Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Luận văn Nghiên cứu kỹ thuật trồng nấm linh chi đỏ (Ganoderma Lucidum) trên mạt cưa cao su

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 53 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Thạc Sĩ Nguyễn Thị Sáu
MỞ ĐẦU

Nấm linh chi đã được nuôi trồng từ rất lâu, không những là nấm ăn mà nó còn là
một loại dược liệu quý hiếm. Từ xa xưa đến nay nấm Linh chi vẫn được xem là nguồn
thực phẩm cao cấp với mùi vị thơm đặc trưng. Vì vậy nấm không chỉ là thức ăn ngon mà
còn là thực phẩm chức năng tốt cho sức khoẻ con người.
Cũng như nhiều loại nấm khác, nấm Linh chi có hàm lượng chất béo thấp. Thành
phần chất béo chủ yếu là axít béo chưa no, rất thích hợp cho những người ăn kiêng,
chống béo phì. Hàm lượng protein cao chỉ sau thịt và đậu nành.
Ngoài những giá trị về dinh dưỡng, nấm Linh chi còn có những dược tính quý.
Những khảo sát dược lý và lâm sàng hiện nay cho thấy Linh chi không có độc tính,
không có tác dụng phụ dù dùng dài ngày, không tương kỵ với những dược liệu khác hoặc
tân dược trong điều trị và Linh chi cũng có nhiều công dụng:
o Linh chi được dùng trong điều trị viêm gan do virus.
o Hỗ trợ điều trị các bệnh ung thư.
o Chống dị ứng, chống viêm.
o Tác dụng như chống oxy hoá.
o Bảo vệ và chống ảnh hưởng của các tia chiếu xạ.
o Nâng cao hệ miễn dịch trong điều trị nhiễm HIV.
o Điều hoà và ổn định huyết áp. Chống nhiễm mỡ xơ mạch và các biến chứng, giảm
cholesterol.
o Chữa loét dạ dày, tá tràng.
o Hỗ trợ trong điều trị tiểu đường.
o Chống suy nhược thần kinh kéo dài, mất ngủ.
o Chống stress gây căng thẳng.Và còn nhiều công dụng khác…
Nhờ những giá trị dinh dưỡng và dược học mà ngày nay ở Việt Nam và trên toàn
thế giới việc nuôi trồng, tiêu thụ nấm Linh chi tăng mạnh. Các nước sản xuất nấm Linh
chi chủ yếu là Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam …


Việt Nam là một nước nông nghiệp và giàu tiềm năng về lâm nghiệp, do đó nguồn
phế thải nông - lâm nghiệp như bã mía, rơm rạ, mạt cưa rất dồi dào, đây là nguồn nguyên
liệu thích hợp cho việc trồng nấm. Nuôi trồng nấm Linh chi ở nước ta đã tiến hành từ
nhiều năm trước đây, nhưng chỉ với những trang trại theo quy mô nhỏ lẻ, tự phát. Do
chưa cơ cấu giống thích hợp và chưa có kỹ thuật nuôi trồng cụ thể hoặc có những người
nuôi trồng chưa nắm bắt rõ. Nên hầu hết các trang trại nuôi trồng nấm không phát triển
so với các nước bạn.
Để bảo vệ môi trường do sự phát triển của ngành nông nghiệp ngày càng thải
nhiều chất gây ô nhiễm môi trường. Làm cho môi trường ngày càng bị ô nhiễm ảnh
Trang 1

SVTH: Ngô Thị Thanh Vân


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Thạc Sĩ Nguyễn Thị Sáu

hưởng tới đời sống và sức khoẻ của con người. Và hiệu quả kinh tế cao mà ngành trồng
nấm Linh chi mang lại. Do đó, việc nghiên cứu kỹ thuật nuôi trồng nấm với nhiều loại
phế thải nông nghiệp thải ở Việt Nam.
Nấm Linh chi là một loại nấm có giá trị dinh dưỡng, giá trị dược học và giá trị
kinh tế cao. Hiểu được những lợi ích của nấm Linh chi đem chúng tôi muốn nghiên cứu
để biết rõ về loại nấm quý này. Nội dung đề tài “Nghiên cứu kỹ thuật trồng nấm Linh chi
đỏ (Ganoderma Lucidum) trên mạt cưa cao su”.
Từ những điều trình bày trên, mục tiêu của đề tài là:
1. Nghiên cứu kỹ thuật trồng nấm Linh chi đỏ (Ganoderma lucidum) trên mạt cưa
cao su.
2. Khảo sát tốc độ phát triển lan tơ của nấm Linh chi.
3. So sánh tốc độ lan tơ của nấm Linh chi giống trên hạt lúa và trên thân khoai mì.


Trang 2

SVTH: Ngô Thị Thanh Vân


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Thạc Sĩ Nguyễn Thị Sáu

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN

Trang 3

SVTH: Ngô Thị Thanh Vân


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Thạc Sĩ Nguyễn Thị Sáu

1.1. Giới thiệu về nấm Linh Chi
Linh chi có rất nhiều tên gọi: Nấm vạn năm, Nấm thần tiên, Cỏ trường sinh, Hạnh
nhĩ,… trong đó Linh chi thảo là phổ biến nhất và được truyền tụng từ hàng ngàn năm nay
với rất nhiều truyền thuyết. Ngược dòng thời gian, các ghi chép sớm nhất về Linh chi là
từ thời Hoàng đế, cách đây hơn 2000 năm. Theo các sách kim điển thì Linh chi có tác
dụng làm trẻ hóa, sống lâu và ngừa được bách bệnh.
Trong truyền thuyết của người Trung Quốc thường lưu truyền các câu chuyện về
Linh chi chữa bệnh nan y, khá nhiều chuyện hấp dẫn và cảm động. Trong truyền thuyết
nổi tiếng “Bạch xà truyện” kể rằng vì muốn cứu sống người chồng mà xà tinh Bạch

nương nương đã không quản ngại hiểm nguy đến tận núi Nga My xa hàng ngàn dặm lấy
cắp tiên thảo của Nam Cực tiên ông. Cuối cùng mục đích của nàng đã đạt được, Hứa
Tiên được cứu sống và tiên thảo đó chính là Linh chi. Vào thời Hán Vũ đế, trên chiếc xà
ngang cung điện, một hôm bỗng mọc ra một cây nấm Linh chi, các vị đại thân đến chúc
mừng và tâu rằng: Linh chi mọc là dự báo điềm lành đến với nhà vua. Từ đó Hán Vũ đế
đã hai lần hạ chiếu ân xá phạm nhân.
Về công dụng chữa bệnh của Linh chi, lần đầu tiên xuất hiện là trong y văn Hán
Vũ đế. Trong “Thần nông bản thảo kinh”, bộ sách nổi tiếng về thảo dược ra đời cách đây
hơn 2000 năm được biên soạn từ thời hậu Hán (năm 25 đến 22 trước công nguyên), đề
cập đến 365 dược thảo thì Linh chi xếp vào loài Thượng dược, ở vị trí số một sau đó mới
đến nhân sâm. Thần nông bản thảo kinh phân biệt Linh Chi theo màu sắc, có ghi: Linh
Chi có 6 loại: Xích chi, Thanh chi, Bạch chi, Hoàng chi, Hắc chi, Tử chi.
Đến thời Minh, Lý Thời Trân viết bản thảo cương mục gồm 2000 loài thuốc thì
Linh Chi vẫn được xếp vào hàng đầu. Ông viết: “Dùng lâu người nhẹ nhàng, không già,
sống lâu như thần tiên”. Ông căn cứ vào tính vị, công năng, tác dụng mà phân Linh Chi
ra thành 6 loại :
1. Thanh chi: Còn có tên là Long chi: Toàn bình, không độc. Chủ trị sáng mắt, bổ
can khí, an thần, tăng trí nhớ.
2. Hồng chi: Còn có tên là Xích chi hay Đơn chi: Vị đắng, tính bình, không độc. Chủ
trị xung trung kết (tức ngực) ích tâm khí, bổ trung, tăng trí nhớ, tăng trí tuệ.
3. Hoàng chi: Còn có tên là Kim chi: Cam (ngọt) bình, không độc. Chủ trị ích trùng
khí, an thần.
4. Bạch chi: Còn có tên là Ngọc chi: Cay, bình, không độc. Chủ trị ích phế khí, làm
thông miệng, mũi, an thần.
5. Hắc chi: Còn có tên gọi là Huyền chi: Mặn, bình, không độc. Chủ trị ù tai, lợi
khớp, bảo thần (bảo vệ công năng của hệ thần kinh) ích tinh khí, làm dai gân cốt.
6. Tử chi: Còn có tên gọi là Mộc chi: Ngọt, ôn, không độc. Chủ trị lợi thủy đạo (lợi
tiểu), ích thận khí.
Trong các bức họa hoặc các tướng đạo Trung Quốc, Linh chi thường được mang
bên mình. Các đạo sĩ tin rằng Linh chi được các thần linh ban cho và “là hạt giống tinh

thần”. Họ tôn trọng Linh chi vì nó làm cân bằng ngũ quan và do đó hỗ trợ trường thọ.
Trang 4

SVTH: Ngô Thị Thanh Vân


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Thạc Sĩ Nguyễn Thị Sáu

Ở Việt Nam, trong những tác giả xưa có hai ngưới nói đến Linh chi, một là danh y
Hải Thượng Lãn Ông (1720 – 1791) trong “Y lý thâu nhàn ngôn phụ chí” (Trong khi làm
thuốc tìm thú nhàn, mượn lời quê để nói lên ý chí của mình) bài thơ số 14, Hải Thượng
viết:
Xuân nhật đăng sơn thái dược.
Vu hồi thạch kính đạt sơn phi.
Lai tuyết tàn hoa thẩm đạo y.
Phất khứ hoang vân đăng tuyệt hiến.
Phượng hoàng sào hạ mịch Linh chi.
Đã được Nguyễn Thanh Giản, Nguyễn Tử Siêu, Nam Trân cùng dịch như sau:
Ngày xưa lên núi hái thuốc.
Đường lên sườn núi mãi quanh đi.
Tuyết rụng hoa rơi thẫm đạo y.
Rẽ lối mây mù leo tận đỉnh.
Tới vùng tổ phượng hái Linh chi.
Người Việt Nam thứ hai có nói đến Linh chi là nhà bác học Lê Quý Đôn (1726 –
1784) viết về Linh chi trong “Vân Đoài loại ngư” và “Kiến văn tiểu lục” đánh giá Linh
chi là “Một sản vật quý hiếm của đất rừng Đại Nam” với những tác dụng lớn như kiện
não, bảo can, cường tâm, kiên vị, cường phế, giải độc, giải cảm và giúp con người sống
lâu tăng tuổi thọ.

Nấm Linh chi được Kỹ Sư Nguyễn Thanh đưa từ Trung Quốc về Việt Nam với
một số chủng Linh chi đỏ quý Ganoderma lucidum (Leyss ex Fr.) Karst …, và được nuôi
trồng ra quả thể tại Đại Học Tổng Hợp Hà Nội. Ở (hình 1.1 và hình 1.2) là quả thể nấm
Linh chi đỏ.

Trang 5

SVTH: Ngô Thị Thanh Vân


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Thạc Sĩ Nguyễn Thị Sáu

Hình 1.1: Bề mặt trên của quả thể nấm Linh chi đỏ (Ganoderma lucidum)

Hình 1.2: Bề mặt dưới của quả thể nấm Linh chi đỏ (Ganoderma lucidum).
Ngày nay, các nhà khoa học đã xác định Linh chi là một loài nấm Linh chi là một
loài có tên khoa học là Ganoderma lucidum (Leyss ex Fr.) Karst, tên thông dụng là Linh
chi (Việt Nam), Lingzhi (Trung Quốc), Reishi (Nhật Bản). Nấm có màu đỏ, hiện nay có
khoảng 45 thứ (variete) Linh chi được xác định, nghĩa là chỉ có Linh chi đỏ ta đã có 45
loại có màu sắc khác nhau thay đỗi từ vàng, vàng cam đến cam, đỏ cam, đỏ, đỏ sậm, đỏ
tía, …Ngoài ra còn có Linh chi đen (Ganoderma sinense) như (hình1.4), Linh chi tím
(Ganoderma japonicum) là hai loại hoàn toàn khác Linh chi đỏ. Linh chi vàng gặp ở Việt
Nam là (Ganoderma colossum) như (hình 1.3) chưa phát hiện ở Trung Quốc và các nước
Đông Nam Á khác.

Hình 1.3: Qủa thể nấm Linh chi vàng (Ganoderma colossum)

Trang 6


SVTH: Ngô Thị Thanh Vân


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Thạc Sĩ Nguyễn Thị Sáu

Hình 1.4: Quả thể nấm Linh chi đen (Ganoderma sinense)

Hình 1.5: Quả thể nấm Linh chi trắng
Các loài Linh chi được xếp vào một họ riêng là họ nấm Linh chi
Ganodermataceae trong đó chi Ganoderma có rất nhiều loài, đến gần 80 loài, do vậy Linh
chi đỏ được gọi là Linh chi chuẩn để phân biệt với những loài khác cùng chi Ganoderma
nhưng không phải là Linh chi thật sự. Khi nói đến Linh chi là đề cập đến Linh chi đỏ
Ganoderma lucidum đây là loại Linh chi tốt nhất trong các loài thuộc họ Linh chi. Cho
đến nay chưa ai thấy và chưa có mô tả khoa học về Linh chi trắng (hình 1.5) và Linh chi
xanh thuộc chi Ganoderma trong họ Ganodermataceae mà chỉ mới thấy Linh chi đỏ, Linh
chi đen, Linh chi vàng, Linh chi tím. Ngoài ra, các nhà khoa học Nhật Bản còn cho rằng
trồng trong một số điều kiện khác nhau Linh Chi sẽ có màu khác nhau.
Tên khoa học: Ganoderma lucidum (Leyss ex Fr) Kart (Linh Chi có nhiều loài
khác nhau).
Nấm Linh Chi thuộc:
Ngành

: Eumycota.

Lớp

: Basidiomycetes.

Trang 7

SVTH: Ngô Thị Thanh Vân


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Thạc Sĩ Nguyễn Thị Sáu

Bộ

: Polyporales.

Họ

: Ganodermataceea.

Chi

: Ganoderma

Loài

: Ganoderma lucidum

Chi Ganoderma rất phong phú và phân bố khá rộng, nhất là ở vùng nhiệt đới ẩm,
một số dùng làm thực phẩm chức năng và dược phẩm. Gặp hầu hết ở các nước Châu Á ở
Việt Nam gặp rãi rác từ Bắc đến Nam.
1.1.1. Đặc điểm sinh học
Về hình thái ngoài chúng cũng có ít nhiều sai khác. Quả thể có cuống dài hoặc

ngắn, thường đính bên, đôi khi trở thành đính tâm do quá liền tán mà thành. Cuống nấm
thường hình trụ, hoặc thanh mảnh (cỡ 0,3 – 0,8 cm đường kính), hoặc mập khỏe (tới 2 –
3,5 cm đường kính). Ít khi phân nhánh, đôi khi có uốn khúc cong quẹo (do biến dạng
trong quá trình nuôi trồng). Lớp vỏ cuống láng đỏ – nâu đỏ – nâu đen, bóng, không có
lông, phủ suốt lên mặt tán nấm.
Mũ nấm dạng thận – gần tròn, đôi khi xòe hình quạt hoặc ít nhiều dị dạng đồng
tâm và có tỉa rảnh phóng xạ, màu sắc từ vàng chanh – vàng nghệ – vàng nâu – vàng cam
– đỏ nâu – nâu tím, nhẵn bóng, láng như verni. Khi già, sẫm màu lớp vỏ láng lớp phấn đỏ
nâu trên bề mặt ngày càng nhiều và dày hơn. Kích thước tai nấm biến động lớn, từ 5 – 12
cm, dày 0,8 – 3,3 cm. Phần đính cuống hoặc gồ lên hoặc lõm như lõm rốn (hình 1.6)
Mô thịt nấm

Mũ nấm

Bào tầng – Thụ tầng

Cuống nấm

Hình 1.6: Hình thái giải phẫu thể quả nấm Linh chi
Phần thịt nấm dày từ 0,4 – 2,2 cm, màu vàng kem – nâu nhợt – trắng kem, phân
chia kiểu lớp trên và lớp dưới. Thấy rõ ở các lớp trên, các tia sợi hướng lên. Trên lát cắt
trên giải phẫu hiển vi, chỉ thấy đầu trên các sợi phình hình chùy, màng rất dày, đan khít
vào nhau, tạo thành lớp vỏ láng (dày khoảng 0,2 – 0,5 mm). Nhờ lớp láng bóng không
Trang 8

SVTH: Ngô Thị Thanh Vân


Khóa luận tốt nghiệp


GVHD: Thạc Sĩ Nguyễn Thị Sáu

tan trong nước do đó mà nấm chịu được mưa, nắng. Ở lớp dưới hệ sợi tia xuống đều đặn,
tiếp giáp vào tầng sinh bào tử.
Tầng sinh sản (bào tầng – thụ tầng - hymenium) là một lớp ống dày từ 0,2 – 1,8
cm màu kem – nâu nhạt gồm các ống nhỏ thẳng, miệng gần tròn, màu trắng, vàng chanh
nhạt, khoảng 3 -35 ống/mm. Đảm đơn bào (holobasidie) hình trứng hình chùy, không
màu dài 16 – 22 µm, mang 4 đảm bào tử (basidiospores).
Bào tử đảm thường được mô tả có dạng trứng cụt (truncate). Đôi khi có tác giả mô
tả là dạng hình trứng có đầu chóp tròn – nhọn. Thực ra đó là do chụp phủ lớp nảy mầm
(tectum cap) hoặc phồng căng, hoặc lõm thụt vào mà thành. Bào tử đảm có cấu trúc lớp
vỏ kép, màu vàng mật ong sáng, chính giữa khối nội chất tụ lại một giọt hình cầu, dạng
giọt dầu, kích thước bào tử rất nhỏ dao động ít nhiều khoảng từ 8 – 11,5 x 6 – 7,7 µm,
phải xem dưới kinh hiển vi mới thấy được, khá phù hợp với tác giả (bảng 1.1). Bào tử
Linh chi có hai lớp vỏ rất cứng, khó nảy mầm. Bào tử Linh chi có chứa các thành phần
giống như Linh chi: Polyssacharide, triterpen, acid béo, acid amin, vitamin và các
nguyên tố vi lượng, với hàm lượng đậm đặc hơn Linh chi từ 7 đến khoảng 20 lần (theo
một số báo cáo). Khi Linh chi phóng thích bào tử, nhìn xuyên qua ánh nắng sẽ thấy từng
đợt bào tử bay như khói bám vào mặt trên Linh chi tạo thành một lớp bụi mỏng màu nâu
đỏ, rất mịn, như đất đỏ bazan.
Tuy vậy số lượng bào tử Linh chi là rất ít. Khi thu hoạch 1 tấn nấm Linh chi sẽ thu
được 1kg bào tử. Tác dụng của bào tử cũng giống như tác dụng của nấm Linh chi.
Thường một vài sản phẩm của các hãng trên thị trường có phối hợp Linh chi và bào tử
phá vỏ hoặc không phá vỏ. Các sản phẩm này thường đắt hơn các sản phẩm không có
bào tử. Tuy nhiên những bào tử đã phá lớp vỏ thì dễ bị oxy hóa nếu bảo quản không tốt,
còn nếu không phá vỏ thì cơ thể khó hấp thụ nếu dùng dưới dạng viên nang.
Bảng 1.1: Biến động kích thước bào tử đảm nấm Linh chi chuẩn ở các mẫu
vật khác nhau.
Nguồn


Kích thước bào tử

Vùng thu mẫu

1889Patouuillard

10 – 12 x 6 – 8

Đông Dương

1939 Imazeki

9,5 – 11 x 5,5 – 7

Nhật Bản

1964 teng

8,5 – 11,5 x 5 – 6,5

Trung Quốc

1972 Steyaert

8,5 – 10,8 – 13 x 5,5 – 8,5

Indonesia. Úc Châu

1973 Pegler et al


9 – 13 x 6 – 8

Anh Quốc

1976 Ryvarden

7 – 12 x 6 – 8

Bắc Âu. Phi Châu

1980 Ryvarden et al

7 – 12 x 6 – 8

Đông Phi Châu

1981 Kiet

7,5 – 10 x 5 – 6,5

Bắc Việt Nam

1982 Bazzalo et al

9 – 13 x 5 – 7

Argentine

Trang 9


SVTH: Ngô Thị Thanh Vân


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Thạc Sĩ Nguyễn Thị Sáu

1986 Melo

8,2 – 11,5 – 13,5 x 6,3 – 7,5 –8,1

Bồ Đào Nha

1986 Gilbertson et al

9 – 12 x 5,5 – 8

Bắc Mỹ

1986 Adaskaveg et al

10 – 11,8 x 6,8 – 7,8

Bắc Mỹ

1987 Petersen

7–8x6–8

Bắc Âu


1989 Zhao

9 – 11 x 6 – 7

Trung Quốc

1990 Hseu

8,5–11,5 x 5–7

Đài Loan

1994 Thu

9 – 12 x 5 – 7

Hà Bắc Việt Nam

1994 Tham et al

8 – 10,5 x 5 – 7

Lạng Sơn Việt Nam

1996 Tham

7,5 - 11,5 x 5,5 – 7

Đà Lạt Việt Nam


Vỏ bào tử khá dày, cỡ 0,7 – 1,2 µm có cấu trúc phức tạp, mặc dù kích thước biến
đỗi nhưng cấu trúc tinh vi của bào tử đảm có độ ổn định cao, dù là ở chủng nuôi trồng ở
Trung Quốc, Nhật Bản chủng nấm Linh chi Hà Bắc hay chủng Đà Lạt. Rõ ràng kiến tạo
lỗ thủng trên bề mặt lớp vỏ ngoài là phổ biến nhất ở các chủng nghiên cứu, và quan sát
thường thấy mấu lồi nhỏ (đường kính 0,5 – 1,5µm) ở đầu đối diện với lỗ nảy mầm – tức
là ở đáy bào tử (có thể thấy rõ ở chủng nấm Linh Chi). Mới chỉ thấy Steyaert (1972),
Futado (1962), Hseu (1990), Buchanan và Wilkie (1994), … chụp và vẽ mô tả cấu trúc
này nhưng chưa ai đưa ra nhận xét và thuật ngữ nào.
Lỗ nảy mầm của bào tử đảm khá lớn, là đặc điểm quan trọng của loài Ganoderma
(đường kính cỡ 3,2 – 4,2µm). Đã có nhiều thảo luận lý thú, đặc biệt là các thí nghiệm
gieo đảm bào tử để xác định chức năng của cấu trúc này. Đặc biệt Furtado và Steyaert
thường lưu ý, gọi vùng này là đỉnh bào tử, nhấn mạnh đặc điểm nở phồng dày lên của
vùng này của các loài Ganoderma.
Trên lớp vỏ ngoài thấy rõ các trụ chống chính là khái niệm “gai chống” do đa số
các tác giả nhận xét đỉnh các trụ nổi gồ thành các mụn cóc. Các trụ chống chính là tầng
cột theo phân loại của Erdtman (1952) – các trụ được nối với nhau bằng vách mỏng
chống từ tầng nền tới tầng phủ mỏng, trong suốt, bao bọc toàn bộ bên ngoài bào tử. Như
thế tạo thành các xoang rỗng ở lớp vỏ ngoài, nhờ đó tạo khả năng bảo vệ cao cho vỏ bào
tử.
Lớp vỏ trong mỏng hơn, sát ngay bên dưới tầng nền của lớp vỏ ngoài, thường
cảm quan mạnh, do vậy thấy đậm màu dưới kính hiển vi quang học. Cấu trúc của lớp vỏ
trong cho đến nay còn chưa được biết rõ.
1.1.2. Đặc điểm sinh trưởng và sinh sản
Các bào tử đảm đơn bội, trong điều kiện thuận lợi, nảy mầm tạo hệ sợi sơ cấp,
trong thực nghiệm thì tỷ lệ nảy mầm ở nhiệt độ 28 – 30oC. Hệ sợi sơ cấp đơn nhân đơn
bội mau chóng phát triển, phối hợp với nhau tạo ra hệ sợ thứ cấp – tức hệ sợi song hạch
Trang 10

SVTH: Ngô Thị Thanh Vân



Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Thạc Sĩ Nguyễn Thị Sáu

phát triển, phân nhánh rất mạnh, tràn ngập khắp giá thể. Lúc này, thường có hiện tượng
hình thành bào tử vô tính màng dày – rất dày.
Chúng dễ dàng rụng ra khi gặp điều kiện phù hợp sẽ nảy mầm cho ra hệ sợi song
mạch tái sinh. Hệ sợi thứ cấp phát triển mạnh đạt tới giai đoạn cộng bào – tức các vách
ngăn được hòa tan.
Tiếp đó là giai đoạn sợi bện kết để chuẩn bị cho sự hình thành mầm mống quả thể,
đây chính là giai đoạn phân hóa hệ sợi. Từ hệ sợi nguyên thủy hình thành các sợi cứng
màng dày, ít phân nhánh bên kết lại thành cấu trúc bó được cố kết bởi các sợi bên phân
nhánh rất mạnh.
Từ đó hình thành các mầm nấm màu trắng mịn vươn dài thành các trụ tròn mập.
Phần đỉnh trụ bắt đầu xòe thành tán, trong lúc lớp vỏ láng đỏ cam xuất hiện. Tán lớn dần
hình thành bào tầng và bắt đầu phát tán bào tử đảm liên tục cho đến khi nấm già sẫm
màu, khô tóp và lụi dần trong vòng 3 – 4 tháng. Chu trình sống của nấm Linh chi (hình
1.7).

Hình 1.7: Chu trình sống của nấm Linh chi.
Nấm Linh chi có thể mọc trên cây gỗ (thường là thuộc bộ đậu Fabales) đã chết.
Quả thể gặp rộ vào mùa mưa (từ tháng 5 – tháng 11 dương lịch), có thể trên thân cây
(cuống thường ngắn, tai nấm nhỏ), quanh gốc cây hoặc từ các rễ cây khi ấy cuống thường
dài và có thể phân nhánh, đôi khi tán nấm lớn (xấp xỉ 30 cm). Nấm thường mọc tốt dưới
bóng rợp, ánh sáng khuyếch tán nhẹ. Do có lớp vỏ láng đỏ, Linh chi có thể chịu nắng rọi,
khi ấy sẽ xuất hiện lớp phấn ánh xanh tím, có thể chịu mưa liên tục. Đáng chú ý là các
chủng nấm Linh chi thường có màu nâu đỏ bóng sẫm màu hơn, trong khi chủng Linh chi
ở Đà Lạt thường đỏ hồng – đỏ cam. Ở những vùng thấp (< 500 m) rõ ràng là ưu thế của


Trang 11

SVTH: Ngô Thị Thanh Vân


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Thạc Sĩ Nguyễn Thị Sáu

các chủng chịu nhiệt độ cao (28 – 35) như ở vùng châu thổ sông Hồng và đồng bằng
sông Cửu Long (quanh thành phố Hồ Chí Minh).
Bởi thế, chủng Linh chi đỏ được chúng tôi chọn làm đối tượng để tìm hiểu và nuôi
trồng khảo cứu chính phục vụ cho bài tốt nghiệp. Và nghiên cứu chi tiết hơn về kỹ thuật
nuôi trồng Linh chi ở điều kiện khí hậu tại TP. Hồ Chí Minh.
1.1.3. Điều kiện sinh trưởng và sinh sản
Nhiệt độ thích hợp:
Giai đoạn nuôi sợi: Từ 20oC đến 30oC
Giai đoạn quả thể: Từ 22oC đến 28oC
Độ ẩm:
Độ ẩm cơ chất: Là lượng nước bổ sung vào cơ chất để nấm có thể mọc được từ 60
đến 65%.
Độ ẩm không khí: Gọi là độ ẩm tương đối không khí. Nó biểu hiện bảng phần
trăm của tỉ lệ độ ẩm tuyệt đối trên độ ẩm bảo hoà của không khí, độ ẩm không khí
từ 80% đến 95%.
Độ thông thoáng: Trong suốt quá trình nuôi sợi và phát triển quả thể, nấm Linh
chi đều cần có độ thông thoáng tốt.
Ánh sáng:
Giai đoạn nuôi sợi: Không cần ánh sáng.
Giai đoạn phát triển quả thể: Cần ánh sáng tán xạ (ánh sáng có thể đọc sách được).

Cường độ ánh sáng cân đối từ mọi phía.
pH:
Linh chi thích nghi trong môi trường trung tính đến acid yếu. Đối với nguyên liệu
trồng nấm, không ở dạng dung dịch, nên khó đo với các loại máy đo pH ở dạng dung
dịch. Người ta có thể dùng “pH đo đất” để xác định độ pH của nguyên liệu. Dụng cụ đơn
giản như một cái dùi nhọn, khi ghim vào nguyên liệu sẽ cho biết ngay pH của cơ chất.
Dinh dưỡng:
Sử dụng nguồn dinh dưỡng trực tiếp từ nguồn xenlulo.
1.1.4. Thành phần hóa học và dược tính cơ bản của nấm Linh chi
Số lượng các chủng loài nấm Linh chi được sử dụng trong công nghệ dược liệu,
dược phẩm ngày càng tăng và đó cũng là bí quyết của các quốc gia Á Đông. Khái niệm
Lục Bảo Linh chi từ thời Lý Thời Trân cách nay 400 năm (1595) có lẽ phải bao hàm
hàng chục loài khác nhau. Cho nên, không phải ngẫu nhiên mà ở Trung Quốc có khá
nhiều cơ sỡ tầm cỡ nghiên cứu và sản xuất Linh chi (đặc biệt là ở Phúc Kiến và Tứ
Xuyên).
Trang 12

SVTH: Ngô Thị Thanh Vân


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Thạc Sĩ Nguyễn Thị Sáu

Các nước Châu Á dẫn đầu về nghiên cứu hoá dược, nuôi trồng và bào chế các loại
Linh chi. Thực tế một số tác giả đã quan tâm phân tích thành phần cấu tạo vỏ láng ở các
loài Ganoderma và Amauroderma vào thập niên 20, phát hiện các ergosterol và các
enzyme phenoloxydase, peroxydase,…ở G.lucidum (dẫn theo tài liệu Trung Quốc, 1976).
Gần đây mới có lẻ tẻ các khảo cứu về tác dụng gây dị ứng và bệnh đường hô hấp bởi bào
tử một số loài Ganoderma ở Aukland (New Zealand) (Hasnain. SM. Et al 1985) đặc biệt

bởi các thành tố chiết từ G. applanatum, G. lucidum và G. meredithiae ở New Orleans
(Hoa Kỳ) (Horner, W. E. et al 1993).
Năm 1936, nấm Linh chi (Ganoderma lucidum) nuôi trồng đại trà thành công ở
Nhật Bản thì trào lưu nghiên cứu về hoá sinh học nấm càng trở nên mạnh mẽ. Sản lượng
nấm nuôi trồng chủ động trên thế giới ngày một nâng cao cung cấp đủ nguyên liệu cho
các nhà dược học đi dâu vào nghiên cứu thành phần hoá học của nấm Linh chi.
Vào thập niên 70 – 80, bắt đầu một trào lưu khảo cứu hoá dược học các nấm Linh
chi (bảng 1.2). Chủ yếu ở trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Việt Nam. Gần
đây một số phòng thí nghiệm ở Hoa Kỳ và vùng Đông Nam Á cũng bắt đầu tham gia vào
tiến trình này.
Với các phương pháp cổ điển trước đây người ta đã phân tích các thành phần hoá
dược tổng quát của Linh chi, cho thấy:
Nước

: 12 – 13%
(trong cao mềm của Việt Nam thì tới 22,32%)

Cellulose

: 54 – 56%

Lignin

: 13 – 14 %

Hợp chất nitơ

: 1,6 – 2,1%

Chất béo (kể cả dạng xà phòng hoá)


: 1,9 – 2%

(có thể có tới 0,4% trong cao)
Hợp chất Sterol toàn phần

: 0,11 – 0,16%

Saponin toàn phần

: 0,3 – 1,23%

Alcaloide và Glucoside tổng số

: 1,82 – 3,06%

Từ những năm 1980 đến nay, người ta, bằng các phương pháp hiện đại: phổ kế
UV (tử ngoại), IR (hồng ngoại)…, phổ kế khối lượng – sắc ký khí (GC - MS), phổ kế
cộng hưởng từ hạt nhân (đánh dấu với H – 3 và C – 13) (NMR) và đặc biệt là kỹ thuật
sắc ký lỏng cao áp (HPLC) và phổ kế plasma (ICP), đã xác định chính xác gần 100 hoạt
chất và dẫn xuất trong nấm Linh chi. Dẫn liệu từ MedLine cho thấy cũng có đến gần con
số 200 công trình nghiên cứu trong lĩnh vực này (từ 1983 – 1993 ). Có thể khái quát
trong (bảng 1.3) dưới đây:
Điều đáng lưu ý là các nhóm hoạt chất chính gặp khá phổ biến ở nhiều loài
Ganoderma Kast. Và cả các loài Amauroderma Murr như luận điểm về tính thống nhất
Trang 13

SVTH: Ngô Thị Thanh Vân



Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Thạc Sĩ Nguyễn Thị Sáu

của họ Ganodermataceae Donk về phương diện hoá sinh học của (Lê Xuân Thám, Đàm
Nhuận, 1994).
Bảng 1.2: Một số loài Linh chi đã được phân chất
Các nhóm hoạt chất

Tên loài

Steroide

Triterpenoide

Polysaccharide

Ganoderma applanatum

+

+

+

G. boninese

+

+


+

G.capense

+

+

+

G. fomosanum

+

+

+

G. japoincum

+

+

+

G. lucidum

+


+

+

Gsinense

+

+

+

G. tenue

+

+

+

G. tsugae

+

+

+

Amauroderma rude


+

+

+

A macer

+

+

+

Điều đáng lưu ý nữa là các nhóm hoạt chất này cũng gặp khá nhiều phổ biến trong
các cấu trúc nấm. Trong thể nang bào tử (Sporosphores, Sporocarps) trong bào tử đảm
(Basidiospores) và trong hệ sợi (Mycelia) trong nấm tự nhiên hoang dại và nuôi trồng
chủ động.

Bảng 1.3: Thành phần hoạt chất cơ bản ở nấm Linh chi
Trang 14

SVTH: Ngô Thị Thanh Vân


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Thạc Sĩ Nguyễn Thị Sáu


Hoá chất

Nhóm

Hoạt chất dược tính

Cyclooctasulfur

Nucleotide

Ưc chế giải phóng histamine

Adenosine dẫn xuất

Proteine

Ức chế kết dính tiểu cầu, thư giãn
cơ, giảm đau

Lingzhi – 8

Alcaloide

Chống dị ứng phổ rộng. Điều hoà
miễn dịch

***

Steroide


Trợ tim

Ganodosterone

Steroide

Giải độc gan

Lanosporeric acid A

Steroide

Ức chế sinh tổng hợp Cholesterol

Lanosterol

Steroide

Ức chế sinh tổng hợp Cholesterol

II, III, IV, V

Steroide

Ức chế sinh tổng hợp Cholesterol

Ganoderans A, B, C

Polysaccharide


Hạ đường huyết

Beta – D Glucan

Polysacc

Chống ung thư, tăng tính miễn dịch

BN – 3B; 1, 2, 3, 4

Polysacc

D–6

Polysacc

Tăng tổng hợp protein, tăng chuyển
hoá acid nucleic

***

Polysacc

Trợ tim

Ganoderic acids R, S

Triterpenoide

Ức chế giải phóng histamine


Ganoderic acids B, D, F, H, Y

Triterpen

Hạ huyết áp, ức chế ACE

Ganoderic acids

Triterpen

Ức chế sinh tổng hợp Cholesterol

Ganodermadiol

Triterpen

Hạ huyết áp, ức chế ACE

Ganodermic acids Mf

Triterpen

Ức chế sinh tổng hợp Cholesterol

Ganodermic acids T. O

Triterpen

Ức chế sinh tổng hợp Cholesterol


Lucidone A

Triterpen

Bảo vệ gan

Lucidenol

Triterpen

Bảo vệ gan

Ganosporelacton A

Triterpen

Chống khối u

Trang 15

SVTH: Ngô Thị Thanh Vân


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Thạc Sĩ Nguyễn Thị Sáu

Ganosporelacton B


Triterpen

Chống khối u

Oleic acid dẫn xuất

Acid béo

Ức chế giải phóng Histamine

Trong số các nhóm hoạt chất, nhóm có bản chất protein nổi bật với Lingzhi – 8 do
các nhà khoa học Nhật Bản tìm ra (Kino .K et al 1989, 1991…), được chứng minh là một
tác nhân chống dị ứng phổ rộng và điều hoà miễn dịch hữu hiệu, đồng thời duy trì tạo
kháng thể chống các kháng nguyên viêm gan B.
Riêng nhóm nucleoside, nổi bật trong Ganoderma lucidum và G. capense có các
dẫn xuất của adenosine với tác dụng thư giãn cơ giảm đau và ức chế sự dính kết tiểu cầu.
Nhóm alcaloide còn ít được khảo cứu, mặc dù với tác dụng trợ tim là rõ ràng. Dẫn
liệu về nấm Linh chi (G. lucidum) cho thấy hàm lượng alcaoide tổng số rất đáng kể có vẻ
mâu thuẫn với ý kiến của G. Paris (1948) cho rằng nấm Linh chi không có alcaloide và
không độc.
Nhóm Steroid khá phong phú ở nấm Linh chi với tác dụng chủ đạo ức chế sinh
tổng hợp Cholesterol. Đặc biệt từ bào tử đảm G. lucidum ngoài 2 lacton A, B còn có 5
hợp chất sterol đã được Chen – Ry và Yu 1991 xác định chính xác công thức phân tử:
3, 7, 11, 12, 15, 23 - hexaoxo - 5 alpha - lanosta - 8 - en - oic acid (I)
3beta, 7beta - trihydroxy - 11, 25, 23 trioxo - 5 alpha - lanosta 8 - en - 26 oic acid(II)
7beta – hydroxyl – 11, 15, 23 - pentaoxo - 5 alpha - lanosta - 8 - en - oic acid (III)
3,7, 11, 15, 23 – pentaoxo - 5 alpha - alpha - lanosta - 8 - en - oic acid (IV)
24, 25, 26 - trihydroxy - 5 alpha - lanosta – 7, 9 (11) - dien -3- one(V)

Trong đó hợp chất đầu (I) là một chất mới tìm thấy được đặt tên là Ganosporeric

A còn 4 chất sau lần đầu tiên thu nhận được từ bào tử G. lucidum. Các hợp chất
Lanostannoid có cấu trúc kiểu triterpen được phát hiện ngày một nhiều, năm 1986,
Arisawa, M, et al xác định cấu trúc 3 hợp chất mới.
Ganodermenonol:
26 - hydroxyl - 5 alpha - lanosta –7,9,(11)24 - trien – 3 - one
Ganodermadiol:
5 alpha - lanosta - 7,9,(11)24 - trien – 3 beta,26 diol
Ganodermatriol:
5 alpha - lanosta - 7,9,(11)24 - trien – 3 beta, 26, 27 – triol

Trong nhóm các Ganodermic acid, Wang, C.N., et al (1989) đã chứng minh hiệu
lực ức chế kết tụ tiểu cầu người và xác định cấu trúc phân tử của ganodermic acid S.
lanosta - 7,9,(11)24 - trien – 3 beta, 15 alpha – diacetoxy – 26 – oic acid

Kết quả gắn đồng vị phóng xạ P- 32 chỉ ra rằng Ganodermic acid S hoạt hoá sự
thuỷ phân P1P2 (đó là phosphatidylinostol 4,5- bophosphate). Dưới kính hiển vi điện tử
Trang 16

SVTH: Ngô Thị Thanh Vân


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Thạc Sĩ Nguyễn Thị Sáu

quét, ở dưới ngưỡng kết tụ, tiểu cầu có dạng dĩa với gai nhỏ, còn ở trên ngưỡng, chúng
dạng tròn hoặc bất thường có gai và các biến dạng của màng.
Nhóm ester với acid béo không no linoleic được ghi nhận vào 1991 có hoạt tính
chống ung thư với công trình của Lin, C.N. et al. Đó là 2 ergosterol mới:
Steryl ester 1:

Ergosta – 7,22 - dien – 3 beta – yl - linoleate
Steryl ester 2:
5 alpha, 8 alpha – epidioxyergosta – 6,22 dien – 3 beta- yl - linoleate

Đồng thời các tác giả còn tìm ra 1 lanostanoid và steroid mới cũng có tác dụng ức
chế các tế bào ung thư.
Nhóm Polysaccharide cũng rất phong phú ở các nấm Linh chi và phổ hoạt lực
mạnh.
He. Y. et al (1992) đã khảo cứu các BN3B – gồm 4 polysaccharide đồng nhất có
hoạt tính tăng miễn dịch. Trong đó arabinogalactan mang các liên kết glycoside.
Hikino. H. et al 1985 – 1989 chứng minh hoạt lực hạ đường huyết của nhiều
polysaccharide. Đó chính là các heteroglycan có cả hoạt tính chống ung thư. Đó là
ganoderan B có tác dụng làm tăng mức insuline huyết tương, làm giảm sinh tổng hợp
glycogen và hàm lượng glycogen trong gan; và đó là cơ sở điều trị liệu trên các bệnh
nhân đái đường.
Đặc biệt các phức hợp polysaccharide – protein có hoạt tính chống khối u và tăng
miễn dịch đã được chỉ ra từ lâu (Ukai, S. et al 1983). Byong kak Kim (1992, 1994) et al
còn tiến hành lai hệ sợi bằng dung hợp Protoplast giữa nấm Linh chi chuẩn G. lucidum
với các loài khác: G. applanatum… thậm chí với cả nấm hương Lentinus edodes, nhờ đó
tăng cường hoạt tính chống khối u sarcom 180 của các phức polysaccharide – protein lên
đáng kể. Gần nay tác dụng tăng sinh tổng hợp IL -2 (Interleukine - 2) và hoạt tính AND
polymerase ở chuột già tuổi bởi polysaccharide đã soi sáng thêm khả năng trẻ hoá, tăng
tuổi thọ bởi các nấm Linh chi (Lei. L.S và Lin. Z.B 1993).
Loạt nghiên cứu về polysaccharide không tan trong nước của các tác giả Nhật
Bản (Sone, Y. et al, 1985; Takashi, M.et al, 1993,...) chứng tỏ hiệu lực chống khối u rất
rõ, thậm chí làm tan khối u với tỷ lệ ¾ với các loài G.applanatum và G. lucidum.
Gần đây Lin Zhibin và Lei sheng (1994) đã xác định trọng lượng phân tử của
Polysaccharide từ G.lucidum cho kết quả: 7.100 – 9.300. Nhưng tổng kết xác đáng về vai
trò sinh – dược học của nhóm hoạt chất này đã được R. Chang (1994) giới thiệu tại hội
thảo Bắc Kinh với báo cáo thực nghiệm của tác giả Đài Loan, Trung Quốc và Hoa Kỳ.

Mặc dù còn ít nghiên cứu, song các alcaloide ở Ganoderma capence (Lloyd) Teng
rất đáng lưu ý. Chúng là các pyrroles đặc biệt (Yang, J, J và Yu, DQ, 1990); (Yu, J,G, et
al 1990).
ganoine:

Trang 17

SVTH: Ngô Thị Thanh Vân


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Thạc Sĩ Nguyễn Thị Sáu

N - isopentyl - 5 hydroxymethyl - pyrryl aldehyde
gnaodine:
N - phenylethyl - 5 hydroxymethyl - pyrryl aldehyde
ganoderpurine:
N9 – (anpha, anpha diemethyl – gama - oxybutyl) adenine

Từ đó đã tổng hợp các alkaloid tương tự các mẫu tự nhiên có hiệu quả chống
viêm (1A và 1B):
1A: 1 - isopentyl 1- 2 - formyl 5 - hydroxymethylpyrrole
1B: 1 - phenylethyl 1 - 2 – formyl - 5 hydroxymethylpyrrole

Tác dụng bảo vệ gan, chống tác hại của CCl, được chứng minh rõ ràng với các
chế phẩm chiết từ các loài linh chi.
Có lẽ đa dạng nhất và tác dụng dược lý mạnh nhất là nhóm sapoine –
triterpenoids – các acid ganoderic. Lần đầu tiên Nishtoba et al (1984 - 1987) chứng minh
các ganoderic acid C là mới trong tự nhiên, sau đó Morigiwa et al. 1986, tìm ra thêm

ganoderic acid B. Chúng thể hiện hoạt lực ức chế giải phóng histamine, ức chế
Angiotensine Conversion enzyme (ACE), ức chế sinh tổng hợp Cholesterol và hạ huyết
áp. Ngày nay nhóm ganoderic acids đã được phát hiện có tới hàng chục dẫn xuất khác
nhau. Kết quả tách trên sắc ký lỏng cao áp (HPLC) loài Linh chi G.tsugae Murrill rất đặc
sắc.
Rõ ràng có sự tương đồng lớn với G. lucidum. Ngoài lucideric acid (lucidone) do
Kohda et al (1985) tìm ra, còn có dẫn xuất lucidenol được Su. C. H et al (1993) chứng
minh là mới hoàn toàn. Cấu trúc phân tử của 4 hoạt chất chính được các kỹ thuật quang
phổ và cộng hưởng từ hạt nhân xác định (Su et al, 1993).
Các hợp chất này đều có tác dụng bảo vệ gan, thực nghiệm đặc sắc thu được với
việc gây tăng GOT và GOP bằng CCL4 (tetrachlorurcarbon). Điều lý thú là từng
triterpenoid tinh khiết riêng rẽ thể hiện hoạt lực thấp hơn khi dùng các phân đoạn tách
chưa tinh chế, nghĩa là tổ hợp các đồng phân của chúng hiệu quả hơn. Do vậy dễ hiểu
người ta thường dùng tách dịch chiết toàn bộ từ nấm Linh chi.
1.1.5. Tác dụng của nấm Linh chi:
Linh chi được dùng như một thượng dược từ khoảng 4000 năm nay ở Trung
Quốc. Chưa thấy có tư liệu về tác dụng xấu, độc tính của Linh chi (ngoại trừ các khảo
cứu về khả năng tồn tại các dị ứng nguyên trên bề mặt bào tử một số loài Ganoderma –
điều rất phổ biến trong nấm).
Linh chi là “Cây gậy chống trước khi ngã”
Linh chi là một loại nấm đặc biệt, Linh chi có tính bình, vị đắng, có tác dụng tăng
co bóp cơ tim, tăng tuần hoàn, trị chứng tắc nghẽn, khó chịu, tăng trí lực, kéo dài tuổi
thọ.

Trang 18

SVTH: Ngô Thị Thanh Vân


Khóa luận tốt nghiệp


GVHD: Thạc Sĩ Nguyễn Thị Sáu

Bảng 1.4: Tác dụng dược lí của nấm Linh chi theo sắc màu (Lý Thời Trân,
1590).
Tên

Màu

Tác dụng dược lí

Thanh chi: Còn có tên là Xanh
Long chi:

Vị chua, Toàn bình, không độc. Chủ trị sáng mắt,
bổ can khí, an thần, tăng trí nhớ.

Hồng chi còn có tên là Đỏ
Xích chi hay Đơn chi:

Vị đắng, tính bình, không độc. Chủ trị xung trung
kết (tức ngực) ích tâm khí, bổ trung, tăng trí nhớ,
tăng trí tuệ.

Hoàng chi còn có tên là Vàng
Kim chi:

Cam (ngọt) bình, không độc. Chủ trị ích trùng khí,
an thần.


Bạch chi còn có tên là Trắng Cay, bình, không độc. Chủ trị ích phế khí, làm
Ngọc chi:
thông miệng, mũi, an thần.
Hắc chi còn có tên gọi là Đen
Huyền chi:

Mặn, bình, không độc. Chủ trị ù tai, lợi khớp, bảo
thần (bảo vệ công năng của hệ thần kinh) ích tinh
khí, làm dai gân cốt.

Tử chi còn có tên gọi là Tím
Mộc chi:

Ngọt, ôn, không độc. Chủ trị lợi thủy đạo (lợi
tiểu), ích thận khí.

Trên thực tế, có thể coi Linh chi không có độc tính. Quá trình kiểm tra đã được
thực hiện ở Việt Nam, tại một số cơ sở theo GS. Bùi Chí Hiếu. 1993.
Tất cả các nhà y học cổ xưa của Trung Quốc đều dùng Linh chi như một thượng
dược, với ý nghĩa không độc, không tác dụng phụ dù dùng liều cao và trong một thời
gian dài. Tại Trung Quốc, Linh chi được xem là một loại thuốc trị bách bệnh trong dân
gian, trị tất cả các loại bệnh.
Trung Quốc là nước có tryền thống sử dụng nấm Linh chi lâu đời nhất. Từ thế kỷ
XVI, Lý Thời Trân đã sử dụng và theo màu sắc cũng có tác dụng trị liệu tương ứng như
(Bảng 1.4):
Phân viện kiểm nghiệm Dược phẩm – Bộ y tế – Sai Gòn.
Trung tâm Đào tạo và nghiên cứu y dược học Dân tộc.
Viện Dược liệu, Hà Nội (Đàm Nhận, 1994 - 1995).
Kết quả cho thấy dùng liều cao gấp 50 - 150 lần liều dùng thông thường cho người
cũng không gây ra độc cấp tính hay trường diễn. Kết quả (bảng1.5) tổng hợp của Gueng

– Tao Lui rất đáng lưu ý với hiệu quả trị liệu cao.
Bảng 1.5: Thử nghiệm chiết bằng cồn – nước rửa của các lồi Ganoderma
(theo Geng – Tao Lui, 1993).
Bệnh

Chế phẩm

Số ca

Trang 19

Mức hiệu quả

Tháng

SVTH: Ngô Thị Thanh Vân


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Thạc Sĩ Nguyễn Thị Sáu
%

điều trị

Xơ cứng bì

MAW

173


79,1 %

3–6

Viêm da cơ

MAW

55

96,4 %

3–6

Hồng ban Lupus

MAW

84

82,1 %

3

Ruing tóc từng phần

MAW

232


78,9%

1–3

Giảm trương lực teo cơ

MAW.SAW

35

74,3 %

3–6

Loạn dưỡng cơ tiến triển

MAW.SAW

121

56,2 %

3–6

Công hiệu của Linh chi ghi trong “Thần nông bản thảo kinh” hiện nay hoàn toàn
được chứng minh đồng thời còn phát hiện các hoạt tính dược lý và trị liệu đa phương của
Linh chi. Lý do là Linh chi có khả năng nâng cao sức đề kháng của cơ thể, chính vì vậy
mà phòng trừ được các chứng bệnh sinh ra do sức đề kháng của cơ thể yếu.
Linh chi có công dụng nâng cao thể chất, nâng cao khả năng thích ứng của cơ thể,

điều chỉnh cân bằng sinh lý, nâng cao khả năng kháng bệnh, khả năng phục hồi sức khỏe.
Linh cho có công hiệu phòng trị tốt đối với nhiều loại bệnh, từ ung bướu đến cao huyết
áp, mỡ trong máu cao, ứ máu, tắc mạch máu, bệnh mạch vành, chảy máu não, nhồi máu
cơ tim; từ bệnh trĩ đến viêm tuyến tiền liệt; từ bệnh suy nhược thần kinh đến bệnh hen
suyễn đều có thể dùng Linh chi để phòng ngừa và điều trị bệnh. Ngoài ra Linh chi còn có
tác dụng làm trì hoãn quá trình lão hóa của cơ thể, nâng cao khả năng kháng bệnh.
Linh chi chứa khá đầy đủ thành phần khoáng vi lượng mà các khoáng tố này là
nhân tố quan trọng trong rất nhiều phản ứng chống ung thư, dị ứng, chống lão hoá, xơ
vữa, chống kết dính tiểu cầu…điều chỉnh dẫn truyền luồng thần kinh. Do đó Linh chi
được xem như biện pháp phòng trị cơ bản.
Theo BS Lương Lễ Hoàng (Cộng hoà liên bang Đức) thì “… Linh chi có tác dụng
gián tiếp theo cơ chế đòn bẩy, thanh lọc cơ thể toàn diện qua chức năng lợi tiểu và lợi
mật, một mặt kích thích nhiều chuỗi phản ứng sinh hoá trong cơ thể để từ đó điều chỉnh
các rối loạn chức năng, làm lành ác tổn thương cơ quan, phục hồi hệ miễn nhiễm. Một
khi hội đủ ba điều kiện trên thì cơ thể khó bệnh, con người khó già trước tuổi. Nếu biết
cách áp dụng Linh chi sẽ là một trong các phương tiện hữu hiệu và an toàn để tăng cường
sức đề kháng cơ thể trong cuộc sống đầy căng thẳng và ô nhiễm môi trường của thế kỷ
21…”
Linh chi đóng một vai trò quan trọng trong y học cổ truyền Trung Quốc dù dùng
độc vị hay phối hợp với các thảo dược khác.
Đối với bệnh ung bướu:
Theo “Linh chi phòng trị bệnh” thì “Linh chi có tác dụng nâng cao khả năng miễn
dịch cơ thể. Linh chi còn giúp cải thiện thể chất của bệnh nhân ung bướu, giảm nhẹ triệu
chứng”. Đa số bệnh nhân ung bướu sau khi uống Linh chi hoặc bào tử Linh chi triệu
chứng giảm thấy rõ, ăn uống và giấc ngủ được cải thiện, các triệu chứng như sốt nhẹ, ho,
tức ngực, đại tiện lỏng đều chuyển biến tốt, khối u bị ức chế, chức năng miễn dịch được
Trang 20

SVTH: Ngô Thị Thanh Vân



Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Thạc Sĩ Nguyễn Thị Sáu

phục hồi. Tinh thần và thể lực được cải thiện, tuổi thọ kéo dài, một số trường hợp ung
bướu được trị lành. Dùng Linh chi phối hợp với hoá trị, xạ trị, nâng cao hiệu quả của hoá
trị và xạ trị.
Đối với bệnh tim mạch:
Trước đây người ta cho rằng không thể điều trị để giảm xơ vữa. Nhưng gần đây,
đã có công trình chứng minh được, nếu điều trị tốt sẽ làm giảm kích thước mảng xơ vữa,
giảm nguy cơ nhồi máu cơ tim, giảm đột tử.
Linh chi có công dụng hạ huyết áp, hạ mỡ trong máu. Linh chi có tác dụng làm
giảm độ tạo huyết khối của máu và phòng ngừa tắc mạch máu, chủ yếu là nhờ:
Linh chi có thể làm tăng lượng lipoprotein mật độ cao trong máu, từ đó dần dần
chuyển hoá, hoà tan và đào thải cholesterol mật độ thấp.
Linh chi có thể nâng cao khả năng hoà tan của máu, làm tan các khối tiểu cầu
trong máu nhằm ngăn ngừa tạo huyết khối và tắc mạch máu.
Linh chi làm giảm nồng độ mỡ trong máu, kể cả loại cholesterol xấu. Các thử
nghiệm dược lý ở Nhật Bản và Trung Quốc cho thấy khi bổ sung Linh chi vào khẩu phần
ăn của chuột bị cao huyết áp sẽ làm giảm huyết áp rõ rệt hơn là chuột không bổ sung
Linh chi. Khi thử nghiệm lâm sàng trên bệnh nhân cho thấy huyết áp trên bệnh nhân điều
trị tiến gần đến tiêu chuẩn của WHO cho người cao huyết áp bình thường. Ngoài ra còn
có sự giảm tổng số cholesterol, và có ý nghĩa ở chổ cholesterol tốt không giảm trong khi
các cholesterol xấu giảm đi.
Ngày nay nhiều loại thuốc điều trị bệnh tim mạch chỉ có tác dụng làm giảm thiểu
bệnh tình một phần nào chứ không thể điều trị triệt để tận gốc. Khi dùng Linh chi phối
hợp để điều trị, có tác dụng làm bệnh thuyên giảm đồng thời hiệu quả lại ổn định, là loại
thảo dược lý tưởng dùng để hỗ trợ điều trị bệnh tim mạch hiện nay.
Đối với bệnh viêm gan:

Bệnh gan là một bệnh khó trị, khi bệnh gan tiến triển thì quá trình tổng hợp, trao
đỗi chất trở nên xấu đi; cơ thể người bệnh trở nên suy yếu, đó là lý do làm cái chết đến
nhanh hơn.
Tỉ lệ người Việt Nam bị nhiễm virus viêm gan B (HBV) hiện nay là 18 - 24%.
Việt Nam được xếp vào những nước có tỉ lệ nhiễm HBV cao trên thế giới. Tuy nhiên khi
nhiễm virus viêm gan B, không phải ai cũng trở thành người bệnh. Ung thư gan thường
là sau khi bị xơ gan do rượu (thường gặp ở Châu Âu) và xơ gan do HBV hoặc HCV.
Linh chi được xem là có hiệu quả đối với gan chủ yếu là do có chứa
polysaccharide và các triterpen. Germanium có trong Linh chi tác dụng đến chất
endorphin là chất do cơ thể tiết ra, giống như morphin, làm giảm đau, dễ chịu nhưng
endorphin rất dễ bị phân giải, chính germanium ngăn chặn sự phân giải endorphin, kéo
dài cảm giác dễ chịu, giảm đau. Ngoài ra Linh chi còn kích thích tiết Interferon, nâng cao
khả năng miễn dịch của cơ thể, có tác dụng chống virus rất mạnh và tác dụng trực tiếp
đến tế bào gan bị tổn hại, ngăn chặn sự phát triển của bệnh gan.

Trang 21

SVTH: Ngô Thị Thanh Vân


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Thạc Sĩ Nguyễn Thị Sáu

Linh chi có tác dụng:
Tiêu viêm, làm viêm gan thuyên giảm.
Chất triterpen có trong Linh chi làm phục hồi các hoạt động của tế bào gan.
Ngoài ra, Linh chi có tác dụng nâng cao khả năng miễn dịch cơ thể, nâng cao khả
năng phân biệt, sát thương và nuốt chửng virus viêm gan của tế bào miễn dịch (tế bào
NK, tế bào T, tế bào B…) nâng cao khả năng tái sinh của tế bào gan, xúc tiến phục hồi tổ

chức gan bị tổn thương, phục hồi và nâng cao chức năng gan. Do vậy Linh chi điều trị
các bệnh viêm gan rất tốt, nhất là viêm gan cấp.
Chống HIV:
Các chất chiết tan trong nước của Linh chi có tác dụng chống HIV (Hattori et al,
1997 Kim eet al, 1997). Gần nay Mekkawy (1998), Min et al (1998) cho biết ganoderiol
F và ganodermanontriol, acid ganoderic beta, ganodermanondiol, ganoderma nontriol và
acid ganolucidic A và gucidumol B cũng có tác dụng chống HIV. Đặc biệt, có hai báo
cáo của Đại học Chulalongkorn, Thái Lan và một báo cáo của Đại học Y dược Toyama,
Nhật về thử nghiệm trên virus HIV. Theo Tiến sĩ Praphan Panuphak, nấm Linh chi đã
được micron hoá (micronized) thử nghiệm trên những bệnh nhân nhiễm HIV ở Thái Lan
cho thấy thuốc được dung nạp tốt nhưng tác dụng lâm sàng chưa rõ rệt.
Điều này gợi mở cho các nhà nghiên cứu Linh chi trên thế giới một hướng mới
trong việc khảo sát loại nấm được xem là trường thọ này, ngoài những tác dụng đã biết
và làm chúng ta nhớ lại một thông tin đăng trên Sunday Morning Post 18 – 10 – 1992:
Cơ quan FDA của Hoa Kỳ cho phép được sử dụng Linh chi (một trong 7 loại được phép)
trong khi chờ những thuốc công hiệu hơn để ngăn ngừa và điều trị AIDS, mà Linh chi đã
được chứng minh có ảnh hưởng phục hồi hệ miễn dịch của cơ thể. Dr. Anderew Weil cho
biết: “Linh chi kích thích hệ thống miễn dịch tốt nhất, Linh chi không độc và rất hữu
dụng trong lĩnh vực này”. Ông sử dụng nó trong ba năm cho các trường hợp ung thư, các
trường hợp nhiễm HIV, các điều kiện tiền HIV và cho việc suy giảm hệ miễn dịch một
cách tổng quát. Và gần đây là hữu ích trong các trường hợp của triệu chứng mệt mỏi mạn
tính.
Hiệu quả của Linh chi đối với mệt mỏi mạn tính:
Linh chi phục hồi, làm giảm mỏi mệt, phòng ngừa bệnh Linh chi từ xưa đến nay
được trân trọng như thuốc chữa vạn bệnh nhưng ngay cả những người không bệnh, Linh
chi cũng hữu dụng.
Người ta cho rằng việc tích tụ mệt mỏi do căng thẳng giữa mối quan hệ con người
với nhau, do công việc, do môi trường làm phá vỡ sự thăng bằng của tâm hồn và cơ thể
là nguyên nhân. Muốn điều trị, trước hết phải xem lại nhịp độ sinh hoạt của bản thân và
sữa chữa lại, đồng thời việc sử dụng Linh chi cũng góp phần làm cân bằng nhịp sinh học

của cơ thể.
Linh chi cũng có công dụng dưỡng nhan sắc. Một số vật chất tiểu phân tử loại
oligosaccharide có trong Linh chi có thể được cơ thể hấp thụ thông qua biểu bì, có công
dụng cải thiện tuần hoàn ngoại vi ở da, trừ khử gốc tự do, tiêu trừ sắc tố nâu tích tụ ở da,
Trang 22

SVTH: Ngô Thị Thanh Vân


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Thạc Sĩ Nguyễn Thị Sáu

từ đó đem lại hiệu quả làm nhuận da, dưỡng nhan sắc. Ngày nay có nhiều hãng làm mỹ
phẩm từ Linh chi.
Hiệu quả giảm đường huyết:
Bệnh tiểu đường phát sinh là do tuyến tuỵ bị tổn thương hoặc viêm, hoặc do tuổi
già, cơ thể suy nhược, chức năng sinh lý của tuyến tuỵ suy yếu, lượng insulin tiết ra giảm
nên gây bệnh. Insulin có các chức năng: Thúc đẩy tiến trình oxy hoá glucose trong tế bào
để cung cấp năng lượng cho cơ thể hoạt động. Kích thích tổng hợp glucose thành
glycogen dự trữ trong gan. Ức chế glycogen trong gan phân giải thành glucose. Ức chế
protein, chất béo phân giải thành glucose. Nếu Isulin bị giảm, lượng đường huyết trong
máu tăng và bị thải ra ngoài theo đường nước tiểu, làm tiểu nhiều. Từ đó dẫn đến phải
uống nhiều nước để bù vào lượng nước đã mất, nhưng vẫn không hết khát. Luôn luôn
cảm thấy đói, ăn nhiều nhưng do glucose cung cấp cơ thể không giữ được, lại tiếp tục
cảm thấy đói, phải ăn nhưng cơ thể vẫn thấy gầy ốm vì không hấp thu được glucose,
lượng protein và mỡ dự trữ bị huy động để tạo năng lượng.
Linh chi có hiệu quả trị liệu nhất định đối với bệnh tiểu đường. Linh chi có thể
làm tăng tuần hoàn máu ở tuyến tuỵ tăng lượng isulin tiết ra từ tuỵ. Vài triteerpen như
ganoderan A, B, C chiết xuất từ Linh chi làm giảm đường huyết mạnh (Hikino et

al,1985) tác dụng phụ của những thuốc trị bệnh tiểu đường khi phối hợp với Linh chi
được giảm đến mức thấp nhất. Bệnh nhân tiểu đường sau khi uống Linh chi, đường niệu,
đường huyết đều giảm, thể lực gia tăng.
Linh chi trị suy nhược thần kinh:
Linh chi trị suy nhược thần kinh hiệu quả rất rõ rệt, vừa cải thiện giấc ngủ, tăng sự
thèm ăn, làm giảm hoặc khỏi chứng nhức đầu, nặng đầu, chống mệt mỏi, giúp phục hồi
trí nhớ đồng thời không gây ra phản ứng phụ. Linh chi có tác dụng an thần, giảm đau và
chống co thắt cơ trơn. Linh chi có tác dụng kháng viêm, có thể giảm viêm mô thần kinh
nên cũng có khả năng phục hồi trí nhớ, phần nào có ích trong điều trị bệnh Alzheimer.
Sự kiện này giải thích việc người xưa dùng Linh chi để phục hồi trí nhớ ở người cao tuổi.
1.2. Giới thiệu về nguyên liệu mạt cưa và vi sinh vật phân giải nguyên liệu
Nguyên liệu trồng nấm Linh Chi bao gồm các loại cây lá rộng thân mềm, có thể
sử dụng cây rừng hoặc cây vườn. Linh Chi sử dụng nguyên liệu chủ yếu là mạt cưa cao
su tươi, khô, không có tinh dầu và độc tố. Ngoài ra còn có thể trồng Linh Chi từ nguyên
liệu là thân gỗ. Tốt nhất nên sử dụng cây gỗ Cao Su, Bồ Đề, So Đũa, Sung, …
Mạt cưa cao su là nguồn cơ chất mà Linh chi phát triển rất tốt với giá thu mua rẽ
tăng thêm lợi nhuận cho việc trồng nấm. Mạt cưa là nguồn phế thải gây ô nhiễm môi
trường nặng nhưng nó lại đem lại hiệu quả kinh tế trong việc trồng nấm đặc biệt là nấm
Linh chi. Dùng nguồn cơ chất này có thể làm nguồn cơ chất trồng nấm và cũng góp một
phần giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường từ nguồn phế thải mạt cưa. Và sau khi nuôi
trồng nấm có thể tận dụng làm phân bón hữu cơ sạch rất tốt cho trồng trọt.
Chúng tôi lựa chọn mạt cưa cao su làm nguồn cơ chất chủ yếu để trồng nấm Linh
Chi. Vì ở miền Nam loại mạt cưa cao su rất nhiều và rẻ. Nên đốn cây (chặt cây) vào thời
điểm cây chứa chất dự trữ nhiều nhất (vừa rụng lá hoặc chuẩn bị mọc lá non), tức là vào
Trang 23

SVTH: Ngô Thị Thanh Vân


Khóa luận tốt nghiệp


GVHD: Thạc Sĩ Nguyễn Thị Sáu

mùa thu, khoảng tháng 10 hàng năm. Chọn cây có đường kính không nhỏ hơn 20 cm. Cắt
khúc khoảng 0.8 – 1,2 m, loại bỏ những khúc có nấm mốc đã mọc. Cây khi cưa khúc
phải xử lý đầu gốc bị cưa, nếu không sẽ bị nhiễm mốc. Có nhiều cách xử lý như:
Chất đống hoặc xếp gỗ sao cho đầu khúc gỗ hướng mật ra ngoài nơi luồng gió qua
lại, nếu vết cắt mau khô sẽ ít bị nhiễm.
Quét vôi lên vết cắt. Vôi có tác dụng làm vết cắt mau khô và diệt khuẩn, ngăn các
loại nấm mốc lạ phát triển.
Đốt qua các đầu cắt bằng cách hơ lửa hoặc nhúng cồn thoa đều mặt cắt rồi đốt.
Mạt cưa được lấy từ tế bào thực vật như các loại gỗ mềm, thành phần chủ yếu là
xenlulozơ, hemixenlulo, licnin. Trong tế bào thực vật xenlulozơ liên kết chặt chẽ với
nguồn hydro cacbon khác như hemi xenlulozơ, pectin, licnin để tạo liên kết bền vững.
Hàm lượng xenlulozơ có trong nguyên liệu mạt cưa rất cao, cấu trúc rất bền và đa dạng,
để phân giải phải dùng các loại axit hoặc kiềm mạnh, như vậy sẽ gây ô nhiễm môi
trường. Vì vậy cần có vi sinh vật (VSV) phân huỷ để nấm có thể hấp thụ dễ dàng. Trong
thiên nhiên có rất nhiều nhóm vi sinh vật có khả năng phân giải xenlulozơ.
Nấm sợi:
Trong các nhóm VSV tham gia phân giải xenlulozơ thì nấm sợi có khả năng phân
giải mạnh nhất vì.
Nấm sợi có số lượng lớn và đa dạng về chủng loại ở trong tự nhiên.
Nấm sợi có hệ sợi phát triển, hệ sợi có khả năng và xuyên qua nhiều nguồn
xenlulozơ có cấu trúc bền vững.
Nấm sợi có thể sinh trưởng được trên nhiều nguồn xenlulozơ tự nhiên khác nhau
ngay cả trên nguồn xenlulozơ khó phân giải và nghèo chất dinh dưỡng mà các VSV khác
như vi khuẩn, xạ khuẩn, nấm men không thể sinh trưởng được.
Trong quá trình lên men nấm sợi không sinh độc tố.
Đặc biệt nấm sợi có một hệ enzyme phân giải xenlulozơ mạnh và phong phú.
Như vậy với những đặc điểm ưu việt của nấm sợi được xem là đối tượng quan

trọng để phân giải từng nguồn xenlulozơ tự nhiên.
Vi khuẩn:
Nói chung, vi khuẩn có khả năng phân giải xenlulozơ nhưng không mạnh bằng
nấm sợi, do xenlulozơ tự nhiên không phải là môi trường tốt cho sinh trưởng của vi
khuẩn. Nhưng trong tự nhiên một số vi khuẩn có ưu điểm là sinh trưởng được trong điều
kiện môi trường pH và nhiệt độ khác nhau, nên có thể giúp phân giải xenlulozơ trong
điều kiện môi trường axít, kiềm hoặc ở nhiệt độ cao.
Tham gia quá trình phân giải xenlulozơ tự nhiên có vi khuẩn hiếu khí lẫn yếm
khí.

Trang 24

SVTH: Ngô Thị Thanh Vân


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Thạc Sĩ Nguyễn Thị Sáu

Vi khuẩn hiếu khí: Cellulomonas, Vibrio, Archomobacter, Cytophaga, Soragium,
Bacillus,…
Vi khuẩn yếm khí: Clostridium, và một số loài Bacillus
Xạ khuẩn:
Ngoài nấm sợi và vi khuẩn, xạ khuẩn cũng tham gia quá trình phân giải xenlulozơ
đáng chú ý là các xạ khuẩn: Streptosporangium, Streptomyces. Actinomyces, Nocardia,
Micromonospora,…
1.3. Tình hình phát triển nghề nuôi trồng và sản xuất nấm Linh chi
Ngành sản xuất nấm ăn đã hình thành và phát triển trên thế giới từ hàng trăm năm.
Việc nghiên cứu và sản xuất nấm ăn trên thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Ở Châu Âu, Bắc Mỹ trồng nấm đã trở thành một ngành công nghiệp lớn được cơ

giới hóa toàn bộ nên năng suất và sản lượng rất cao. Các loại nấm được trồng theo quy
mô dây chuyền công nghiệp chuyên môn hóa cao độ: có nhà máy chuyên xử lí nguyên
liệu sử dụng robot trong các khâu nuôi trồng chăm sóc và thu hái nấm.
Nhiều nước ở Châu Á, trồng nấm còn mang tính chất thủ công, năng suất không
cao, nhưng sản xuất gia đình, trang trại với số lượng đông nên tổng sản lượng rất lớn
chiếm 70% tổng sản lượng nấm ăn toàn thế giới. Các nước Đông Bắc Á như Nhật Bản
,Trung Quốc, Hàn Quốc và vũng lãnh thổ Đài Loan,….
Theo Wuang. X. J. (dẫn theo Chang, 1993) thì từ đầu thế kỷ 17 (1621) các Nấm
Linh chi đã được nuôi trồng ở Trung Quốc, chính bởi giá trị dược liệu của chúng. Gần
nay người lại tìm thấy trên núi Maiji tỉnh Gansu, một tấm bia đá khắc năm 1124 ghi chép
về nuôi trồng 38 loại nấm Linh chi. Đến 1936 GS. Dật Kiến Vũ Hưng và KS. Trực Tính
Hậu Hồng Thị đã nuôi trống đại trà thành công nấm Linh chi Ganoderma lucidum ở
trường Đại học Nông Nghiệp Tokyo Nhật Bản.
Khoa học hiện đại nghiên cứu về nấm Linh Chi, đi đầu là các nhà khoa học Nhật
Bản, sau đó là Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan,…năm 1972 đã trồng thí nghiệm nấm
Linh Chi đạt kết quả tốt. Biểu đồ sau cho thấy nhịp độ gia tăng ổn định của công nghệ
nuôi trồng nấm Linh chi ở Nhật bản từ năm 1979 đến 1995 sản lượng tăng tới 40 lần
(hình1.8).
Hình 1.8 : Sản lượng nấm Linh chi nuôi trồng ở Nhật Bản (đơn vị tính: tấn,
1995: dự báo)

Trang 25

SVTH: Ngô Thị Thanh Vân


×