Tải bản đầy đủ (.pdf) (227 trang)

Quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (20.37 MB, 227 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
------o0o------

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

Ngành: Kinh tế học
Chuyên ngành: Kinh tế quốc tế
Mã số: 62.31.01.06

PHẠM THỊ MAI KHANH

Người hướng dẫn khoa học: GS, TS HOÀNG VĂN CHÂU

HÀ NỘI, năm 2016


LỜI CAM ĐOAN

 

 

Tôi xin cam đoan đây là công trình độc lập của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả trong Luận án đều là trung thực, có nguồn gốc,
xuất xứ rõ ràng.

 


 

 

Tác giả Luận án


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận án này, tôi đã nhận được
sự hướng dẫn, giúp đỡ quý báu của các thầy cô giáo, gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp. Với tấm lòng trân trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin bày tỏ sự cảm ơn
chân thành đến Ban giám hiệu, khoa Sau Đại học, Khoa Kinh tế và Kinh doanh
quốc tế, Bộ môn Nghiệp vụ, cơ sở II - Trường đại học Ngoại thương. Xin chân
thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn, GS.TS Hoàng Văn Châu, đã trực tiếp chỉ
bảo, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận án.
Cuối cùng, xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động
viên, tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, làm việc và
hoàn thành luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn
Hà nội, ngày 10 tháng 6 năm 2016
Tác giả Luận án

Phạm Thị Mai Khanh


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC HÌNH VÀ BẢNG
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ ..................................................................... 16
1.1. Quyền sở hữu trí tuệ ....................................................................................... 16
1.1.1.Khái niệm và bản chất .................................................................................... 16
1.1.2.Các đối tượng cơ bản của quyền SHTT ......................................................... 18
1.2.

Thương mại điện tử .................................................................................... 26

1.2.1. Khái niệm và đặc điểm................................................................................... 26
1.2.2. Các loại hình TMĐT ...................................................................................... 28
1.3. Những vấn đề liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện
tử. ............................................................................................................................. 31
1.3.1. Những vấn đề liên quan đến quyền tác giả trong thương mại điện tử ........... 32
1.3.2. Những vấn đề liên quan đến nhãn hiệu trong thương mại điện tử ................. 42
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN QUỐC TẾ TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ
LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG THƯƠNG MẠI
ĐIỆN TỬ ................................................................................................................. 51
2.1. Thực tiễn quốc tế trong giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền tác giả
trong thương mại điện tử ...................................................................................... 51
2.1.1. Quá trình phát triển khung khổ pháp lý về QTG trong TMĐT...................... 51
2.1.2. Xác định phạm vi QTG đối với các hành vi khai thác tác phẩm mới trong hoạt
động tạo lập website ................................................................................................. 53
2.1.3. Xây dựng cơ chế bảo vệ quyền sử dụng các biện pháp công nghệ quản lý
quyền kỹ thuật số (DMR) trong hoạt động cung cấp và phân phối hàng hóa, dịch vụ
qua website TMĐT .................................................................................................. 59


2.1.4. Xây dựng cơ chế trách nhiệm trung gian trực tuyến đối với xâm phạm QTG
trong hoạt động cung cấp môi trường cho TMĐT ................................................... 62

2.2. Thực tiễn quốc tế trong giải quyết các vấn đề liên quan đến nhãn hiệu
trong thương mại điện tử ...................................................................................... 68
2.2.1. Quá trình phát triển khung khổ pháp lý về nhãn hiệu trong TMĐT .............. 68
2.2.2. Xác định cơ chế giải quyết tranh chấp tên miền liên quan đến nhãn hiệu gắn
với hoạt động tạo lập website TMĐT ...................................................................... 71
2.2.3. Xác đinh phạm vi độc quyền đối với các hành vi sử dụng nhãn hiệu mới trong
hoạt động tạo lập và quảng bá website TMĐT ........................................................ 74
2.2.4. Xác định nguyên tắc giải quyết vấn đề đồng tồn tại của nhãn hiệu gắn với
hoạt động phân phối, cung cấp hàng hoá, dịch vụ qua website TMĐT ................... 82
2.2.5. Xây dựng cơ chế trách nhiệm trung gian trực tuyến đối với xâm phạm nhãn
hiệu trong hoạt động cung cấp môi trường cho TMĐT ........................................... 85
2.3. Bài học kinh nghiệm từ thực tiễn giải quyết các vấn đề liên quan đến
quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử ................................................... 89
2.3.1. Trong giải quyết các vấn đề liên quan đến QTG trong TMĐT...................... 89
2.3.2. Trong giải quyết các vấn đề liên quan đến nhãn hiệu trong TMĐT .............. 99
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM ĐIỀU CHỈNH PHƯƠNG
THỨC GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN SỞ HỮU
TRÍ TUỆ TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM .................... 109
3.1. Thực trạng giải quyết các vấn đề liên quan đến SHTT trong TMĐT tại
Việt Nam ............................................................................................................... 109
3.1.1. Đối với các vấn đề liên quan đến QTG trong TMĐT .................................. 109
3.1.2. Đối với các vấn đề liên quan đến nhãn hiệu trong TMĐT........................... 115
3.2. Một số khuyến nghị nhằm điều chỉnh phương thức giải quyết các vấn đề
liên quan quyền SHTT theo hướng thúc đẩy sự phát triển của TMĐT tại Việt
Nam ....................................................................................................................... 123
3.2.1. Đối với cơ quan quản lý nhà nước ............................................................... 123


3.2.2. Đối với chủ sở hữu website TMĐT ............................................................. 137
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 148

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT

Chữ viết tắt

Nghĩa tiếng Việt

CNTT

Công nghệ thông tin

KH&CN

Khoa học và công nghệ

QTG

Quyền tác giả

SHCN

Sở hữu công nghiệp

SHTT

Sở hữu trí tuệ


TMĐT

Thương mại điện tử





DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG ANH
Chữ viết tắt

Nghĩa tiếng Anh

Nghĩa tiếng Việt

ACPA

Anticybersquatting
Consumer Protection Act

Đạo luật bảo vệ người tiêu
dùng chống lại hành vi chiếm
dụng tên miền (của Hoa Kỳ)

ccTLD

Country code Top Level
Domain

Tên miền quốc gia cấp cao

nhất

DMCA

Digital Millennium
Copyright Act

Đạo luật bản quyền thiên niên
kỷ kỹ thuật số (của Hoa Kỳ)

DRM

Digital Right Managment

Công nghệ quản lý quyền kỹ
thuật số

ECD

European E-commerce
Directive

Chỉ thị TMĐT của châu Âu

ECJ

European Court of Justice

Tòa án châu Âu


EU

European Union

Liên minh châu ÂU

FTA

Free Trade Agreement

Hiệp định thương mại tự do

FTDA

Federal Trademark Dilution Đạo luật liên bang về lu mờ
nhãn hiệu (của Hoa Kỳ)
Act

gTLD

Generic Top Level Domain

Tên miền cấp cao nhất dùng
chung

ICANN

Internet Corporation for
Assigned Names and
Numbers


Cơ quan Internet quản lý số liệu
và tên miền

ISP

Internet Service Provider

Các trung gian trực tuyến

RMI

Right Management
Information

Thông tin quản lý quyền điện tử

SEO

Search Engine
Optimalization

Tối ưu hóa cỗ máy tìm kiếm





SLD


Second Level Domain

Tên miền cấp hai

TLD

Top Level Domain

Tên miền cấp cao nhất

TPM

Technical Protection
Measures

Các biện pháp công nghệ bảo
vệ quyền

TRIPS

Agreement on Trade
Related Aspects of

Hiệp định về một số khía cạnh
của quyền SHTT liên quan

Intellectual Property Rights

đến thương mại


TPP

Trans-Pacific Partnership

Hiệp định đối tác xuyên Thái
Bình Dương

UDRP

Uniform Dispute Resolution Chính sách giải quyết tranh
Policy

chấp tên miền thống nhất

URL

Uniform Resource Locators

Lược đồ tên đồng nhất xác định
các địa chỉ duy nhất của các
nguồn lực Internet

US PTO

US Patent and Trademark
Office

Văn phòng sáng chế và nhãn
hiệu Hoa Kỳ


WIPO

World Intellectual Property
Organization

Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới

WCT

WIPO Copyright Treaty

Hiệp ước của WIPO về
quyền tác giả

WPPT

WIPO Performance Treaty

Hiệp ước của WIPO về buổi
biểu diễn và bản ghi âm





DANH MỤC HÌNH VÀ BẢNG

Tên hình/bảng

Trang


Hình 1.1. Các vấn đề liên quan tới QTG trong hoạt động TMĐT

32

Hình 1.2. Vai trò của các ISP và khung pháp luật điều chỉnh trách
nhiệm của ISP đối với xâm phạm QTG

41

Hình 1.3. Các vấn đề liên quan tới TMĐT trong hoạt động TMĐT

42

Bảng 1.1. Vấn đề liên quan đến QTG và nhãn hiệu trong các hoạt
động TMĐT

49

Bảng 2.1. Tổng kết thực tiễn quốc tế trong giải quyết các vấn đề liên
quan tới QTG trong TMĐT

96

Bảng 2.2. Tổng kết thực tiễn quốc tế trong giải quyết các vấn đề liên
quan tới nhãn hiệu trong TMĐT

105

Bảng 3.1. So sánh các quy định hiện hành của Việt Nam điều chỉnh

cơ chế bảo hộ đối với quyền sử dụng DRM để tự bảo vệ với các yêu
cầu của WCT, WPPT và Hiệp định TPP

126

Bảng 3.2: Đề xuất các thay đổi liên quan đến cơ chế trách nhiệm của
các ISP có chức năng lưu trữ và định vị thông tin được quy định tại
Luật CNTT (2012)

131





1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự ra đời và phát triển của Internet đã tạo ra những tác động to lớn tới mọi
mặt của nền kinh tế, xã hội. Một trong những hoạt động kinh tế quan trọng nhất
được phát triển trên nền tảng này chính là hoạt động thương mại điện tử (TMĐT).
Quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) có vai trò quan trọng trong TMĐT trên nhiều góc độ.
Thứ nhất, gần như mọi hoạt động diễn ra trên internet đều liên quan đến hành vi sao
chép và các nội dung được bảo vệ bởi QTG, dưới dạng các sản phẩm thông tin và
giải trí đa dạng, cấu thành các đối tượng có giá trị của TMĐT. Thứ hai, nhãn hiệu
hàng hóa với chức năng chỉ dẫn nguồn gốc trở nên hết sức cần thiết trong không
gian mạng, khi việc lựa chọn hàng hóa và dịch vụ của khách hàng phụ thuộc chủ
yếu vào độ tin cậy của các nguồn cung cấp những hàng hóa và dịch vụ này. Thứ ba,
hệ thống TMĐT được vận hành trên một nền tảng bao gồm nhiều đối tượng có thể

được bảo hộ bởi quyền SHTT. Các vấn đề pháp lý gắn với quyền SHTT cũng ẩn
chứa nhiều rủi ro và đe doạ tới hoạt động TMĐT. Về phần mình, TMĐT, với những
đặc điểm kỹ thuật và kinh tế riêng có đã đặt ra nhiều thách thức đối với quyền
SHTT, buộc các chủ thể quyền phải tìm kiếm cách thức mới và công cụ mới để mở
rộng, bảo vệ và thực thi hiệu quả quyền SHTT trong môi trường TMĐT. Việc thiết
kế các chính sách SHTT gắn với TMĐT cần phải phù hợp và cân bằng với các đặc
điểm này cũng như vai trò của các bên liên quan. Các chính sách SHTT không cân
bằng gắn với hoạt động TMĐT sẽ có thể gây thiệt hại cho lợi ích của các chủ thể
quyền SHTT, hạn chế đổi mới hoặc tạo sự bảo hộ quá mức với các chủ thể quyền,
ngăn cản sự phát triển của các mô hình kinh doanh TMĐT mới, ngăn chặn sự tham
gia thị trường của các chủ thể kinh doanh TMĐT. Trong khi đó, một môi trường
pháp lý phù hợp và có khả năng dự báo tạo ra bởi một cơ chế SHTT cân bằng sẽ
góp phần thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của các hoạt động TMĐT.
Trên thực tế, ngay trong những Báo cáo đầu tiên về TMĐT của Diễn đàn
của Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD), quyền SHTT đã được
đề cập tới như một nhân tố và mục tiêu ưu tiên ở nấc thang trên của các chiến lược
công nghệ thông tin (CNTT) quốc gia (UNCTAD 2003, tr. 66-68). Vào thời điểm
này, ở nấc thang dưới, tại các quốc gia đang phát triển, do còn thiếu hiểu biết về sử
dụng internet trong kinh doanh, việc tăng cường nhận thức và hiểu biết chung về lợi
ích của CNTT, khả năng tiếp cận CNTT cơ bản,… là trọng tâm trong thiết kế chính
sách. Trong khi đó, ở nấc thang trên, tại các quốc gia phát triển, các mối quan tâm
kinh doanh như cạnh tranh, niềm tin, an ninh mạng, quyền SHTT, hay tính riêng tư
được chú trọng hơn trong chương trình phát triển chính sách (xem Phụ lục 1). Thực
tế, các vấn đề SHTT trong TMĐT đã được tiếp cận và giải quyết trong nhiều quy


2
định pháp luật cũng như các quy định mang tính chất hướng trong khuôn khổ của tổ
chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), Cơ quan internet quản lý tên miền (ICANN)
và tại các nước phát triển, đại diện là Hoa Kỳ và các quốc gia thuộc Liên minh châu

Âu (EU). Với sự phát triển nhanh chóng của TMĐT, việc đưa các mục tiêu ưu tiên
ở nấc thang trên, trong đó các vấn đề liên quan đến quyền SHTT, vào hoạt động xây
dựng chính sách TMĐT là yêu cầu tất yếu tại các quốc gia đang phát triển.
Tại Việt Nam, một trong những nội dung trong tâm của chiến lược phát
triển kinh tế-xã hội quốc gia trong những năm qua chính là thúc đẩy sự phát triển
của CNTT và TMĐT. Nhiệm vụ quan trọng “Phát triển nhanh hạ tầng thương mại
điện tử” đã được đề cập trong Nghị quyết số 13- NQ/TW Hội nghị lần thứ 4
BCHTW Đảng khóa XI. Nhận thức được vai trò của quyền SHTT trong TMĐT và
những phát triển nhanh chóng trong lĩnh vực này trên thế giới, trong kế hoạch tổng
thể về phát triển CNTT và TMĐT giai đoạn 2011-2015 với tầm nhìn 2020 và
Chương trình phát triển TMĐT quốc gia giai đoạn 2014-2020, nội dung sửa đổi các
văn bản pháp luật về quyền SHTT cho phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện
và thúc đẩy CNTT cũng như các dịch vụ kinh doanh trực tuyến được nêu ra như
một phần của các giải pháp cần thiết. Trong thời gian qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ
lực điều chỉnh các quy định về quyền SHTT của mình thích ứng với môi trường
internet và phù hợp với thực tiễn hoạt động TMĐT. Tuy nhiên, để có được khung
khổ pháp lý về quyền SHTT đảm bảo quyền hợp pháp của các chủ thể quyền đồng
thời đảm bảo khả năng tiếp cận thông tin, khuyến khích cạnh tranh hợp pháp, thúc
đẩy sự phát triển của TMĐT, là quốc gia đi sau trong lĩnh vực SHTT và TMĐT,
Việt Nam cần tham khảo các quy định “tiên phong” đã được xây dựng và thực tiễn
áp dụng chúng tại các nước phát triển trong việc điều chỉnh các vấn đề liên quan
đến quyền SHTT trong TMĐT, đặc biệt khi các quy định này phần nào được phản
ánh qua cam kết của Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TransPacific Partnership – TPP) và Hiệp định tự do thương mại với EU mà Việt Nam
mới ký kết. Đồng thời, để tránh áp dụng một cách máy móc các quy định “mẫu”,
cần hiểu rõ bản chất về mặt kỹ thuật, kinh tế và pháp lý của các vấn đề liên quan
đến quyền SHTT trong TMĐT, ý nghĩa của các quy định pháp lý và các cơ chế khác
nhau đã được xây dựng nhằm giải quyết các vấn đề này. Trong bối cảnh này, việc
nghiên cứu, phân tích thực tiễn quốc tế trong giải quyết các vấn đề liên quan đến
quyền SHTT trong TMĐT để từ đó xác định các vấn đề chưa được giải quyết thoả
đáng tại Việt Nam, đưa ra các khuyến nghị về chính sách và giải pháp quản lý để

giải quyết các vấn đề đó ở cấp độ quốc gia cũng như doanh nghiệp là hết sức cần
thiết. Điều này, một mặt sẽ giúp làm giảm sự không chắc chắn của luật pháp, vốn
được coi là một rào cản với TMĐT, mặt khác, sẽ thúc đẩy sự tham gia của các chủ


3
thể vào hoạt động TMĐT. Chính vì lý do này, tác giả đã chọn đề tài “Quyền sở hữu
trí tuệ trong thương mại điện tử” để nghiên cứu trong luận án tiến sỹ của mình.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1.

Tình hình nghiên cứu trên thế giới

Cùng với sự phát triển của internet cùng các hoạt động trên nền tảng này,
việc nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến quyền SHTT trong môi trường
internet và TMĐT đã được nhiều học giả quan tâm. Các công trình nghiên cứu, bài
viết này có những cách tiếp cận rất đa dạng. Tác giả phân loại chúng thành hai
nhóm chính là các nghiên cứu về quyền SHTT trong môi trường internet nói chung
và các nghiên cứu về quyền SHTT trong TMĐT nói riêng.
2.1.1. Nhóm các nghiên cứu về quyền SHTT trong môi trường internet
nói chung
Các nghiên cứu về quyền SHTT trong môi trường internet nói chung đã
được triển khai từ rất sớm. Trên góc độ tổng quan, các quan điểm về khả năng mở
rộng quyền SHTT cho không gian ảo chia thành hai nhánh chính. Một nhóm các
học giả đã ủng hộ quan điểm cho rằng quyền SHTT là hoàn toàn không phù hợp với
môi trường số, nhóm còn lại ủng hộ việc tiếp tục áp dụng hệ thống quyền SHTT với
những điều chỉnh hợp lý. Nhánh thứ nhất cho rằng "thông tin muốn được tự do", và
những nỗ lực để sử dụng các quyền SHTT chỉ làm cản trở sự phát triển của công
nghệ và xâm phạm quyền tự do thể hiện. Quan điểm này được nêu bật bởi Boyle

(1996) khi chỉ trích QTG, vốn là nền tảng của hệ thống quyền SHTT phương Tây,
có tác động hạn chế thông tin và cản trở đổi mới, không còn phù hợp và phản tác
dụng trong xã hội thông tin hiện nay, một xã hội trong đó, như Stewart Brand đã mô
tả, "thông tin muốn được tự do.'" Quan điểm này được ủng hộ bởi Barlow (1994)
khi cho rằng QTG không thể áp dụng để bảo vệ thông tin số. Boyle (1997) tiếp tục
thể hiện lo ngại rằng, không kể tới các nhân tố khác, cơ chế quyền SHTT hiện tại có
thể (i) dẫn đến mức độ độc quyền và tập trung quá mức trong lĩnh vực phần, (ii) "tư
nhân hóa" những từ ngữ, các khía cạnh hình ảnh hoặc các đoạn văn đã thuộc sở hữu
của công chúng, gây tổn hại cho quyền tự do biểu đạt và tiếp cận thông tin, và (c)
đặt ra một cấu trúc "trả tiền khi đọc" trên internet mà không quan tâm tới những chi
phí phát sinh từ quyết định này. Xét trên góc độ các quốc gia đang phát triển,
Thurow (1997) cho rằng những chuyển biến cơ bản về công nghệ và về kinh tế đã
nhanh chóng khiến cho hệ thống quyền SHTT, được thiết kế hơn 100 năm trước để
đáp ứng nhu cầu của một thời đại công nghiệp, không hoạt động được và kém hiệu
quả. Tuy nhiên, thực tiễn phát triển của công nghệ internet và hệ thống quyền SHTT
trên thế giới dường như không ủng hộ cho quan điểm này. Nhánh thứ hai, ủng hộ
quan điểm “trung dung”, cũng là nhóm chiếm tỷ trọng áp đảo trong các công trình


4
nghiên cứu về quyền SHTT trong môi trường internet. Quan điểm của nhóm này
cho rằng hệ thống quyền SHTT đã luôn phát triển để thích ứng với các thách thức
của công nghệ mới và bản thân các công nghệ cũng đem lại nhiều cơ hội cho việc
quản lý quyền SHTT, vì thế, vấn đề đặt ra là xác định những thách thức và cơ hội
đối với hệ thống quyền SHTT và phân tích các giải pháp điều chỉnh thích hợp chứ
không phải phủ nhận giá trị của hệ thống này trong không gian ảo. McManis (1996)
kết luận rằng, với việc xuất hiện công nghệ số và các siêu lộ thông tin toàn cầu, vấn
đề mới thực sự đối với quyền SHTT chính là làm thế nào có thể thực thi các quyền
SHTT bị giới hạn về mặt lãnh thổ trong một nền kinh tế ngày một trở nên toàn cầu.
Wallerstein, Mogee và Schoen (1993), đã phân tích xu hướng phát triển của khoa

học công nghệ và tác động của chúng đến quyền SHTT cũng như những lợi thế và
bất lợi của một cơ chế quyền SHTT quốc tế thống nhất so với một cơ chế phản ảnh
sự khác biệt của các quốc gia. Đi sâu vào các hoạt động cụ thể trên internet, công
trình của Merchant & Gould và Sở thương mại và phát triển kinh tế Minnesota, Hoa
Kỳ (2002) cũng đã thảo luận chung các vấn đề về quyền SHTT và các vấn đề pháp
lý khác trong các hoạt động như sử dụng e-mail, TMĐT, tên miền, sử dụng nhãn
hiệu và bằng độc quyền sáng chế và quyền tác giả trên internet, trong bối cảnh tác
động qua lại với các vấn đề liên quan đến việc làm và hợp đồng. WIPO (2002) cũng
chỉ ra nhưng thay đổi, những điều chỉnh và những thách thức trong tương lai đối với
hệ thống SHTT để thích ứng với một môi trường mới. Tuy nhiên, do là nghiên cứu
tổng quát, những công trình loại này không phản ánh đặc trưng của từng hệ thống
pháp luật quốc gia cũng như đi sâu phân tích các nhánh riêng của quyền SHTT.
Nghiên cứu về quyền SHTT trong TMĐT, một hoạt động trên nền tảng
internet, đối với tác giả, các công trình nghiên cứu quyền SHTT trong môi trường
intenet nói chung là những tài liệu tham khảo quan trọng. Từ thực tiễn phát triển
của internet và hệ thống quyền SHTT, dường như quan điểm phủ định hoàn toàn hệ
thống quyền SHTT của nhánh thứ nhất không còn đứng vững. Tuy nhiên, tác giả
ghi nhận những phân tích về thách thức của môi trường internet và xung đột giữa
những đặc điểm của internet với hệ thống quyền SHTT của nhóm các học giả này
và sẽ sử dụng chúng kết hợp với các phân tích của nhánh thứ hai về cách thức điều
chỉnh và quản lý hệ thống quyền SHTT để phân tích các vấn đề liên quan đến quyền
SHTT trong TMĐT. Các phân tích thuộc nhánh thứ hai cũng được mở rộng áp dụng
với các lĩnh vực của quyền SHTT. Hai lĩnh vực cơ bản của quyền SHTT là quyền
tác giả và nhãn hiệu được xác định là những lĩnh vực chịu tác động mạnh mẽ và có
vai trò quan trọng nhất trong môi trường internet (WIPO, 2002) được tập trung phân
tích trong rất nhiều công trình:


5


2.1.1.1. Về các vấn đề liên quan đến QTG trong môi trường internet
Vì QTG là lĩnh vực SHTT bị ảnh hưởng nhiều nhất trong môi trường
internet, các công trình liên quan đến QTG chiếm tỷ trọng lớn trong các nghiên cứu
về quyền SHTT trong môi trường internet. Xuất hiện rất sớm là một số công trình
có cách tiếp cận từ lịch sử phát triển QTG. Đáng lưu ý là báo cáo của Văn phòng
thẩm định công nghệ của Quốc hội Hoa Kỳ năm 1986. Bản báo cáo này đánh giá
tác động của những tiến bộ công nghệ thông tin và truyền thông (đã có hoặc sắp có)
lên hệ thống quyền SHTT. Báo cáo tập trung chủ yếu vào hệ thống QTG của Hoa
Kỳ và về tính hiệu quả của luật về QTG với tư cách công cụ chính sách trong bối
cảnh xuất hiện các công nghệ mới như máy ghi âm và video, chương trình máy tính,
cơ sở dữ liệu điện tử, và các mạng lưới viễn thông và khẳng định QTG sẽ tiếp tục
phát huy vai trò với những điều chỉnh mới và cách thức quản trị thích hợp. Với
cùng cách tiếp cận, Bettig (1996) bắt đầu với việc xem xét lịch sử QTG tại Hoa Kỳ
với những điều chỉnh cần thiết và phương thức để duy trì các quy định luật pháp đã
có để đối phó với những thách thức được đặt ra bởi các công nghệ đã từng được coi
là “mới” như các thiết bị ghi âm ghi hình, videocassette, truyền hình cáp. Bettig đã
phân tích tính kinh tế chính trị của SHTT từ quan điểm của các nhà kinh tế học tân
cổ điển và các nhà kinh tế chính trị cấp tiến với ngầm ý cho thấy hệ thống QTG có
thể tiếp tục được duy trì để đối phó với những công nghệ đã có và sẽ có. Đối với
các đối tượng mới của QTG như chương trình máy tính, cho dù có nhiều tranh luận
về khả năng sử dụng hệ thống QTG, bằng độc quyền sáng chế hay một cơ chế riêng
cho các đối tượng này, xét việc dạng thể hiện căn bản của các chương trình máy
tính là văn bản và lợi điểm lớn từ góc độ chủ thể quyền cũng như cơ quan quản lý
nhà nước như (i) sự dễ dàng trong thủ tục bảo hộ và việc không phải đáp ứng yêu
cầu tiết lộ đặc điểm kỹ thuật, (ii) việc không phải soạn thảo và ban hành các quy
định hoàn toàn mới để điều chỉnh đối tượng này và (iii) khả năng mở rộng bảo hộ
quốc tế đối với chương trình máy tính, nhiều học giả và các nhà lập pháp đã ủng hộ
việc mở rộng hệ thống QTG cho chương trình máy tính cho dù hình thức này không
được mở rộng cho đặc tính chức năng hoặc kỹ thuật của các đối tượng trên (Karjala
1987, 1994; Magrab 1992). Tới nay, cho dù còn tồn tại những vẫn đề mang tính

chất giao thoa gây tranh cãi, về cơ bản các quốc gia ghi nhận quan điểm chung cho
rằng các chương trình máy tính được bảo hộ bởi hệ thống QTG trong khi đó các
thiết bị sử dụng chương trình máy tính hoặc sáng chế dựa trên chương trình máy
tính cần được bảo hộ bởi hệ thống bằng độc quyền sáng chế (WIPO, 2015).
Bên cạnh các công trình nghiên cứu từ góc độ lịch sử, tập trung vào những
thách thức của công nghệ mới và khả năng vượt qua thách thức nói chung, có nhiều
công trình cũng đã đi sâu phân tích cách thức để tận dụng những ưu điểm của công
nghệ mới nhằm kiểm soát hiệu quả các nội dung trên internet. Lessig (1999) cho


6
rằng quan điểm không gian ảo không thể được điều chỉnh là không chính xác. Bản
chất của không gian ảo không phải là tự do tuyệt đối và không thể điều chỉnh được.
Không gian ảo không hề có "bản chất", nó chỉ có mã - những phần mềm và phần
cứng đã tạo ra không gian ảo như vậy. Mã này có thể được sử dụng để tạo ra một
không gian của tự do hoặc một môi trường kiểm soát chặt chẽ và trở thành phương
tiện cơ bản để bảo vệ QTG trên mạng (Lessig, 1999). Khi xem xét môi trường pháp
luật ở Hoa Kỳ và đánh giá tác động của luật về QTG đối với trao đổi thông tin trong
xã hội tự do, Litman (2001) đã chỉ ra rằng công nghệ số được kết nối là nền tảng
của Internet đã thúc đẩy một cách đáng kể sự phát triển kinh tế-xã hội đồng thời
cũng tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các nhà sản xuất và các nhà phân phối các tác
phẩm thông tin trong việc kiểm soát, ghi chép và hạn chế những gì mà mọi người có
thể nhìn thấy hoặc nghe thấy. Phân tích các vấn đề liên quan đến từng khía cạnh của
QTG trong các hoạt động cụ thể trên internet gắn với việc truyền đưa và sử dụng tác
phẩm, Hayes (2008) đã áp dụng cách tiếp cận đa dạng qua thực tiễn xây dựng, điều
chỉnh và áp dụng các quy định pháp lý sẵn có cũng các án lệ chủ yếu tại Hoa Kỳ.
Các bài viết của Capone và Rose (2014) hay Cook (2015) chủ yếu tập trung phân
tích các xu hướng mới được đặt ra trong giải quyết một trong số các vấn đề liên
quan đến QTG gắn với các án lệ. Nhận xét xác đáng về các nghiên cứu gắn với
QTG trong môi trường kỹ thuật số nói chung từ góc độ lý thuyết cũng như thực tiễn

đã được đưa ra bởi Christian Handke (2010). Tổng hợp các nghiên cứu về tính kinh
tế của QTG và việc sao chép, báo cáo của Handke chỉ ra rằng các nghiên cứu đã có
không thể cung cấp câu trả lời chính xác về hiệu quả của hệ thống QTG, mức độ
bảo hộ hợp lý hay một giải pháp đầy đủ cho vấn đề này trong bối cảnh số hóa.
Handke cũng phân tích những khó khăn về cơ sở dữ liệu cũng như khả năng áp
dụng các nghiên cứu định lượng để đưa ra đề xuất các chính sách liên quan đến
QTG và kết luận rằng song song với các nghiên cứu về chính sách đổi mới và công
nghệ, cách tiếp cận “thực dụng” với vấn đề về QTG là hứa hẹn nhất trong bối cảnh
này. Cụ thể hoá qua học thuyết phúc lợi (welfare theory), cách tiếp cận này được sử
dụng trong nhiều công trình nhiên cứu thực nghiệm như báo cáo của Ban chính
sách, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (2013) và của Ủy ban cộng đồng châu Âu (2008) hay
báo cáo độc lập của giáo sư Hargreaves (2011) tại Vương quốc Anh, đánh giá sự
phù hợp của các chính sách đã có liên quan đến QTG và internet đối với mục tiêu
thúc đẩy đổi mới và tăng trưởng trong môi trường kỹ thuật số. Luận án kế thừa cách
tiếp cận của thuyết vị lợi và học thuyết phúc lợi khi phân tích các vấn đề liên quan
đến QTG trong TMĐT.


7

2.1.1.2. Về các vấn đề liên quan đến nhãn hiệu trong môi trường
internet
Abel (1999) đã nêu bật những thách thức cơ bản liên quan đến nhãn hiệu
trong những hoạt động xuất hiện đầu tiên trên internet như đăng ký tên miền, liên
kết, sử dụng thẻ metatag, cấp li-xăng,… Tuy nhiên, trong khuôn khổ một bài báo,
Abel mới dừng ở mức nêu lên các vấn đề nhưng chưa phân tích sâu chúng khi xét
tới việc thiếu các án lệ và việc ban hành các quy định luật pháp trong lĩnh vực
tương ứng. Về những khó khăn trong việc xác định hành vi xâm phạm nhãn hiệu
trên internet, Barrett (2006) đã phân tích lịch sử phát triển và ý nghĩa của yêu cầu
“sử dụng nhãn hiệu”, đối chiếu chúng với những hoạt động sử dụng mới trên

internet như sử dụng làm tên miền, trong metatag hay trong quảng cáo theo ngữ
cảnh từ đó chỉ ra rằng yêu cầu về sử dụng nhãn hiệu đóng vai trò quan trọng trong
việc đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng trong bối cảnh kỹ thuật số. Theo Barett
(2006), việc xác định giới hạn của yêu cầu sử dụng nhãn hiệu chính là công cụ để
duy trì sự cân bằng mà hệ thống nhãn hiệu hướng tới nhưng chưa phân tích được
những tiến triển luật pháp cụ thể trên thế giới để xác định giới hạn này. Gần đây
hơn, Ủy ban thường trực về Luật nhãn hiêu, kiểu dáng công nghiệp và chỉ dẫn địa lý
của Tổ chức SHTT thế giới (WIPO, 2010) đã xem xét những tiến triển về mặt pháp
lý liên quan đến nhãn hiệu và internet với những phân tích từ góc độ xung đột tên
miền, trách nhiệm của trung gian trực tuyến như website đấu giá, môi trường thực
tại ảo và các mạng xã hội. Tuy nhiên, ngoài việc liệt kê các sáng kiến chung trong
khuôn khổ WIPO như Khuyến nghị chung liên quan tới việc bảo vệ nhãn hiệu và
các quyền SHCN khác trên internet hay Chính sách giải quyết tranh chấp tên miền
thống nhất (UDRP) và một số án lệ liên quan đến trách nhiệm của các trung gian
trực tuyến, báo cáo không có phần phân tích đánh giá bản chất của các quy định
này. Trên cấp độ khu vực và quốc gia, cũng đã có những công trình phân tích sâu
những tiến triển mới trong việc xác định xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu
trong các hoạt động “hiện đại” hơn ví dụ như sử dụng trong metatag, quảng cáo từ
khóa, mua sắm trực tuyến. Luepke (2008) đã phân tích các vấn đề này trong bối
cảnh Hoa Kỳ trong khi Aristidou (2011) phân tích chúng trong bối cảnh Liên minh
châu Âu (EU). Strombon (2014) và Johnson (2015), trong bối cảnh Hoa Kỳ, đã lần
lượt phân tích một số khía cạnh khác liên quan đến nhãn hiệu trên internet như trách
nhiệm gián tiếp đối với xâm phạm nhãn hiệu và học thuyết “đồng tồn tại” đối với
nhãn hiệu. Tuy nhiên, các phân tích nói trên thường thiếu cách tiếp cận so sánh và
không được đặt trong bối cảnh tổng quan các hoạt động trên internet.


8

2.1.2. Nhóm các các nghiên cứu về quyền SHTT trong TMĐT nói

riêng
Một số công trình nghiên cứu chuyên sâu về TMĐT, bên cạnh các phân tích
mang tính kỹ thuật và thương mại, đã đề cập tới một số khía cạnh của quyền SHTT
liên quan đến TMĐT. Tuy nhiên, được đề cập như một khía cạnh đạo đức và xã hội
của TMĐT, bản chất pháp lý của các vấn đề liên quan đến quyền SHTT trong
TMĐT thường không được phân tích toàn diện trong các công trình này (Xem
Laudon K. và Traver C. G.( 2012).
Các nghiên cứu và bài viết tiếp cận các vấn đề liên quan đến quyền SHTT
trong TMĐT đáng đáng kể nhất là trong trong khuôn khổ của WIPO. Trong nỗ lực
nhằm phân tích mối quan hệ giữa TMĐT và SHTT trong giai đoạn tiến triển ban
đầu của dạng thức kinh doanh mới này, WIPO (1996) đã nỗ lực nhằm cung cấp cho
các doanh nghiệp và các đối tượng sử dụng khác hướng dẫn sơ bộ về các vấn đề
SHTT liên quan đến TMĐT. WIPO (2000) đã xác định các vấn đề và phản ứng liên
quan đến quyền SHTT trong giai đoạn đầu phát triển TMĐT. Theo WIPO (2000) sự
phát triển của TMĐT diễn ra trong bối cảnh môi trường công nghệ và thương mại
có những thay đổi nhanh chóng. Vì thế, WIPO (2000) cho rằng việc đánh giá
TMĐT và mối quan hệ và tác động của nó tới SHTT là một quá trình liên tục và
chuyên sâu, đòi hỏi phải có sự giám sát kỹ lưỡng quá trình phát triển để đánh giá
xem liệu một động thái có là cần thiết hay hợp lý trong việc bảo đảm và tăng cường
tính hiệu quả của SHTT trong môi trường kỹ thuật số hay không. WIPO (2000)
khẳng định việc xác định phạm vi quyền SHTT hợp lý trong mối quan hệ với các
công nghệ và nội dung số đang tiến triển nhanh chóng cũng như điều chỉnh các
phương tiện bảo hộ các quyền này trong bối cảnh quốc tế của TMĐT là một thách
thức thực sự trong lĩnh vực SHTT không chỉ trong giai đoạn đầu của TMĐT mà
trong cả giai đoạn phát triển cao hơn của hoạt động này. Vivas-Eugui (2001) cho
rằng mối quan hệ giữa quyền SHTT và TMĐT cần được giải quyết trên bốn góc độ:
(1) xây dựng môi trường pháp lý SHTT phù hợp với sự phát triển và mở rộng của
các hoạt động TMĐT; (2) xác định nội dung SHTT có thể được chuyển tải thông
qua internet và trở thành đối tượng của TMĐT; (3) xác định cách thức xử lý các vấn
đề mới, bao gồm sự cần thiết của việc bảo hộ thông qua quyền SHTT đối với các

sản phẩm nghe nhìn, các cơ sở dữ liệu riêng, các quy trình kinh doanh mới và việc
sử dụng các tên miền trên internet và mối quan hệ của chúng với nhãn hiệu; và (4)
xác định diễn đàn phù hợp nhất để phân tích và đàm phán các vấn đề nói trên.
Vivas-Eugui (2001) cũng đưa ra những đề xuất đối với các quốc gia đang phát triển
trong việc tiếp cận và giải quyết các vấn đề này. Tuy nhiên, bài viết của VivasEugui thiên về giải thích những cuộc thảo luận đã diễn ra trong khuôn khổ WTO về


9
mối quan hệ giữa quyền SHTT và TMĐT vào thời điểm đó nên chưa bao quát được
các vấn đề đối với SHTT trong TMĐT.
Nổi lên như một vấn đề được tranh luận toàn cầu, gắn với vấn đề SHTT
trong TMĐT, cơ chế trách nhiệm trung gian trực tuyến đối với xâm phạm quyền
SHTT cũng đã được phân tích trong nhiều công trình. Koelman (2000) phân tích sự
phát triển của cơ chế trách nhiệm trung gian trực tuyến trên thế giới và nền tảng để
xây dựng cơ chế này tại Hoa Kỳ và EU. Edwards (2011) đã đi sâu phân tích các vấn
đề liên quan đến cơ chế thông báo và gỡ bỏ (NTD), một trong những cơ chế để đảm
bảo điều kiện miễn trách nhiệm theo cả DMCA và ECD cũng như những tiến triển
vượt ngưỡng NTD nhằm đối phó với công nghệ chia sẻ đồng đẳng (P2P) ở nhiều
quốc gia trên thế giới. Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD, 2011b) cũng
chỉ ra rằng việc quản lý quyền SHTT trong môi trường trực tuyến đem lại rất nhiều
cơ hội cũng như thách thức khi giá trị của các giao dịch trực tuyến (cả được phép và
không được phép) tăng lên nhanh chóng. Trong công trình này, sau khi phân tích
vai trò về mặt kinh tế và xã hội của các trung gian trực tuyến, các tác giả đã xây
dựng khái niệm chung về trung gian internet với các chức năng và mô hình kinh tế,
sự phát triển và triển vọng của chúng của thị trường. Martinet và Oerti (2015) tập
trung so sách cách tiếp cận của EU và Hoa Kỳ đối với vấn đề trách nhiệm của các
thị trường trực tuyến và đánh giá chung về các cơ chế trách nhiệm đối với ISP tại
nhiều quốc gia như Đức, Thuỵ Sỹ và Trung Quốc. Tuy nhiên, do trọng tâm của các
nghiên cứu này là vai trò của các trung gian internet trong việc thúc đẩy các mục
tiêu chính sách công cũng như chi phí và lợi ích của việc tham gia này, ngoài việc

phân tích các bài học kinh nghiệm tại Hoa Kỳ và châu Âu trong việc hướng các
trung gian internet vào thực thi các mục tiêu chính sách công, các nghiên cứu này
không đưa ra các đề xuất với các quốc gia đang phát triển.
Xét trên tổng thể, công trình liên quan trực tiếp nhất tới luận án tiến sỹ của
tác giả chính là công trình của Abdalla (2005). Abdalla (2005) đã xem xét lịch sử
phát triển của luật SHTT, bản chất, mục đích và phạm vi của quyền SHTT hiện đại,
những thách thức của internet, việc điều chỉnh hoạt động của TMĐT, những xung
đột pháp lý liên quan đến luật về TMĐT và quyền SHTT, việc bảo vệ quyền tác giả,
nhãn hiệu và bằng độc quyền sáng chế trên mạng kỹ thuật số, và tác động của các
quyền SHTT hài hòa hóa quốc tế lên các nước đang phát triển. Tác giả này cũng
đưa ra một số kết luận và gợi ý liên quan đến việc xây dựng một cơ chế bảo hộ sở
hữu trí tuệ quốc tế hiệu quả dựa trên các thỏa thuận về các vấn đề tư pháp quốc tế
liên quan đến Internet và thương mại điện tử nói chung và SHTT nói riêng. Tuy
nhiên, vì thể hiện nội dung của một luận án chuyên ngành luật, Abdalla (2005) đã
không đề cập tới vai trò của hệ thống quyền SHTT trừ góc độ kinh tế học và phân
tích các vấn đề của quyền SHTT trong các hoạt động cụ thể trong TMĐT.


10
Như vậy, có thể thấy, các khía cạnh của quyền SHTT trong TMĐT đã được
đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu, tuy nhiên, chưa có công trình nào hệ
thống hóa kinh nghiệm phát triển và áp dụng các quy định pháp lý và các hướng
dẫn trên quy mô toàn cầu, khu vực và quốc gia nhằm điều chỉnh các vấn đề liên
quan đến trong các hoạt động cụ thể trên website TMĐT từ góc độ kinh tế học luật.
2.2.

Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam

Có thể nói, ở Việt Nam, SHTT trong TMĐT là vấn đề còn khá mới cả về lý
luận và thực tiễn. Gần như chưa có nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về quyền

SHTT trong TMĐT. Hoàng Việt (2012) đã phân tích được những vấn đề mang tính
chất nguyên tắc về mối quan hệ giữa quyền SHTT và TMĐT tương tự như những
phân tích trong các công trình của WIPO như trình bày ở trên nhưng chưa đi sâu
vào các khía cạnh kỹ thuật, pháp lý và kinh tế của mối quan hệ này. Liên quan đến
QTG, Đỗ Khắc Chiến (2014) đã tiếp cận vấn đề bản sao tạm thời như một vấn đề
trọng tâm đối với QTG trong môi trường internet nhưng chưa đề cập toàn diện tới
các vấn đề liên quan với QGT. Liên quan đến tên miền, Lê Quang Vinh (2013a, b),
cũng như nhiều bài viết tương tự đã phân tích được tổng quan ưu và nhược điểm
của các phương thức giải quyết tranh chấp tên miền, tuy nhiên mới tập trung vào
một góc độ nhỏ của các vấn đề liên quan đến nhãn hiệu trong TMĐT, chưa đặt vấn
đề trong bối cảnh chung của TMĐT. Về cơ chế trách nhiệm trung gian trực tuyến,
Quản Tuấn Anh (2010) đã tổng hợp và làm rõ các quy định hiện hành trong Luật
Công nghệ thông tin và Nghị định hướng dẫn thi hành Luật CNTT liên quan đến
một số khía cạnh của quyền SHTT, cụ thể là QTG, phân tích được quy định đối với
bản sao tạm thời, quy định đối với trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ internet
(ISP) trong khuôn khổ của hai văn bản trên. Tuy nhiên, bài báo đã chưa phân tích
cập nhật được những thay đổi luật pháp sau đó cũng như chưa đánh giá được toàn
diện vấn đề trong bối cảnh phát triển quốc tế. Các báo cáo TMĐT Việt Nam do Cục
TMĐT và CNTT (VECITA) xuất bản hàng năm, mặc dù có đề cập tới vấn đề tên
miền (VECITA, 2011), chưa hề phân tích các khía cạnh của quyền SHTT trong
TMĐT. Báo cáo về bảo vệ và thực thi QTG tại Việt Nam của của Liên minh quốc
tế về SHTT, Hoa Kỳ (IIPA, 2010-2016) có lẽ là một trong số những báo cáo ít ỏi
đánh giá về thực thi QTG trên internet tại Việt Nam. Tuy nhiên, báo cáo mới dừng
ở mức phân tích các vụ việc bề mặt, không có các số liệu thống kê tổng hợp đầy đủ.
Theo nghiên cứu của tác giả, dựa trên cơ sở dữ liệu luận án tại thư viện
quốc gia, đã có nhiều luận án phân tích quyền SHTT từ góc độ thương mại và
nghiên cứu về TMĐT. Phân tích về quyền SHTT từ góc độc thương mại có công
trình của Hồ Thúy Ngọc (2009) tập trung vào vấn đề xây dựng hệ thống bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam phù hợp với Hiệp định TRIPS; công trình của Lê
Thị Thu Hà (2010) nghiên cứu về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp dưới góc độ



11
thương mại đối với chỉ dẫn địa lý của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế,… Tập trung vào TMĐT, Lê Linh Lương (2003) nghiên cứu ứng dụng
TMĐT trong các doanh nghiệp tại Việt Nam hay Đào Anh Tuấn (2013) nghiên cứu
về quản lý nhà nước về TMĐT. Mặc dù có đề cập tới vai trò của việc xây dựng một
hệ thống SHTT toàn diện như một cơ sở pháp lý quan trọng trong việc phát triển
TMĐT nhưng các công trình này không phân tích cơ sở hay đề xuất hướng thực
hiện hoặc hướng nghiên cứu thêm cho vấn đề này. Như vậy, có thể thấy rằng chưa
có luận án tiến sỹ nào tại Việt Nam phân tích tổng quan về quyền SHTT trong môi
trường internet hay TMĐT, cũng chưa có luận án nào đi sâu phân tích một lĩnh vực
của quyền SHTT trong môi trường này.
Từ việc đánh giá tình hình nghiên cứu trên, có thể khẳng định, việc lựa
chọn đề tài “Quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử” để nghiên cứu là cần
thiết và đề tài này không trùng lặp với bất kỳ công trình nghiên cứu nào đã thực
hiện trước đó. Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện về
lý luận và thực tiễn về vấn đề này ở Việt Nam dưới cấp độ luận án tiến sỹ chuyên
ngành kinh tế quốc tế.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.

Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của luận án là làm rõ cơ sở khoa học về quyền SHTT
và những vấn đề đặt ra đối với quyền SHTT trong TMĐT, phân tích và đánh giá
kinh nghiệm điều chỉnh các vấn đề liên quan đến quyền SHTT trong các hoạt động
cụ thể trong TMĐT dựa trên khung lý thuyết về kinh tế, từ đó đưa ra những gợi ý
chính sách đối với các cơ quan quản lý nhà nước của Việt Nam nhằm hoàn thiện

các quy định liên quan đến quyền SHTT trong TMĐT theo hướng tạo ra một hành
lang pháp lý rõ ràng, có khả năng dự báo và “cân bằng” lợi ích giữa các bên liên
quan cũng như các kiến nghị đối với các chủ thể kinh doanh TMĐT nhằm quản lý
hiệu quả các vấn đề liên quan đến quyền SHTT trong hoạt động TMĐT.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục tiêu nêu trên, nhiệm vụ cụ thể của luận án sẽ là:
Làm rõ cơ sở khoa học (chủ yếu từ góc độ kinh tế học) của việc bảo
hộ quyền SHTT đối với hai nhóm đối tượng chính là thành quả sáng tạo và chỉ dẫn
thương mại;
Hệ thống hóa những vấn đề liên quan đến quyền SHTT trong các hoạt
động TMĐT cơ bản gắn với các website TMĐT;
Phân tích thực tiễn phát triển các phương thức giải quyết những vấn
đề liên quan đến quyền SHTT trong các hoạt động TMĐT cơ bản ở cấp độ toàn cầu,


12
khu vực và quốc gia (với trọng tâm là EU, Hoa Kỳ và Việt Nam) để từ đó chỉ ra ý
nghĩa kinh tế đối với TMĐT của các phương thức được áp dụng;
Đưa ra các gợi ý chính sách đối với các cơ quan quản lý nhà nước của
Việt Nam nhằm hoàn thiện các quy định liên quan đến quyền SHTT trong TMĐT
theo hướng tạo ra một hành lang pháp lý rõ ràng, có khả năng dự báo, một mặt vừa
phải bảo vệ được quyền lợi hợp pháp và khuyến khích đối với chủ sở hữu, người tạo
ra sản phẩm trí tuệ; mặt khác phải bảo đảm việc bảo vệ đó không ngăn cản sự phát
triển của TMĐT; và
Đưa ra các kiến nghị đối với các chủ thể kinh doanh TMĐT và dịch
vụ TMĐT tại Việt Nam nhằm quản lý hiệu quả các vấn đề liên quan đến quyền
SHTT trong hoạt động TMĐT.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan

tới quyền SHTT trong TMĐT. Luận án tập trung vào hai hình thức cơ bản của
quyền SHTT là quyền tác giả và quyền đối với nhãn hiệu trên nền các hoạt động
TMĐT với hai mô hình khái quát hóa là website TMĐT bán hàng và website cung
cấp dịch vụ cho TMĐT.
-

Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung:

Các nghiên cứu về SHTT trong TMĐT xác định và tập trung phân tích ba đối
tượng chủ yếu của SHTT là quyền đối với sáng chế, quyền tác giả và nhãn hiệu.
Tuy nhiên, luận án chỉ giới hạn các nghiên cứu ở hai lĩnh vực cơ bản của quyền
SHTT là QTG và nhãn hiệu, là hai đối tượng có liên quan trực tiếp và phản ánh rõ
nhất các vấn đề về SHTT đặc trưng nảy sinh trong môi trường TMĐT. Đây cũng là
hai đại diện của hai nhánh cơ bản của quyền SHTT là các quyền đối với các đối
tượng sáng tạo và quyền đối với các chỉ dẫn thương mại với các đặc điểm kinh tế
hoàn toàn khác biệt. Về các vấn đề đặt ra với quyền SHTT trong TMĐT, luận án
cũng chỉ tập trung phân tích những vấn đề riêng có được quyết định bởi những đặc
điểm kỹ thuật, kinh tế và pháp lý đặc thù của TMĐT và không đi sâu phân tích các
vấn đề SHTT đã được tiếp cận và giải quyết trong thương mại truyền thống.
+ Về không gian:
Thực tiễn xây dựng và áp dụng phương thức, cách thức giải quyết các vấn đề
liên quan đến QTG và nhãn hiệu trong TMĐT, thể hiện ở các quy định luật pháp,
các sáng kiến điều chỉnh các vấn đề này và các án lệ, được nghiên cứu trên góc độ
toàn cầu (trong khuôn khổ của WTO, WIPO và ICANN), tại EU, Hoa Kỳ, và tại
Việt Nam. EU và Hoa Kỳ được lựa chọn nghiên cứu vì khu vực và quốc gia này
đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập khung khổ pháp lý điều chỉnh quyền


13

SHTT (IPR rule-setting) đồng thời rất tích cực trong việc “quốc tế hoá” hay “hài
hoà hoá” các quy định về quyền SHTT thông qua các thoả thuận song phương và đa
phương. Đặc biệt, các quy định pháp lý của Hoa Kỳ và EU mang tính đại diện cao
và thường thể hiện cách tiếp cận mới hoặc khác biệt cho các vấn đề mới. Việc
nghiên cứu các quy định của EU và Hoa Kỳ sẽ giúp Việt Nam đón bắt được các xu
hướng mới trong việc điều chỉnh các vấn đề liên quan đến quyền SHTT trong bối
cảnh hoạt động TMĐT có sự phát triển và thay đổi nhanh chóng.
+ Phạm vi về thời gian:
Đối với kinh nghiệm thế giới, giai đoạn nghiên cứu bắt đầu từ giữa thập kỷ
1990 với sự bùng nổ của TMĐT. Tại Việt Nam, giai đoạn nghiên cứu bắt đầu từ
năm 2005 khi luật SHTT được ban hành. Các giải pháp đề xuất nhằm hướng tới
việc thực hiện chiến lược phát triển TMĐT giai đoạn 2016-2020.

5. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
5.1.

Cơ sở lý thuyết

Trên góc độ kinh tế học, hệ thống quyền SHTT đối với các sáng tạo (quyền
tác giả, bằng độc quyền sáng chế) được coi như một giải pháp giúp giải quyết vấn
đề trọng tâm nảy sinh từ đặc điểm hàng hóa công cộng của SHTT (thông tin/tri
thức) đó là vừa khuyến khích sáng tạo vừa mở rộng khả năng tiếp cận thông tin để
đảm bảo lợi ích xã hội. Bản chất của giải pháp quyền SHTT là tạo ra khả năng kiểm
soát theo luật định đối với việc phổ biến thông tin và sử dụng các dấu hiệu thông
qua việc cấp các độc quyền pháp lý có giới hạn. Tạo ra các động lực từ các độc
quyền pháp lý đối với SHTT, hệ thống quyền SHTT giúp khu vực tư nhân sáng tạo
và cung cấp thông tin có giá trị. Về nguyên tắc, xã hội sẽ chỉ hỗ trợ vừa đủ để
khuyến khích việc đưa ra các sáng tạo mà thặng dư của người tiêu dùng sau khi có
độc quyền lớn hơn so với chi phí R&D. Tuy nhiên, không thể xác định chính xác
điểm cân bằng của hệ thống này do sự đánh đổi giữa thặng dư của nhà sản xuất và

người tiêu dùng. Hay nói cách khác, hệ thống quyền SHTT đối với các đối tượng
sáng tạo luôn đi kèm với sự đánh đổi lợi ích, chúng vì thế chỉ là giải pháp tốt thứ
nhì đối với những bóp méo của thị trường. (Landes và Posner 1989, Posner 2002).
Trong khi đó, các quyền SHTT liên quan đến các chỉ dẫn thương mại như nhãn hiệu
được phát triển với tư cách một giải pháp cho thất bại thị trường do thông tin bất
cân xứng, vì thế có thể đồng tồn tại cũng cạnh tranh lành mạnh (Akerlof 1970,
WIPO 2013). Áp dụng các lý thuyết này trong môi trường TMĐT, tác giả cũng sử
dụng cách tiếp cận “trung dung” được ủng hộ bởi một lượng lớn các học giả cho
rằng trong môi trường kỹ thuật số, gắn với các hoạt động kinh doanh thương mại
trực tuyến, bản chất và các nguyên lý của hệ thống SHTT vẫn không thay đổi nhưng
cần có những điều chỉnh hợp lý để hệ thống này tận dụng được những cơ hội và đối


14
phó được những thách thức mới mà công nghệ đem lại và các điều chỉnh này phải
phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của từng quốc gia.
Chính trên cơ sở này, tác giả hướng tới tìm ra những luận điểm làm nền
tảng cho những điều chỉnh cần thiết hệ thống quyền SHTT nhằm thực hiện mục tiêu
cuối cùng của nó là “tạo động lực cho các nỗ lực sáng tạo trí tuệ khác nhau thông
qua việc dành sự thừa nhận chính thức đối với các nhà sáng tạo, tạo nguồn cung
cấp thông tin quan trọng cho xã hội và tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển
nền công nghiệp và văn hóa nội địa cũng như thương mại quốc tế” (Blakeney,
2007, tr.10).
5.2.

Phương pháp nghiên cứu

Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu nêu trên, luận án sử dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu khác nhau như phân tích, tổng hợp, diễn giải, quy nạp, phương
pháp so sánh luật học, phương pháp quan sát, khảo sát. Luận án cũng sử dụng thống

nhất phương pháp nghiên cứu tình huống với việc lựa chọn các sự kiện dựa trên
thực tế hoặc được xây dựng từ các sự kiện có khả năng xảy ra gắn với các hoạt động
TMĐT, trên cơ sở đó đề cập tới những vấn đề liên quan đến quyền SHTT cần giải
quyết và phân tích các hướng giải quyết đối với từng vấn đề.
Việc phân tích các vấn đề SHTT trong TMĐT là một nghiên cứu mới, khá
phức tạp, vừa mang tính pháp lý, vừa mang tính kỹ thuật và kinh tế, hơn nữa, việc
thu thập thông tin gặp rất nhiều khó khăn do vậy, việc xây dựng các mô hình kinh tế
lượng ít có tính khả thi trong thực tiễn. Việc phân tích số liệu chủ yếu dựa trên các
phân tích thông tin mang tính chất định tính thu thập qua các nguồn thông tin thứ
cấp. Để có bức tranh chính xác hơn về việc tiếp cận và quản lý các vấn đề liên quan
đến quyền SHTT trong TMĐT ở cấp độ doanh nghiệp tại Việt Nam, phương pháp
quan sát và tự khảo sát được thực hiện để tiếp cận và thu thập thông tin trên các
website TMĐT (phương thức tiến hành, phạm vi khảo sát và kết quả được thể hiện
qua Phụ lục 4). Các phương pháp nghiên cứu được thực hiện trên nền tảng phương
pháp tư duy biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lê nin.
6. Những đóng góp mới của luận án
Là công trình nghiên cứu đầu tiên một cách hệ thống, toàn diện và sâu sắc
các vấn đề liên quan đến quyền SHTT trong TMĐT tại Việt Nam, luận án có những
đóng góp sau:
-

Hệ thống hóa, phân tích và hoàn thiện thêm cơ sở lý luận về các vấn đề liên
quan đến quyền SHTT trong TMĐT:


15
(+) Làm rõ cơ sở kinh tế học của việc bảo hộ quyền SHTT đối với hai nhóm đối
tượng chính là thành quả sáng tạo và chỉ dẫn thương mại với đại diện là
quyền tác giả và nhãn hiệu;
(+) Xác định những vấn đề cơ bản liên quan đến quyền tác giả và nhãn hiệu gắn

với các giai đoạn hoạt động cơ bản của TMĐT bao gồm: (i) tạo lập website
TMĐT; (ii) quảng bá website TMĐT; (iii) cung cấp và phân phối hàng hóa,
dịch vụ qua website TMĐT; và (iv) cung cấp môi trường cho hoạt động
TMĐT.
-

Phân tích, đánh giá kinh nghiệm thế giới trong việc xây dựng phương thức,
cách thức giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền SHTT trong các hoạt
động TMĐT, từ đó rút ra các kết luận về ý nghĩa kinh tế của chúng trên cơ sở
áp dụng các lý thuyết kinh tế, các đánh giá độc lập của chuyên gia và kết
luận của các nghiên cứu thực nghiệm đã được công bố.

-

Trên cơ sở xác định những vấn đề đặt ra đối với quyền SHTT trong TMĐT
và phân tích thực trạng giải quyết các vấn đề này tại Việt Nam, luận án đã
đưa ra các khuyến nghị nhằm giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền
SHTT theo hướng thúc đẩy sự phát triển của TMĐT tại Việt Nam với hai
nhóm đối tượng cơ bản là các cơ quan quản lý nhà nước, chủ sở hữu các
website bán hàng và cung cấp môi trường cho hoạt động TMĐT. Các khuyến
nghị trong luận án đều dựa trên cơ sở giải quyết các nguyên nhân của hạn
chế trong phát triển hiện tại, phát huy những kết quả đạt được, tiếp thu những
bài học kinh nghiệm của các nước trên thế giới, kết hợp với quan điểm của
Việt Nam về bảo hộ SHTT và phát triển TMĐT.
7. Bố cục của luận án
Ngoài lời mở đầu và kết luận, danh mục bảng biểu, tài liệu tham khảo, phụ
lục, luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại
điện tử
Chương 2: Thực tiễn quốc tế trong giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền

sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử
Chương 3: Một số khuyến nghị nhằm điều chỉnh phương thức giải quyết các
vấn đề liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử tại Việt Nam.


×