Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Báo điện tử với vấn đề phát triển bền vững vùng tây bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.52 MB, 118 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

AN THỊ THU HIỀN

BÁO ĐIỆN TỬ VỚI VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG VÙNG TÂY BẮC

Luận Văn Thạc sĩ

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

AN THỊ THU HIỀN

BÁO ĐIỆN TỬ VỚI VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG VÙNG TÂY BẮC

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Báo chí học
Mã số 60 32 01 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Đặng Thị Thu Hƣơng

Hà Nội - 2014
XÁC NHẬN ĐÃ CHỈNH SỬA THEO YÊU CẦU CỦA HỘI ĐỒNG



LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Hà Nội ngày 30 tháng 11 năm 2014
Người thực hiện luận văn
An Thị Thu Hiền

LỜI CẢM ƠN


Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo đã trang bị kiến thức,
tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện luận văn
này.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất, tôi xin gửi lời cảm ơn tới PGS.
TS Đặng Thị Thu Hương người đã khuyến khích, tận tình chỉ dẫn cho tôi trong suốt
thời gian thực hiện luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đã hợp tác,
chia sẻ thông tin, cung cấp cho tôi nhiều nguồn tư liệu quan trọng phục vụ cho đề
tài nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, tạo
điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn này.

Hà Nội ngày 30 tháng 11 năm 2014
Người thực hiện luận văn
An Thị Thu Hiền


MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................4
1. Lý do lựa chọn đề tài ...........................................................................................4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề...................................................................................6
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài .........................................................................8
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .........................................................................9
5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................10
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài .............................................................11
7. Cấu trúc luận văn ...............................................................................................12
CHƢƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, NHÀ NƢỚC VỀ VẤN ĐỀ PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG TÂY BẮC VÀ VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ ĐỐI
VỚI VẤN ĐỀ NÀY .................................................................................................13
1.1 Các khái niệm ..............................................................................................103
1.2 Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và con ngƣời Tây Bắc .......................147
1.3 Chủ trƣơng, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc về phát triển bền vững vùng
Tây Bắc ...............................................................................................................169
1.4 Đặc trƣng, thế mạnh của báo điện tử trong việc truyền thông về phát
triển bền vững ....................................................................................................192
Chƣơng 2: NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC THÔNG TIN VỀ VẤN ĐỀ PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG TÂY BẮC ..............................................................247
2.1 Giới thiệu các tờ báo điện tử và trang thông tin điện tử tổng hợp .........247
2.2 Kết quả khảo sát các tác phẩm báo điện tử thông tin về vấn đề phát triển
bền vững vùng Tây Bắc ......................................................................................31
2.3 Nội dung thông tin chính về vấn đề phát triển bền vững vùng Tây Bắc.............347
2.4 Hình thức thông tin về vấn đề phát triển bền vững vùng Tây Bắc.................48
CHƢƠNG 3: NHỮNG ƢU ĐIỂM, HẠN CHẾ VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG THÔNG TIN VỀ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN BỀN

VỮNG VÙNG TÂY BẮC TRÊN CÁC BÁO ĐIỆN TỬ....................................636
3.1 Những ƣu điểm của báo điện tử trong việc thông tin về vấn đề phát triển
bền vững vùng Tây Bắc .....................................................................................636


3.2 Những hạn chế của báo điện tử trong việc thông tin về vấn đề phát triển
bền vững vùng Tây Bắc .....................................................................................681
3.3 Nguyên nhân thành công, hạn chế của báo điện tử trong việc thông tin
phát triển bền vững vùng Tây Bắc.....................................................................77
3.4 Giải pháp nâng cao chất lƣợng thông tin phát triển bền vững vùng Tây
Bắc trên báo điện tử ..........................................................................................770
PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................881
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................9495


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

TN&MT

Tài nguyên và Môi trường

CNH

Công nghiệp hóa

HĐH

Hiện đại hóa



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Phát triển là vấn đề lớn và không dễ đối với các quốc gia, các dân tộc ở mọi
thời đại. Trong suốt thế kỷ XX và những thập kỷ đầu thế kỷ XXI, chúng ta đã
chứng kiến sự thành công và những thất bại từ phạm vi quốc gia đến toàn cầu trong
việc đi tìm lời giải bài toán mang tên phát triển này. Trong thời gian dài, tư duy về
phát triển không chỉ ở Việt Nam mà cả thế giới bị chi phối bởi khuynh hướng duy
kinh tế. Đúng là không thể nói đến phát triển nếu không giải quyết được vấn đề nền
tảng là phát triển kinh tế nhưng thực tiễn thế kỷ XX đã cho thấy, bên cạnh bước tiến
vượt bậc về kinh tế thì những hậu quả xấu, ngoài dự tính của chính quá trình phát
triển ấy ngày càng lộ rõ và trở thành yếu tố đe dọa chính sự tồn tại và phát triển của
mỗi xã hội và toàn nhân loại. Do đó, bài học rút ra là trong quá trình phát triển, con
người cần phải giải quyết mối quan hệ giữa con người, xã hội và thiên nhiên mà bản
chất của nó là phát triển bền vững.
Ở Việt Nam, trong hơn 20 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương
thực hiện đường lối đổi mới. Trong đó, phát triển bền vững là yêu cầu đối với sự
phát triển của cả nước nói chung và từng vùng nói riêng trong đó có Tây Bắc.
Tây Bắc là vùng có vị trí chiến lược quan trọng, có nhiều tiềm năng phát
triển kinh tế - xã hội nhưng thực trạng tình hình kinh tế - xã hội ở đây còn rất nhiều
khó khăn: tỷ lệ hộ nghèo cao nhất cả nước (25,6% hộ nghèo); di cư tự do, đặc biệt
trong vùng đồng bào dân tộc Mông vẫn tiếp diễn phức tạp; hoạt động của các loại
tội phạm, nhất là tội phạm ma túy còn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định an
ninh, trật tự...
Nhận thức rõ vai trò quan trọng và thực trạng vùng Tây Bắc, trong thời gian
qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách nhằm hỗ trợ, thúc đẩy vùng Tây
Bắc phát triển bền vững nhưng kết quả bước đầu đặt được còn khá khiêm tốn. Muốn
Tây Bắc tận dụng tối đa tiềm năng, thế mạnh để có thể phát triển mạnh mẽ, hòa nhập,
tiến tới góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của cả nước thì các cơ quan ban ngành
cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp trong đó có việc đẩy mạnh, tối ưu hóa mạng


1


lưới thông tin, đảm bảo thông tin liền mạch, thông suốt, liên tục từ trung ương đến địa
phương, giữa các tỉnh trong khu vực Tây Bắc với các địa phương trong cả nước, giữa
các cấp quản lý, các nhà hoạch định chính sách tới người dân, giữa các nhà đầu tư với
người sản xuất và ngược lại.
Báo chí có vai trò hết sức quan trọng trong việc truyền tải thông tin nhanh
chóng, rộng khắp tới đông đảo công chúng, tạo nên dòng chảy tương tác, liên thông
giữa các ngành, các lĩnh vực, tác động và chi phối đến mọi lĩnh vực khác nhau trong
tiến trình phát triển kinh tế - xã hội. Báo chí thực hiện chức năng chính trị, tư tưởng,
tác động vào ý thức xã hội để hình thành và củng cố một hệ tư tưởng, chính trị lãnh
đạo đối với xã hội thông qua những định hướng cụ thể của hệ thống đó. Đồng thời,
báo chí có khả năng truyền bá giáo dục, nâng cao dân trí để chính người dân tham
gia quản lý xã hội, môi trường, kinh tế, văn hóa… nhằm đảm bảo sự phát triển bền
vững của chính địa phương, quốc gia đó. Trong hệ thống báo chí, báo điện tử đang
là loại hình tỏ rõ sức mạnh, vị trí của mình. Với những ưu điểm vượt trội, hội tụ
những thế mạnh của báo in, báo phát thanh, báo hình cùng với việc ứng dụng những
tiến bộ mới của khoa học công nghệ, báo điện tử đang chứng tỏ hiệu quả trong việc
thông tin về vấn đề phát triển bền vững vô cùng hiệu quả.
Tuy vậy, tại Hội nghị các Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ, Tây Bắc và Tây Nguyên
ngày 16/3/2013, tổ chức tại Cần Thơ, các đại biểu đã chỉ rõ các tuyến thông tin
tuyên truyền về 3 vùng đặc biệt là Tây Bắc còn yếu, hạn chế và thiếu toàn diện. Đây
là vấn đề cần được nghiên cứu một cách nghiêm túc, có hệ thống, khoa học và bài
bản để đánh giá đúng thực trạng mạng lưới thông tin báo chí về vấn đề phát triển
bền vững vùng Tây Bắc. Từ đó đưa ra những kiến nghị giải pháp kịp thời, khả thi
nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả truyền thông, hỗ trợ và thúc đẩy phát triển
bền vững cho khu vực này.
Phát triển bền vững là một bức tranh chung. Việc phát triển bền vững đòi hỏi
phải tiến hành trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, khoa học, công nghệ…

Cũng cần khẳng định rằng, không phải chỉ có báo điện tử mới tham gia vào việc
thông tin phát triển bền vững mà các loại hình truyền thông khác cũng tham gia.

2


Tuy vậy với những ưu điểm vượt trội của mình, báo điện tử đang là loại hình lý
tưởng và tỏ rõ thế mạnh của mình trong việc truyền tải thông tin nói chung và thông
tin về vấn đề phát triển bền vững vùng Tây Bắc nói riêng. Với những lý do trên
chúng tôi đã lựa chọn, nghiên cứu đề tài Báo điện tử với vấn đề phát triển bền vững
vùng Tây Bắc.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tây Bắc là nơi có vị trí địa lý chiến lược, giàu tài nguyên thiên nhiên và có
truyền thống lịch sử hào hùng. Chính vì vậy, khu vực này là đối tượng của rất nhiều
các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Tuy nhiên, các nghiên cứu về Tây Bắc cho
đến hiện tại chủ yếu là nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, đặc điểm địa lý, dân tộc,
tôn giáo, lịch sử vùng Tây Bắc. Trong đó, nghiên cứu về lịch sử, các học giả trong
và ngoài nước chủ yếu nghiên cứu về Điện Biên Phủ lịch sử, với một loạt các công
trình như “The battle of Dien Bien Phu” (1963), “Hell in a very small place: The
Seige of Dien Bien Phu” (2002), Dien Bien Phu: The Epic Battle America Forgot
(2005),…hay “Tây Bắc – lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954- 1975‟
(1994), “Quân và dân Tây Bắc với chiến thắng Điện Biên Phủ” (1999), „Chiến dịch
tiến công Tây Bắc: thu đông 1952 (1992), “Tây Bắc – lịch sử kháng chiến chống
Mỹ cứu nước 1954 -1975” (1994), “Chiến thắng Điện Biên Phủ - mốc vàng lịch sử
chân lý thời đại” (2004), …
Ngoại trừ những nghiên cứu về lịch sử mà đặt biệt là chiến dịch Điện Biên
Phủ, vùng Tây Bắc cũng được nghiên cứu, tìm hiểu trong chỉnh thể các công trình
nghiên cứu về Việt Nam. Ví dụ, các học giả nước ngoài có các công trình cuốn
„Vietnam” (2010) của nhóm tác giả Nick Ray và Yu-Mei Balasingamchow hay
cuốn “Economic Growth, Poverty and Household Welfare in Vietnam”… Các học

giả trong nước có các công trình nghiên cứu như: “Thiên nhiên Việt Nam” (2008),
“Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam” (1978), “Âm nhạc dân gian Thái Tây Bắc”
(1998), “Truyện cổ và dân ca Thái vùng Tây Bắc” (2001), “Văn hóa bản làng truyền
thống các dân tộc Thái, Mông vùng Tây Bắc” (2002), “Văn hóa các dân tộc vùng
Tây Bắc: thực trạng và những vấn đề đặt ra” (2004)….

3


Trong khoảng một thập kỷ trở lại đây, vùng Tây Bắc được quan tâm nghiên
cứu nhiều dưới góc nhìn kinh tế học, nhân học và hoạch định chính sách. Một số tổ
chức quốc tế như UNDP, UNESCO, WHO, WB… đã có các công trình nghiên cứu
như „Những trở ngại về cơ sở hạ tầng của Việt Nam” (UNDP, 2010). Công trình
này đã chỉ ra những yếu kém về cơ sở hạ tầng ở vùng Tây Bắc đã hạn chế việc xóa
đói giảm nghèo ở đây, hay dự án „Phòng ngừa buôn bán phụ nữ và trẻ em” của Tổ
chức Lao động Quốc tế (ILO) đề cập đến vấn đề buôn bán phụ nữ, trẻ em xuyên
biên giới trong đó có biên giới Việt – Trung giai đoạn 2006-2008…Các nhà nghiên
cứu trong nước có các công trình nghiên cứu như: “Vấn đề quản lý, sử dụng, bảo vệ
môi trường và tài nguyên thiên nhiên ở các dân tộc thiểu số Việt Nam” (2003), hay
cuốn „Phát triển con người vùng Tây Bắc nước ta‟ (2010), “Cơ chế chính sách đặc
thù phát triển các tỉnh thuộc vùng Tây Bắc (2010)…
Về vấn đề vai trò, chức năng, nguyên tắc hoạt động và hiệu quả của báo chí
cũng đã xuất hiện khá nhiều các nghiên cứu. Ví dụ như “Cơ sở lý luận báo chí truyền
thông” (của các tác giả Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường và Trần Quang, đã tái
bản nhiều lần), “Truyền thông đại chúng và phát triển xã hội” (2008), “Báo chí truyền
thông và kinh tế văn hóa xã hội” (2005), “Tác động của những phương tiện truyền
thông mới đối với đời sống văn hóa của cư dân đô thị ở Việt Nam” (2006), bộ sách 8
tập „Báo chí – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” do khoa Báo chí và Truyền thông
(ĐH KHXH và NV) xuất bản…
Xét về góc độ nghiên cứu phát triển, các học giả nước ngoài cũng có một số

nghiên cứu về vai trò của báo chí đối với phát triển bền vững. Tuy vậy, đa phần các
nghiên cứu này được thực hiện ở các nước đang phát triển. Ví dụ công trình „Vai trò
của báo chí trong việc hỗ trợ xã hội phát triển bền vững” của Tim Bolt (2008)
nghiên cứu trường hợp của Bhutan hay hệ thống bài viết về „Vai trò của báo chí
trong phát triển bền vững” đăng trên tạp chí Tropical Coasts (12.2003) trong đó
nhấn mạnh vai trò của báo chí truyền thông trong việc tuyên truyền, giáo dục công
chúng đẩy mạnh phát triển kinh tế cần quan tâm đến môi trường và các yếu tố văn
hóa, xã hội…

4


Những công trình nghiên cứu về báo chí học trên địa bàn Tây Bắc cho đến
nay, chỉ có một số công trình nghiên cứu ở bậc khóa luận hay luận văn Thạc sỹ là
đề cập đến các địa phương trong khu vực này. Ví dụ khóa luận „Hiệu quả phát thanh
bằng tiếng dân tộc của đài PT-TH Lai Châu” (Nguyễn Văn An, 2002), Bản sắc văn
hóa dân tộc Mường (một số loại hình sinh hoạt văn hóa truyền thống của dân tộc
Mường được phản ánh trên báo Hòa Bình) (Nguyễn Thị Phượng 2004), hay luận
văn Cao học „Hệ thống phát thanh truyền hình Sơn La – thực trạng và giải pháp
nâng cao chất lượng” (Lê Bá Quyên, 2010)…
Theo tìm hiểu của chúng tôi cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu
về Tây Bắc dưới góc nhìn báo chí học, đặc biệt là nghiên cứu về vai trò, thành công
và hạn chế của báo điện tử trong việc phát triển bền vững vùng Tây Bắc, từ đó đề
xuất giải pháp kiến nghị nâng cao chất lượng và hiệu quả của báo điện tử đối với
việc phát triển bền vững vùng Tây Bắc. Do vậy, “Báo điện tử với vấn đề phát triển
bền vững vùng Tây Bắc” là một đề tài thú vị, sẽ đem lại thông tin mới mẻ trong lĩnh
vực nghiên cứu báo chí truyền thông nói chung và báo điện tử nói riêng, đồng thời
có nhiều đóng góp về lý luận và thực tiễn đối với việc phát triển bền vững vùng Tây
Bắc.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài

Mục đích của đề tài
- Khẳng định vai trò quan trọng của báo chí, đặc biệt là báo điện tử đối với
việc phát triển bền vững vùng Tây Bắc. Đánh giá thực trạng, thành công và hạn chế
của báo điện tử hiện nay với vấn đề phát triển bền vững vùng Tây Bắc. Từ đó, đề
xuất các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của báo điện tử đối với vấn đề này.
Nhiệm vụ của đề tài
- Hệ thống hóa lý luận về truyền thông phát triển, về định hướng của Đảng,
Nhà nước đối với phát triển bền vững vùng Tây Bắc và vai trò của báo điện tử đối
với vấn đề này.

5


- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng các báo điện tử của Trung Ương,
báo ngành và địa phương về các mặt nội dung, hình thức thông tin phát triển bền
vững vùng Tây Bắc.
- Đánh giá ưu, nhược điểm của báo điện tử đối với vấn đề thông tin phát
triển bền vững vùng Tây Bắc và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng báo chí về
vấn đề này.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các báo điện tử trong việc thông tin về
vấn đề phát triển bền vững vùng Tây Bắc.
Phạm vi nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài “Báo điện tử với vấn đề phát triển bền vững vùng Tây
Bắc”, chúng tôi chọn và tập trung nghiên cứu các tờ báo điện tử điển hình là: Nhân
dân điện tử, Báo Đầu tư điện tử, Văn hóa điện tử, Sơn La điện tử và Lai Châu điện
tử. Trong đó, Nhân dân điện tử là cơ quan Trung ương của Đảng cộng sản Việt
Nam, tiếng nói của Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam. Báo Đầu tư điện tử là
diễn đàn đầu tư và kinh doanh, cơ quan của Bộ kế hoạch và đầu tư. Báo Văn hóa
điện tử là cơ quan của bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Báo Sơn La điện tử là Cơ

quan của Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh Sơn La, tiếng nói của Đảng bộ,
chính quyền và nhân dân các dân tộc Sơn La. Báo Lai Châu điện tử là Cơ quan của
Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh Lai Châu, tiếng nói của Đảng bộ, chính
quyền và nhân dân tỉnh Lai Châu. Đặc biệt, để đảm bảo nghiên cứu thông tin vấn đề
phát triển bền vững vùng Tây Bắc được toàn diện, chúng tôi đã quan tâm đến vấn
đề môi trường vùng Tây Bắc. Tuy vậy, cho đến thời điểm hiện tại, nước ta chưa có
tờ báo điện tử nào chuyên về Môi trường. Do đó, chúng tôi lựa chọn và bổ sung
trang thông tin điện tử tổng hợp Tài nguyên và Môi trường vào phạm vi nghiên cứu.
Đây là ấn phẩm của báo Tài nguyên và Môi trường – Cơ quan của Bộ Tài nguyên
và Môi trường.

6


Về thời gian, chúng tôi tiến hành nghiên cứu 05 trang báo điện tử và 01 trang
thông tin tổng hợp kể trên thông tin về vấn đề phát triển bền vững vùng Tây Bắc từ
tháng 1/2013 đến hết tháng 6/2014.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiê ̣n đề tài này , chúng tôi áp dụng một số phương pháp nghiên cứu
sau đây:
Phương pháp nghiên cứu li ̣ch sử và sử dụng các tài liê ̣u th

ứ cấp. Để thực

hiện đề tài, chúng tôi tiến hành sưu tầ m các văn kiê ̣n , chỉ thị, tư liê ̣u của Đảng và
Nhà nước liên quan đến việc xã hội hóa thông tin báo chí nhằm tìm hiểu chủ
trương, đường lố i , đinh
̣ hướng của Đảng và Nhà nước về vấ n đề này

. Đồng thời


chúng tôi tâ ̣p hơ ̣p , hê ̣ thố ng tài liê ̣u lý luâ ̣n từ các sách, tạp chí, các công trình khoa
học (trong và ngoài nước) có liên quan đến đề tài.
Phương pháp nghiên cứu trường hợp . Đề tài nghiên cứu trường hợp báo điện
tử Sơn La và Lai Châu là các cơ quan báo chí địa phương, đại diện cho báo chí các
tỉnh vùng Tây Bắc thông tin về vấn đề phát triển bền vững ở địa phương. Đồng thời,
đề tài khảo sát, nghiên cứu trường hợp một số tờ báo điện tử trung ương như Nhân
dân điện tử và báo ngành, lĩnh vực như Đầu tư điện tử, Văn hóa điện tử và trang
thông tin điện tử tổng hợp Tài nguyên và Môi trường để nghiên cứu về vấn đề hỗ
trợ, thúc đẩy, thực trạng phát triển trong từng ngành, từng lĩnh vực liên quan đến
vấn đề phát triển bền vững vùng Tây Bắc.
Phương pháp phân tích nội dung: Đề tài sử dụng phương pháp này để khảo
sát, phân tích nội dung và hình thức tin, bài của một số báo điện tử tiêu biểu cho
vùng Tây Bắc (Sơn La điện tử, Lai Châu điện tử) và đại diện cơ quan báo trung
ương (Nhân dân điện tử), báo ngành, lĩnh vực (Đầu tư điện tử, Văn hóa điện tử,
trang thông tin điện tử tổng hợp Tài Nguyên và Môi trường) để đánh giá thực trạng,
thành công và hạn chế của báo điện tử trong việc hỗ trợ, thúc đẩy phát triển bền
vững vùng Tây Bắc.
Phương pháp phỏng vấn sâu: Đề tài phỏng vấn các phóng viên, chuyên gia
về báo chí, về kinh tế, văn hóa, môi trường… để tổng hợp ý kiến đóng góp của các

7


chuyên gia đối với vấn đề phát triển bền vững vùng Tây Bắc và quan trọng hơn là
vai trò, trách nhiệm, nhiệm vụ của báo chí đối với vấn đề phát triển bền vững khu
vực này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa lý luận
Đề tài góp phần làm sáng rõ, và phong phú hơn lý luận về vai trò của báo

chí, ảnh hưởng, tác động của báo chí tới việc phát triển bền vững ở địa phương.
Đồng thời, đề tài cung cấp những luận điểm khoa học, hệ thống hóa cơ sở lý luận và
phương pháp nghiên cứu về vai trò của báo điện tử đối với sự phát triển bền vững
một địa phương, một khu vực. Bên cạnh đó, đề tài sẽ tổng kết, nêu rõ thực trạng,
thành công và hạn chế của báo điện tử trong việc hỗ trợ và thúc đẩy phát triển bền
vững một địa phương, cụ thể là Tây Bắc.
Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài khảo sát, đánh giá thành công và hạn chế của báo điện tử trong việc
thông tin hỗ trợ, thúc đẩy phát triển kinh tế của vùng Tây Bắc, từ đó, đề xuất các
giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của báo chí trong lĩnh vực
này. Đây là một trong những yếu tố tạo điều kiện cho khu vực Tây Bắc phát triển
bền vững trong tương lai.
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là tài liệu tham khảo cho các địa phương
cũng như các ngành khác trong việc khai thác, sử dụng báo chí trong việc hỗ trợ,
thúc đẩy phát triển bền vững ở địa phương, ở ngành mình.
Những đánh giá về thành công và hạn chế của báo điện tử và những đề xuất
cụ thể của đề tài về việc nâng cao chất lượng nội dung và hình thức của các sản
phẩm báo chí hỗ trợ, thúc đẩy phát triển bền vững, sẽ tạo điều kiện để các cơ quan
báo chí nâng cao được chất lượng và hiệu quả trong truyền thông.
Đề tài là tài liệu tham khảo có ích trong các cơ sở đào tạo báo chí, để định
hướng trách nhiệm cho những nhà báo tương lai trong việc hỗ trợ, thúc đẩy phát
triển bền vững ở địa phương mình.
7. Cấu trúc luận văn

8


Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được chia thành ba chương
như sau:
Chương 1: Quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển bền vững vùng Tây

Bắc và vai trò, nhiệm vụ của báo chí đối với vấn đề này
Chương 2: Nội dung và hình thức thông tin về vấn đề phát triển bền vững
vùng Tây Bắc
Chương 3: Những thành công, hạn chế và một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng thông tin về vấn đề phát triển bền vững vùng Tây Bắc trên các báo điện
tử

9


CHƢƠNG 1
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, NHÀ NƢỚC VỀ VẤN ĐỀ
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG TÂY BẮC VÀ VAI TRÒ CỦA
BÁO CHÍ ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ NÀY
1.1 Các khái niệm
1.1.1 Báo điện tử
Hiện nay, việc sử dụng thuật ngữ định danh loại hình báo chí mà thông tin
được truyền tải và tiếp nhận qua mạng internet vẫn là vấn đề đang được tranh cãi. Ở
Việt Nam và trên thế giới, đang tồn tại nhiều cách gọi khác nhau đối với loại hình
báo chí này như: Báo trực tuyến (Online Newpaper), Báo điện tử (Electronic
Journal), báo mạng (Cyber Newspaper), báo chí Internet (Internet Newspaper), báo
mạng điện tử.…
Tuy vậy, báo điện tử là khái niệm thông dụng nhất ở nước ta. Nó gắn liền với
tên gọi của nhiều tờ báo điện tử thuộc cơ quan Đảng và Nhà nước. Mặt khác trong
điều 3, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật báo chí năm 1999, loại hình này
được gọi là báo điện tử và được quy định: Báo điện tử là loại hình báo chí được
thực hiện trên mạng thông tin máy tính bằng tiếng Việt, tiếng các dân tộc thiểu số
Việt Nam, tiếng nước ngoài.
Cùng với việc quy định tên gọi và khái niệm báo điện tử, Chính phủ cũng
ban hành nghị định số 97/2008/NĐ – CP ngày 28/8/2008 về quản lý, cung cấp, sử

dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet. Trong đó, Chính phủ quy
định về một số khái niệm khác như sau:
Thông tin điện tử trên Internet là thông tin được cung cấp, truyền đưa, thu
thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông qua mạng lưới thiết bị internet.
Trang thông tin điện tử trên Internet là trang thông tin điện tử hoặc tổng hợp
trang thông tin phục vụ cho việc cung cấp và trao đổi thông tin trên môi trường
Internet bao gồm trang thông tin điện tử (website), trang thông tin điện tử cá nhân
(blog), cổng thông tin điện tử (portal) và các hình thức tương tự khác.

10


Trang thông tin điện tử tổng hợp là trang thông tin điện tử trên Internet của
tổ chức hoặc doanh nghiệp cung cấp thông tin tổng hợp về chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội trên cơ sở trích dẫn lại thông tin từ nguồn chính thức của các cơ quan
báo chí hoặc các trang thông tin điện tử của các cơ quan Đảng và Nhà nước. Trang
thông tin điện tử tổng hợp muốn hoạt động phải được cấp giấy phép của Bộ Thông
tin và Truyền thông [34] .
1.1.2 Phát triển và phát triển bền vững
Phát triển: Phát triển là biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp
đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp [37, tr.797].
Tuy vậy, xét về việc nghiên cứu sự phát triển kinh tế, xã hội thì giới nghiên
cứu có rất nhiều quan điểm và lý thuyết khác nhau như lý thuyết hiện đại hóa, lý
thuyết sự phụ thuộc, lý thuyết đa dạng hóa…trong đó, không ít người thường đánh
đồng phát triển là tăng trưởng kinh tế hoặc thịnh vượng về kinh tế. S.R. Melkote
(Giáo sư tại Khoa Viễn thông, Đại học Bowling Green State, Mỹ) trong bài nghiên
cứu khoa học “Lý thuyết truyền thông phát triển” cho rằng, người ta thường nhầm
tưởng mức độ phát triển được đo bằng “Tổng thu nhập quốc nội GDP và mọi nhân tố
trong nước được huy động để tăng cường và duy trì mức độ tăng trưởng GDP, nhất là
trong những ngành tập trung nhiều vốn và công nghệ với nguyên tắc sở hữu tư nhân,

tự do thương mại và thị trường tự do” [36, tr. 39].
Từ cách tiếp cận này, cả thế giới dịch chuyển theo hướng sản xuất hàng
loạt và tiếp theo là chủ nghĩa tiêu dùng. Việc làm này đã dẫn đến những vấn đề
nghiêm trọng khi tài nguyên bị khai thác cạn kiệt và môi trường bị hủy hoại. Bởi
vậy, HĐH hay CNH không thể là lời giải cho bài toán phát triển bởi đời sống
người dân hoặc mức sống của xã hội không thể được cải thiện nếu người dân
không có nước sạch, không khí trong lành. Hơn nữa, tại các quốc gia nghèo đang
áp dụng mô hình HĐH, khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia tăng và “truyền
thống văn hóa sẽ bị hủy hoại nếu người dân các nước này muốn hiện đại hóa”
[36, tr. 39, 40].

11


S. R. Melkote đã đưa ra một khái niệm tổng quát: “phát triển là quá trình có thể
đem lại cho con người các cơ hội thích hợp và bền vững để cải thiện cuộc sống của họ
và cuộc sống của những người khác trong cộng đồng của mình” [36, tr. 40].
Như vậy, chúng ta có thể hiểu vấn đề phát triển trong nhận thức chung bao
gồm sự tiến bộ trong sự giàu có về vật chất được đo bằng sự gia tăng của GDP trên
đầu người hay thu nhập thực nhưng nó cũng bao gồm sự biến đổi trong các chỉ số
xã hội phản ánh chất lượng sống của con người như mức dinh dưỡng của người dân,
tình trạng sức khoẻ, mức độ biết chữ, mức độ tham gia vào giáo dục, tiêu chuẩn của
các dịch vụ an sinh xã hôi và dịch vụ công cũng như các chỉ số môi trường như chất
lượng không khí và nước. Trong quan điểm này, phát triển con người và phát triển
văn hoá đã thẩm thấu vào lý thuyết một cách đầy đủ hơn trong thế giới đang phát
triển. Do đó, không có một mô hình phát triển mang tính phổ biến để có thể áp dụng
toàn cầu. Sự phát triển là một quá trình tự thân, đa chiều và đối thoại, khác nhau
trong các xã hội khác nhau. Vì vậy, mỗi quốc gia cần phải cố gắng để xác định cho
mình chiến lược phát triển riêng phù hợp với những điều kiện đặc thù về chính trị,
kinh tế, văn hoá và sinh thái của mình.

Đối với Việt Nam, thuật ngữ “phát triển” cần được hiểu ở nhiều mức độ khác
nhau. Trước hết nó cần được hiểu là các nhu cầu cơ bản của người dân được đáp
ứng. Khi trong xã hội vẫn còn người nghèo và đói, nhiệm vụ đầu tiên của phát triển
là đem lại cho họ lương thực, y tế và giáo dục. Còn tại các khu vực thành thị và khu
công nghiệp, phát triển cần được hiểu là bảo vệ môi trường và các giá trị truyền
thống.
Phát triển bền vững
Để đưa ra khái niệm phát triển bền vững như ngày nay, nhân loại đã phải trải
qua một quá trình nhận thức lâu dài. Có thể chia quá trình ấy làm hai giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất ( Từ thế kỷ XVIII đến năm 1987). Đây là quá trình tìm tòi
và xác nhận nội hàm khái niệm. Từ cuộc cách mạng công nghiệp thế kỷ XVIII đến
sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, ý tưởng phát triển bền vững đã hình thành. Ban
đầu chủ yếu là vấn đề bảo vệ môi trường. Sau các thảm họa Bhopal (Ấn Độ - 1984)

12


và Chernobyl năm 1986 thì những nhận thức sâu sắc về nguy cơ môi trường do con
người gây ra cũng như mối quan hệ giữa môi trường và phát triển càng được quan
tâm mạnh mẽ. Do đó, năm 1987, báo cáo “Tương lai chung của chúng ta” (Báo cáo
Bruntland), do Uỷ ban thế giới về môi trường và phát triển (WCED) đưa ra đã xác
định nội hàm của khái niệm, làm tiền đề cho nhận thức của con người.
Giai đoạn thứ 2: Đây là giai đoạn hoàn thiện và đưa ý tưởng phát triển bền
vững vào thực tiễn với hai mốc quan trọng:
- Năm 1992, Hội nghị Thượng đỉnh trái đất về Môi trường và Phát triển do
Liên hợp quốc tổ chức tại Rio de Jannero (Brasil) với sự tham dự của 172 quốc gia
trên thế giới. Hội nghị đã thông qua một số văn kiện quan trọng, tiêu biểu là Tuyên
ngôn Rio – 92 và Chương trình nghị sự 21 (Agenda 21).
- Năm 2002, Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về Phát triển bền vững được tổ
chức tại Johannesburg (Nam phi) với 166 nước tham dự. Hội nghị đã thông qua

tuyên bố Johannesburg và Bản kế hoạch thực hiện phát triển bền vững, khẳng định
lại các nguyên tắc đã đề ra trước đây và tiếp tục cam kết thực hiện Agenda 21. Theo
đó, “Phát triển bền vững là phát triển kinh tế - xă hội lành mạnh, dựa trên việc sử
dụng hợp lý tài nguyên và bền vững môi trường nhằm đáp ứng nhu cầu của con
người hiện nay và không ảnh hưởng bất lợi đối với các thế hệ tương lai trong việc thỏa
mãn nhu cầu của họ”[51, tr. 3].
Ở nước ta, khái niệm phát triển bền vững được biết đến, triển khai nghiên
cứu lý luận bởi các nhà khoa học vào khoảng cuối thập kỷ 80 - đầu thập kỷ 90 của
thế kỷ XX. Tại Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25-6-1998 về tăng cường công tác bảo
vệ môi trường trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, Bộ Chính trị nhấn mạnh: “Bảo
vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ
trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở
quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước”.
1.1.3 Vùng Tây Bắc
Giới nghiên cứu hiện nay vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm
vùng Tây Bắc Việt Nam. Có người cho rằng vùng Tây Bắc bao gồm 4 tỉnh là Hòa

13


Bình, Sơn La, Lai Châu (sau này có thêm Điện Biên) và Lào Cai [10, tr. 22]. Trong
khi đó, có nhà nghiên cứu lại cho rằng: đại thể Tây Bắc bao gồm lãnh thổ 2 tỉnh Sơn
La, Lai Châu (cả Điện Biên), một phần các tỉnh Lào Cai, Yên Bái và Hòa Bình [7,
tr. 23]. Theo phân loại của nhà địa lý học Lê Bá Thảo, vùng Tây Bắc bao gồm các
tỉnh Lai Châu (cả Điện Biên), Sơn La, Hòa Bình, vùng núi Thanh - Nghệ và một
phần các tỉnh Lào Cai, Yên Bái như là „vùng đệm” giữa Tây Bắc và Đông Bắc [48,
tr 37,77]…
Tuy vậy, trong công trình nghiên cứu này, chúng tôi nhìn nhận vùng Tây Bắc
là địa bàn hoạt động của Ban Chỉ đạo vùng Tây Bắc hiện nay. Theo đó, vùng Tây

Bắc gồm 12 tỉnh là Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hoà
Bình, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Phú Thọ, Tuyên Quang, 11 huyện phía Tây
Thanh Hóa gồm: Quan Hoá, Quan Sơn, Mường Lát, Bá Thước, Lang Chánh, Cẩm
Thuỷ, Ngọc Lặc, Thạch Thành, Thường Xuân, Như Xuân, Như Thanh và 10 huyện
phía Tây Nghệ An gồm: Kỳ Sơn, Tương Dương, Con Cuông, Anh Sơn, Tân Kỳ,
Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn, Thanh Chương.
1.2 Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và con ngƣời Tây Bắc
Vùng Tây Bắc là địa bàn chiến lược trọng yếu, nơi có 2 tuyến đường biên giới
với tổng chiều dài hơn 2500km tiếp giáp với Trung Quốc và Lào. Đây là địa bàn sinh
sống của hơn 11,6 triệu dân, trong đó trên 63% là đồng bào dân tốc ít người.
Tây Bắc có địa hình hiểm trở, có nhiều khối núi và dãy núi cao chạy theo
hướng Tây Bắc - Đông Nam. Dãy Hoàng Liên Sơn dài tới 180 km, rộng 30 km, với
một số đỉnh núi cao trên 2800m. Dãy núi Sông Mã dài 500 km, có những đỉnh cao
trên 1800m. Giữa hai dãy núi này là vùng đồi núi thấp lưu vực sông Đà (còn gọi là
địa máng sông Đà). Trong địa máng sông Đà còn có một dãy cao nguyên đá vôi
chạy suốt từ Phông Thổ đến Thanh Hóa và có thể chia nhỏ thành các cao nguyên
như Tà Phình, Mộc Châu, Nà Sản và các bồn địa như Điện Biên, Nghĩa Lộ, Mường
Thanh. Vùng Tây Bắc có nhiều sông lớn như sông Đà, sông Hồng, sông Gâm, một
phần sông Mã…. Ngoài ra, Tây Bắc còn có nhiều hệ thống sông nhỏ và suối. Điều
này tạo điều kiện cho vùng là nơi nắm giữ và cung cấp nguồn nước và điện năng
cho toàn bộ vùng châu thổ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Hiện tại đã có nhiều dự án lớn

14


được đầu tư, góp phần làm thay đổi bộ mặt vùng Tây Bắc, như các dự án: Thuỷ điện
Sơn La, Nhà máy Gang thép Lào Cai, Nhà máy Xi măng Yên Bình (Yên Bái), Nhà
máy tuyển quặng Apatit Cam Đường (Lào Cai). Kết cấu hạ tầng giao thông, thủy
lợi, nước sạch, điện, viễn thông được đầu tư xây dựng làm tăng năng lực mới cho
sản xuất và nền kinh tế.

Mặc dù nền khí hậu chung của vùng Tây Bắc không có sự khác biệt lớn giữa
các khu vực, nhưng sự biểu hiện của nó không giống nhau theo chiều nằm ngang và
theo chiều thẳng đứng. Do ở độ cao từ 800-3000m nên khí hậu vùng Tây Bắc ngả
sang á nhiệt đới và nhiều nơi cao như Sìn Hồ có cả khí hậu ôn đới. Hơn nữa, địa
hình lại chia cắt bởi các dãy núi, các dòng sông, khe suối, tạo nên những thung
lũng, có nơi lớn thành lòng chảo như vùng Nghĩa Lộ, Điện Biên. Do vậy, thiên
nhiên Tây Bắc rất đa dạng, thổ nhưỡng nhiều loại hình.
Vùng Tây Bắc còn là địa bàn có nhiều loại tài nguyên khoáng sản có giá trị
như các mỏ apatit, sắt, đá vôi, đất hiếm, đa kim, đa khoáng... Đây là lợi thế để vùng
phát triển các ngành công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản, thuỷ điện, sản
xuất giấy, sản xuất xi măng, chế biến gỗ.
Tây Bắc là nơi sở hữu những nguồn tài nguyên vô cùng to lớn, phong phú và
quý báu. Đó là kho tàng văn hóa vật thể và phi vật thể của hơn 30 dân tộc anh em
được phát triển, bồi tụ và kết tinh từ hàng nghìn năm trong suốt chiều dài lịch sử
dựng nước và giữ nước, xây dựng quê hương mường bản, giao lưu văn hóa nội
vùng và liên vùng. Tây Bắc lại là vùng đất chiến khu cách mạng, có truyền thống
lịch sử hào hùng. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Tây Bắc là nơi diễn ra
nhiều trận đánh và chiến dịch quân sự ác liệt mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên
Phủ chấn động địa cầu. Bên cạnh đó, Tây Bắc còn nổi tiếng với những địa danh du
lịch như Tú Lệ, cao nguyên Đồng Văn, Mù Cang Chải, Hoàng Su Phì, Mã Pí
Lèng...
Mặc dù là vùng rất giàu tiềm năng nhưng thực trạng Tây Bắc vẫn là vùng có
tỷ lệ hộ nghèo gần 26 % (cao gấp 3 lần so với trung bình chung của cả nước), số
huyện nghèo chiếm gần 70 % của cả nước, môi trường đầu tư kinh doanh chưa
thuận lợi, chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của nhiều tỉnh Tây Bắc (do VCCI công

15


bố) còn ở mức thấp. Tây Bắc còn nhiều khó khăn về nguồn nhân lực, chất lượng giáo

dục và dạy nghề thấp nhất trong cả nước [25].
1.3 Chủ trƣơng, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc về phát triển bền vững vùng
Tây Bắc
Phát triển bền vững là xu thế chung mà toàn nhân loại đang nỗ lực hướng tới.
Đó cũng là mục tiêu chiến lược quan trọng mà Đảng, Chính phủ và nhân dân ta
quyết tâm thực hiện. Do đó, phát triển bền vững đã trở thành đường lối, quan điểm
của Đảng, chủ trương, chính sách của Nhà nước và được thể hiện rõ nét trong các
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc gia cũng như của
các ngành và địa phương trong cả nước.
Quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển bền vững được thể hiện rõ
thông qua hàng loạt các thông tư, chỉ thị. Cụ thể, tại Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 256-1998 về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ CNH, HĐH đất
nước, Bộ Chính trị nhấn mạnh: “Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không
thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”[12]. Để thực hiện
các mục tiêu phát triển bền vững đất nước, Chính phủ đã ban hành "Định hướng
chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam" (Chương trình nghị sự 21 của Việt
Nam). Đi liền với đó là chương trình nghị sự 21 của một số ngành và địa phương
cũng đã được xây dựng. Đồng thời, Chính phủ cũng ban hành hàng loạt chính sách
trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường như Chiến lược Phát triển kinh tế - xã
hội 1991 - 2000; Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị về tăng
cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước và được tái khẳng định trong các văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, X và XI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chiến lược Phát triển kinh tế - xã
hội 2011 - 2020 cũng nhấn mạnh “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững,
phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược”.
Trong thời gian vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã ký nhiều công ước quốc tế
có liên quan tới phát triển bền vững. Các cam kết này đã được Chính phủ giao cho

16



các Bộ, ngành có liên quan làm đầu mối, chịu trách nhiệm quản lý, phối hợp tổ
chức, lồng ghép trong các kế hoạch và chương trình phát triển ở các cấp để thực
hiện. Hệ thống tổ chức Hội đồng Phát triển bền vững quốc gia đã được thành lập, có
chức năng tư vấn, giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo tổ chức thực hiện định hướng
chiến lược phát triển bền vững trong phạm vi cả nước và giám sát, đánh giá việc
thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững đó. Ban Chỉ đạo, Hội đồng phát triển
bền vững và Văn phòng phát triển bền vững cũng đã được thành lập ở một số Bộ,
ngành và địa phương để triển khai thực hiện định hướng chiến lược phát triển bền
vững. Đồng thời, chúng ta cũng đã thành lập Hội đồng Doanh nghiệp vì sự phát
triển bền vững Việt Nam (VBCSD) nhằm xây dựng một cộng đồng doanh nghiệp
Việt Nam bền vững, năng động và hội nhập thành công trong thế kỷ 21, góp phần
vào sự phát triển bền vững của quốc gia.
Trong quá trình thực hiện phát triển bền vững, các nguyên tắc và mục tiêu
phát triển bền vững quốc tế đã được cụ thể hóa phù hợp với điều kiện đất nước và
được lồng ghép vào những chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế, xã
hội của quốc gia, cũng như của các Bộ, ngành và địa phương trong đó gắn kết và
hài hòa các mục tiêu, chỉ tiêu kinh tế, xã hội, môi trường.
Với vị trí địa chính trị, kinh tế, sinh thái và văn hóa đặc biệt quan trọng, vùng
Tây Bắc và đồng bào Tây Bắc luôn được Đảng, Chính phủ và nhân dân cả nước
quan tâm. Nhiều năm qua, Đảng, Chính phủ đã thể hiện sự quan tâm ấy bằng nhiều
chính sách ưu đãi và chương trình hành động thiết thực về phát triển kinh tế - xã
hội, xoá đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội vùng.
Đầu năm 2004, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 37-NQ/TW về
phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng trung
du và miền núi Bắc Bộ. Sau đó, ngày 24/8/2004, bộ Chính trị quyết định thành lập
Ban Chỉ đạo Tây Bắc đặc trách việc giúp Trung ương chỉ đạo thực hiện nghị quyết
37-NQ/TW. Cùng với đó, các địa phương trong vùng cũng khẩn trương hoàn thành
và tổ chức triển khai tốt quy hoạch tổng thể về kinh tế - xã hội đến năm 2020; thúc

đẩy sản xuất, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế; tập trung thực hiện hiệu quả Nghị
quyết T.Ư 7 (khóa X) về nông nghiệp, nông thôn, nông dân.

17


×