp với các bệnh nặng hoặc bệnh về dạ dày, các thuốc thông tiện, hoạt huyết, hóa
ứ. Mục đích của cách uống này là để thuốc không làm tổn hại đến chính khí, phát huy hết tác dụng.
- Uống từ từ: Tức uống từng tí một hoặc ngậm thuốc, áp dụng cho các bệnh đau họng, nôn mửa nhằm làm cho
thuốc ngấm dần vào chỗ đau.
- Ngâm uống:
Với các loại thuốc quý như trầm hương, mộc hương và thuốc có mùi thơm, không nên đun lâu, có lúc nên pha uống
(cho thuốc vào cốc, cho thang còn nóng vào ngâm, một lúc sau thì uống). Các loại nhục quế, tàng hồng hoa nên ngâm
nước nóng để uống, tránh đun lâu để không làm mất các thành phần có ích trong thuốc.
Nông Nghiệp Việt Nam
25. Vị thuốc từ trứng gà ngâm giấm
Trứng gà ngâm giấm ăn trở thành vị thuốc, có tác dụng chữa một số bệnh như viêm loét dạ dày, viêm
da thần kinh, ngứa da trâu... Cách làm cũng đơn giản.
Trứng gà là thức ăn và cũng là một vị thuốc quý. Các thành phần dinh dưỡng như chất đạm (protein), chất béo, chất

đường, chất khoáng và các sinh tố... trong trứng gà được "pha trộn" với tỷ lệ cực kỳ hợp lý. Về mặt trị liệu theo Đông y,
trứng gà có vị ngọt, tính bình, có tác dụng tư âm nhuận táo, dưỡng huyết an thai, dùng để bổ dưỡng, chữa ho khan,
khản tiếng, mắt đỏ họng đau, thai động không yên, sản hậu miệng khát, kiết lỵ, bỏng.. .
Giấm là gia vị thông dụng và cũng được sử dụng như một vị thuốc trong Đông y từ hơn 2.000 năm trước. Theo
Đông y, giấm có vị chua, đắng, tính ấm. Có tác dụng tiêu thực, tán ứ, giải độc, sát trùng, chỉ huyết (cầm máu). Trong
Đông y, giấm có thể dùng riêng, có thể sử dụng để sao tẩm hoặc phối chế với các vị thuốc khác. Trứng gà ngâm với
giấm là một dạng phối chế như vậy, và có thể chữa được một số bệnh.
* Cách chế biến:
Lấy 5 quả trứng gà tươi, rửa sạch vỏ bằng cồn rồi lau khô, cho vào lọ rộng miệng đã sát trùng, đổ thêm 1 lít giấm
tốt, đậy kín nút, để vào chỗ tối, ngâm trong bảy ngày đêm. Sau đó loại bỏ vỏ trứng, quấy cho nước trứng (lòng trắng và
lòng đỏ) hòa tan đều với giấm là có thể dùng được.
* Cách sử dụng để chữa bệnh:
- Chữa cao huyết áp, làm giảm mỡ máu, làm mềm thành mạch máu (chống xơ vữa) và chữa viêm loét đường tiêu
hóa: Mỗi ngày dùng 3 lần mỗi lần 2 thìa canh.
- Chữa viêm da thần kinh, ngưu bì tiên (ngứa da trâu):
Triệu chứng: Trên da nổi lên từng đám sần sùi, dày cộp, khô, đóng vảy cạy tróc vụn, giống như da trâu, kèm theo
ngứa từng cơn, nên gọi là "ngưu bì tiên" (ngưu bì = da trâu, tiên = ngứa).
17
Hằng ngày dùng bông sạch chấm nước trứng ngâm giấm bôi vào những chỗ da bị bệnh 4-5 lần, mỗi lần bôi 1-2
phút. Cần chú ý bôi thuốc đều đặn không gián đoạn. Nói chung, sau 1-2 ngày, là chỗ da bị bệnh đã bong vẩy, không còn
ngứa kịch liệt như trước hoặc hết ngứa hẳn.
Đối với một số bệnh đường tiêu hóa, còn có thể sử dụng trứng theo một số cách khác:
- Chữa dạ dày viêm, đau: Có thể dùng trứng theo hai phương pháp sau:
(1) Trứng đốt rượu: Dùng 200 ml cồn hoặc rượu trắng cao độ đổ vào một cái bát hoặc dụng cụ chịu nhiệt, cho một
quả trứng gà sống vào, châm lửa đốt cho cồn hoặc rượu cháy hết, sau đó bóc trứng ăn, sau khi đốt, thường trứng vẫn
"lòng đào" (lòng đỏ còn hơi lỏng).
(2) Trứng trộn gừng rán: Gừng tươi 30 gam thái nhỏ, trứng gà 1 quả, đập ra, trộn đều với gừng, sau đó dùng 30 ml
dầu thực vật rán chín; chia làm 3 phần ăn trong ngày.
- Chữa viêm ruột cấp, kiết lỵ: Lấy 5-10 quả trứng gà (có thể dùng trứng vịt), dùng kim nhỏ đục một số lỗ nhỏ ở đầu
quả trứng, rồi đem ngâm trong giấm 7-10 ngày. Mỗi ngày lấy một quả trứng đã ngâm giấm luộc ăn.

Theo Tri Thức Trẻ
26. Chuối tiêu chữa nhiều bệnh
Nếu như quả chuối tiêu xanh được dùng chữa bệnh tiêu chảy và kiết lỵ thì chuối tiêu chín lại có tác
dụng nhuận tràng, chữa táo bón. Chuối chín còn giúp làm dịu các thương tổn ở ruột, thúc đẩy chúng lên
da non.
Quả chuối tiêu chín rất tốt cho trẻ nhỏ, trẻ đang độ lớn, người dưỡng sức, người già, người lao động trí óc và tay
chân. Chuối tốt cho hệ xương, sự sinh trưởng và cân bằng thần kinh. Người suy nhược nên ăn chuối hằng ngày.
Vỏ quả chuối tiêu chữa lỵ, đau bụng, thổ tả, ngày dùng 15-30 g sắc uống; hoặc sắc lấy nước rửa những chỗ mẩn
ngứa, lở loét. Bột quả chuối tiêu xanh để phòng và chữa loét dạ dày. Vỏ quả chuối xanh có tác dụng diệt nấm, nhựa của
quả chuối xanh chữa hắc lào.
Lá chuối tiêu non còn ở trong thân đem giã nát, đắp làm thuốc cầm máu vết thương, làm dịu vết bỏng. Củ và rễ
chuối tiêu giã lấy nước cốt hoặc dịch thân cây uống chữa sưng tấy, nhọt sưng đau, nóng quá phát cuồng, mê sảng, co
giật, kiết lỵ tiêu chảy.
Sau đây là các bài thuốc có chuối tiêu:
Chữa trúng độc do ăn uống: Củ chuối tiêu thái miếng, cho đầy nồi, đổ ngập nước, lấy một bát cho uống để làm
nôn mửa.
Chữa nhọt, sưng tấy, mụn nhọt: Củ hoặc rễ chuối tiêu giã nát đắp.
Chữa phế nhiệt, đàm suyễn: Rễ chuối tiêu 60 g, rau sam 30 g, giã nát, ép lấy nước, đun ấm, bỏ bã uống nước.
Chữa đái ra máu: Rễ chuối tiêu tươi 120 g, cỏ nhọ nồi 30 g, sắc nước uống.
Chữa sốt cao phát cuồng, mê sảng, co giật: Dùng một lóng trúc hoặc nứa vót nhọn đầu, chọc vào giữa thân
cây chuối tiêu cho nước chảy ra. Hứng lấy một bát uống. Có thể dùng củ và rễ, giã nát vắt lấy nước cốt uống.
Chữa hắc lào: Rửa sạch chỗ hắc lào bằng nước nóng, gãi cho sượt da ra, lau khô. Lấy một quả chuối xanh còn non
trên cây, bẻ hoặc cắt cho nhựa chảy ra, chấm bôi vào chỗ có nấm, làm 4-5 lần.
Phòng và chữa viêm loét dạ dày: Thịt quả chuối tiêu xanh, phơi sấy khô ở nhiệt độ dưới 50 độ C, tán bột, ăn
hằng ngày với liều 20-30 g.
Chữa phụ nữ ít sữa và người già táo bón: Hoa chuối tiêu thái nhỏ, luộc chín, trộn với muối vừng hoặc muối lạc
rang, ăn 2-3 bữa liền.
Chữa táo bón: Chuối 2 quả, để cả vỏ, nấu chín ăn, dùng nhiều lần.
Chữa tăng huyết áp: Vỏ và cuống quả chuối tiêu 30-60 g, sắc uống, dùng nhiều lần.
K.Y (st)/Baobinhdinh

27. Ðiều trị viêm đại tràng mạn bằng thuốc nam
Viêm đại tràng mạn là bệnh rất hay gặp ở nước ta. Bệnh xuất hiện sau nhiễm khuẩn, nhiễm ký sinh
trùng ở ruột. Bệnh diễn biến mạn tính, có từng đợt tiến triển.
Nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới viêm đại tràng mạn, bao gồm:
- Nhiễm khuẩn: các loại vi khuẩn gây hội chứng lỵ như shigella, samonella...
- Nhiễm nguyên sinh động vật: amip, lamblia.
- Nhiễm ký sinh trùng: các loại giun sống ký sinh ở đại tràng như giun đũa, giun kim, giun tóc và các loại sán ruột.
- Chế độ ăn uống: ăn uống không điều độ kéo dài hoặc các thức ăn gây kích thích, tổn thương niêm mạc ruột.
- Táo bón kéo dài.
- Viêm đại tràng thứ phát sau các bệnh khác của hệ tiêu hóa.
Triệu chứng
18
Biểu hiện rất đa dạng:
- Rối loạn tiêu hóa kéo dài: đi ngoài phân lúc táo, lúc lỏng. Phân thường nát, không thành khuôn, đi từ 2-6 lần trong
ngày. Bệnh nhân thường cảm thấy không thoải mái sau khi đi đại tiện, hay có cảm giác mót rặn muốn đi nữa.
- Bụng trướng hơi: khu trú dọc khung đại tràng, bệnh nhân luôn cảm thấy căng tức, khó chịu.
- Ðau bụng: là triệu chứng hay gặp. Ðau âm ỉ ở phần dưới bụng hoặc đau dọc khung đại tràng. Ðau tăng sau khi ăn
và trước khi đi đại tiện. Sau khi trung tiện hoặc đại tiện thì đau giảm hơn.
- Tình trạng toàn thân ít thay đổi. Nếu có thay đổi chỉ gặp ở người luôn lo lắng về trình trạng bệnh tật của mình hoặc
ăn uống quá kiêng khem.
Cách chữa
Bài 1: Viêm đại tràng thể đại tiện lỏng: nam mộc hương 40g, bạch chỉ 40g, sâm đại hành 40g. Tất cả sao vàng, tán
bột, ngày uống 10g chia hai lần, hòa nước sôi uống.
Bài 2: Viêm đại tràng co thắt, đại tiện táo: bồ công anh (nấu thành cao) 100g, nam mộc hương 60g, thảo quyết
minh 50g. Hai vị sao vàng, tán bột, hòa với cao bồ công anh, làm thành viên. Ngày uống 10-15g, chia hai lần.
Bài 3: Viêm trực tràng, đi ngoài ra máu: bột quả tơ hồng 20g, hoa hòe 30g, hoa kinh giới 20g. Các thứ trên sao đen
tồn tính, lòng đỏ trứng gà (luộc chín) 1 quả, phèn phi 5g, sáp ong 15g. Lấy lòng đỏ trứng đánh tơi cho vào sáp ong,
khuấy đều với các bột trên, làm thành viên. Ngày uống ba lần, mỗi lần 5g.
Bài 4: Rối loạn tiêu hóa, người mệt mỏi ăn kém: bố chính sâm 12g, bạch truật 12g, biển đậu 12g, ý dĩ sao 12g, vỏ

quýt 6g, hạt sen 12g. Tất cả sao vàng, tán bột, ngày uống 30g, chia ba lần, hoặc sắc uống ngày một thang.
Bài 5: Chữa táo bón, suy nhược cơ thể: lá dâu (đồ chín, phơi khô) 500g, vừng đen sao 250g, con tằm (đồ chín, sấy
khô) 250g. Tất cả tán bột, lấy kẹo mạch nha hoặc mật ong làm viên, sấy khô. Ngày uống 20g, chia hai lần.
Phòng bệnh
- Tìm nguyên nhân gây bệnh và điều trị kịp thời.
- Giữ vệ sinh ăn uống, nên ăn điều độ và cân đối khẩu phần ăn.
- Không ăn thức ăn ôi thiu và thức ăn bảo quản lạnh quá lâu.
- Giữ tinh thần ổn định, không lo lắng quá nhiều đến bệnh.
(Ngày 15/9/2004 - Báo SK&ĐS)
28. Chữa ngủ mê bằng đông y
Bản chất của giấc ngủ là một quá trình ức chế lan khắp vỏ não và lan xuống cả các phần ở dưới vỏ não. Lúc thức,
hoạt động của vỏ não do những điểm hưng phấn và ức chế xen kẽ nhau, hạn chế lẫn nhau, ức chế không khuyếch tán
lan toả được, vì thế không ngủ.
Khi ức chế chiếm ưu thế, nó sẽ phá tán sự hạn chế của hưng phấn, khuyếch tán khắp vỏ não, lan xuống phần dưới
vỏ não và tạo được giấc ngủ.
Giấc ngủ được sử dụng như một phương pháp điều trị một số bệnh. Giấc ngủ đối với người ốm là một trong những
biện pháp tốt cho việc hồi phục sức khoẻ. Kéo dài giấc ngủ sinh lý của bệnh nhân là một trong những việc cần làm trong
bệnh viện.
Ngủ mê, nói sảng là bệnh lý có hại cho sức khoẻ, bạn cần đến khám ở chuyên khoa thần kinh để tìm nguyên nhân
và được chữa trị.
Theo y học cổ truyền, “tâm tàng thần, chủ thần chí” cho nên hiện tượng ngủ mê, nói sảng có quan hệ đến tạng tâm,
thuộc phạm trù chính xung do rối loạn nhịp tim hoặc do tâm thận bất giao (thuỷ hoả vị tế).
Có thể dùng các bài thuốc dưới đây chữa chứng mê ngủ.
Bài 1: Nhân sâm 4g, đương quy 16g, bạch thược 16g, ngũ vị tử 4g, táo nhân 20g, mạch môn 20g, bạch truật 16g,
bồi mẫu 6g, liên tâm 8g, lạc tiên 20g.
Bài 2: Thục địa 20g, sơn thù 12g, nhân sâm 6g, đương quy 16g, táo nhân 12g, bạch giới tử 12g, mạch môn 16g,
nhục quế 2g, hoàng liên 8g.
Cho 750ml nước (3 bát) vào thang thuốc, đun kỹ lấy 250ml nước thuốc (1 bát). Sắc tiếp lần 2 như lần 1. Trộn 2 bát
thuốc vào nhau uống 3-4 lần trong ngày. Mỗi ngày uống một thang. Các vị thuốc trên có thể mua ở các hàng thuốc đông
dược.

Theo BS Hoài Hương/Tiền Phong
29. Cách phân biệt mật ong giả và thật
19
Lấy một tờ giấy trắng sạch và bôi mật ong lên đó. Mật tốt sẽ thấm rất chậm, còn loại giả thì chỉ vừa
phết lên là thấm ướt ngay.
Mật ong giả là loại mật đã bị hoà lẫn với nước đường, muối ăn, đạm hoá học, tinh bột, đường mạch nha... Mùi thơm
của nó nhạt, có thể có mùi lạ, khi nuốt thấy có cảm giác hơi vướng cổ. Còn mật ong nguyên chất thì khi nhấm có vị ngọt
đậm, mùi thơm đậm, ngọt nhưng không ngấy.
Mật ong nguyên chất thì khi khuấy thấy rất mềm, thò ngón tay vào không thấy cảm giác sạn, bỏ vào miệng nếm thì
thấy tan rất nhanh. Còn mật ong “chế biến” thì khi quấy có cảm giác cứng, khó tan.
Mật ong thật đặc quánh, độ kết dính cao, thơm, có các màu trắng, vàng nhạt hay hồng nhạt, trông rất trong.
Tuy nhiên, rất khó phân biệt mật ong giả và thật bằng mắt thường. Sau đây là vài cách thử:
Dùng chiếc đũa tre sạch khêu một ít mật ong rồi kéo thành sợi. Sợi kéo dài sẽ đứt; nếu sau đó mật co lại thành cục
tròn thì đó là loại tốt.
Dùng một que tre sạch khuấy đều lên, nếu trong mật ong có trộn lẫn các chất khác thì bạn sẽ thấy màu đục hiện
lên, còn mật ong chính hiệu thì không có hiện tượng ấy.
Dùng một sợi thép hơ nóng đỏ lên chọc vào mật ong, nếu thấy sủi bọt phả hơi lên thì đó là mật ong giả, người ta đã
trộn lẫn khá nhiều nước.
Lấy một phần mật ong và 5 phần nước quấy đều rồi đậy lại, để một ngày, nếu không thấy có chất lắng xuống thì đó
là mật ong tốt.
Lấy một phần mật ong, 2 phần nước cơm, 4 phần cồn 95%, đem khuấy đều lên, đậy lại để trong một ngày đêm.
Nếu có chất tạp lắng xuống thì đó không phải mật ong tinh khiết, tạp chất lắng càng nhiều chất lượng càng kém.
(Theo Vtv.vn)
30. Chữa hôi nách bằng các bài thuốc cung đình
Cung cấm Trung Hoa xưa có nhiều bài thuốc bí truyền chống lại mùi khó chịu ở vùng dưới cánh tay,
bảo tồn sự quyến rũ cho cung tần mỹ nữ. Các vị thuốc thường được dùng là băng phiến, hoắc hương...
Nhiều sách Đông y viết, để chữa hôi nách, nếu dùng phèn chua, xạ hương thoa ngoài thì có thể thuyên giảm một
thời gian, sau đó lại có mùi như trước. Để chữa tận gốc, cần tán hết tà khí ở can. Nên kiêng các thức cay nóng và kích
thích.
Sau đây là một số bài thuốc vốn được dùng trong cung cấm Trung Hoa nhờ tác dụng khá lâu dài:

Bài thuốc của Đào Ẩn Cư
Thanh mộc hương (mật hương), hoắc hương, kê thiệt hương (mẫu đinh hương), hồ phấn (diên phấn) mỗi thứ 30 g.
Nghiền nhỏ mịn các dược liệu. Lấy vải bọc thuốc lại, hằng ngày để vào trong hố nách. Khi nào thấy thuốc hết mùi thì
thay (thường khoảng 10-15 ngày).
Bài “thiên kim phương”
Tân di, xuyên khung, tế tân, đỗ hành, cảo bản mỗi thứ 4 g, ngâm vào giấm gạo thuần chất trong một đêm cho nở.
Đổ nước sắc lấy nước đặc, cất vào lọ đậy nắp để dùng dần. Trước lúc đi ngủ, lấy nước thuốc xoa vào da vùng hố nách,
xoa hằng ngày cho đến khi khỏi.
Bài “Dịch hương tán”
Mật đà tăng 15 g, sinh long cốt 30 g, hồng phấn 6 g, băng phiến 3 g, mộc hương 10 g, bạch chỉ 10 g. Từng vị tán
nhỏ mịn riêng biệt, sau trộn đều. Lấy vải bọc thuốc lại, hằng ngày vỗ vào da vùng hố nách nhiều lần.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
31. Cách nhận biết mật gấu thật
Y học cổ truyền gọi vị thuốc này là hùng đởm. Nhiều người bệnh dùng nó có tác dụng tốt; nhưng cũng
không ít người phàn nàn là bị phản ứng lở ngứa phải đi cấp cứu. Có thể họ dùng không đúng người, đúng
bệnh, cũng có thể họ mua phải mật gấu giả.
Ở Việt Nam có 3 loại gấu: gấu lợn có miệng giống miệng lợn; gấu chó thân hình nhỏ, tai ngắn, ngực có khoang chữ
V màu ngà; gấu ngựa lớn hơn gấu chó, có khoang chữ V trắng. Theo y học cổ truyền, mật gấu ngựa là tốt nhất, tiếp đến
là mật gấu lợn, gấu chó.
Có rất nhiều cách thử để nhận biết mật gấu thật hay giả. Thứ nhất, bạn hãy quan sát túi mật, khi cắt ra giữa đám
đen có hạt lổn nhổn màu vàng óng đặc trưng. Nếm thấy vị đắng, sau có cảm giác mát, ngọt, dính lưỡi. Nếu ngậm lâu sẽ
tan hết. Nếu là mật giả sẽ không dính lưỡi, không mát, không bóng, có mùi tanh khó ngửi.
Cách thử thứ 2 là dùng lửa đốt, mật gấu thật sẽ không cháy.
Cách thứ 3 là lấy 1 hạt trong túi mật thả vào cốc nước trong, sẽ thấy các sợi vàng thõng xuống đáy cốc, có khi hạt
mật còn quay tròn.
Cũng có thể nhỏ 1 giọt mật vào máu, máu sẽ tan và không đông. Hoặc hòa mật gấu trong nước cất, cho thêm một ít
đường kính, sau đó nhỏ 1-2 giọt axit sunfuric, bạn sẽ được một dung dịch màu đỏ rất đặc trưng nếu là mật thật.
20
Mật gấu vị đắng hơi ngọt, tính lạnh, có tác dụng: phá ứ hồi sinh (trong trường hợp ngã bất tỉnh); chữa đau nhức do
huyết ứ, chữa co giật, vàng da. Liều dùng từ 0,5 g đến 2 g, hòa nước uống hoặc cho vào cháo để ăn. Y học cổ truyền

thường dùng mật gấu để xoa bóp và làm thuốc chữa đau mắt.
Mật gấu dễ bị sâu, mốc nên khi bảo quản nên tránh ẩm, nóng, cất trong hộp kín có chất hút ẩm.
TS Dương Trọng Hiếu, Sức Khỏe & Đời Sống
32. Bưởi - loại quả nhiều lợi ích
Trẻ đau trướng bụng hoặc tiêu chảy do ăn không tiêu có thể chữa bằng cách: Lấy vỏ bưởi rửa sạch,
cạo bỏ lớp ngoài, cắt thành từng khúc, nấu với nước sôi một lát rồi vắt nước, ngâm trong đường 1 tuần.
Lấy nước mứt nuốt dần, dùng liền 5 ngày.
Nước bưởi chứa nhiều chất bổ dưỡng như các loại đường trái cây, đạm, béo, acid tannic, beta-caroten và các chất
khoáng như phospho, sắt, canxi, kali, magiê, các vitamin B1, B2, C.
Đông y cho rằng mỗi bộ phận của quả bưởi đều có tác dụng riêng. Cơm bưởi vị ngọt, chua, tính mát, không độc, có
tác dụng kiện tỳ, trị ho, giải rượu. Vỏ ngoài chứa tinh dầu (vỏ trong thường dùng làm mứt), vị cay, đắng, ngọt, tính ấm,
có tác dụng trị ho, giảm đau. Hạt bưởi vị đắng, tính ấm, chứa chất béo, có tác dụng trị đau thoát vị bẹn, sa đì. Lá bưởi vị
đắng, the, mùi thơm, tính ấm, có tác dụng tán hàn, tán khí, thông kinh lạc, giải cảm, trừ đờm, tiêu thực, hoạt huyết, tiêu
sưng, tiêu viêm.
Theo y học hiện đại, nước bưởi có thành phần tựa như insulin, giúp hạ đường huyết, có tác dụng hỗ trợ đối với bệnh
nhân tiểu đường, cao huyết áp. Vỏ chứa tinh dầu giúp kháng viêm, làm giãn mạch. Kiểm chứng thực tế cho thấy ăn bưởi
đều đặn sẽ giúp giảm cân và phòng chống được tiểu đường.
Vỏ ngoài của bưởi chứa nhiều tinh dầu, có tác dụng hỗ trợ tiêu hóa và trị cảm cúm, thường được dùng trong liệu
pháp nấu nồi xông giải cảm. Ngồi ra, vỏ bưởi còn chứa nhiều flavonoid như naringosid, hesperidin, diosmin, diosmetin,
hesperitin... có tác dụng bảo vệ thành mao mạch, giảm tính thấm, giúp cho mao mạch đàn hồi và bền vững hơn, từ đó
ngăn ngừa tai biến do vỡ các mao mạch, gián tiếp giúp hạ huyết áp. Một số người còn dùng vỏ ngoài quả bưởi xoa trên
da đầu để kích thích lỗ chân lông phòng trị bệnh hói hay rụng tóc.
Một số bài thuốc có bưởi
1. Chữa ho nhiều, đàm khí nghịch
- Cơm bưởi 100 g, rượu gạo 15 ml, mật ong 30 ml, chưng cách thủy cho chín nhừ, mỗi ngày ăn 1 lần.
- Cơm bưởi cắt nhuyễn cho vào bình, ngâm rượu, đậy kín 1 đêm, nấu nhừ, dùng mật ong trộn đều, ngậm nuốt
thường xuyên.
2. Rối loạn tiêu hóa, thai phụ miệng nhạt, nước dãi trào ngược
- Cơm bưởi 60 g, ăn hết một lần, mỗi ngày ăn 3 lần.
- Nước bưởi, mỗi lần dùng 50 g, ngày 3 lần, dùng liền 5 ngày.

- Bưởi 5-8 quả ép lấy nước, dùng lửa nấu đặc, thêm 500 g mật ong, 100 g đường phèn, 10 ml nước gừng tươi, cùng
nấu thành dạng cao, để nguội, đựng trong lọ. Mỗi lần dùng 15 ml, ngày 2 lần, dùng liền 5 ngày.
3. Hôi miệng, giải rượu
- Cơm bưởi 100 g, nhai nuốt dần dần.
- Bưởi 1 quả lấy nước, vỏ quít 10 g, gùng tươi 6 g, thêm đường đen lượng vừa nấu chung, mỗi ngày dùng 1 liều,
dùng liền trong 5 ngày.
4. Say tàu xe hay rối loạn tiêu hóa, miệng nhạt buồn nôn do cảm
Mứt bưởi 30-60 g, nhai nuốt dần.
5. Đau khớp hay té ngã sưng đau
Vỏ bưởi tươi 250 g, gừng tươi 30 g, cùng băm nhuyễn, đắp tại chỗ, mỗi ngày thay 1 lần.
6. Dị ứng da hay mẩn ngứa không rõ nguyên nhân
Bưởi da xanh 1 quả, cắt bổ nguyên quả, nấu nước thoa rửa tại chỗ, mỗi ngày làm 3 lần, đồng thời có thể ăn bưởi 60
g, mỗi ngày 3 lần.
7. Thoát vị bẹn, sa đì
Hạt bưởi 15 g, băm nhuyễn nấu nước uống, ngày uống 1 lần vào sáng và chiều.
8. Bong gân, sưng khớp do lạnh, chấn thương
Lá bưởi không kể liều lượng, nướng chín để nắn, xoa bóp hay nấu nước xông và ngâm tại chỗ.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
33. Tự chữa một số bệnh về tiểu tiện
21
Nếu bị tiểu tiện khó khăn hoặc không tiểu được sau phẫu thuật, có thể lấy tỏi tươi bóc hết vỏ, giã nát,
vắt lấy nước, nhỏ vào đầu đường niệu. Sau 3-5 phút, tình trạng trên sẽ bị giải trừ. Nếu nhỏ một lần chưa
có hiệu quả tốt thì nhỏ lần thứ 2, chắc chắn sẽ có kết quả mong muốn.
Sau đây là một số phương pháp đơn giản khác chữa các biểu hiện khác thường về tiết niệu:
- Sỏi đường niệu: Rễ và lá cây ngô tươi mỗi thứ 60 g, nấu lấy nước uống trong nhiều ngày, sỏi sẽ mòn dần.
Hoặc: Râu ngô và kim tiền thảo mỗi thứ 30 g, nấu lấy nước uống thường xuyên.
- Nước tiểu ngắn và đỏ: Khế tươi 2-3 quả giã nát, hòa với một cốc nước sôi để nguội, trộn đều, chia 2-3 lần uống
trong ngày.
- Thủy thũng do viêm thận: Ăn hành tây. Chất Meletin trong củ hành tây có tác dụng lợi niệu rất rõ rệt.
- Bí tiểu hoặc đau rát đường niệu khi tiểu: Lấy vỏ hạt đậu xanh nấu lên uống.

Hoặc: Lấy 500 g giã đỗ ép lấy nước, hòa thêm nước đường trắng vào uống, có thể lợi tiểu và hết đau rát.
- Tiểu tiện ra máu: Lấy nửa chén vỏ lụa của hạt lạc rang, nghiền thành bột, pha với nước sôi, uống thay trà.
- Di niệu ở trẻ nhỏ: Mỗi buổi sáng sớm, khi ngủ dậy, ăn một bát cháo kê (cho đường vừa phải hoặc chút muối). Ăn
liên tục trong 1 tháng sẽ khỏi.
- Tiểu tiện ra máu: Lá cây cà (loại cà pháo, cà bát, cà tím) để qua năm, rang khô, nghiền thành bột, hòa với chút
rượu hoặc chút nước muối loãng để uống, mỗi lần 10 g, ngày 2 lần.
- Tiểu tiện quá nhiều lần trong ngày: Dùng một trong các món ăn bài thuốc sau:
+ Tiểu hồi hương rang khô với chút muối, nghiền thành bột, ăn với bánh dày hoặc xôi nếp thường xuyên cho đến
khi khỏi bệnh.
+ Thịt rùa đen lượng vừa phải, nấu với thịt thỏ thành món ăn trong ngày. Ăn mấy ngày liền sẽ khỏi bệnh.
+ Lấy ruột 1 con gà trống làm sạch, đem xào lên thành món ăn.
+ Nấu xôi đậu đen ăn với gan lợn mấy ngày liền.
+ Phổi dê và thịt dê nấu cùng nhau, ăn với chút muối, gia vị hoặc nước mắm, tương...
BS Nông Thúy Ngọc, Nông Nghiệp Việt Nam
34. Chữa lông mày rụng theo y học cổ truyền
Gừng sống 1 miếng rửa sạch, giã nhỏ, vắt lấy nước, cho một ít sữa ong chúa vào khuấy đều. Mỗi tối
trước khi đi ngủ, dùng bút lông chấm vào nước thuốc rồi kẻ vào chỗ lông mày rụng, sáng dậy rửa mặt
như thường. Thuốc có công dụng làm da mềm mại và ấm, giúp lông mày mọc nhiều.
Sau đây là vài bài thuốc khác:
- Khi lông mày ngứa và rụng (do gãi nhiều) chỉ còn rất thưa thớt, hãy lấy lá liễu rủ (thùy dương), gừng sống mỗi thứ
một ít đem rửa sạch. Lá liễu hong khô, nghiền vụn; gừng sống vắt lấy nước. Cho 2 thứ vào trong một dụng cụ sạch bằng
sắt, điều chế thành thuốc dạng hồ. Mỗi buổi tối trước khi đi ngủ, chấm que bông vào thuốc đó, bôi lên lông mày, đồng
thời lấy tay xoa miết cho phát nóng lên. Mỗi ngày làm một lần, phải kiên trì trong một thời gian dài.
- Gừng sống 1 miếng, hạt cải 9 g, sinh bán hạ 3 g. Gừng rửa sạch, giã nhỏ, vắt lấy nước; hạt cải và sinh bán hạ rang
khô giòn, nghiền thành bột, hòa với nước gừng. Lấy bút lông sạch chấm vào thuốc, kẻ lên chỗ lông mày bị rụng ngày 3
lần. Thuốc có công hiệu nhuận da thịt, giúp mọc lông mày.
- Gừng sống và liên tử thảo mỗi thứ một ít, rửa sạch, để ráo nước, giã nhỏ, vắt lấy nước cốt. Lấy que bông nhúng
vào nước đó bôi lên chỗ lông mày rụng, đồng thời lấy tay xoa để cho thuốc ngấm vào da, ngày làm 2-3 lần.
BS Nông Thúy Ngọc, Nông Nghiệp Việt Nam
35. Chữa ho bằng hoa đu đủ đực

Để chữa ho, nhất là ho trẻ em, có thể lấy hoa đu đủ đực (chọn hoa mới nở) 10-20 g trộn với đường
trắng hoặc mật ong, hấp cơm trong 15-20 phút; sau đó lấy ra, nghiền nát; uống làm 2-3 lần trong ngày
với nước đun sôi để nguội.
Có thể kết hợp hoa đu đủ đực với các vị thuốc khác để chữa ho trong các trường hợp sau:
- Ho kèm theo mất tiếng:
Hoa đu đủ đực 15 g, lá hẹ 15 g, hạt chanh 10 g. Tất cả để tươi, nghiền nát rồi hòa với 20 ml, thêm ít mật ong hoặc
đường kính, uống làm 3 lần trong ngày. Dùng trong 2-3 ngày.
- Ho do viêm họng:
Hoa đu đủ đực 15 g, xạ can 10 g, củ mạch môn 10 g, lá húng chanh 10 g. Tất cả cho vào một bát nhỏ, thêm ít
muối, hấp cơm rồi nghiền nát. Ngày ngậm 2-3 lần, nuốt nước dần dần.
- Ho gà:
22
Hoa đu đủ đực 20 g (sao vàng), vỏ quýt lâu năm 20 g, vỏ rễ dâu 20 g (tẩm mật sao lên), củ bách bộ 12 g (phơi
khô), phèn phi 12 g. Tất cả tán nhỏ, rây bột mịn, ngày uống 3 lần. Trẻ em 1-5 tuổi mỗi lần uống 1-4 g; trẻ 6-10 tuổi mỗi
lần uống 5-8 g.
Hoặc: Hoa đu đủ đực, nghệ vàng mỗi thứ 15 g; trần bì 20 g (tẩm nước gừng sao lên), vỏ rễ dâu (tẩm mật rồi sao),
vỏ cây khế (sao vàng), chua me đất hoa vàng, cam thảo đất, lá chanh non mỗi thứ 30 g; rau má, lá lốt mỗi thứ 40 g. Tất
cả thái nhỏ, phơi khô, sắc với 400 ml nước còn 100 ml, uống làm hai lần trong ngày. Dùng trong 5-7 ngày.
DS Đỗ Huy Bích, Sức Khỏe & Đời Sống
36. Dược thảo chữa suy dinh dưỡng trẻ em
Y học cổ truyền gọi suy dinh dưỡng ở trẻ em là chứng cam. Bệnh này luôn liên quan đến sự tích trệ
thức ăn nên được gọi là cam tích. Đông y có rất nhiều vị thuốc đạt kết quả tốt trong điều trị bệnh này.
Trong y học cổ truyền, suy dinh dưỡng độ 1 được chữa như tiêu chảy; độ 2 (tiêu chảy suy dinh dưỡng) gọi là tỳ hư,
gây chứng cam; độ 3 gọi là can cam (cam thể khô). Các dược thảo chữa cam gồm:
Bạch thược: Có tác dụng kháng khuẩn, ức chế co thắt cơ trơn, giảm đau; được dùng chữa đau bụng, tiêu chảy do co
bóp quá mạnh, ra mồ hôi trộm, tiểu tiện khó. Ngày dùng 6-12 g bạch thược sống, dạng thuốc sắc.
Bạch truật: Có tác dụng chống viêm, chống loét các cơ quan đường tiêu hóa, chống suy giảm chức năng gan, tăng
tiết mật, lợi tiểu. Là vị thuốc bổ dùng điều trị bụng trướng đầy, ăn chậm tiêu, nôn mửa, tiêu chảy, phân sống, viêm ruột
mạn tính. Ngày dùng 6-12 g dưới dạng thuốc sắc hoặc bột.
Cà rốt: Ngoài công dụng làm thức ăn, cà rốt được dùng cho người gầy còm, thiếu máu, ăn uống chậm tiêu, chữa lỵ

mạn tính, trẻ em tiêu chảy, chậm lớn hay răng mọc chậm. Ngày dùng 20-50 g. Cà rốt còn được dùng làm nguyên liệu
chế thành caroten.
Chỉ thực: Chữa ăn uống không tiêu, đầy hơi, tích trệ, tiểu tiện khó. Ngày dùng 6-12 g dưới dạng thuốc sắc.
Đẳng sâm: Có tác dụng bổ toàn thân, kích thích miễn dịch, tăng hồng cầu. Được dùng chữa tỳ vị hay kém ăn, tiêu
chảy, cơ thể suy nhược.
Đậu ván trắng (bạch biển đậu): Quả non đậu ván trắng là món ăn giàu chất bổ, quả già cho hạt làm thuốc dùng bồi
bổ cơ thể, chữa tỳ vị hư nhược, chán ăn, tiêu chảy lâu ngừng, đau bụng, nôn mửa, đầy bụng khó tiêu, trẻ em cam tích.
Ngày dùng 6-12 g, sắc uống.
Hạt sen (liên nhục): Có tác dụng bổ tỳ, dùng điều trị tỳ hư, tiêu chảy mạn tính, kém ăn, cơ thể suy nhược. Ngày
dùng 12-30 g, dưới dạng thuốc sắc hoặc hoàn tán.
Hoài sơn: Là một vị thuốc bổ, chữa tỳ vị hư nhược, ăn uống kém tiêu, viêm ruột mạn tính, tiêu chảy kéo dài. Ngày
uống 12-24 g dạng thuốc sắc, thuốc bột.
Mạch nha: Chứa các chất men có tác dụng giúp tiêu hóa thức ăn có tinh bột, làm ăn ngon, trị sôi bụng.
Nga truật (nghệ đen): Có tác dụng tăng tiết mật, kích thích tiêu hóa, dùng chữa đau bụng, ăn không tiêu, đầy hơi.
Ngày dùng 3-6 g dưới dạng thuốc sắc hoặc thuốc bột.
Phục linh: Có tác dụng chống nôn, trị tiêu chảy kéo dài, tăng cường miễn dịch, bảo vệ gan. Được dùng làm thuốc bổ,
chữa tỳ hư, kém ăn, bụng đầy trướng, tiêu chảy. Ngày dùng 5-10 g dạng thuốc sắc hoặc thuốc bột.
Sa nhân: Sa nhân và tinh dầu sa nhân có tác dụng kháng khuẩn, kích thích và giúp tiêu hóa, chữa ăn không tiêu,
đau bụng lạnh, tiêu chảy. Ngày dùng 3-6 g dạng thuốc sắc hoặc hoàn tán.
Trần bì: Chữa ăn không tiêu, đau bụng, nôn mửa. Ngày dùng 4-12 g dạng thuốc sắc hay thuốc bột.
Ý dĩ: Do có lượng protid, chất béo và lượng tinh bột khá cao nên ý dĩ được coi là có tác dụng bổ, dùng chữa rối loạn
tiêu hóa, đau bụng, tiêu chảy, làm thuốc bồi dưỡng cơ thể, nhất là đối với trẻ em. Ý dĩ hầm với hạt sen và thịt nạc là một
loại thức ăn, thuốc điều trị người gầy yếu, trẻ em suy dinh dưỡng. Ngày dùng 8-30 g, dạng thuốc sắc.
Điều trị suy dinh dưỡng do tiêu chảy
Bệnh do tỳ hư, còn gọi là tỳ cam, tương ứng với suy dinh dưỡng độ 2. Triệu chứng: Mặt vàng, người gầy, miệng
khô, khát nước, sôi bụng, tiêu chảy. Có trường hợp do tân dịch giảm gây táo bón, bụng to, gân xanh nổi lên, nước tiểu
đục trắng, rêu lưỡi trắng. Phương pháp chữa chính là bổ khí, bổ tỳ vị.
- Hoài sơn 12 g, bạch truật, sinh địa mỗi vị 6 g; cam thảo nam, thạch môn mỗi vị 4 g; sa nhân 2 g. Sắc uống ngày
một thang.
- Hoài sơn, đậu ván trắng mỗi vị 8 g, bạch truật 6 g, chỉ thực, trần bì, kê nội kim mỗi vị 4 g. Sắc uống ngày một

thang. Nếu do tích trệ thức ăn, bụng trướng, thêm đại phúc bì, sơn tra, thần khúc mỗi vị 4 g. Nếu do nhiễm giun gây tích
trệ, đau bụng, thêm sử quân tử 4 g.
- Hoàng liên, thần khúc, mạch nha mỗi vị 6 g; bạch truật, trần bì, cam thảo, nga truật, thanh bì, sử quân tử, hoàng
liên mỗi vị 4 g; binh lang, tam lăng mỗi vị 2 g, lô hội 0,2 g. Sắc uống ngày một thang.
- Hoài sơn, ý dĩ, mạch nha mỗi vị 100 g; đẳng sâm, bạch truật mỗi vị 50 g; hạt cau, vỏ quýt mỗi vị 25 g. Tất cả sao
vàng, tán thành bột mịn, trộn đều, mỗi ngày uống 16-20 g bột.
- Chữa suy dinh dưỡng, tiêu chảy do nhiễm giun: Sơn dược, đậu ván trắng, sử quân tử, thần khúc mỗi vị 80 g;
hoàng liên, sơn tra, bạch đậu khấu mỗi vị 40 g; binh lang 20 g, ngân sài hồ, mạch nha mỗi vị 6 g; lô hội 5 g. Tán nhỏ
làm viên, ngày uống 4-8 g.
Điều trị suy dinh dưỡng thể khô
23
Bệnh do khí huyết hư, can thận hư, gọi là can cam, tương ứng với suy dinh dưỡng độ 3. Triệu chứng: Người gầy, da
khô, bộ mặt già, tinh thần mệt mỏi, kém ăn, tiếng khóc nhỏ, rêu lưỡi mỏng khô, lông, tóc khô. Ngoài ra còn có các triệu
chứng khác như khô loét giác mạc, loét miệng, tử ban (lắng đọng sắc tố), phù thũng… Phương pháp chữa là bổ khí
huyết, bổ can, thận tỳ vị.
- Thục địa 12 g; hà thủ ô, kê huyết đằng, ý dĩ, đậu đen, hạt sen mỗi vị 8 g; bạch truật, ngũ gia bì, kê nội kim mỗi vị
6 g. Sắc uống ngày một thang.
- Hoài sơn (sao) 60 g; phục linh, đậu ván trắng, sơn tra, mạch nha, thần khúc, đơn quy mỗi vị 45 g; bạch truật
(sao), trần bì, sử tử quân, mỗi vị 30 g; hoàng liên, cam thảo mỗi vị 20 g. Tán bột, rây mịn, trộn với mật ong hoàn thành
viên bằng hạt đậu xanh. Mỗi lần uống 3 g, ngày uống 2-3 lần.
- Đẳng sâm, bạch truật, thục địa, xuyên khung, đơn quy, bạch thược mỗi vị 8 g; phục linh 6 g; cam thảo 4 g. Sắc
uống ngày một thang. Nếu loét khô giác mạc, thêm kỷ tử, cúc hoa mỗi vị 8 g. Nếu loét miệng, thêm ngọc trúc, thăng ma
mỗi vị 6 g; hoàng liên 4 g. Nếu tử ban (lắng đọng sắc tố) thêm hoàng kỳ, a giao. Nếu có sốt mà xuất huyết, thêm sinh
địa, rễ cỏ tranh mỗi vị 12 g; đan bì 6 g. Nếu có phù dinh dưỡng, thêm phục linh 12 g, quế chi 2 g.
Theo VTV
37. Những món ăn “không đội trời chung” với nhau
Một số loại thực phẩm khi nấu chung, hoặc đưa vào cơ thể cùng một lúc có thể tương tác nhau gây
tình trạng khó tiêu hóa, ngộ độc hoặc nhiễm độc lâu dài cho cơ thể.
Trong chế biến món ăn, cũng như món ăn bài thuốc trị bệnh, nên lưu ý tránh những thức ăn “kị” nhau. Dưới đây là
một số lời khuyên của thầy thuốc Đông y, được đúc kết từ lâu đời:

+ Thịt heo không nên ăn với ốc bươu, cam thảo.
+ Thịt bò, thịt trâu không nên ăn chung với lươn và hẹ.
+ Gan dê không nên ăn với măng tre.
+ Măng tre không dùng chung với mạch nha.
+ Thịt chó không nên ăn với tỏi (vì sẽ gây khó tiêu).
+ Củ tỏi không nên ăn chung với cá trắm (vì sẽ dễ làm cho bụng chướng đầy, hay sinh ra sán).
+ Cua không nên dùng với cam, quít (vì dễ gây buồn nôn).
+ Thịt gà, trứng gà không nên ăn với quả lí.
+ Quả lí không nên nấu chung với cá trắm đen.
+ Cua không nên ăn với mật ong, kem, sẽ làm ứ trệ ở dạ dày.
+ Cua không nên ăn với bí đỏ.
+ Bí đỏ không nấu với tôm.
+ Thịt dê không nên ăn chung với bí ngô, hoặc không nên dùng nồi đồng để nấu.
+ Kị việc dùng cành củi cây dâu tằm để nấu thịt lươn.
+ Lươn kị nấu với táo đỏ.
+ Thịt lươn trắng kị ăn với giấm.
+ Cua không nấu với quả cà dái dê.
+ Bắp kị nấu với ốc.
+ Ốc không nấu với mì để ăn.
+ Cơm mà đậy không kĩ, để thằn lằn đái vào thì ăn sẽ bị ngộ độc...
Tùy theo mỗi người, mà những món ăn “kị” nhau sẽ gây nên những chứng như: khó tiêu, đau bụng, tiêu chảy. Thận
yếu thì phát theo chứng của thận, dạ dày yếu thì phát chứng dạ dày.
Theo Thanh Niên Online
38. Móng giò lợn trong phòng chữa bệnh
Theo dinh dưỡng học cổ truyền, móng giò lợn ngọt mặn, tính bình; có công dụng bổ huyết, thông sữa,
thường được dùng chữa các chứng bệnh như sản phụ khí huyết suy nhược, thiếu sữa hoặc mất sữa, ung
thũng, nhọt độc.
Sách Tùy tức cư ẩm thực phổ cho rằng móng giò có khả năng tăng thận tinh nên làm khỏe lưng và chân, bổ vị dịch
nên làm sáng da, mạnh cơ nên chữa được bệnh trĩ, trợ huyết mạch nên làm tăng lượng sữa, so với thịt còn bổ hơn
nhiều.

Theo dinh dưỡng học hiện đại, móng giò lợn khá giàu chất dinh dưỡng, ngoài đạm và chất béo còn có nhiều canxi,
phốt pho, sắt, magiê, mangan, kẽm, các vitamin B, A. Ngoài ra, móng giò còn có systine, myoglobin và là nguồn cung
cấp collagen rất tốt. Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh rằng: người già và người gầy yếu nếu thường xuyên ăn
móng giò sẽ cải thiện được chức năng tích nước kém của các tế bào mô, thúc đẩy quá trình tạo hemoglobin và hồng
cầu.
Để phát huy hiệu quả bổ dưỡng và chữa bệnh của loại thực phẩm này, người xưa thường sử dụng móng giò trong
các món ăn - bài thuốc:
Sản phụ thiếu máu, thiếu sữa:
24
Móng giò 2 cái (chừng 600 g), đương quy 30 g, nước sạch 1.000 ml. Móng giò làm sạch, chặt miếng, chần qua nước
sôi rồi đem hầm kỹ với đương quy, khi nhừ chế đủ gia vị, ăn nóng.
Móng giò 2 cái, đậu tương 100 g, nước sạch 1.500 ml, hành 50 g, gừng tươi 10 g và gia vị vừa đủ. Móng giò làm
sạch, chặt miếng, chần qua nước sôi; đậu tương đãi sạch. Hai thứ cho vào nồi hầm kỹ, khi nhừ chế đủ gia vị, chia ăn vài
lần trong ngày.
Móng giò 2 cái, lạc nhân 200 g, gừng 10 g, hành 50 g, muối 5 g, rượu trắng 2 thìa canh, nước sạch 1.500 ml. Móng
giò làm sạch, chặt miếng, cho vào nồi hầm thật nhừ cùng với lạc nhân, khi được chế đủ gia vị, chia ăn vài lần trong
ngày.
Móng giò 2 cái, hoàng kỳ 18 g, đương quy 10 g, xuyên sơn giáp 8 g, thông thảo 6 g. Sắc kỹ hoàng kỳ, đương quy,
xuyên sơn giáp và thông thảo lấy nước bỏ bã rồi cho móng giò vào hầm thật nhừ, chế đủ gia vị, ăn nóng. Dùng thích
hợp cho phụ nữ sau khi sinh con thiếu sữa, sữa loãng, thiếu máu, da khô, chán ăn, đại tiện lỏng nát.
Chống nếp nhăn:
Móng giò 2 cái, lạc nhân 100 g, đại táo 10 quả, nước sạch 1.000 ml. Ngâm đại táo và lạc nhân trong nước chừng
nửa giờ rồi vớt ra; chân giò làm sạch, chặt miếng. Tất cả cho vào nồi hầm thật nhừ, khi được chế đủ gia vị, chia ăn vài
lần trong ngày. Công dụng: Bổ khí ích huyết, hoạt huyết, phòng chống nếp nhăn trên da mặt.
An thần, chữa động kinh:
Móng giò 2 cái, tim lợn 1 quả, địa du tươi 30 g. Móng giò làm sạch, chặt miếng, chần qua nước sôi; tim lợn rửa sạch,
thái miếng. Tất cả đem hầm thật nhừ trong lửa nhỏ, khi được chế đủ gia vị, ăn nóng. Công dụng: Bổ khí, dưỡng huyết,
an thần, thường dùng để chữa bệnh động kinh.
Chữa lở loét:
Lấy một bộ móng lợn, thêm hành tươi nấu kỹ, vớt bỏ bọt, cho thêm một chút muối rồi lấy nước đó rửa các vết

thương bị nhiễm khuẩn, lở loét, sưng đau.
ThS Hoàng Khánh Toàn
Theo Sức Khỏe & Đời Sống
39. Dược thảo trị chấn thương và vết thương phần mềm
Nõn chuối tiêu, lá trầu không, bèo cái, lá sắn dây, nõn dứa... là những vị thuốc quen thuộc, dễ kiếm
nhưng lại chữa rất hiệu quả các vết thương phần mềm và chấn thương.
Cũng như y học hiện đại, cách chữa các vết thương phần mềm của y học cổ truyền cũng là cầm máu, rửa sạch vết
thương, làm mất các mô hoại tử, làm mọc mô hạt, liền vết thương. Đặc điểm của cách chữa cổ truyền là áp dụng đồng
thời các phương thuốc uống có tác dụng toàn thân để thúc đẩy liền vết thương và làm mất các mô hoại tử, kích thích
mọc mô hạt, làm liền da (sinh cơ). Kết quả điều trị tốt và tương đối nhanh.
Chữa vết thương phần mềm
Cầm máu nếu có chảy máu: Dùng nõn chuối tiêu (lấy cây non cao độ 60 cm, cắt sát gốc, bỏ bẹ ngoài, cắt từng đoạn
3-4 cm), rửa sạch, giã nhỏ đắp vào vết thương chảy máu rồi băng lại.
Rửa sạch vết thương: Sau khi cầm máu, rửa vết thương bằng nước thuốc: Lá trầu không tươi 40 g, đun sôi với 2 lít
nước trong 15 phút, để nguội cho thêm 6 g phèn phi, hòa tan, lọc rồi rửa vết thương.
Làm sạch vết thương: Làm sạch vết thương, hết nhiễm khuẩn và mủ tại chỗ, mất mô hoại tử và mùi hôi: Lá mỏ quạ
tươi rửa sạch, giã nát đắp vào vết thương. Mỗi ngày thay một lần đến khi vết thương sạch, màu đỏ tươi.
Làm chóng mọc mô hạt, sinh cơ và chóng liền da: Lá mỏ quạ, lá bòng bong, lá nọc sởi dùng tươi với lượng bằng
nhau, bỏ cọng, rửa sạch, giã nát đắp vào vết thương, hai ngày thay băng một lần.
Các bài thuốc uống có tác dụng toàn thân:
Chống khát do mất máu: Lá sắn dây rửa sạch, giã nát cho vào một bát nước đun sôi để nguội, thêm ít đường và vài
hạt muối, uống ngày một lần.
Làm mát máu tiêu độc, chống viêm nhiễm: Lá mặt quỷ (sao vàng) 40 g, nõn dứa dại 12 g, cánh bèo cái 8 g, gừng
sao cháy 4 g. Sắc uống ngày một thang.
Chữa nhiễm khuẩn quanh vết thương: Lá cúc tần 40 g, lá xạ can 20 g. Rửa sạch, giã n hỏ, đắp lên chỗ lở loét quanh
vết thương.
Chữa đụng dập, bầm máu, sưng tấy đau
Rượu xoa bóp làm khí huyết lưu thông, tiêu viêm, giảm đau, giãn gân cơ: Ô đầu, huyết giác mỗi vị 40 g, nghệ già 30
g; thiên niên kiện, địa liền mỗi vị 20 g; long não 15 g; đại hồi, quế chi mỗi vị 12 g. Tán nhỏ các vị thuốc, ngâm với một
lít rượu trong một tuần. Lọc bỏ bã, thêm rượu cho vừa đủ một lít. Xoa nhẹ nhàng lên chỗ bị sưng đau.

Thuốc bôi đắp làm khí huyết lưu thông, tiêu viêm, giảm đau: Bột cúc tần 800 g, bột quế chi 160 g, bột đại hoàng 80
g, sáp ong 200 g, dầu thầu dầu 2 lít. Các vị trên tán nhỏ, rây thành bột mịn, đun sôi dầu thầu dầu, cho sáp ong vào,
đánh tan, rồi tắt lửa, cho bột thuốc vào đánh nhuyễn làm thành cao. Dùng đắp.
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×