Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của người dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211 KB, 7 trang )

Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 63 - 69

Trường Đại học An Giang

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU NHẬP CỦA NÔNG HỘ Ở AN GIANG
Nguyễn Lan Duyên

1

1

ThS. Khoa Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học An Giang

Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 11/03/14
Ngày nhận kết quả bình
duyệt: 09/05/14
Ngày chấp nhận đăng:
30/07/14
Title:
The factors affecting the
income of the households in
Angiang
Từ khóa:
Farm income, countryside,
rural households, agriculture
Keywords:
Thu nhập, nông thôn, nông hộ,
nông nghiệp

ABSTRACT


The paper uses the Least Square method (OLS) to determine a regression model
to identify the factors affecting the income of the households in Angiang. Primary
data were collected from surveying 598 households randomly. Results showed
that education level, land area, residence time in the local area, distance from
home to the center, loan amount, interest rate, and number of workers influence
the income of the households in Angiang. The paper proposes solutions to
improve the income of the households.

TÓM TẮT
Bài viết sử dụng phương pháp bình phương bé nhất (OLS) để ước lượng mô hình
hồi quy nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ ở An
Giang trên cơ sở hệ thống dữ liệu sơ cấp thu thập từ 598 nông hộ được chọn
ngẫu nhiên. Kết quả ước lượng cho thấy các yếu tố như trình độ học vấn, diện
tích đất, thời gian cư trú tại địa phương, khoảng cách từ nơi ở đến trung tâm,
lượng vốn vay, lãi suất và số lao động có ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ ở
An Giang. Từ đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao thu nhập của nông hộ.

1. GIỚI THIỆU

nhập được cải thiện nhưng vẫn còn thấp so với
bình quân chung của cả nước, khoảng cách giàu
nghèo giữa nông thôn và thành thị có chiều hướng
gia tăng, đời sống vật chất và tinh thần của khá
nhiều nông hộ còn khó khăn.

Chính sách tam nông đóng vai trò quan trọng
trong công cuộc phát triển kinh tế ở nước ta.
Trong những năm qua, khu vực nông thôn đã có
bước tiến vượt bậc, giá trị sản lượng liên tục tăng,
đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông

thôn được cải thiện đáng kể. Song, cũng như ở các
nước đã và đang công nghiệp hóa, quá trình này
mang lại những thay đổi không nhỏ trên phương
diện kinh tế và đời sống xã hội, trong đó nông
nghiệp, nông dân và nông thôn luôn bị thiệt thòi.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7
khóa X về nông nghiệp, nông dân và nông thôn,
với quan điểm phát triển nông nghiệp và nông
thôn phải xuất phát từ lợi ích của người nông dân,
tỉnh An Giang đã đề ra chiến lược phát triển nông
nghiệp, nông dân và nông thôn để qua đó nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân
nông thôn, phấn đấu thu nhập bình quân đầu
người tăng 12,5%/năm và đến năm 2020 đạt 42,2
triệu đồng/người/năm (Nghị quyết tỉnh ủy An
Giang, 2013).

An Giang là tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu
Long (ĐBSCL) với đất nông nghiệp chiếm đến
75% diện tích, có 73% dân số sống ở nông thôn
và 71% lao động hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp (Niên giám thống kê, 2013). Sản xuất
nông nghiệp là nguồn thu nhập chính của đại bộ
phận người dân nông thôn trong Tỉnh. Cũng như
nhiều địa phương khác, đời sống của người dân
nông thôn An Giang tuy đã được nâng lên, thu

Để thực hiện thành công chiến lược trên, việc
nhận dạng các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của

nông hộ trên địa bàn Tỉnh để có giải pháp phù hợp
là hết sức cần thiết. Vì vậy, bài viết được hình

1


thành với mục tiêu này để trên cơ sở đó đề xuất
giải pháp nâng cao thu nhập cho các nông hộ ở
tỉnh An Giang.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN
CỨU
Theo các nghiên cứu (Abdulai & CroleRees,
2001; Demurger & cs., 2010; Janvry & Sadoulet,
2001; Klasen & cs., 2013; Marsh & cs., 2007;
Yang, 2004; Yu & Zhu, 2013), thu nhập của nông
hộ chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, bao gồm
vốn, đất đai, trình độ học vấn, kinh nghiệm sản
xuất, số lao động, khả năng đa dạng hóa thu nhập,
cơ hội tiếp cận thị trường.
Thật vậy, vốn là yếu tố đầu vào không thể thiếu
bởi nông hộ cần vốn để mua vật tư, giống, máy
móc, thuê lao động,… nhằm đảm bảo tính thời vụ
và giảm thiểu rủi ro, qua đó làm tăng thu nhập.
Ngoài ra, vốn còn giúp nông hộ đầu tư phát triển
hệ thống tưới tiêu cũng như áp dụng kỹ thuật mới
đa dạng hóa loại hình sản xuất để tránh phải bán
sản phẩm với giá thấp (Mink & cs., 2004).
Hiện nay, thu nhập của nông hộ nước ta còn thấp
nên không đủ tích lũy để tái đầu tư, các nguồn
vốn tài trợ từ ngân sách rất hạn chế bởi phải san

sẻ cho các khu vực ưu tiên, trong khi nguồn vốn
bán chính thức và phi chính thức lại nhỏ lẻ nên ít
được sử dụng cho sản xuất. Do đó, tín dụng chính
thức trở nên hết sức quan trọng đối với các nông
hộ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nông hộ gặp
không ít khó khăn khi vay tín dụng chính thức do
các tổ chức tín dụng thường hạn chế cho vay ở
nông thôn bởi phải đối mặt với chi phí giao dịch
và rủi ro cao trong khi người vay lại thiếu tài sản
thế chấp và thường gặp bất trắc khó lường ảnh
hưởng xấu đến khả năng trả nợ như mất mùa, dịch
bệnh, giá nông sản bấp bênh,… (Lê Khương
Ninh, 2011).
Hệ quả của việc các tổ chức tín dụng chính thức
hạn chế cho vay ở nông thôn là các nông hộ bị lệ
thuộc vào tín dụng phi chính thức nên phải chịu
lãi suất rất cao. Đặc biệt, nhiều khoản cho vay
bằng tiền được thực hiện trước khi thu hoạch (thời
điểm giá nông sản cao) phải được hoàn trả bằng
hiện vật sau khi thu hoạch (thời điểm giá nông sản
thấp), khiến cho lãi suất vay càng cao. Lãi suất
cao làm tăng chi phí sản xuất, do đó làm giảm thu
nhập của nông hộ (Klasen & cs., 2013).
Do đặc tính của nông sản mau hỏng, khó bảo quản

và thu hoạch đại trà (thời vụ) nên nông hộ thường
bán sản phẩm với giá rẻ cho thương lái ngay sau
khi thu hoạch (cung vượt cầu). Điều này cho thấy,
các nông hộ sống gần đô thị (thị tứ, thị trấn, thị xã
hay thành phố) sẽ có điều kiện bán sản phẩm trực

tiếp đến tay người tiêu dùng với giá cao hơn, chi
phí chuyên chở thấp hơn và sản phẩm ít hư hỏng
hơn nên thu nhập sẽ cao hơn (Marsh & cs., 2007;
Klasen & cs., 2013).
Trong nông nghiệp, đất là tư liệu sản xuất chủ yếu
và khó thay thế. Do phần lớn thu nhập của nông
hộ phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp, mà sản
xuất nông nghiệp ở nước ta chủ yếu là thủ công và
dựa vào đất nên quy mô đất đai sẽ quyết định thu
nhập. Việc không có hoặc có ít đất sản xuất làm
hạn chế khả năng cải thiện thu nhập, bởi diện tích
nhỏ hẹp thì sẽ khó áp dụng kỹ thuật canh tác hiện
đại, do đó sản phẩm có chất lượng thấp, không
đồng đều nên giá trị thấp nhưng giá thành lại cao
(Manjunatha & cs., 2013).
Lao động cũng là yếu tố đầu vào quan trọng của
sản xuất nông nghiệp, không chỉ số lượng mà còn
cả chất lượng. Trong điều kiện sản xuất ít được cơ
giới hóa, số lượng lao động sẽ là yếu tố cơ bản
giúp làm tăng thu nhập cho nông hộ (Abdulai &
CroleRees, 2001; Yang, 2004). Tuy nhiên, do tính
thời vụ và trình độ của người lao động còn hạn
chế, khó tham gia các hoạt động phi nông nghiệp
nên tình trạng lao động nhàn rỗi ở nông thôn còn
khá phổ biến. Do đó, nông hộ có thể có nhiều lao
động nhưng thu nhập không cao bởi một số lao
động không trực tiếp làm ra thu nhập.
Học vấn đóng vai trò then chốt đối với sự phát
triển của một cá nhân, một tổ chức cũng như một
quốc gia (Foster & Rosenzweig, 1996; Pitt &

Sumodiningrat, 1991; Yang, 2004). Học vấn
quyết định lợi thế của mỗi người trong việc tạo ra
thu nhập bởi học vấn cao sẽ dễ tiếp thu, áp dụng
kỹ thuật mới vào sản xuất và sử dụng hiệu quả các
nguồn lực khác. Bên cạnh đó, học vấn cũng giúp
tăng cường khả năng nắm bắt và xử lý thông tin
thị trường để tạo ra cơ hội tham gia các hoạt động
phi nông nghiệp, qua đó làm tăng thu nhập.
Bên cạnh học vấn, thời gian sống ở địa phương
cũng có ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ.
Nông hộ sống lâu năm ở địa phương thường được
người thân cũng như các tổ chức xã hội giúp đỡ
(vốn và kinh nghiệm sản xuất) khi cần thiết nhờ
các mối quan hệ thân tộc và cộng đồng. Bên cạnh


đó, các hộ này cũng có điều kiện sinh sống, sản
xuất và tích lũy tốt hơn bởi “an cư thì lạc nghiệp”
(Phan Đình Nghĩa, 2010).

THUNHAP = β0 + β1HOCVAN + β2 DIENTICHDAT + β3TGCUTRU +
+β4 LAODONG + β5VITRIXH + β6 KNVAY +

Trên cơ sở các luận điểm vừa trình bày, bài viết
xây dựng mô hình nghiên cứu các yếu tố ảnh
hưởng đến thu nhập của nông hộ ở An Giang như
sau:

Trong mô hình (1), THUNHAP là thu nhập trung
bình của nông hộ (triệu đồng/năm). Ý nghĩa của

các biến và kỳ vọng về dấu của các hệ số βi
trong mô hình (1) được trình bày trong Bảng 1.

+β7 KCDOTHI + β8TINDUNG + β9 LAISUAT (1)

Bảng 1. Ý nghĩa của các biến và kỳ vọng về dấu của các hệ số βi
Tên biến

Diễn giải

HOCVAN

Trình độ học vấn của chủ hộ

DIENTICHDAT

Diện tích đất nông nghiệp

TGCUTRU
LAODONG

Đơn vị đo lường
Có trị số tương ứng với cấp học của
chủ hộ

Kỳ vọng về
dấu của các hệ
số

βi

+

1.000 m2/người

+

Thời gian cư trú ở địa phương

Năm

+

Số lao động của hộ

người

?

VITRIXH

Vị trí xã hội của hộ

KNVAY

Khả năng vay

KCDOTHI

Khoảng cách từ nơi ở của hộ đến
đô thị


TINDUNG

Số tiền vay tín dụng chính thức

LAISUAT

Lãi suất vay

3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Số liệu thứ cấp về nông hộ được thu thập từ Ủy
ban nhân dân, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, Cục Thống kê tỉnh An Giang, các nghiên
cứu công bố trên các tạp chí trong và ngoài nước.
Các thông tin này dùng để mô tả về nông hộ nhằm
nêu bật tính tất yếu về nông nghiệp, nông thôn và
nông dân ở An Giang.
Số liệu sơ cấp được thu thập theo phương pháp
ngẫu nhiên phân tầng ở tỉnh An Giang. Mẫu khảo
sát bao gồm 598 nông hộ, phân phối ở các địa
phương trong Tỉnh như sau: 150 hộ ở huyện Tri
Tôn (chiếm 25,08% số hộ được khảo sát), 130 hộ
ở huyện Chợ Mới (21,74%), 74 hộ ở huyện Phú
Tân (12,37%), 64 hộ ở thành phố Châu Đốc

Có trị số là 1 nếu các thành viên của
hộ có tham gia cơ quan chính quyền
hay đoàn thể các cấp và là 0 nếu
ngược lại
Có giá trị 1 nếu được vay ở các tổ

chức tín dụng và có giá trị 0 là ngược
lại

+

+

Km



triệu đồng/hộ/năm

+

%/năm



(10,70%) và 50 hộ ở TP. Long Xuyên (10,04%),
120 hộ ở huyện Thoại Sơn (20,06%). Cơ sở để
phân tầng là theo địa hình thổ nhưỡng, theo Sở
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn An Giang,
toàn Tỉnh được chia thành bốn khu vực và mỗi
khu vực có đặc tính riêng. Thứ nhất là vùng đồi
núi (Tri Tôn, Tịnh Biên); thứ hai là thành thị
(Châu Đốc, Châu Phú, Châu Thành, Long
Xuyên); thứ ba là vùng cù lao (Chợ Mới, Phú
Tân, Tân Châu, An Phú); thứ tư là đồng bằng
(Thoại Sơn). Do đó, trong công tác phân tầng tác

giả chọn mỗi vùng một hoặc hai địa điểm để khảo
sát theo điều kiện thuận lợi của mình.
Trên cơ sở số liệu thu thập được, bài viết sử dụng
phương pháp thống kê miêu tả để mô tả thực trạng
của các nông hộ, sau đó sử dụng phương pháp


bình phương bé nhất (OLS) để ước lượng Mô
hình (1) nhằm xác định ảnh hưởng của các yếu tố
đến thu nhập của các nông hộ ở An Giang.
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1 Tổng quan về nông hộ
Ở An Giang, nông hộ chiếm 73,56% tổng số hộ
và có xu hướng giảm theo thời gian do tác động

của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và sự
chuyển dịch lao động từ nông thôn ra thành thị.
Nghề chính của nông hộ ở An Giang là trồng trọt
và chăn nuôi, bên cạnh các hoạt động phi nông
nghiệp dưới các hình thức như tiểu thủ công
nghiệp, dịch vụ, buôn bán nhỏ, công nhân ở các
khu công nghiệp địa phương, làm thuê hay viên
chức (Niên giám thống kê tỉnh An Giang, 2013).

Bảng 2. Các chỉ tiêu cơ bản về nông hộ năm 2013
Tiêu chí
Số thành viên hộ
Thời gian sống tại địa phương
Diện tích đất
Tín dụng

Khoảng cách
Thu nhập bình quân

ĐVT

Trung bình

Người

4,09

11,00

1,00

1,57

Năm

37,85

93,00

3,00

15,02

m2

13.391


170.000

2,50

13.185

29,43

500,00

0,00

56,23

11,55

35,00

1,00

5,72

20,17

153,57

11,50

16,47


Triệu đồng
Km
Trđ/người

Số liệu khảo sát ở Bảng 2 cho thấy, số người trung
bình trong hộ là 4, đây là số lượng tương đối chuẩn
theo qui định của nhà nước (mỗi gia đình có 2 con)
nhưng cũng còn một số hộ khá đông con và số hộ
nhiều nhất là 11 người. Thời gian sống trung bình
tại địa phương của nông hộ là 37 năm, điều này
cho thấy người nông dân sống gắn liền với mảnh
vườn, miếng ruộng nơi họ được sinh ra và do sống
lâu năm ở địa phương nên cơ hội làm ăn, đầu tư để
tạo ra thu nhập cho họ khá tốt. Đặc thù trong sản
xuất nông nghiệp với phương thức sản xuất chủ yếu
là đất nên khi tích lũy được thu nhập thì người dân
sẽ đầu tư vào đất
để canh tác nhằm tăng thêm thu nhập. Theo số
liệu có được từ cuộc
điều tra thì trung bình nông
2
hộ có 13.191 m đất nông nghiệp và người có
2
nhiều nhất là 170.000 m .
Khoảng cách trung bình từ nhà của nông hộ đến
trung tâm thị tứ (nơi đặt trụ sở của các tổ chức tín
dụng) là 12 km, khoảng cách này là không đáng
kể nếu ở thành thị nhưng đối với vùng nông thôn
thì không phải thế. Cũng chính vậy, các hộ nông

dân ít được tham gia vay vốn ở các tổ chức tín
dụng. Cụ thể, số tiền mà nông hộ vay được ở các
tổ chức tín dụng trung bình 29,43 triệu đồng/năm,
từ đó làm cho thu nhập của nông hộ tương đối
thấp so với các hộ làm việc trong các lĩnh vực
khác.
Theo số liệu từ cục thống kê An Giang, năm 2013

Lớn nhất

Nhỏ nhất

Độ lệch

thu nhập bình quân đầu người của Tỉnh là 32,077
triệu đồng/người/năm. Tuy nhiên, thu nhập bình
quân đầu người của nông hộ chỉ khoảng 20,17 triệu
đồng/người/năm (bằng 62,88% thu nhập bình quân
chung). Đối với nông hộ ở An Giang, thu nhập từ
nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong tổng thu
nhập, chứng tỏ khả năng đa dạng hóa nguồn thu
nhập là chưa cao.
Bảng . Ngu n va của nông hộ
Ngu n vay

Thông tin vay
Số hộ (hộ) Tỷ trọng (%)

Chính thức
Bán

chínhthức
thức
Phi chính

391
27
295

65,38
4,52
49,33

Lãi suất
bình quân
(%/năm)
17,8
8,6
41,3

Theo kết quả khảo sát ở Bảng 3, hầu hết các nông
hộ đều có tham gia vay vốn từ các nguồn tín dụng
chính thức, bán chính thức lẫn phi chính thức.
Đáng lưu ý là có đến 391 hộ vay tín dụng chính
thức (chiếm 65,38% số hộ được khảo sát) dưới hai
hình thức chủ yếu là vay và mua chịu vật tư do
khi vào vụ hay có nhu cầu cấp bách mà không tiếp
cận được tín dụng chính thức. Mặt khác, khi đến
hạn trả nợ vay chính thức nhưng chưa kịp thu
hoạch sản phẩm, nông hộ phải vay tín dụng phi
chính thức để trả, sau đó mới làm thủ tục xin vay

lại. Mặc dù những năm gần đây, Chính phủ đã
chú trọng phát triển hệ thống tín dụng nông thôn,


đặc biệt là số lượng tổ chức tín dụng chính thức
ngày càng nhiều, hình thức xét duyệt cho vay
cũng dễ hơn nhưng nông hộ vẫn vay tín dụng phi
chính thức bởi thủ tục đơn giản, nhanh chóng,
không cần thế chấp, số tiền vay và kỳ hạn linh
hoạt. Tuy nhiên, lãi suất phải trả khi vay tín dụng
phi chính thức khá cao so với tín dụng chính thức
hay bán chính thức.
Bảng 4. Rủi ro thường gặp của nông hộ ở An Giang
Tiêu chí
Giá sản phẩm thấp và
không ổn định
Mất mùa, dịch bệnh
Thành viên trong gia đình
ốm đau
Thành viên trong gia đình
bị mất việc làm
Bị ảnh hưởng bởi thiên tai
(lũ lụt, hạn hán, . . .)
Tổng cộng

Số quan
sát
29
1
75


Tỷ trọng
(%)

ở An Giang. Kết quả ước lượng được trình bày
trong Bảng 5
Bảng 5. Kết quả ước lượng
Biến phụ thuộc: THUNHAP – thu nhập của hộ (triệu
đ ng/năm)
Biến số
Hằng số C
HOCVAN
DIENTICHDAT

48,66

TGCUTRU

12,54

LAODONG

87

14,55

VITRIXH

11
9


19,89

KNVAY

26

4,35

59
8

100,0
0

Bảng 4 cho thấy các nông hộ gặp khá nhiều rủi ro
trong sản xuất và đời sống, trong đó rủi ro lớn
nhất là giá sản phẩm thấp và không ổn định
48,66%. Trong đó, trên 80% nông hộ có thói quen
bán sản phẩm cho thương lái và chịu sự chi phối
của thương lái về giá cả, số lượng và chất lượng
sản phẩm. Chỉ có chưa đến 10% nông hộ tiêu thụ
sản phẩm thông qua hợp tác xã và khoảng 8%
nông hộ bán sản phẩm trực tiếp ở các chợ địa
phương, chủ yếu là các hộ sống gần thị tứ, thị
trấn, thị xã hay thành phố. Điều này ảnh hưởng
không nhỏ đến thu nhập của nông hộ bởi nông sản
là nguồn thu chính của hộ. Nông hộ càng bị thiệt
thòi hơn khi thương lái vừa là người mua, vừa là
người cung cấp thông tin giá cả nên nắm quyền ấn

định giá. Tiếp theo là rủi ro do số thành viên trong
gia đình bị mất việc làm chiếm 19,89% đa phần
do các ngành nghề ở nông thôn làm theo thời vụ
nên khi hết vụ mùa thì lao động nhàn rỗi. Thực tế
này cho thấy, việc đa dạng hóa nguồn thu nhập
sang lĩnh vực phi nông nghiệp để giảm thiểu rủi
ro và đảm bảo thu nhập là hết sức cần thiết đối với
nông hộ ở An Giang nói riêng và cả nước nói
chung. Kế đến là rủi ro do mất mùa và dịch bệnh,
ảnh hưởng đến 12,54% số nông hộ được khảo sát.
4.2Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Bài viết sử dụng phương pháp bình phương bé
nhất (OLS) để ước lượng Mô hình (1) nhằm xác
định các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập nông hộ

KCDOTHI
TINDUNG
LAISUAT
Số quan sát (N)
R2
R2 điều chỉnh
Giá trị kiểm định mô
hình

Hệ số β
13,185***

Giá trị P
0,000


2,478***

0,000

0,001***

0,000

3,840***

0,000

-2,075***

0,000

-0,411

0,704

-0,832

0,515

–0,177*

0,053

0,107***


0,000

–0,128**

0,020
598
0,4604
0,4521
0,0000

Ghi chú: (**): có ý nghĩa ở mức 5%, (***): có ý
nghĩa ở mức 1%, (*): có mức ý nghĩa 10%.
Kết quả ước lượng cho thấy, mô hình có ý nghĩa
rất cao (1%) và chỉ ra nhiều yếu tố có ảnh hưởng
đến thu nhập của nông hộ ở An Giang. Đồng thời,
mô hình cũng đã giải thích được 45,21% ý nghĩa
sự biến động của biến độc lập lên biến phụ thuộc.
Đầu tiên, biến HOCVAN có hệ số dương ở mức ý
nghĩa 1%, cho thấy ảnh hưởng tích cực của trình
độ học vấn của chủ hộ đến thu nhập của nông hộ.
Tương tự, hệ số của biến DIENTICHDAT có giá
trị dương ở mức ý nghĩa 1%, khẳng định tầm quan
trọng của đất đai đối với thu nhập của nông hộ ở
An Giang do tính thuần nông của các nông hộ ở
đây.
Biến LAODONG lại có hệ số âm ở mức ý nghĩa
1%. Đó là do, như vừa phân tích, nhiều lao động
trong độ tuổi đi học nên không trực tiếp tạo ra thu
nhập cho nông hộ. Ngoài ra, ở An Giang nói riêng
và nước ta nói chung, sản xuất nông nghiệp phụ

thuộc vào thời vụ, đất canh tác ngày càng thu hẹp
nên thời gian nhàn rỗi nhiều (ở nông thôn An
Giang, có đến 28,9% thời gian lao động chưa


được sử dụng) (Cục thống kê An Giang), do đó
lao động nhiều lại làm cho thu nhập bình quân
đầu người của nông hộ càng thấp.
Biến TGCUTRU có hệ số dương ở mức ý nghĩa
1%, ngụ ý rằng nếu thời gian sinh sống của hộ
càng lâu ở địa phương thì thu nhập càng cao do có
thể bán sản phẩm trực tiếp với giá cao hơn và dễ
tìm được việc làm phi nông nghiệp.
Biến KCDOTHI có hệ số âm ở mức ý nghĩa 10%,
ngụ ý rằng nếu khoảng cách từ nơi ở của hộ đến
đô thị càng gần thì thu nhập càng cao do có thể
bán sản phẩm trực tiếp với giá cao hơn và dễ tìm
được việc làm phi nông nghiệp.
Biến TINDUNG có hệ số dương ở mức ý nghĩa
1%, cho thấy lượng vốn vay là yếu tố quan trọng
đối với việc nâng cao thu nhập của nông hộ. Tuy
nhiên, lãi suất vay cao sẽ làm tăng chi phí, giảm
thu nhập của hộ nên biến LAISUAT có hệ số âm
ở mức ý nghĩa 5%.
5. KẾT LUẬN
Kết quả ước lượng cho thấy các yếu tố như trình
độ học vấn, diện tích đất, thời gian sống tại địa
phương, khoảng cách từ nơi ở đến đô thị, lượng
vốn vay, lãi suất và số lao động có ảnh hưởng đến
thu nhập của nông hộ ở An Giang. Kết quả cũng

cho thấy nhiều lao động trong độ tuổi vẫn còn
sống phụ thuộc, làm giảm thu nhập bình quân đầu
người của hộ. Bên cạnh đó, nông hộ sống càng
gần đô thị thì sẽ có cơ hội cải thiện thu nhập bởi
có thể bán được sản phẩm trực tiếp với giá cao
hơn trong khi chi phí vận chuyển, bảo quản thấp
hơn, đồng thời có thể tham gia các hoạt động phi
nông nghiệp để làm tăng thu nhập. Từ kết quả
nghiên cứu và thực tế ở An Giang, nghiên cứu có
một số khuyến nghị nhằm nâng cao thu nhập của
nông hộ như sau:
Nhà nước cần phát triển hệ thống trường lớp ở
nông thôn với nhiều hình thức (thường xuyên,
không thường xuyên, ngắn hạn,…) và có chính
sách hỗ trợ, khuyến khích bà con nông dân (đặc
biệt là các chủ hộ trẻ tuổi) đến học để nâng cao
trình độ. Cần tạo việc làm cho họ thông qua
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng
sản xuất hàng hóa, đa dạng hóa cây trồng, vật
nuôi, chú trọng những sản phẩm có giá trị cao và
có tiềm năng xuất khẩu. Tạo điều kiện khôi phục
và phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp
truyền thống ở nông thôn, phát triển các doanh

nghiệp nhỏ và vừa ở các thị tứ, thị trấn hay các
cụm tuyến dân cư (vượt lũ). Cần tăng cường công
tác tuyên truyền, nâng cao ý thức của mọi người
trong việc mỗi người cố gắng học lấy một nghề.
Bên cạnh đó, cần đầu tư phát triển mạng lưới giao
thông nông thôn, kết nối trung tâm hành chính xã,

thị trấn, thị xã với nông hộ nhằm phục vụ cho việc
vận chuyển sản phẩm dễ dàng và nhanh chóng
đưa sản phẩm trực tiếp đến tay người tiêu dùng.
Triển khai các biện pháp để hỗ trợ, tạo mối liên
kết giữa nông hộ với doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ
chức khoa học, hiệp hội ngành nghề,… trong việc
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Tạo điều kiện để tổ
hợp tác, hợp tác xã đổi mới nội dung hoạt động,
mở rộng quy mô, ngành nghề sản xuất kinh
doanh. Xây dựng các khu chợ nông thôn và chợ
đầu mối ở các vùng và tiểu vùng sản xuất nông
sản tập trung. Đồng thời, nhà nước cần hỗ trợ các
tổ chức tín dụng có sự tham gia của nông dân
(Quỹ tín dụng nhân dân, Hợp tác xã tín dụng,
nhóm tiết kiệm của nông dân và các hình thức hỗ
trợ vốn do các tổ chức đoàn thể lập ra,...) để hỗ
trợ nông dân.
Ngân hàng Nhà nước cần triển khai thực hiện tốt
Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12 tháng 4
năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách
tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông
thôn và các hướng dẫn thực hiện của ngân hàng
Nhà nước Việt Nam về các hình thức cho vay tín
chấp đối với nông nghiệp, nông thôn. Trong đó,
cần quan tâm đến chính sách cho vay với kỳ hạn
linh động hơn và thủ tục đơn giản hơn. Chính phủ
cần xem xét việc chuyển tiền hỗ trợ mua lúa tạm
trữ từ doanh nghiệp sang nông hộ để nông hộ có
thêm vốn sản xuất, đầu tư phương tiện bảo quản
sản phẩm và không bị ép giá bởi các trung gian

(thương lái) hay đôi khi chính các doanh nghiệp.
Đoàn thể cần phát huy vai trò của mình trong việc
thành lập các quỹ hỗ trợ sản xuất, tổ (nhóm) vay
vốn để hỗ trợ các thành viên trong hoạt động sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Nông hộ cần tính toán đến việc tham gia mô hình
Cánh đồng mẫu lớn để tăng cường khả năng tiêu
thụ sản phẩm và tiếp cận tín dụng, qua đó giúp
làm tăng thu nhập.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Abdulai, A. & CroleRees, A. (2001). Determinants of
Income Diversification amongst Rural Households
in Southern Mali. Food Policy 26, 437–452.


Demurger, S., Fournier, M. & Yang, W. (2010). Rural
Households’
Decisions
towards
Income
Diversification: Evidence from a Township in
Northern China. China Economic Review 457, 1–
13.
Ellis, F. (1998). Household Strategies and Rural
Livelihood
Diversification
in
Developing
Countries. Journal of Agricultural Economics
51(2), 289–301.

Ellis, F. (2000). Rural Livelihoods and Diversity in
Developing Countries. Oxford University Press,
Oxford, UK.
Foster, A. & Rosenzweig, M. (1996). Technical
Change and Human Capital Returns and
Investments: Evidence from the Green Revolution.
American Economic Review 86 (4), 931–953.
Huỳnh Trường Huy & Lê Tấn Nghiêm. (2008). Thu
nhập và đa dạng hóa thu nhập của nông hộ ở Đồng
bằng sông Cửu Long. Tài liệu Chương trình
NPT/VNM/013 Cơ sở cho phát triển doanh nghiệp
vừa và nhỏ và nông hộ ở Đồng bằng sông Cửu
Long. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục, tr. 169–184.
Janvry, A.D. & Sadoulet, E. (2001). Income Strategies
Among Rural Households in Mexico: The Role of
Off-farm Activities. World Development 29(3),
467-480.
Klasen, S., Priebe, J. & Rudolf, R. (2013). Cash Crop
Choice and Income Dynamics in Rural Areas:

Evidence for Post-crisis Indonesia. Agricultural
Economics 44, 349–364.
Lê Khương Ninh. (2011). Giải pháp hạn chế tín dụng
phi chính thức ở nông thôn. Tạp chí Ngân hàng, 5,
52–57.
Manjunatha, A. V., Anik, A. R., Speelman, S., &
Nuppenau, E. A., (2013). Impact of Land
Fragmentation, Farm Size, Land Ownership and
Crop Diversity on Profit and Efficiency of Irrigated
Farms in India. Land Use Policy 31, 397–405.

Mink, S., Cao Thăng Bình., & Nguyễn Thế Dũng.
(2004). Đa dạng hóa nông nghiệp ở Việt Nam. Tài
liệu Hội thảo Quốc gia về đa dạng hóa nông nghiệp
ở Việt Nam.
Phan Đình Nghĩa. (2010). Các nhân tố ảnh hưởng đến
phát triển tài chính trường hợp hộ gia đình Việt
Nam. Tạp chí Công nghệ Ngân hàng 55, 16–20.
Pitt, M., & Sumodiningrat, G. (1991). Risk, Schooling
and the Choice of Seed Technology in Developing
Countries: a Meta-profit Function Approach.
International Economic Review 32, 457–473.
Yang, D. (2004). Education and Allocative Efficiency:
Household Income Growth during Rural Reforms
in China. Journal of Development Economics 74,
137–162.
Yu, J., & Zhu, G. (2013). How Uncertain Is Household
Income in China. Economics Letters 120, 74–78.



×