PHẦN MỞ ĐẦU
Thế giới đang bước vào kỷ nguyên của hội nhập kinh tế và xu hướng toàn cầu hoá diễn
ra rộng khắp. Sự xuất hiện của các khối kinh tế và mậu dịch trên thế giới là một tất yếu
khách quan, một nấc thang phát triển mới trong quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế. Khi
gia nhập vào các tổ chức thương mại trong khu vực và trên thế giới, mỗi quốc gia đều
muốn hướng tới một nền kinh tế phát triển, một xã hội văn minh, hiện đại, đời sống
được cải thiện. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, hệ thống tài chính – ngân hàng cạnh
tranh và mở cửa là hệ thống tài chính tốt nhất cho phát triển kinh tế. Hội nhập tạo động
lực cho các ngân hàng thương mại trong nước đổi mới và phát triển, nhưng hội nhập
cũng mang lại những thách thức không nhỏ nếu không muốn nói là rất lớn cho các ngân
hàng yếu và non trẻ. Trong thời gian qua, cùng với việc đổi mới các cơ chế vận hành
của nền kinh tế thị trường Việt Nam theo hướng hội nhập, các ngân hàng thương mại
Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh để
chuẩn bị cho hội nhập quốc tế bằng các biện pháp: tăng quy mô vốn, phát triển công
nghệ, ứng dụng các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, tăng cường hoạt động Marketing.
Tuy nhiên, so với các ngân hàng thương mại hiện đại tại các nước đã và đang phát triển
trên thế giới thì các ngân hàng thương mại Việt Nam còn rất nhiều hạn chế về năng lực
cạnh tranh. Những hạn chế thể hiện ở chỗ: hoạt động chưa thực sự theo các quy luật của
thị trường, tiềm lực tài chính yếu, gia tăng giá trị doanh nghiệp không phải là mục tiêu
duy nhất cộng với các cơ chế quản trị vẫn còn yếu. Để có thể đứng vững và phát triển
trong cơ chế thị trường theo yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước trong hiện tại và
trong tương lai, cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Từ việc nghiên cứu, tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu để đánh giá đúng thực lực của
các NHTM nhà nước Việt Nam hiện nay, tác giả đã mạnh dạn đưa ra các đề xuất góp
phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM nhà nước Việt Nam. Việc ứng dụng
linh hoạt các giải pháp tác giả đề xuất vào thực tế tình hình hoạt động của từng NHTM
nhà nước sẽ giúp các NHTM nhà nước khắc phục được những điểm yếu, từ đó nâng cao
năng lực cạnh tranh của mình trong quá trình hội nhập.
1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh:
Thuật ngữ “ cạnh tranh” được sử dụng rất phổ biến hiện nay trong nhiều lĩnh vực
như kinh tế, thương mại, luật, chính trị, quân sự, sinh thái, thể thao; thường xuyên được
nhắc tới trong sách báo chuyên môn, diễn đàn kinh tế cũng như các phương tiện thông
tin đại chúng và được sự quan tâm của nhiều đối tượng, từ nhiều góc độ khác nhau, dẫn
đến có rất nhiều khái niệm khác nhau về “cạnh tranh”:
- Trong kinh tế chính trị học thì cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ
thể trong nền sản xuất hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản
xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hóa để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.
Cạnh tranh có thể xảy ra giữa những người sản xuất với người tiêu dùng (người sản xuất
muốn bán đắt, người tiêu dùng muốn mua rẻ); giữa người tiêu dùng với nhau để mua
được hàng rẻ hơn; giữa những người sản xuất để có những điều kiện tốt hơn trong sản
xuất và tiêu thụ.
Theo Michael Porter thì: Cạnh tranh là giành lấy thị phần. Bản chất của cạnh tranh là
tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung bình mà doanh
nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự bình quân hóa lợi nhuận trong ngành
theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có thể giảm đi (1980).
Dựa vào các tiêu thức khác nhau, cạnh tranh được phên ra thành nhiều loại.
* Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường
- Cạnh tranh giữa người mua và người bán
- Cạnh tranh giứa những người mua với nhau
- Cạnh tranh giữa những nguời bán với nhau
* Căn cứ theo phạm vi nghành kinh tế
Cạnh tranh được phân thành hai loại.
- Cạnh tranh trong nội bộ nghành: là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng
một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá hoặc dịch vụ.
- Cạnh tranh giữa các nghành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong các
nghành kinh tế với nhau nhằm thu được lợi nhuận cao nhất.
* Căn cứ vào tính chất cạnh tranh
- Cạnh tranh hoàn hảo (Perfect Cometition)
- Cạnh tranh không hoàn hảo (Imperfect Competition)
- Cạnh tranh độc quyền (Monopolistic Competition)
* Căn cứ vào thủ đoạn sử dụng trong cạnh tranh
- Cạnh tranh lành mạnh.
- Cạnh tranh không lành mạnh.
1.1.2. Năng lực cạnh tranh
1.1.2.1. Khái niệm
Lợi thế cạnh tranh
Lợi thế cạnh tranh là những gì làm cho doanh nghiệp nổi bật hay khác biệt so với các
đối thủ cạnh tranh. Đó là những thế mạnh mà tổ chức có hoặc khai thác tốt hơn những
đối thủ cạnh tranh.
2
Lợi thế cạnh tranh của một doanh nghiệp được thể hiện ở hai khía cạnh sau:
- Chi phí: Doanh nghiệp nào có chi phí thấp thì doanh nghiệp đó có nhiều lợi thế
hơn trong quá trình cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Chi phí thấp mang lại cho doanh
nghiệp tỷ lệ lợi nhuận cao hơn mức bình quân trong ngành
- Sự khác biệt hóa: những khác biệt xoay quanh sản phẩm hàng hóa, dịch vụ mà
doanh nghiệp bán ra thị trường
Năng lực cạnh tranh
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về năng lực cạnh tranh trên các cấp độ: quốc
gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Và hiện chưa có một lý thuyết nào hoàn toàn có tính
thuyết phục về vấn đề này, do đó không có lý thuyết “chuẩn” về năng lực cạnh tranh.
Trong khuôn khổ đề án ta chỉ nghiên cứu về năng lực cạnh tranh cấp doanh nghiệp tức
là năng lực cạnh tranh của các ngân hang thương mại Việt Nam
Dưới đây là một số cách quan niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đáng
chú ý.
Một là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và mở rộng thị
phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây là cách quan niệm khá phổ biến hiện nay,
theo đó năng lực cạnh tranh là khả năng tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ so với các đối thủ và
khả năng “thu lợi” của các doanh nghiệp.
Hai là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng chống chịu trước sự tấn
công của doanh nghiệp khác. Quan niệm về năng lực cạnh tranh như vậy mang tính chất
định tính, khó có thể định lượng.
Ba là, năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với năng suất lao động. Theo M. Porter
(1990), năng suất lao động là thước đo duy nhất về năng lực cạnh tranh.
Bốn là, năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh để
chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững”.
Như vậy, cho đến nay quan niệm về năng lực cạnh tranh vẫn chưa được hiểu thống nhất.
1.1.2.2. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Cũng như bản thân doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp chịu tác
động của rất nhiều nhân tố khác nhau. Tuy nhiên, có thể chia các nhân tố tác động đến
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp làm hai nhóm: các yếu tố bên trong doanh nghiệp
và các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp.
Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
a. Trình độ và năng lực tổ chức, quản lý doanh nghiệp
Năng lực tổ chức, quản lý doanh nghiệp được coi là yếu tố quyết định sự tồn tại
và phát triển của doanh nghiệp nói chung cũng như năng lực cạnh tranh doanh nghiệp
nói riêng. Trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp được thể hiện ở các mặt:
Trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý
Trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp
b. Trình độ lao động trong doanh nghiệp
3
Trong doanh nghiệp, lao động vừa là yếu tố đầu vào vừa là lực lượng trực tiếp sử
dụng phương tiện, thiết bị để sản xuất ra sản phẩm hàng hóa và dịch vụ. Lao động còn
là lực lượng tham gia tích cực vào quá trình cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa quá trình sản
xuất và thậm chí góp sức vào những phát kiến và sáng chế…Đây là một yếu tố tác động
trực tiếp tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
c. Năng lực tài chính của doanh nghiệp
Năng lực tài chính của doanh nghiệp được thể hiện ở quy mô vốn, khả năng huy
động và sử dụng vốn có hiệu quả, năng lực quản lý tài chính… trong doanh nghiệp.
Năng lực tài chính phản ánh sức mạnh kinh tế của doanh nghiệp, là yêu cầu đầu tiên, bắt
buộc phải có nếu muốn doanh nghiệp thành công trong kinh doanh và nâng cao năng lục
cạnh tranh.
d. Năng lực marketing của doanh nghiệp
Khả năng marketing tác động trực tiếp tới sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, đáp ứng
nhu cầu khách hàng, góp phần làm tăng doanh thu, tăng thị phần tiêu thụ sản phẩm,
nâng cao vị thế của doanh nghiệp. Đây là nhóm nhân tố rất quan trọng tác động tới năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
e. Năng lực nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp
Năng lực nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp là yếu tố tổng hợp gồm
nhiều yếu tố cấu thành như nhân lực nghiên cứu, thiết bị, tài chính cho hoạt động nghiên
cứu và phát triển (R&D), khả năng đổi mới sản phẩm của doanh nghiệp. Năng lực
nghiên cứu và phát triển có vai trò quan trọng trong cải tiến công nghệ, nâng cao chất
lượng sản phẩm, thay đổi mẫu mã, nâng cao năng suất, hợp lý hóa sản xuất.
g. Trình độ thiết bị, công nghệ
Thiết bị, công nghệ sản xuất là yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Công nghệ phù hợp tạo ra lợi thế cạnh tranh đối với
sản phẩm của doanh nghiệp. Công nghệ còn tác động đến tổ chức sản xuất của doanh
nghiệp, nâng cao trình độ cơ khí hóa, tự động hóa của doanh nghiệp.
Ngoài ra, một số yếu tố khác nhau như lợi thế về vị trí địa lý, ngành nghề kinh
doanh của doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp… có ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp.
4
Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
Có rất nhiều nhân tố bên ngoài tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Nhưgng tựu chung đều thuộc các nhóm yếu tố như sau:
a. Thị trường
Thị trường là môi trường kinh doanh rất quan trọng đối với doanh nghiệp. Thị
trường vừa là nơi tiêu thụ sản phẩm, tìm kiếm đầu vào thông qua hoạt động mua – bán
hàng hóa dịch vụ đầu ra và các yếu tố đầu vào. Sự ổn định của thị trường có ý nghĩa rất
quan trọng đối với hoạt động của doanh nghiệp nói chung và nâng cao sức cạnh tranh
của doanh nghiệp nói riêng.
b. Thể chế, chính sách
Thể chế, chính sách gồm các quy định pháp luật, các biện pháp hạn chế hay
khuyến khích đầu tư hay kinh doanh đối với hàng hóa, dịch vụ, ngành nghề, địa bàn…
… nghĩa là các biện pháp điều tiết cả đầu vào và đầu ra cũng như toàn bộ quá trình hoạt
động của doanh nghiệp. Do vậy, đây là nhóm yếu tố rất quan trọng liên quan tới hoạt
động của doanh nghiệp nói chung và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
nói riêng.
c. Kết cấu hạ tầng
Kết cấu hạ tầng bao gồm hệ thống giao thông, mạng lưới điện, hệ thống thông
tin, hệ thống giáo dục – đào tạo… Đây là tiền đề quan trọng, tác động mạnh đến hoạt
động của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến chất lượng và giá cả của sản phẩm. Để bảo đảm
cho doanh nghiệp hoạt động bình thường và nâng cao năng lực cạnh tranh, cần có hệ
thống kết cấu hạ tầng đa dạng, có chất lượng tốt. Điều đó đòi hỏi có sự đầu tư đúng mức
để phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
d. Các ngành công nghiệp, dịch vụ hỗ trợ
Hoạt động sản xuất kinh doanh với mỗi doanh nghiệp sẽ liên quan tới một chuỗi
các ngành khác và dịch vụ hỗ trợ kinh doanh như: những ngành cung cấp nguyên liệu
đầu vào, dịch vụ vận tải, cung cấp điện, cung cấp nước… Nếu sử dụng các dịch vụ với
chi phí thấp, chất lượng phục vụ tốt sẽ tạo ra lợi thế cho doanh nghiệp tăng năng lực
cạnh tranh,
5
Vì vậy, doanh nghiệp rất cần duy trì mối quan hệ hợp tác lâu dài với các ngành
có liên quan nhằm tạo ra lợi thế tiềm tàng cho cạnh tranh.
e. trình độ nguồn nhân lực quốc gia
Trình độ nguồn nhân lực quốc gia nói chung có vai trò rất quan trọng đối với sự
phát triển doanh nghiệp. Trình độ và các điều kiện về nguồn nhân lực thể hiện ở kỹ
năng của nguồn nhân lực, mức lương, hệ thống lương, điều kiện làm việc, sức khỏe và
an toàn, đầu tư cho đào tạo, vai trò của công đoàn
1.2. Cơ sở lý luận về NHTM và năng lực cạnh tranh của NHTM.
1.2.1. Khái niệm NHTM
Ngân hàng thương mại(NHTM) là tổ chức kinh doanh tiền tệ tín dụng có vị trí
quan trọng nhất trong nền kinh tế thị trường ở các nước. Có nhiều khái niệm khác nhau
về ngân hàng thương mại:
Ở Mỹ: NHTM là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và
hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
Ở Pháp: NHTM là những xí nghiệp và cơ sở nào thường xuyên nhận của công chúng
dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào
nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.
Ở Ấn Độ: NHTM là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay hay tài trợ đầu tư.
Theo Pháp lệnh Ngân hàng năm 1990 của Việt Nam: Ngân hàng thương mại là
một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà nghiệp vụ thường xuyên và chủ yếu là nhận tiền gửi
của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, chiết khấu và
làm phương tiện thanh toán.
Theo luật Các tổ chức tín dụng Việt Nam có hiệu lực vào tháng l0/1998:“Ngân
hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các
hoạt động kinh doanh khác có liên quan”.
Nghị định của Chính phủ số 49/20001NĐ-CP ngày 12/9/2000 định nghĩa:
“Ngân hàng thương mại là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và
các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện
các mục tiêu kinh tế của nhà nước "
1.2.2. Cạnh tranh trong kinh doanh hoạt động ngân hàng
Cạnh tranh của NHTM là khả năng tạo ra và sử dụng có hiệu quả các lợi thế cạnh
tranh, để giành thắng lợi trong quá trình cạnh tranh với các NHTM khác, là nỗ lực hoạt
động đồng bộ của ngân hàng trong một lĩnh vực khi cung ứng cho khách hàng những
sản phẩm dịch vụ có chất lượng cao, chi phí rẻ nhằm khẳng định vị trí của ngân hàng
vượt lên khỏi các ngân hàng khác trong cùng lĩnh vực hoạt động ấy.
Giống như bất cứ loại hình đơn vị nào trong kinh tế thị trường, các NHTM trong kinh
doanh luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt. Tuy nhiên so với sự cạnh tranh của
các tổ chức kinh tế khác, cạnh tranh giữa các
NHTM có những đặc trưng nhất định.
6
Một là, các đối thủ cạnh tranh trong sự ganh đua nhưng cũng có sự hợp tác với
nhau trong một lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm.
Hai là, cạnh tranh ngân hàng luôn phải hướng tới một thị trường lành mạnh,
tránh xảy ra rủi ro hệ thống.
Ba là, cạnh tranh ngân hàng thông qua thị trường có sự can thiệp gián tiếp và
thường xuyên của Ngân hàng trung ương của mỗi quốc gia hoặc của khu vực.
Bốn là, cạnh tranh ngân hàng phụ thuộc mạnh mẽ vào các yếu tố bên ngoài ngân
hàng như môi trường kinh doanh, doanh nghiệp, dân cư, tập quán dân tộc, hạ tầng cơ
sở…
Năm là, cạnh tranh ngân hàng chịu ảnh hưởng thường xuyên của thị trường tài
chính quốc tế.
Các nhân tố tác động đến cạnh tranh của các NHTM.
* Các nhân tố khách quan
- Tác nhân từ phía NHTM mới tham gia thị trường. bất kể thực lực của NHTM mới là
thế nào, thì các NHTM hiện tại đã thấy một mối đe dọa về khả năng thị phần bị chia
sẻ; ngoài ra, các NHTM mới có những kế sách và sức mạnh mà các NHTM hiện tại
chưa thể có thông tin và chiến lược ứng phó.
- Tác nhân là các NHTM hiện tại. Đối thủ cạnh tranh ảnh hưởng đến chiến lược hoạt
động kinh doanh của NHTM trong tương lai. Ngoài ra, sự có mặt của các đối thủ cạnh
tranh thúc đẩy ngân hàng phải thường xuyên quan tâm đổi mới công nghệ, nâng cao
chất lượng các dịch vụ cung ứng để chiến thắng trong cạnh tranh.
- Tác nhân là sức ép từ phía khách hàng
Những người bán sản phẩm thông qua các hình thức gửi tiền, lập tài khoản giao dịch
hay cho vay đều có mong muốn là nhận được một lãi suất cao hơn; trong khi đó những
người mua sản phẩm (vay vốn) lại muốn mình chỉ phải trả một chi phí vay vốn nhỏ hơn
thực tế. Như vậy, ngân hàng sẽ phải đối mặt với sự mâu thuẫn giữa hoạt động tạo lợi
nhuận có hiệu quả và giữ chân được khách
- Tác nhân là sự xuất hiện các dịch vụ mới
Sự ra đời ồ ạt của các tổ chức tài chính trung gian. Các trung gian này cung cấp cho
khách hàng những sản phẩm mang tính khác biệt và tạo cho người mua sản phẩm có cơ
hội chọn lựa đa dạng hơn, thị trường ngân hàng mở rộng hơn. Điều này tất yếu sẽ tác
động làm giảm đi tốc độ phát triển của các NHTM, suy giảm thị phần.
* Nhóm nhân tố chủ quan
nhóm các nhân tố thuộc về nội tại của hệ thống NHTM cũng ảnh hưởng rất lớn đến
năng lực cạnh tranh của các ngân hàng này, chúng bao gồm:
- Năng lực điều hành của ban lãnh đạo ngân hàng
- Quy mô vốn và tình hình tài chính của NHTM
- Công nghệ cung ứng dịch vụ ngân hàng
- Chất lượng nhân viên
- Cấu trúc tổ chức
- Danh tiếng và uy tín của NHTM
1.2.3. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM
7
Năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại.
Năng lực cạnh tranh của NHTM là khả năng tự duy trì một cách lâu dài, có ý thức các
lợi thế của mình trên thị trường để đạt được mức lợi nhuận và thị phần nhất định hoặc
khả năng chống lại một cách thành công sức ép của các lực lượng cạnh tranh
Để đánh giá năng lực cạnh tranh trong kinh doanh ngân hàng cần căn cứ vào các tiêu
chí sau:.
1.2.3.1. Tiềm lực tài chính
Yếu tố tài chính quan trọng nhất của ngân hàng thương mại là vốn. Bao gồm: Vốn
pháp định và Quỹ dự trữ. Vốn ngân hàng là điều kiện cơ bản đảm bảo tiền gởi của
khách hàng, một khi gặp rủi ro trong kinh doanh (như nợ khó đòi, lỗ trong nghiệp vụ
chứng khoán thì vốn của ngân hàng là khoản bù đắp rủi ro đó và tạo khả năng thanh
toán các khoản nợ của khách hàng).Mặc dù vốn là yếu tố cơ bản để đánh giá về mặt tài
chính của ngân hàng, nhưng ngoài yếu tố vốn ta cần phải tính đến hàng loạt các yếu tố
khác như: thanh khoản của ngân hàng, cấu trúc rủi ro tích sản, tính chất biến động của
các loại tiền gởi và chất lượng quản lý ngân hàng.
Theo quan điểm của Mỹ và một số nước phương Tây, muốn đánh giá một ngân hàng
người ta sử dụng 5 chỉ tiêu:
Chỉ tiêu Ghi chú
Tỉ lệ vốn Các tỉ số về vốn (VSCH/Tổng TS, VCSH/Tài sản
có …)
Chất lượng tài sản
có
Chất lượng tín dụng và các khoản đầu tư
Chất lượng quản lý Đội ngũ quản lý, nhân viên, mạng lưới, công
nghệ…
Tiền lãi Các tỉ số về thu nhập
Thanh khoản Tính thanh khoản trên tài sản, trên cổ phiếu ….
Tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu là một thước đo độ an toàn vốn của ngân hàng.
CAR = [(Vốn cấp I + Vốn cấp II) / (Tài sản đã điều chỉnh rủi ro)] * 100%
Bằng tỉ lệ này người ta có thể xác định được khả năng của ngân hàng thanh toán các
khoản nợ có thời hạn và đối mặt với các loại rủi ro khác như rủi ro tín dụng, rủi ro vận
hành. tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu ở Việt Nam hiện đang là 8%. Khi tính toán tỉ lệ an toàn
vốn tối thiểu, người ta xét đến hai loại vốn: vốn cấp I(vốn nòng cốt) và vốn cấp II(vốn
bổ sung), trong đó vốn cấp I được coi là có độ tin cậy và an toàn cao hơn. Ngoài yêu cầu
đảm bảo cho CAR từ 8% trở nên, các ngân hàng còn phải đảm bảo tổng vốn cấp II
không được vượt quá 100% vốn cấp I.
1.2.3.2. Thị phần
Thị phần ngân hàng là phần thị trường ngân hàng chiếm lĩnh. Thị phần nói rõ phần sản
phẩm tiêu thụ của riêng doanh nghiệp so với tổng sản phẩm tiêu thụ trên thị trường. Để
giành giật mục tiêu thị phần trước đối thủ, ngân hàng thường phải có chính sách lãi suất
phù hợp. Việc đảm bảo thị phần cho mình là đảm bảo nguồn thu cho các ngân hang.
Thường thì thị phần ngân hang sẽ được xem xét dưới 2 khía cạnh
- Thị phần huy động vốn ( nhận tiền gửi )
8
- Thị phần tín dụng ( cho vay )
Bên cạnh đó, còn xem xét tới thị phần tương đối ( Relative market share )
1.2.3.3. Hệ thống sản phẩm, dịch vụ
Các sản phẩm dịch vụ của ngân hang thương mại bao gồm”
Thực hiện trao đổi ngoại tệ.
Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại
Nhận tiền gửi.
Bảo quản vật có giá trị:
Cung cấp dịch vụ ủy thác.
Cho vay tiêu dung
Tư vấn tài chính:
Quản lý tiền mặt.
Bán các dịch vụ bảo hiểm.
Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán. …
Nhiều loại hình tín dụng và tài khỏan tiền gửi mới đang được phát triển, các loại
dịch vụ mới như giao dịch qua Internet và thẻ thông minh (Smart) đang được mở rộng
và các dịch vụ mới (như bảo hiểm và kinh doanh chứng khoán) được tung ra hàng năm.
Hệ thống sản phẩm dịch vụ càng đa dạng thì càng tăng tính thỏa mãn cho khách hang,
từ đó nâng cao năng lực cạnh của các ngân hang
1.2.3.4. Trình độ công nghệ
Năng lực công nghệ của NHTM thường được đánh giá thông qua các
tiêu chí:
- Khả năng trang bị công nghệ mới
- Mức độ đáp ứng của công nghệ ngân hàng đối với nhu cầu của thị
trường để giữ được thị phần dịch vụ
- Tính liên kết công nghệ giữa các ngân hàng và tính độc đáo về công
nghệ của mỗi ngân hàng
1.2.3.5. Trình độ quản lý
Đánh giá năng lực quản trị, điều hành của NHTM thông qua các tiêu chí sau:
- Mô hình một ngân hàng hiện đại
- Cơ cấu, trình độ của bộ máy lãnh đạo
- Khả năng ứng phó của cơ chế điều hành trước diễn biến của thị trường;
- Cơ chế vận hành một ngân hàng hiện đại (quản trị tài sản nợ, tài sản có,
quản trị dịch vụ phi tín dụng, quản trị kế toán và ngân quỹ, quản trị nhân sự…)
1.2.3.6. Nguồn nhân lực
nguồn nhân lực là nhân tố rất quan trọng tạo nên chất lượng sản phẩm của các
NHTM trong quá trình hoạt động, bởi vì:
- Trong quá trình giao dịch trực tiếp với khách hàng, nhân viên ngân hàng chính
là một “ hiện hữu” chủ yếu của sản phẩm dịch vụ
- Đa số các ý tưởng cải tiến sản phẩm dịch vụ hoặc cung ứng sản phẩm dịch vụ
được đề xuất từ các hoạt động thực tiễn của nhân viên.
- Nhân viên là lực lượng chủ yếu chuyển tải thông tin tín hiệu từ thị trường, từ
khách hàng, từ đối thủ cạnh tranh đến các nhà hoạch định chính sách của ngân hàng.
9
vì vậy nâng cao chất lượng nguồn nhân yêu cầu tất yếu để nâng cao năng lực cạnh tranh
cho ngân hang
1.2.3.7. Mạng lưới
Muốn có được thị phần lớn, khai thác triệt để các cơ hội ngân hang cần tạo dựng cho
mình một mạng lưới rộng rãi nhất có thể. Việc mở các chi nhánh, phòng giao dịch sẽ
giúp cho người dân và các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận với các sản phẩm và dịch vụ
của ngân hang hơn.Tuy nhiên việc mở quá nhiều các chi nhánh, phòng giao dịch quá với
khả năng có thể gây ra nhiều ảnh hưởng xấu nếu như ngân hang không đủ tiềm lực tài
chính để đáp ứng. Một hệ thống phân phối hợp lý sẽ giúp ngân hang tận dụng tốt nhất
các cơ hội kinh doanh trong khả năng có thể vẫn bảo đảm an toàn, tránh rủi ro xảy ra.
1.2.3.8. Thương hiệu
Ngoài ra, còn có thể đánh giá năng lực cạnh tranh của mỗi ngân hàng qua danh
tiếng và uy tín của mỗi ngân hàng đó. Về hình thức, danh tiếng và uy tín biểu hiện qua
thương hiệu. Về bản chất, danh tiếng và uy tín được tạo ra từ chất lượng, quy mô của
sản phẩm dịch vụ. Đặc biệt trong lĩnh vực ngân hang danh tiếng còn ảnh hưởng rất lớn
đến quyết định của người dân khi họ lựa chọn dùng sản phẩm mà các ngân hang cung
cấp.Vì vậy xây dựng một danh tiếng tốt sẽ là cơ sở để các ngân hang tồn tại và phát
triển
10
Chương 2: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC NHTMNN
VIỆT NAM
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của các NHTMNN Việt Nam
Cho đến nay, ngành ngân hàng nước ta đã trải qua gần 60 năm xây dựng và phát triển.
Đặc biệt là chặng đường từ năm 1986 cho đến nay, chặng đường đổi mới căn bản và
toàn diện của hệ thống ngân hàng VN. Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện theo tinh
thần của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm1986 với sự ra đời của hệ thống ngân
hàng chuyên doanh. Đến năm 1990, cơ chế đổi mới ngân hàng được hoàn thiện thông
qua việc công bố hai Pháp lệnh ngân hàng vào ngày 24.5.1990 (Pháp lệnh Ngân hàng
Nhà nước VN và Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính) đã
chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống NHVN từ “một cấp” sang “hai cấp”.
Theo đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước về tiền tệ,
tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng, là ngân hàng duy nhất được phát hành, là
ngân hàng của các ngân hàng, là ngân hàng của Nhà nước…, còn hoạt động kinh doanh
tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng do các tổ chức tín dụng thực hiện. Các tổ chức tín
dụng bao gồm: ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân
hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, hợp tác xã tín dụng, công ty tài
chính. Tháng 12.1997 trước yêu cầu cao của thực tiễn hai Pháp lệnh ngân hàng đã được
Quốc hội nâng lên thành hai luật về ngân hàng (có hiệu lực từ ngày 1.10.1998) và sau đó
Luật NHNN và Luật các TCTD được sửa đổi và bổ sung vào năm 2003, 2004.
Như vậy, hệ thống ngân hàng thương mại VN đã chính thức đánh dấu sự ra đời và phát
triển khoảng trên 15 năm (từ 1990 đến nay). Trải qua chặng đường trên, hệ thống
NHTM VN đã không ngừng phát triển Mạng lưới ngân hàng thương mại VN đến cuối
năm 2005 phủ khắp cả nước.
Hệ thống NHTM ở nước ta bao gồm: 5 NHTM nhà nước, 36 NHTM cổ phần đô thị và
nông thôn, 29 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 04 ngân hàng liên doanh. Vốn điều lệ
của các NHTM VN không ngừng gia tăng, tổng vốn chủ sở hữu của 05 NHTMNN lên
trên 20.000 tỷ đồng tăng gấp 3 lần so với thời điểm cuối năm 2000. Vốn điều lệ của các
NHTMCP đến cuối năm 2005 tăng gấp 5 lần so với năm 2000, nhiều NHTMCP có vốn
điều lệ trên 500 tỷ đồng-1000 tỷ đồng.
Các NHTM đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng liên tục với
tốc độ cao, tạo công ăn việc làm cho xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo. Nhiều dịch
vụ tiện ích (chi lương, thu chi hộ, thanh toán chuyển khoản, chuyển tiền tự động, dịch
vụ ngân hàng điện tử, dịch vụ thẻ…) và nhiều sản phẩm mới xuất hiện đã đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng của dân cư và sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế…
Hiệu quả kinh doanh của các NHTM VN nhìn chung có những chuyển biến tích cực, lợi
nhuận tăng trưởng khá cao, có những NHTM tỷ suất lợi nhuận ròng trên vốn tự có
(ROE) đạt trên 20%, nợ tồn đọng giảm dần.
Tuy nhiên hệ thống NHTM VN vẫn còn nhiều điểm yếu kém và tồn tại. Hệ thống chính
sách, pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới
triệt để, toàn diện ngành ngân hàng và hội nhập kinh tế quốc tế… sức cạnh tranh và hiệu
quả kinh doanh của hệ thống ngân hàng VN còn yếu...”. sau khi VN gia nhập WTO các
ngân hàng nước ngoài sẽ có nhiều hoạt động phong phú đa dạng tại VN và đuợc đối xử
ngang bằng theo đúng nguyên tắc tối huệ quốc của WTO. Khi đó, NHTMNN và
11
NHTMCP sẽ gặp phải những đối thủ nặng ký (thương hiệu, vốn, công nghệ, nhân lực,
kinh nghiệm, sản phẩm…) ngay trên thị trường VN…
2.2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của các NHTMNN Việt Nam
Theo các cam kết, khi gia nhập WTO, lĩnh vực ngân hàng sẽ được mở cửa dần theo lộ
trình 7 năm. Không chỉ đến hôm nay, kể từ năm 2006, Việt nam đã phải tiến hành gỡ bỏ
các hạn chế các tổ chức tài chính, ngân hàng nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Đây sẽ là
một sức ép lớn đối với hệ thống ngân hàng trong nước, buộc các Ngân hàng phải tăng
tốc thực hiện các kế hoạch nâng cao năng lực cạnh tranh để ngân hàng có thể đối mặt
với những thách thức sống còn.
2.2.1. Tiềm lực tài chính
2.2.1.1. Vốn tự có
Với bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước hiện nay, việc duy trì và củng cố năng
lực tài chính là vấn đề vô cùng quan trọng và cần thiết được đặt ra cho ngành
ngân hàng. Một trong những cách để các ngân hàng phát triển bền vững chính là gia
tăng vốn tự có, tăng năng lực tài chính để tránh khỏi những nguy cơ tiềm ẩn.
Nhưng trên thực tế Quy mô vốn tự có của các NHTMCP Việt Nam hiện nay còn quá
nhỏ so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Bình quân các NHTMCP
mới đạt 9.000 tỷ đồng, tương đương 600 triệu USD. Trong khi đó bình quân các NHTM
trong khu vực lên tới 50 tỷ USD. áp lực cạnh tranh sẽ gia tăng khi Việt Nam hội
nhập kinh tế quốc tế với quy mô ngày càng rộng và sâu. Khi đó, những biến động kinh
tế thường có nguy cơ làm xuất hiện thêm các loại loại rủi ro. Việc tăng vốn giúp
các ngân hàng tăng cường khả năng tự vệ cho mình.
từ ngày 1/4/2007, theo cam kết của chính phủ Việt Nam khi vào WTO, các "ngân hàng
con" của ngân hàng 100% vốn nước ngoài được thành lập tại Việt Nam, hoạt động
theo Luật Các TCTD của Việt Nam, và không bị đối xử phân biệt với các ngân hàng
thương mại của Việt Nam. Với các điều kiện trên, buộc các ngân hàng thương mại
nước ta, nhất là các ngân hàng thương mại cổ phần phải tăng vốn điều lệ
Việc tăng vốn tự có của các NHTMCP từ bên ngoài chủ yếu thông qua phương thức
phát hành thêm cổ phiếu và trái phiếu chuyển đổi trên thị trường chứng khoán đã diễn ra
đồng loạt và liên tục trong khoảng thời gian từ đầu năm 2007 trở lại đây, khi mà
Việt Nam chính thức là thành viên của WTO. Trong khoảng thời gian này, các
NHTMCP liên tục công bố các kế hoạch tăng vốn điều lệ. Có thể nói, trong giai đoạn
này, sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính – ngân hàng ngày càng rõ nét hơn,
nhất là kể từ ngày 1/4/2007 khi các ngân hàng nước ngoài bắt đầu được phép đổ bộ vào
thị trường Việt Nam. Trước bối cảnh trên, hệ thống ngân hàng trong nước đã và đang
từng bước nâng cao năng lực tài chính để đáp ứng với yêu cầu
việc tăng vốn tự có được thực hiện qua việc gia tăng lợi nhuận giữ lại hàng
năm của các ngân hàng, tuy nhiên sự đóng góp của lợi nhuận giữ lại vào việc tăng
vốn tự có là không đáng kể. Ta có thể thấy được tình hình gia tăng lợi nhuận của
các NHTMCP qua bảng số liệu sau đây:
12