Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty CP phát triển ứng dụng công nghệ Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (595.91 KB, 110 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của tôi. Các số liệu và
kết quả trong bài luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu trích dân trong luận văn đều được ghi rõ nguần
gốc.

Tác giả

Lê Xuân Huấn


LỜI CẢM ƠN
Trong qua trình nghiên cứu và viết luận văn tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình
của các thầy cô giáo trong nhà trường cũng như cán bộ, nhân viên trong Công ty cổ
phần phát triển ứng dụng công nghệ Việt Nam,


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
OEDC

: Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

WEF

: Diễn đàn kinh tế thế giới

TNV

: Tổng nguồn vốn

VCSH



: Vốn chủ sở hữu

TSNG

: Tài sản ngắn hạn

TSDH

: Tài sản dài hạn

TSLĐ

: Tài sản lưu động

TSCĐ

: Tài sản cố định

NPT

: Nợ phải trả

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

TSLN

: Tỷ suất lợi nhuận


CNH - HĐH

: Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

CP

: Cổ Phần

TPP

: Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương

WTO

: Tổ chức Thương mai Thế giới

NLCT

: Năng lực cạnh tranh

CPSX

: Chi phí sản xuất

LN

: Lợi nhuận

CPLT


: Chi phí lưu thông

DNPP

: Doanh nghiệp phân phối

DNBB

: Doanh nghiệp bán buôn

DNBL

: Doanh nghiệp bán l

CNTT

: Công nghệ thông tin


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình phát triển kinh tế thị truờng định huớng xã hội chủ nghia của

nuớc ta, cạnh tranh là một hiện tuợng vốn có trong nền kinh tế thị truờng, là sự
ganh đua giữacác thành viên tham gia trong nền kinh tế thị truờng nhằm tối đa hóa
lợi nhuận của doanh nghiệp. Trong bối cảnh nền kinh tế đất nuớc ngày càng phát
triển cùng với tốc độ toàn cầu hóa ngày càng cao, các doanh nghiệp đa và đang đối

mặt với mức độ cạnh tranh trên thị truờng ngày càng gay gắt. Để tồn tại và phát
triển doanh nghiệp cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình vì đó là chìa
khóa dẫn đến thành công cho tất cả các doanh nghiệp, điều này lại đoi hỏi doanh
nghiệp phải có nguần lực thích hợp để tạo ra lợi thế cạnh tranh. Vì vậy, yêu cầu cấp
bách đối với doanh nghiệp là phải phát hiện ra các nguần lực tạo ra lợi thế cạnh
tranh rồi từ đó duy trì và phát triển nhằm đảm bảo lợi thế cạnh tranh bền vững trong
tuong lai, giúp cho daonh nghiệp đứng vững trên thị truờng nội địa truớc sự tấn
công của các đối thủ cạnh tranh.
Hơn nữa, kể từ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
sự tham gia của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực thương
mại và phân phối sản phẩm là một thực tế rõ ràng. Nhờ chính sách mở của thị
trường dịch vụ, phân phối, các nhà sản xuất ngày càng nhiều, đã và đang tiếp tục
mở rộng phạm vi hoạt động của mình với các mô hình phân phối hiện đại, quản lý
tiên tiến vừa tạo sức ep cạnh tranh với các doanh nghiệp phân phối và bán lẻ trong
nước.
Là doanh nghiệp tu nhân Công ty CP Phát Triển Ứng Dụng Công Nghệ
Việt Nam đang đặt ra cho mình yêu cầu cấp bách làm thể nào để tồn tại và phát
triển bền vững ở trên thị truờng tiểm năng nhu Việt Nam. Giống nhu các …
2. Tình hình nghiên cứu Đề tài
Cho đển nay đa có nhiều đề tài nghiên cứu về môi truờng canh tranh giữa cac
doanh nghiệp cung nhu giữa các doanh nghiệp phân phối các sản phẩm cùng loại
với nhau. Có thể nêu lên một số đề tài, công trình nghiên cứu có liên quan về vấn đề


này trê n các góc độ khác nhau.
Ngoài ra còn có nhiều công trình, đề tài, luận án, các bài công bố trên tạp chí
khoa học chuyên ngành trong nuớc và trên thế giới có liên quan đến chủ đề này.
3. Nhiệm vụ và mục tiêu nghiên cứu
Một là, góp phần làm rõ co sở lý luận về năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp, nội dung và các nhân tố ảnh huởng đến năng lực cạnh tranh của doanh

nghiệp và hệ thống các tiêu chí đánh giá, đồng thời nghiên cứu kinh nghiệm một số
doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh để rút ra bài học vận dụng cho Công ty
cổ phần phát triển ứng dụng công nghệ Việt Nam.
Hai là, phân tích, đánh giá năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần phát
triển ứng dụng công nghệ Việt Nam những năm gần đây, nêu ra những thành tựu,
những hạn chế và nhung nguyên nhân làm hạn chế năng lực cạnh tranh của Công ty
Ba là, xác định phuong huớng, đề xuất các giải pháp co bản để nâng cao năng lực
cạnh tranh của Công ty cổ phần phát triển ứng dụng công nghệ Việt Nam
4. Đối tuợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu hoạt động quản trị hệ thống
kênh phân phối sản phẩm của Công ty CP phát triển ứng dụng công nghệ Việt Nam,
đặt trọng tâm nghiên cứu những khó khăn vướng mắc trong quản trị kênh.
Phạm vi nghiên cúu:
Về nội dung, Luận văn xem xét về thị phần phân phối sản phẩm của công ty,
cung ứng sản phẩm, tính ổn định của khách hàng và hiểu quả kinh doanh ( Doanh
thu, chi phí, lợi nhuận) dưới tác động của các yếu tố về môi trường pháp lý và chính
sách vĩ mô, môi trường ngành, các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp( trực tiếp và
gián tiếp) và năng lực nôi sinh của doanh nghiệp.
Về không gian là Công ty cổ phần phát triển ứng dụng công nghệ Việt Nam
Về thời gian các thông tin, tư liệu nghiên cứu trong 3 năm 2012, 2013, 2014
và có những đề suất cho những năm tới.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, kết hợp với phân tích


và tổng hợp, logic và lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu:
- Thu thập thông tin, tài liệu thứ cấp, từ các công trình luận văn, luận án, các bài
báo, các sách sản xuất bản có liên quan đến chủ đề nghiên cứu
- Thu thập tài liệu, báo cáo hàng năm của Công ty cổ phần phát triển ứng

dụng công nghệ Việt Nam.
- Sử dụng các số liệu cụ thể để phân tích, so sánh đưa ra các đánh giá có cơ
sở khoa học và thực tiễn.
6. Những đóng góp của luận văn
Thông qua nghiên cứu, phân tích làm sáng tổ cơ sở lý luận của năng lực cạnh
tranh nói chung
Nêu ra những đặc điểm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phân phối,
kinh doanh thiết bị văn phòng.
Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh, đặc biệt năng lực
canhtranh của ngành phân phối thiết bị văn phòng
Trên cơ sở phân tích thực trạng, đánh giá những thành tựu và hạn chế về năng lực
cạnh tranh của Công ty cổp phần phát triển ứng dụng Việt Nam để đề xuất định
hướng, kiến nghị các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo phụ lục, bảng biểu, luận
văn được chia thành ba chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận trung về năng lực cạnh tranh và kinh nghiệm nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Chưng 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty CP phát triển ứng dụng công
nghệ Việt Nam
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công
ty CP phát triển ứng dụng công nghệ Việt Nam


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH VÀ KINH
NGHIỆM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH
NGHIỆP
1.1. Lý luận chung về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.1.1.


Khái niêm về cạnh tranh và phân loại cạnh tranh

Khái niệm về cạnh tranh
Cạnh tranh nói trung và cạnh tranh trong nền kinh tế nói riêng là một khái
niệm mà có nhiều cách hiểu khác nhau. Ở phạm vi doanh nghiệp thì cạnh tranh chủ
yếu nhằm mục tiêu tồn tại và tìm kiếm lợi nhuận tối đa.
Theo K.Marx: “ Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu trang gay gắt giữa các nhà tư
bản gianh giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng để đạt được lợi
nhuận siêu ngạch”. Nghiên cứu về quá trình sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa và
cạnh tranh tư bản chủ nghĩa, Marx đã phát hiện ra kết quả của cạnh tranh trong chủ
nghĩa tư bản là quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân, từ đó hình thành nên hệ thống
giá cả thị trường và giá cả sản xuất.
Theo Từ điển Bách khoa Việt nam (Tập 1), “Cạnh tranh (trong kinh doanh) là
hoạt động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân,
các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối quan hệ cung cầu, nhằm
dành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ thị trường có lợi nhất”.
Theo Từ điển Kinh doanh (xuất bản năm 1992 ở Anh) thì cạnh tranh trong cơ
chế thị trường được định nghĩa là "Sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh
doanh nhằm giành tài nguyên sản xuất cùng một loại hàng hoá về phía mình”.
Hai nhà kinh tế học Mỹ P.A Samuelson và W.D Nordhaus trong cuấn kinh tế
học (xuất bản lần thứ 12), Cạnh tranh là sự kinh địch giữa các doanh nghiệp cạnh
tranh với nhau để dành lấy khách hàng hoặc thị trường. Hai tác giả này cho rằng
Cạnh tranh đồng nghĩa với Cạnh tranh hoàn hảo. Ba tác giả khác của Mỹ là
D.Begg,, S.Fischer và R.Dornbush cũng cho rằng cạnh tranh là Cạnh tranh hoàn
hảo, Các tác giả này viết.
Một là cạnh tranh hoàn hảo là ngành trong đốmị người đểu tin rằng hành


động của họ không gây ra ảnh hưởng tới giá cả thị trường, phải có nhiều người bán
nhiều người mua.

Theo trang Web Bách khao toàn thư mở Wikipedia viết Cạnh tranh kinh tế là
sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế (nhà sản xuất, nhà phân phối, bán lẻ, người
tiêu dùng, thường nhân….) nhằm giành lấy những vị thế tạo nên lợi thế tường đối
trong sản xuất, tiêu thụ hay tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ hay các lợi ích về kinh tế,
thương mại khác để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.
Theo nhà kinh tế học Michael Porter của Mỹ thì “Cạnh tranh (kinh tế) là giành
lấy thị phần. Bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao
hơn mức lợi nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh
tranh là sự bình quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn
đến hệ quả giá cả có thể giảm đi”.
Sau khi dẫn chứng, so sánh và phân tích, C. Mác đã đi đến khẳng định: chủ thể
cạnh tranh chủ yếu là các nhà tư bản, họ tiến hành đọ sức về kỹ thuật, kinh tế, xã
hội để tối đa hóa lợi ích. Xét ở góc độ quan hệ sản xuất, cạnh tranh thúc đẩy sự sáng
tạo kỹ thuật, đổi mới tổ chức, quản lý, giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm
và năng suất lao động. Xét ở góc độ quan hệ sản xuất, cạnh tranh là biện pháp, là
con đường cơ bản để nhà tư bản đơn lẻ thu được giá trị thặng dư hoặc lợi nhuận độc
quyền, để toàn bộ giai cấp tư sản cùng phân chia và chiếm hữu giá trị thặng dư. Xét
ở góc độ xu thế lịch sử, cạnh tranh tăng lên tất yếu đưa đến sự tích tụ tư bản và tập
trung sản xuất, từ đó đẩy chủ nghĩ tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh bước vào
giai đoạn độc quyền. Nhưng độc quyền chẳng những xóa bỏ cạnh tranh, trái lại còn
làm cho cạnh tranh trở nên gay gắt hơn, mâu thuẫn cơ bản trong chủ nghĩa tư bản
chủ nghĩa theo đó ngày càng sâu sắc hơn. Rõ ràng, điều lớn lao, sâu xa trong lý luận
cạnh tranh của C. Mác là ở chỗ ông không chỉ phân tích cạnh tranh ở góc độ hiện
tượng kinh tế, mà còn đứng ở tầm cao quan điểm duy vật lịch sử và chủ nghĩa xã
hội khoa học để quan sát, phân tích vai trò lịch sử và xu thế phát triển của cạnh
tranh.
Như vậy, cạnh tranh được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau, cạnh tranh là sản


phẩm riêng của nền kinh tế thị trường, là linh hồn và là động lực cho sự phát triển

của thị trường. Cạnh tranh được mô tả ở các đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, khi nói đến cạnh tranh là nói đến sự ganh đua nhằm giành lấy phần
hơn phần thắng về mình giữa các chủ thế kinh doanh. Khi đó phải tồn tại nhiều
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và các hình thức sở hữu khác nhau. Các
chủ thể có quyền tự do hành xử trên thị trường.
Thứ hai, về mặt hình thức, cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa các
doanh nghiệp. Nói cách khác, cạnh tranh suy cho cùng là phương thức giải quyết
mâu thuẫn về lợi ích tiềm năng giữa các nhà kinh doanh với vai trò quyết định của
người tiêu dùng. Trong kinh doanh, lợi nhuận là động lực cho sự gia nhập thị
trường, là thước đo sự thành đạt và là mục đích hướng đến của các doanh nghiệp.
Trong chu trình đó, khách hàng và người tiêu dùng có vai trò là đại diện cho thị
trường, quyết định giá trị thặng dư của xã hội sẽ thuộc về ai. Mức độ đạt được lợi
nhuận của mỗi nhà kinh doanh sẽ tỷ lệ thuận với năng lực của bản thân họ trong
việc thỏa mãn nhu cầu khách hàng.
Thứ ba, mục tiêu cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận và nâng cao vị thế của doanh
nghiệp trên thương trường, đồng thời làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội.
1.1.1.1 Phân loại cạnh tranh
Dựa vào các tiêu chí và giác độ nhiên cứu khác khác nhau thì cạnh tranh
được chia thành nhiều loại như sau:
(1) cạnh tranh quốc gia; (2) cạnh tranh nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các
ngành; (3) cạnh tranh giữa bên mua; (4) cạnh tranh giữa bên bán; (5) cạnh tranh giá
cả; (6) cạnh tranh phi giá cả… Để nghiên cứu hiệu lực của cơ chế thị trường, người
ta chú ý đến cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo.
Cạnh tranh quốc gia: Là hình thức cạnh tranh này thể hiện qua việc các quốc
gia nỗ lực để xây dựng môi trường kinh tế chung, ổn định, đảm bảo phân bố hiệu
quả nguồn lực và duy trì mức tăng trưởng cao trong nền kinh tế và bền vững, mang
lại lợi ích cho các doanh nghiệp và công dân của nước mình. Ở đây vấn đề cạnh
tranh quốc gia rất được các chính phủ quan tâm và có ảnh hưởng sâu sắc tới các



doanh nghiệp trong môi trường toàn cầu hóa kinh tế, nó tạo dựng lợi thế quốc gia,
hình ảnh, thương hiệu của quốc gia.
Cạnh tranh của doanh nghiệp trong nội bộ ngành: Là sự canh tranh giữa các
doanh nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hóa nhằm
giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa có lợi hơn.
Đây là một quá trình đấu tranh hoặc giành giật từ một hoặc một số đối thủ về khách
hàng, thị phần hay nguồn lực của các doanh nghiệp trong cùng một ngành để có thể
tồn tại và phát triển ngành đó. Trong lĩnh vực kinh doanh, một doanh nghiệp có thể
có nhiều sản phẩm nhưng việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp không đơn thuần
là tổng cạnh tranh của các sản phẩm mà nó còn bao gồm các yếu tố hạ tầng của
doanh nghiệp cũng như cách quản lý, khai thác và phát triển các yếu tố này.
Cạnh tranh giữa các ngành: Là sự cạnh tranh trong các ngành sản xuất khác
nhau nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn. Hình thức cạnh tranh này diễn ra
giữa các ngành trong nền kinh tế, từ việc thu hút, phân bổ nguồn lực đến cả việc
phân chia thị trường. Một biểu hiện hay được nhắc đến của cạnh tranh là việc cạnh
tranh của sản phẩm thay thế. Tuy nhiên nội dung đặc biệt quan trọng của cạnh tranh
ngành là việc thu hút và phân bổ nguồn lực có thể dẫn đến sự thay đổi kết cấu
ngành, thậm chí ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của một ngành, một
lĩnh vực trong nền kinh tế. Về mặt lý thuyết, cạnh tranh ngành sẽ giúp xã hội phân
bổ nguồn lực một cách hợp lý và hiệu quả.
Cạnh tranh giữa người sản xuất, doanh nghiệp sản xuất với nhau: Đây là
hình thức phổ biến nhất của cạnh tranh. Theo hình thức này, các nhà sản xuất đấu
tranh với nhau để dành chỗ đứng trên thị trường (thị phần, kênh phân phối, sản
phẩm…) để có thể đạt được các mục tiêu ngắn hạn của mình và qua đó đảm bảo sự
phát triển ổn định và bền vững.
Cạnh tranh giữa người mua với nhau: Người mua ở đây không chỉ là người
tiêu dùng mà còn bao gồm cả các nhà sản xuất. Theo hình thức này, những người
mua, doanh nghiệp mua sẽ đấu tranh với nhau để có thể tiếp cận được nguồn hàng
ổn định cả về số lượng và chất lượng với mức giá thấp nhất. Cường độ của hình



thức cạnh tranh này phụ thuộc nhiều vào mối quan hệ cung cầu và sẽ tăng cao khi
cầu lớn hơn cung. Hình thức này phổ biến trong những ngành kinh doanh mang tính
mùa vụ khi vào thời vụ tiêu dùng.
Cạnh tranh giữa người mua/doanh nghiệp mua với người bán/doanh nghiệp
bán: Hình thức cạnh tranh này luôn xảy ra trong các hoạt động kinh tế. Theo đó,
người mua luôn tìm mọi cách để mua được sản phẩm và dịch vụ tại mức giá thấp
nhất với chất lượng, số lượng, chủng loại và điều kiện giao hàng thuận lợi nhất
trong khi người bán lại mong muốn điều ngược lại. Lợi thế cạnh tranh trong trường
hợp này phụ thuộc nhiều vào mối quan hệ cung cầu, số lượng chủ thể tham gia giao
dịch (người mua và người bán) cũng như mức độ quan trọng của sản phẩm, dịch vụ
đối với người mua.
Cạnh tranh của sản phẩm: Đây là hình thức cạnh tranh phổ biến, diễn ra hầu
hết với các mặt hàng (dịch vụ) có nhiều hơn một nhà cung cấp. Theo hình thức này,
các doanh nghiệp sẽ cố gắng đầu tư từ khâu thiết kế, sản xuất (hoặc thực hiện), xây
dựng thương hiệu sản phẩm đến hoạt động xúc tiến, phân phối và bán hàng sao cho
sản phẩm của mình dễ dàng xâm nhập thị trường so với sản phẩm (dịch vụ) cùng
loại. Xét trên một số khía cạnh, hình thức cạnh tranh này có nhiều điểm tương đồng
giữa doanh nghiệp và quy về hình thức cạnh tranh giữa người bán với nhau.
1.1.1.2 Cạnh tranh doanh nghiệp và vai trò của nó trong nền kinh tế

 Các công cụ doanh nghiệp thường sử dụng để cạnh tranh trên thị
trường
Cạnh tranh bằng sản phẩm: Chữ tín của sản phẩm quyết định chữ tín của
doanh nghiệp và tạo lợi thế có tính quyết định trong cạnh tranh. Doanh nghiệp cạnh
tranh về sản phẩm thường thể hiện chủ yếu qua các mặt sau: Cạnh tranh về trình độ
của sản phẩm, cạnh tranh về chất lượng, cạnh tranh về bao bì, cạnh tranh về nhãn
mác, uy tín sản phẩm, cạnh tranh do khai thác hợp lý chu kỳ sống của sản phẩm.
Cạnh tranh về giá: Giá một trong các công cụ quan trọng cạnh tranh thường
được sử dụng trong giai đoạn đầu của doanh nghiệp khi doanh nghiệp bước vào một

thị trường mới…Cạnh tranh về giá thường được thể hiện qua các biện pháp sau:


kinh doanh với chi phí thấp, bán với mức giá hạ và mức giá thấp, chi phí về kinh tế
thấp, khả năng bán hàng tốt do đó có khối lượng bán lớn, khả năng về tài chính tốt.
Hạ giá là phương pháp cuối cùng mà doanh nghiệp sẽ thực hiện trong cạnh tranh
bởi hạ giá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Doanh nghiệp
cần phải lựa chọn thời điểm thích hợp để tiến hành sử dụng giá cả làm vũ khí cạnh
tranh.
Cạnh tranh về phân phối và bán hàng: Nó được thể hiện qua các nội dung
sau: khả năng đa dạng hóa các kênh chủ lực, có hệ thống bán hàng phong phú, có
dịch vụ bán hàng và sau bán hàng hợp lý, kết hợp giữa phương thức bán hàng và
thanh toán, có phương tiện bán văn minh, bảo đảm lợi ích giữa người bán và người
mua…
Cạnh tranh về thời cơ thị trường: Doanh nghiệp nào dự báo được thời cơ thị
trường và nắm được thời cơ thị trường sẽ chiến thắng trong cạnh tranh. Cạnh tranh
về thời cơ thị trường thể hiện ở chỗ doanh nghiệp dự báo được thay đổi của thị
trường.
Cạnh tranh về không gian và thời gian: Khi mà giá cả của các doanh nghiệp
cạnh tranh trên thị trường chênh lệch là không lớn, chất lượng sản phẩm là tương
đối ổn định. Trong trường hợp như vậy thời cơ và thời gian có vai trò quan trọng và
quyết định việc buôn bán. Doanh nghiệp nào có trình độ buôn bán thuận tiện nhất,
nhanh nhất sẽ chiến thắng trong cạnh tranh. Song vấn đề chính là tạo lập được uy
tín giữa người mua và người bán
 Vai trò của cạnh tranh
Trong lĩnh vực kinh tế thì cạnh tranh có vai trò rất quan trọng và là một trong
những động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy sản xuất phát triển.
Đối với nền kinh tế quốc dân
Cạnh tranh làm cho xã hội ngày càng tiến bộ, nâng cao chất lượng cuộc sống,
giải quyết công ăn việc làm. Đưa con người vào những tầm nhận thức cao hơn, tạo

điều kiện cho con người phát triển toàn diện. Tính cạnh tranh giúp con người tìm
tòi, khám phá, phát minh phục vụ con người làm cho xã hội ngày càng văn minh


hơn.
Bên cạnh những lợi ích nói trên thì cạnh tranh cũng có nhiều mặt hạn chế, nhất
là cạnh tranh không lành mạnh cụ thể như: làm hàng giả, hàng nhái, gây ô nhiễm
môi trường, phân cực giàu nghèo, tệ nạn xã hội…
Đối với doanh nghiệp
Bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng vậy, khi tham gia vào các hoạt động kinh
doanh trên thị trường thì đều muốn doanh nghiệp mình tồn tại và đứng vững. Để tồn
tại và đứng vững các doanh nghiệp phải có những chiến lược cạnh tranh cụ thể và
lâu dài mang tính chiến lược ở cả tầm vi mô và vĩ mô. Họ cạnh tranh để giành
những lợi thế về phía mình, cạnh tranh để giành giật khách hàng, làm cho khách
hàng tự tin rằng sản phẩm của doanh nghiệp mình là tốt nhất, phù hợp với thị hiếu,
nhu cầu người tiêu dùng nhất. Doanh nghiệp nào đáp ứng tốt nhu cầu của khách
hàng, kịp thời, nhanh chóng và đầy đủ các sản phẩm cũng như dịch vụ kèm theo với
mức giá phù hợp thì doanh nghiệp đó mới có khả năng tồn tại và phát triển.
Việc cạnh tranh cũng giúp cho các doanh nghiệp hoàn thiện cơ cấu tổ chức,
thúc đẩy nhân viên và lãnh đạo phát huy mọi ý tưởng của mình để tạo ra cho khách
hàng những giá trị vượt trội. Tóm lại, là cạnh tranh vô hình giúp doanh nghiệp đứng
vững và phát triển.
Đối với ngành
Hiện nay đối với nền kinh tế nói chung và đối với ngành dây và cáp điện
nói riêng cạnh tranh đóng một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển, nâng
cao chất lượng sản phẩm. Cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh sẽ tạo bước đà
vững chắc cho mọi ngành nghề phát triển. Cạnh tranh sẽ tạo bước đà và động
lực cho ngành phát triển trên cơ sở khai thác lợi thế và điểm mạnh của ngành
đó là thu hút được một nguồn lao động dồi dào và có thể khai thác tối đa nguồn
lực đó. Như vậy, trong bất cứ một hoạt động kinh doanh nào dù là có quy mô

hoạt động lớn hay quy mô hoạt động nhỏ, dù là hoạt động đó đứng ở tầm vĩ mô
hay vi mô thì không thể thiếu sự có mặt và vai trò của yếu tố cạnh tranh .
Đối với sản phẩm


Nhờ có cạnh tranh, mà sản phẩm sản xuất ra ngày càng được nâng cao về
chất lượng, phong phú về chủng loại, mẫu mã và kích cỡ. Giúp cho lợi ích của
người tiêu dùng và của doanh nghiệp thu được ngày càng nhiều hơn. Ngày nay các
sản phẩm được sản xuất ra không chỉ để đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn cung
cấp và xuất khẩu ra nước ngoài. Qua những ý nghĩa trên ta thấy rằng cạnh tranh
không thể thiếu sót ở bất cứ một lĩnh vực nào của nền kinh tế. Cạnh tranh lành
mạnh sẽ thực sự tạo ra những nhà doanh nghiệp giỏi và đồng thời là động lực thúc
đẩy nền kinh tế phát triển, đảm bảo công bằng xã hội. Bởi vậy cạnh tranh là một
yếu tố rất cần có sự hỗ trợ và quản lý của nhà nước để phát huy những mặt tích
cực và hạn chế những mặt tiêu cực như cạnh tranh không lành mạnh dẫn đến độc
quyền và gây lũng loạn, xáo trộn thị trường.
1.1.2. Đặc điểm cạnh tranh của lĩnh vực phân phối.
 Đặc điểm của ngành phân phối
Ngành phân phối là trung gian của sản suất và tiêu dùng nó được biểu hiện
trong mô hình sau:
Sản xuất

Phân phối

Trao đổi

Tiêu dùng

Hình 1.1: Sơ đồ sản xuất và tiêu dùng (Nguồn: Giáo trình marketinh cơ bản)
Theo mô hình này ta nhận thấy sau khi sản xuất ra sản phẩm, hàng hóa cần

được vận chuyển đến nơi tiêu thụ. Phân phối hình thành để đáp ứng nhu cầu vận
chuyển hàng hóa, tiền bạc và thông tin. Ngoài chức năng chuyển hàng hóa từ nơi
sản xuất đến nơi tiêu dùng như trên Phân phối còn có chức năng đặc biệt riêng sản
xuất và tiêu dùng như sau:
Đối với nhà sản xuất


Bao phủ thị trường



Có đội ngủ bán hàng tiếp cận khách hàng



Lưu giữ hàng hoá



Tiếp nhận và giải quyết đơn đặt hàng



Nắm thông tin thị trường



Dịch vụ khách hàng



Đối với khách hàng:







Đảm bảo luôn có sẵn hàng khi khách hàng cần
Trưng bày hàng một cách tiện lợi
Đáp ứng mọi yêu cầu khác nhau về số lượng
Cung cấp tài chính và tín dụng
Dịch vụ khách hàng
Tư vấn và hỗ trợ kỹ thuật
Doanh nghiệp sản xuất có thể thực hiện ngay một hệ thống phân phối riêng cho
mình hoặc cũng có thể chỉ là sản xuất ra hàng hóa rồi liên kết ngay với chính công
ty chuyên kinh doanh về phân phối.

 Đặc điểm về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp kinh doanh phân phối
Năng lực cạnh tranh của ngành kinh doanh phân phối khác ở điểm đó là họ còn
cạnh tranh với nhau ngay cả việc lựa chọn nhà sản xuất danh tiếng. Chỉ tiêu lựa
chọn được nhà sản xuất danh tiếng trên thị trường cũng làm cho doanh nghiệp kinh
doanh phân phối tăng cường được năng lục cạnh tranh, vì nhà sản xuất danh tiếng
thường họ đưa ra tiêu chí để lựa chọn nhà phân phối cho sản phẩm của mình hết sức
khắt khe, phải nhà phân phối nào có uy tín, có tiềm lực đáp ứng được yêu cầu của
họ thì họ mới lựa chọn, chính vì vậy mà khi được nhà sản xuất danh tiếng lựa chọn
thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp kinh doanh phân phối cũng sẽ được củng
cố. Và thường thì các nhà sản xuất danh tiếng là những nhà sản xuất có sản phẩm
nổi tiếng được nhiều khách hàng tin dùng, và khi được lựa chọn là nhà phân phối
cho họ, thì nhờ vào các sản phẩm nổi tiếng đó mà uy tín của doanh nghiệp kinh

doanh phân phối sẽ tăng lên và làm cho năng lực cạnh tranh cũng từ đó mà tăng.
Sự khác biệt nữa về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp phân phối với các
doanh nghiệp khác ở chỗ. Doanh nghiệp kinh doanh phân phối họ chỉ được lựa
chọn thương hiệu của một nhà sản xuất và không được phân phối hàng cho đối thủ
cạnh tranh của nhà sản xuất mà doanh nghiệp đã lựa chọn để phân phối. Cho nên
việc lựa chọn nhà sản xuất cho doanh nghiệp là hết sức phức tạp, đòi hỏi phải có sự
tính toán kỹ lưỡng cho việc lựa chọn nhà sản xuất để phân phối. Vì lựa chọn được
nhà sản xuất uy tín chỉ là duy nhất và nó ảnh hưởng đến chu kỳ, quá trình kinh
doanh của doanh nghiệp phân phối. Chọn được nhà sản xuất uy tín sẽ giúp tăng


được năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường. Ngoài các công cụ để nâng cao
năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp nói chung như: Công cụ cạnh tranh bằng
giá cả, sản phẩm, uy tín thương hiệu, thì doanh nghiệp kinh doanh phân phối còn có
công cụ đó là mạng lưới và hệ thống phân phối, để nâng cao năng lực cạnh tranh
của mình. Nhà phân phối nào có mạng lưới phân phối được phân bổ đều đặn rộng
khắp trên tỉnh thành và hệ thống phân phối được bố trí khoa học sẽ giúp doanh
nghiệp đó nâng cao được năng lực cạnh tranh.
Đặc điểm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp kinh doanh phân phối đó là sử
dụng các nhà đại lý để phân phối sản phẩm cho mình, các nhà đại lý họ lại quan tâm
đến chiết khấu cho một sản phẩm nhiều. Chính vì vậy còn cạnh tranh chọn các nhà
đại lý cho doanh nghiệp.
Đặc điểm của lĩnh vực phân phối là trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng,
đặc điểm này còn phải phụ thuộc vào các tiêu chí mà nhà sản xuất đã đặt ra để lựa
chọn nhà phân phối cho mình, một nhà phân phối đáp ứng được các tiêu chí mà
doanh nghiệp sản xuất đề ra chính tỏ nhà phân phối đó có ưu thế cạnh tranh hơn các
doanh nghiệp khác nhất là khi Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại
thế giới (WTO) thì sự cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn rất nhiều, các tiêu chí này
sẽ ngày càng tăng cao, có rất nhiều các doanh nghiệp kinh doanh phân phối với tiềm
lực kinh tế mạnh, uy tín và sẽ là cuộc chiến rất gay go giữa các doanh nghiệp trong

nganh này.
Doanh nghiệp phân phối là hoạt động ở khâu trung gian cùng trong chuỗi
lưu thông, do đó, giá bán là giá cuối cùng ( giá bán lẻ), giá bán cho người tiêu
dùng cuối cùng, cơ cấu giá bán lẻ của các doanh nghiệp phân phối bán lẻ như
sau:
CƠ CẤU GIÁ BÁN LẺ HÀNH HÓA
CPSX+ LN của DNSX

CPLT + LN cuả DNBB

CPLT + LN của DNPPBL

(giá bán buôn của nhà sàn

(Giá bán buôn thương

(giá bán lẻ)

xuất)
nghiệp)
Quá trình phân tích cơ cấu giá bán lẻ như trên, ta thấy rõ đặc điểm cạnh tranh
của các doanh nghiệp phân phối, tại các đầu vào, doanh nghiệp phân phối cạnh


tranh trong quan hệ với nhà sản xuất, bán buôn để để đảm bảo cho nguần đầu vào
và giá cả thấp nhất (giá cung). Trong khi đó, cạnh tranh tại đầu ra giữa các nhà phân
phối bán lẻ về giá bán lẻ ( cho người tiêu dùng) chính là chi phí lưu thông của
doanh nghiệp phân phối bán lẻ. Đó chính là các chi phi như: vận chuyển, phân loại,
đóng gói, lương nhân viên bán hàng, khấu hao, quảng bá sản phẩm.
Hiện nay để làm giảm các chi phí lưu thông của các doanh nghiệp phân phối,

ngoài các biện pháp thông thường như các loại hình doanh nghiệp kinh doanh khác,
các doanh nghiệp phân phối bán lẻ muốn cho mức chi phí lưu thông hợp lý nhất
đều phải áp dụng mô hình kinh doanh theo chuỗi, chuỗi càng nhiều thì sẽ làm cho
chi phí lưu thông của doanh nghiệp phân phối giảm xuống. Đây cũng là thành công
của rất nhiều doanh nghiệp phân phối trên thế giới.
1.2.

Năng lực cạnh tranh, tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh, nhân tố ảnh

huởng và sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiêp phân phối.
1.2.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và các mô hình áp
dụng để phân tích năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.2.1.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh và các yếu tố cấu thành NLCT
 Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế của
doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của
khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn. Như vậy, năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp trước hết phải được tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp. Đây là các yếu tố
nội hàm của mỗi doanh nghiệp, không chỉ được tính bằng các tiêu chí về công nghệ,
tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp… một cách riêng biệt mà cần
đánh giá, so sánh với các đối tác cạnh tranh trong hoạt động trên cùng một lĩnh vực,
cùng một thị trường. Sẽ là vô nghĩa nếu những điểm mạnh và điểm yếu bên trong
doanh nghiệp được đánh giá không thông qua việc so sánh một cách tương ứng với
các đối tác cạnh tranh. Trên cơ sở các so sánh đó, muốn tạo nên năng lực cạnh
tranh, đòi hỏi doanh nghiệp phải tạo lập được lợi thế so sánh với đối tác của mình.
Nhờ lợi thế này, doanh nghiệp có thể thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng


mục tiêu cũng như lôi kéo được khách hàng của đối tác cạnh tranh.
Thực tế cho thấy, không một doanh nghiệp nào có khả năng thỏa mãn đầy đủ

tất cả những yêu cầu của khách hàng. Thường thì doanh nghiệp có lợi thế về mặt
này và có hạn chế về mặt khác. Vần đề cơ bản là, doanh nghiệp phải nhận biết được
điều này và cố gắng phát huy tốt những điểm mạnh mà mình đang có để đáp ứng tốt
nhất những đòi hỏi của khách hàng. Những điểm mạnh và điểm yếu bên trong một
doanh nghiệp được biểu hiện thông qua các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của doanh
nghiệp như marketing, tài chính, sản xuất, nhân sự, công nghệ, quản trị, hệ thống
thông tin…Tuy nhiên, để đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, cần
phải xác định được các yếu tố phản ánh năng lực cạnh tranh từ những lĩnh vực hoạt
động khác nhau và cần thực hiện việc đánh giá bằng cả định tính và định lượng. Các
doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ở những ngành, lĩnh vực khác nhau có
các yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh khác nhau. Mặc dù vậy, vẫn có thể tổng
hợp được các yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp bao gồm:
giá cả sản phẩm và dịch vụ; chất lượng sản phẩm và bao gói; kênh phân phối sản
phẩm và dịch vụ bán hàng; thông tin và xúc tiến thương mại; năng lực nghiên cứu
và phát triển; thương hiệu và uy tín của doanh nghiệp; trình độ lao động; thị phần
sản phẩm doanh nghiệp và tốc độ tăng trưởng thị phần; vị thế tài chính; năng lực tổ
chức và quản trị doanh nghiệp.
Nhiều doanh nghiệp hiện nay, thông qua phương pháp so sánh trực tiếp các
yếu tố nêu trên để đánh giá năng lực cạnh tranh của mình so với đối tác cạnh tranh.
Đây là phương pháp truyền thống và phần nào phản ánh được năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp. Tuy nhiên, hạn chế của phương pháp này là không cho phép
doanh nghiệp đánh giá tổng quát năng lực cạnh tranh của mình với đối tác cạnh
tranh mà chỉ đánh giá được từng mặt, từng yếu tố cụ thể. Để khắc phục nhược điểm
trên, việc nghiên cứu vận dụng ma trận đánh giá các yếu tố môi trường nội bộ, qua
đó giúp doanh nghiệp so sánh năng lực cạnh tranh tổng thể của mình với các đối thủ
trong ngành là một giải pháp mang tính khả thi cao.
Tóm lại, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là một tất yếu khách


quan trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Nếu không làm được điều

này, doanh nghiệp không chỉ thất bại trên “sân khách” mà còn gánh chịu những hậu
quả tương tự trên chính “sân nhà”. Để nâng cao năng lực cạnh tranh thì một trong
những công việc mà doanh nghiệp cần làm là chủ động đánh giá thực lực kinh
doanh của mình và tìm ra những điểm mạnh cơ bản để phát huy những điểm mạnh
đó, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong thị trường
 Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Thứ nhất: Chiến lược cạnh tranh doanh nghiệp.
Trong quá trình phát triển sản xuất và lưu thông hàng hóa, các nhà sản xuất
hoặc nhà phân phối đều muốn các sản phẩm của mình luôn được khách hàng lựa
chọn, họ sử dụng nhiều chách thức khác nhau để thu hút được khách hàng, và thực
tế đã cho thấy sự cạnh tranh ấy giữa các nhà cung ứng trên thị trwòng đã có từ rất
lâu. Cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường. Cạnh
tranh được hiểu là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm
mọi biện pháp, kể cả nghệ thuật hay thủ đoạn để đạt được mục tiêu kinh tế của
mình, đầu tiên là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều
kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế
trong quá trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là
lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi.
Để giành lợi thế cạnh tranh trên thương trường các doanh nghiệp phải có
chiến lược cạnh tranh.
Từ chiến lược xuất phát từ tiếng Hy Lạp (strategos) có nghĩa là một vị tướng.
Theo nghĩa đen, từ này đề cập đến nghệ thuật lãnh đạo quân đội. Ngày nay, người ta
dùng thuật ngữ này để mô tả những việc mà bất cứ tổ chức nào cũng phải thực hiện
nhằm đạt được mục tiêu và nhiệm vụ đã đề ra.
Cho đến nay tồn tại nhiều khái niệm về chiến lược khác nhau. Theo Alfred
Chandler, Đại học Havard thì chiến lược là xác định mục tiêu cơ bản dài hạn, chọn
lựa tiến trình hoạt động và phân bổ các nguồn lực cần thiết để thực hiện mục tiêu
đó.



Theo Jemes B. Quinn thì chiến lược là nối kết các mục tiêu, chính sách, các
chuối hoạt động của doanh nghiệp thành một tổng thể.
TheoWilliam Glueck thì chiến lược là một kế hoạch thống nhất dễ hiểu, tổng
hợp được soạn thảo để đạt được mục tiêu hay chiến lược là một kế hoạch mang tính
thống nhất, tính toàn diện và phối hợp được thiết kế để đảm bảo rằng các mục tiêu
cơ bản của doanh nghiệp sẽ được thực hiện.
Theo Michael E. Porter thì chiến lược là sự sáng tạo ra vị thế co giá trị độc
đáo bao gồm các hoạt động khác biệt, là sự chon và đánh đổi trong cạnh tranh, và
chiến lược là việc tạo ra sự phù hợp giữa tất cả các hoạt động của công ty. Michael
E. Porter cũng cho rằng, chiến lược là sự tạo ra vị thế độc đáo và có giá trị bao gồm
sự khác biệt hóa (differentiation), sự lựa chọn mang tính đánh đổi nhằm tập trung
nhất các nguồn lực (focus) để từ đó tạo ra ưu thế cho doanh nghiệp.
Để xây dựng một chiến lược, doanh nghiệp cần trả lời ba câu hỏi lớn:
Thứ nhất, chúng ta đang ở đâu?
Thứ hai, chúng ta muốn đi đến đâu? Ngành kinh doanh cần thâm nhập và vị
trí thị trường, cần đạt được, nhu cầu người mua và các nhóm người mua cần phục
vụ, đầu ra cần đạt được.
Thứ ba, chúng ta đến được vị trí mong muốn như thế nào? Câu trả lời cho
câu hỏi chúng ta đến được vị trí mong muốn như thế nào cũng chính là nội dung
chiến lược của doanh nghiệp.
Trong cạnh tranh thì chiến lược là hành động để doanh nghiệp chiến thắng
chính mình và chiến thắng các đối thủ trên thương trường. Trong quá trình đó,
doanh nghiệp cần phải trả lời những câu hỏi chủ yếu sau: năng lực của doanh
nghiệp có gì nổi trội? (các giá trị gia tăng nội sinh, ngoại sinh của sản phẩm, năng
lực lõi của doanh nghiệp), môi trường xung quanh như thế nào?, tổ chức sẽ thay đổi
như thế nào để quản lý chiến lược cạnh tranh thành công? Văn hóa tổ chức cần phải
như thế nào để quản lý chiến lược thành công? Vai trò người lãnh đạo trong quản lý
chiến lược?
Một doanh nghiệp cần chiến lược cạnh tranh khi doanh nghiệp đó có các đối



thủ cạnh tranh và cần những công cụ làm khác biệt khả năng cạnh tranh. Để trở nên
tốt hơn và đánh bại sự cạnh tranh của đối thủ là mục tiêu của chiến lược cạnh tranh.
Chiến lược cạnh tranh doanh nghiệp có thể hiểu đơn giản là cách mà doanh nghiệp
trên thực tế cạnh tranh như thế nào. Michael E. Porter, trong tác phẩm kinh điển
“Chiến lược cạnh tranh” của mình cho rằng “Chiến lược cạnh tranh là sự kết hợp
của các mục tiêu mà doanh nghiệp đang hướng tới và những phương tiện (chính
sách) mà nó sử dụng để thực hiện các mục tiêu”.
Mục đích của mọi chiến lược cạnh tranh là để doanh nghiệp chiến thắng
trong các cuộc cạnh tranh và giành được vị trí tốt nhất trên thị trường. Do đó, chiến
lược cạnh tranh liên quan đến việc định vị cho một doanh nghiệp để doanh nghiệp
ấy phát huy tối đa những nguồn lực hiện có, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để
làm nên sự khác biệt giữa bản thân doanh nghiệp và những đối thủ cạnh tranh trên
thị trường.
Chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp là tập hợp những mục tiêu và các
chính sách cũng như các kế hoạch chủ yếu để đạt được mục tiêu đó. Chiến lược
cạnh tranh cho thấy rõ doanh nhiệp tồn tại vì mục tiêu gì, doanh nghiệp tồn tại trong
lĩnh vực nào và định hướng phát triển của doanh nghiệp là gì.
Một chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh phải có bốn yếu tố: Mục tiêu chiến
lược, phạm vi chiến lược, lợi thế cạnh tranh và các hoạt động chiến lược, năng lực
cốt lõi. Mục tiêu chiến lược sẽ dóng vai trò định hướng cho hoạt động của doanh
nghiệp, lựa chọn mục tiêu gì có ảnh hưởng tới doanh nghiệp. Một doanh nghiệp lựa
chọn lợi nhuận cao thì mục tiêu chiến lược sẽ tập trung vào phục vụ các khách hàng
hay phân khúc thị trường đem lại lợi nhuận cao bằng các sản phẩm có giá trị gia
tăng cao hoặc hiệu suất chi phí vượt trội, hoặc lựa chọn mục tiêu tăng trưởng có thể
dẫn dắt doanh nghiệp phải đa dạng hóa các sản phẩm để thu hút khách hàng ở nhiều
phân đoạn thị trường khác nhau. Mục tiêu quan trọng nhất mà doanh nghiệp thường
hướng tới là lợi nhuận cao và bền vững; ngoài ra còn có mục tiêu tăng trưởng thị
phần, chất lượng sản phẩm....
Một chiến lược cạnh tranh hiệu quả không tập trung thỏa mãn tất cả các nhu cầu ở



tất cả các phân khúc thị trường vì nếu như vậy doanh nghiệp sẽ phân tán nguồn lực.
Vì vậy doanh nghiệp cần đặt ra phạm vi chiến lược cho mình về khách hàng, về sản
phẩm, địa bàn phục vụ để có sự tập trung và thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách
hàng. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp cần có sự am hiểu thị trường, am hiểu khách
hàng và lợi thế của doanh nghiệp.
Để giành phần thắng trong cạnh tranh trên phân khúc thị trường đã chọn, sản
phẩm của doanh nghiệp phải có lợi thế duy nhất hoặc vượt trội so với đối thủ cạnh
tranh. Chính vì vậy, việc xác định và tạo dựng lợi thế cạnh tranh là vấn đề trung tâm
của chiến lược. Có những doanh nghiệp xác định lợi thế cạnh tranh là chi phí, là sự
khác biệt của sản phẩm nhưng cũng có những doanh nghiệp lại xác định khách hàng
mục tiêu của họ thực sự đánh giá cao cái gì, họ xác định các yếu tố mà khách hàng
mục tiêu sẵn sàng bỏ tiền ra để mua sản phẩm của doanh nghiệp như giá, chất
lượng...
Thứ hai: Trình độ khoa học công nghệ, kỹ thuật
Công nghệ kỹ thuật và máy móc thiết bị là một bộ phận chủ yếu trong tài sản
cố định, nó là những cơ sở vật chất kỹ thuật chủ yếu quyết định năng lực sản xuất
của doanh nghiệp, là nhân tố đảm bảo năng lực cạnh tranh. Nếu công nghệ, máy
móc thiết bị lạc hậu, trình độ thấp kém sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chất
lượng sản phẩm. Vì vậy, các doanh nghiệp phải áp dụng các công nghệ phù hợp,
vừa đảm bảo tạo ra sản phẩm có chất lượng phù hợp nhu cầu thị trường, vừa có chi
phí sản xuất thấp. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có kinh nghiệm và kỹ năng
hoạt động trên thị trường công nghệ, có đội ngũ người lao động có trình độ chuyên
môn cao và có môi trường khuyến khích người lao động sáng tạo, phát huy sáng
kiến trong quá trình tham gia lao động sản xuất.
Nguồn lực vật chất kỹ thuật sẽ phản ánh thực lực của doanh nghiệp với đối thủ cạnh
tranh về trang thiết bị hiện có được tận dụng và khai thác trong quá trình hoạt động
nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Bởi vì: trình độ máy móc, thiết bị và công nghệ
có ảnh hưởng mạnh mẽ tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Một doanh

nghiệp có hệ thống trang thiết bị máy móc, công nghệ hiện đại thì các sản phẩm của


doanh nghiệp nhất định sẽ được bảo toàn về chất lượng khi đến tay người tiêu dùng.
Hệ thống máy móc hiện đại sẽ làm ra nhiều sản phẩm, giảm chi phí không cần thiết,
tăng nhanh vòng quay về vốn. Như vậy, việc áp dụng công nghệ hiện đại, máy móc
tối ưu sẽ có ảnh hưởng đến giá thành cũng như ảnh hưởng đến giá bán sản phẩm.
Hiện nay, doanh nghiệp sản xuất cáp điện có công nghệ sản xuất tiên tiến là một lợi
thế trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành tạo ra sản phẩm có chất
lượng cao, giá thành hạ. Ngoài ra công nghệ tiên tiến còn góp phần vào việc bảo vệ
môi trường, đây cũng là một lợi thế so với đối thủ cạnh tranh.
Thứ ba: Năng lực quản lý và chất lượng nhân lực
Con người là yếu tố quyết định thành bại của hoạt động kinh doanh. Bởi vậy,
doanh nghiệp phải chú ý việc sử dụng con người, phát triển nhân sự, xây dựng môi
trường văn hóa. Đồng thời doanh nghiệp phải quan tâm đến các chỉ tiêu rất cơ bản
như số lượng lao động, trình độ nghề nghiệp, năng suất lao động, thu nhập bình
quân, năng lực của cán bộ quản lý.
Con người là yếu tố chủ chốt, là tài sản quan trọng và có giá trị cao nhất của doanh
nghiệp. Bởi chỉ có con người mới có đầu óc và sáng kiến để sáng tạo ra sản phẩm,
chỉ có con người mới tạo được uy tín và hình ảnh của doanh nghiệp mà tất cả những
yếu tố này hình thành nên khả năng cạnh tranh. Vậy muốn nâng cao khả năng cạnh
tranh của mình doanh nghiệp phải chú ý quan tâm đến tất cả mọi người trong doanh
nghiệp, từ những người lao động bậc thấp đến nhà quản trị cấp cao nhất, bởi mỗi
người đều có một vị trí quan trọng trong các hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Những người lãnh đạo họ chính là những người cầm lái con tầu doanh
nghiệp, họ là những người đứng mũi chịu sào trong mỗi bước đi của doanh nghiệp,
họ là người có quyền lực cao nhất và trách nhiệm thuộc về họ cũng là nặng nề nhất.
Họ chính là những người xác định hướng đi và mục tiêu cho doanh nghiệp, còn
thực hiện quyết định của họ là những nhân viên dưới quyền. Trong bất cứ một
doanh nghiệp nào, chỉ có những nhà lãnh đạo giỏi vẫn chưa đủ, vẫn chỉ có người ra

quyết định mà chưa có người thực hiện những quyết định đó. Bên cạnh đó phải có
một đội ngũ nhân viên giỏi cả về trình độ và tay nghề, có óc sáng tạo, có trách


nhiệm và có ý thức trong công việc. Có như vậy thì họ mới tạo ra được những sản
phẩm có chất lượng tốt mang tính cạnh tranh cao.
Thứ tư, năng lực tài chính của các doanh nghiệp
Năng lực tài chính của doanh nghiệp được thể hiện ở quy mô vốn, khả
năng huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, năng lực quản lý tài chính… trong
doanh nghiệp.
Trước hết, năng lực tài chính gắn với vốn – là một yếu tố sản xuất cơ bản và là
một đầu vào của doanh nghiệp. Do đó, sử dụng vốn có hiệu quả, quay vòng vốn
nhanh… có ý nghĩa rất lớn trong việc làm giảm chi phí vốn, giảm giá thành sản
phẩm. Đồng thời, vốn còn là tiền đề đối với các yếu tố sản xuất khác.
Việc huy động vốn kịp thời nhằm đáp ứng vật tư, nguyên liệu, thuê nhân công,
mua sắm thiết bị, công nghệ, tổ chức hệ thống bán lẻ… Như vậy, năng lực tài chính
phản ánh sức mạnh kinh tế của doanh nghiệp, là yêu cầu đầu tiên, bắt buộc phải có
nếu muốn doanh nghiệp thành công trong kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh
tranh.
Để nâng cao năng lực tài chính, doanh nghiệp phải củng cố và phát triển
nguồn vốn, tăng vốn tự có, mở rộng vốn vay dưới nhiều hình thức. Đồng thời, điều
quan trọng là doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, hoạt động
kinh doanh có hiệu quả để tạo uy tín đối với khách hàng, với ngân hàng và những
người cho vay vốn.
Công cụ cạnh tranh khác nhau.
- Dịch vụ sau bán hàng.
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm cua doanh nghiệp không dừng lại sau lúc bán
hàng thu tiền của khách hàng mà để nâng cao uy tín và chịu trách nhiệm đến cùng
đối với người tiêu dùng về sản phẩm của doanh nghiệp mình cung cấp cần phải làm
tốt các dịch vụ sau bán hàng như:

+ Cam kết thu lại sản phẩm và hoàn trả tiền cho khách hàng hoặc đổi lại hàng
nếu như sản phẩm không theo đúng yêu cầu của khách hàng.
+ Cam kết bảo hành trong thời gian nhất định, qua các dich vụ sau bán hàng,


doanh nghiệp sẽ nắm bắt được sản phẩm của mình bán ra có đáp ứng được nhu cầu
của ngưởi tiêu dùng hay không.
1.2.1.2. Mô hình vận dụng nâng cao cạnh tranh của doanh nghiệp
 Mô hình năm áp lực
Từ cách tiếp cận quản trị chiến lược, nhà kinh tế học Michael E. Porter đã
phân tích mô hình 5 áp lực cạnh tranh ( Sơ đồ 1.3). Michael E.Porter cho ràng” Khả
năng, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được thể hiện qua khả năng phát huy
các năng lực độc đáo của mình trước các áp lực cạnh tranh từ các đối thủ: đối thủ
tiểm năng, đối thủ hiện tại, sản phẩm thay thế, nhà cung cấp và kể cả từ khách
hàng”.
Những đối thủ
mới tiềm năng
Nguy cơ từ những đối
thủ mới
Năng lực
Áp lực
nhà cung
cấp

đàm phàn

Những đối thủ cạnh

Năng lực đàm


tranh trog ngành

phán của

của nhà

người mua

cung cấp

Ap lực từ
gười mua

Cạnh tranh giữa các
đối thủ hiện hữu
Nguy cơ của sản phẩm/
dịch vụ thay thê
Sản phẩm thay thế
Sơ đồ 1.3. Năm áp lực cạnh tranh.


Áp lực cạnh tranh của nhà cung cấp
Số lượng, qui mô nhà cung cấp sẽ quyết định áp lực cạnh tranh, quyền
lực đàm phán của họ đối với ngành, với doanh nghiệp. Nếu trên thị trường chỉ có


×