Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.57 KB, 15 trang )

i

Chương 1
SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO HIỆU QUẢ
XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về thương mại quốc tế và xuất khẩu
1.1.1. Khái niệm thương mại quốc tế và xuất khẩu
Thương mại quốc tế: Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hoá,
dịch vụ giữa các nước thông qua buôn bán nhằm mục đích kinh tế và lợi
nhuận. Trao đổi hàng hoá, dịch vụ là một hình thức của các mối quan hệ kinh
tế xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ riêng biệt của các quốc gia.
Xuất khẩu: Xuất khẩu nói một cách đơn giản nhất là việc bán một sản
phẩm hay một dịch vụ ra thị trường nước ngoài để thu ngoại tệ, xuất khẩu
thuần tuý là một chức năng của hoạt động thương mại.
1.1.2. Một số lý thuyết cơ bản về thương mại quốc tế
Nêu một số lý thuyết cơ bản về thương mại quốc tế, bao gồm: Thuyết
trọng thương, Thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith, Quy luật lợi thế so
sánh của David Ricardo, Lý thuyết chi phí cơ hội của Haberler, Lý thuyết
hiện đại về thương mại quốc tế của Heckscher-Ohlin.
1.2. Vai trò của xuất khẩu gạo đối với kinh tế Việt Nam
Thứ nhất: Tích lũy vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Trước đòi hỏi về vốn cho công nghiệp hoá đất nước, lúa gạo nước ta hiện
nay vẫn giữ vị trí cao trong các mặt hàng xuất khẩu. Hiện nay, kim ngạch xuất
khẩu gạo hàng năm vẫn chiếm tỷ trọng trung bình khoảng 3-4% tổng kim ngạch
xuất khẩu của cả nước. Điều đó nói rõ sự cần thiết của việc xuất khẩu gạo đối
với công cuộc đổi mới kinh tế đất nước.
Thứ hai: Cải thiện đời sống dân cư nông thôn, thực hiện CNH. HĐH
nông nghiệp, nông thôn. Phát triển sản xuất và xuất khẩu gạo là thực sự cần
thiết để nâng cao thu nhập cho trên 70% dân số nông thôn nước ta, nhất là vùng
xuất khẩu gạo.


Thứ ba: Phát huy được lợi thế trong nước.Sản xuất và xuất khẩu gạo
của Việt Nam có những lợi thế cơ bản về đất đai, về khí hậu, nước tưới tiêu,
nguồn nhân lực, vị trí địa lý và cảng khẩu. Một chiến lược đúng đắn nhất phải
là chiến lược khai thác được nhiều nhất những lợi thế trong nước. Từ việc
nhìn nhận đó chúng ta thấy rõ hơn sự cần thiết của xuất khẩu gạo cũng như


ii
tính đúng đắn của định hướng xuất khẩu gạo.
Thứ tư: Tranh thủ cơ hội của thị trường thế giới. Theo thuyết lợi thế
trong thương mại quốc tế, các nước đều có lợi khi tham gia vào thương mại
quốc tế, khi biết tận dụng những ưu thế của phân công lao động quốc tế.
Bên cạnh đó, xuất khẩu gạo tranh thủ cơ hội của xu thế thương mại hoá và
hội nhập hiện nay.
1.3. Hiệu quả xuất khẩu gạo và các tiêu chí đánh giá.
1.3.1. Hiệu quả xuất khẩu gạo
Hiệu quả xuất khẩu gạo trước hết phải được hiểu là hiệu quả kinh tế. Đó
chính là hiệu quả mang lại nhờ xuất khẩu 1 đơn vị sản lượng gạo (tấn) so với
chi phí sử dụng 1 đơn vị nguồn lực: đất đai, lao động, tiền vốn và các chi phí
khác. Hiệu quả kinh tế của xuất khẩu gạo phải cho phép phát huy được lợi thế
về nguồn lực, trước hết là đất đai, điêu kiện tự nhiên, khí hậu của đất nước.
Hiệu quả xuất khẩu gạo xét về khía cạnh xã hội đó là việc tạo điều kiện
nâng cao thu nhập, ổn định đời sống cho một bộ phận đa số dân cư nông thôn,
tạo thêm nhiều việc làm, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
nông thôn, làm thay đổi bộ mặt nông thôn theo hướng CNH. HĐH nông nghiệp,
nông thôn, xoá đói giảm nghèo và tiến tới cuộc sống khá giả, văn minh, giảm
khoảng cách giàu nghèo, bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên…
Hiệu quả kinh tế – xã hội chính là hiệu quả tổng hợp của xuất khẩu gạo,
đó là hiệu quả trong việc tác động qua lại một cách hài hoà giữa lợi ích kinh
tế và lợi ích xã hội và môi trường.

1.3.2. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả xuất khẩu gạo.
Thứ nhất: Các chỉ tiêu định tính.
Căn cứ vào tác dụng của hoạt động xuất khẩu gạo đối với tình hình tăng
trưởng kinh tế nói chung, có thể đưa ra các chỉ tiêu định tính cơ bản để đánh
giá về mặt hiệu quả kinh tế – xã hội của hoạt động này:
+ Trước hết, hoạt động xuất khẩu gạo phải bảo đảm phát huy tốt lợi thế
so sánh để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm gạo xuất khẩu một cách mạnh
mẽ trên thị trường thế giới.
+ Hoạt động xuất khẩu gạo, trên cơ sở nắm chắc nhu cầu và thị hiếu hết
sức đa dạng phong phú của thị trường quốc tế, phải bảo đảm tốt chức năng
hướng dẫn sản xuất lúa gạo nội địa.
+ Quan trọng hơn cả là hoạt động xuất khẩu gạo phải bảo đảm tốt chức
năng kích thích sản xuất trên căn bản ổn định được đầu ra, tiêu thụ lúa hàng
hoá kịp thời vụ với giá cả hợp lý, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận cao cho nông dân


iii
để kích thích họ duy trì tốt nhịp độ phát triển sản xuất lúa gạo trong nước, tạo
việc làm ổn định cho đại bộ phận lao động ở khu vực nông thôn. Đồng thời,
thông qua đó sẽ giải quyết được một vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng là
đảm bảo nguồn cung cấp lương thực dồi dào để có thể giữ vững an ninh lương
thực quốc gia thường xuyên.
Thứ hai: Các chỉ tiêu định lượng
+ Mức tăng thu nhập ngoại tệ (thường tính trong một năm). Đây là chỉ
tiêu hiệu quả tổng hợp của hoạt động xuất khẩu gạo có được do tăng giá gạo
xuất khẩu, kể cả yếu tố tăng giá do tăng tỷ lệ xuất khẩu theo điều kiện CIF và
C&F, giảm tương ứng tỷ lệ xuất khẩu theo điều kiện FOB. Đồng thời, nó bao
gồm luôn hiệu quả tăng thêm do chênh lệch giá gạo xuất khẩu cao hơn giá
tiêu thụ nội địa. Công thức tính như sau:
TTNNT = SGXK x (G1 – G0)

Trong đó:
TTNNT: Mức tăng thu nhập ngoại tệ của hoạt động xuất khẩu gạo
SGXK: Tổng sản lượng gạo xuất khẩu cả năm.
G1: Đơn giá gạo xuất khẩu bình quân năm báo cáo
G0: Đơn giá gạo xuất khẩu bình quân năm trước
+ Hiệu quả tăng thêm do chênh lệch giá gạo xuất khẩu cao hơn giá tiêu
thụ nội địa (tính một năm), thể hiện mức phát huy lợi thế so sánh của sản
phẩm gạo xuất khẩu, tăng hiệu quả cho nền kinh tế quốc dân. Công thức tính
như sau:
HTT = SGXK x (GXK - GNĐ)
Trong đó:
HTT: Hiệu quả tăng thêm do chênh lệch giá
SGXK: Tổng sản lượng gạo xuất khẩu cả năm
GXK: Đơn giá gạo xuất khẩu bình quân cả năm (qui ra VNĐ)
GNĐ: Đơn giá bán buôn thương nghiệp gạo nội địa bình quân cả năm.
+ Thu nhập ngoại tệ thuần (tính một năm), cho thấy mức đóng góp của
hoạt động xuất khẩu gạo trên phương diện tích lũy ngoại tệ mạnh đáp ứng nhu
cầu đầu tư của quá trình công nghiệp hoá. Công thức tính như sau:
TNNTT = KNXKG – CPNT


iv
Trong đó:
TNNTT: Thu nhập ngoại tệ thuần của hoạt động xuất khẩu gạo
KNXKG: Tổng kim ngạch xuất khẩu gạo cả năm
CPNT: Tổng chi phí có gốc ngoại tệ trong tất cả các khâu sản
xuất, chế biến và cung ứng gạo xuất khẩu (tương ứng trên sản lượng gạo xuất
khẩu cùng năm).
+ Mức tăng thu nhập của nông dân sản xuất lúa (tính một năm), nói lên
mức độ điều tiết thu nhập quốc dân từ hoạt động xuất khẩu gạo để kích thích

sản xuất lúa trong nước. Công thức tính như sau:
TTNND = SLHH x TGLXK
Trong đó:
TTNND: Mức tăng thu nhập của nông dân sản xuất lúa
SLHH: Sản lượng lúa hàng hoá cả năm
TGLXK: Mức tăng đơn giá lúa bình quân cả năm do tác động của
yếu tố tăng giá gạo xuất khẩu.
1.4. Những yêu cầu đặt ra trong xuất khẩu nông sản khi Việt Nam
trở thành thành viên của WTO.
1.4.1. Thời cơ:
Sau khi gia nhập WTO và cam kết PNTR thị trường xuất khẩu nông sản
nói chung và thị trường xuất khẩu gạo nói riêng của Việt Nam sẽ được mở rộng.
Gạo Việt Nam được tự do xâm nhập các thị trường 149 nước thành viên WTO
với tư cách bình đẳng mà không phải chịu những hạn chế về số lượng, không
phải nhờ qua nước trung gian.
1.4.2. Một số yêu cầu đặt ra.
+ Sản xuất nông nghiệp vẫn còn nhiều yếu thế và bất cập. Đó là : sản phẩm
nông nghiệp Việt Nam hiện nay sản xuất ra chủ yếu để tiêu dùng cho người sản
xuất, sản phẩm hàng hoá chiếm tỷ trọng không lớn ; Thứ hai : sản xuất lúa chưa
gắn chặt với thị trường, nhất là thị trường thế giới trong bối cảnh hội nhập
+ Thách thức đối với nông sản Việt Nam khi gia nhập WTO. Đó là, khi gia
nhập WTO, thuế suất nhập khẩu nông sản sẽ giảm dần theo lộ trình và hàng
nông sản các nước với chất lượng cao hơn, giá cả cạnh tranh … sẽ tràn ngập.
Bảo hộ của Nhà nước đối với sản xuất nông nghiệp sẽ giảm dần.


v

Chương 2
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ XUẤT KHẨU GẠO

CỦA VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
2.1. Khái quát chung về kết quả xuất khẩu gạo của Việt Nam thời
gian qua.
2.1.1. Thực trạng sản xuất lúa gạo Việt Nam thời gian qua.
2.1.1.1. Tình hình sản xuất lúa gạo.
Kể từ khi thực hiện đổi mới (1986), sản xuất lúa ở Việt Nam đã tăng
trưởng liên tục cả về diện tích, năng suất và sản lượng. Bảng số 01 cho thấy
các số liệu cụ thể về diện tích, năng suất và sản lượng lúa qua các năm.
Bảng 01: Tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam giai đoạn 2000 - 2006
Năm

Diện tích lúa cả năm
1000 ha

% tăng

Năng suất
Tạ/ ha

% tăng

42,4

Sản lượng
1000 tấn

% tăng

2000


7.666,3

32.529,5

2001

7.492,7

97,7

42,9

101,2

32.108,4

98,7

2002

7.504,3

100,2

45,9

107,0

34.447,2


107,3

2003

7.452,2

99,3

46,4

101,1

34.568,8

100,4

2004

7.445,3

99,9

48,6

104,6

36.148,9

104,6


2005

7.329,2

98,4

48,9

100,7

35.832,9

99,1

2006

7.324,8

99,9

48,9

100,1

35.849,5

100,0

Nguồn: Niên giám Tổng cục Thống kê
2.1.1.2. Các yếu tố chi phối sản xuất lúa gạo Việt Nam thời gian qua

a/ Ruộng đất và quyền sử dụng đất:
Với chính sách đổi mới, chuyển từ kinh tế hợp tác sang kinh tế hộ, người
nông dân được trao quyền sử dụng đất nông nghiệp theo phương thức phân
chia bình quân theo số nhân khẩu của hộ gia đình nông dân.
Cùng với chính sách phân chia ruộng đất, người nông dân được giao
quyền sử dụng đất. Thị trường đất đai ở Việt Nam cũng đã bắt đầu hình thành
cung với các qui định về quyền sử dụng, quyền chuyển nhượng, quyền mua,
bán và cho thuê quyền sử dụng đất.


vi
b/ Tiếp cận các yếu tố đầu vào sản xuất và chi phí sản xuất
Để đạt được mức tăng trưởng cao về năng suất và sản lượng lúa, với tác
động của chính sách giao quyền sử dụng đất, các hộ nông dân bên cạnh việc
tăng hệ số sử dụng đất, mua sắm công cụ sản xuất, họ còn quan tâm nhiều hơn
đến việc sử dụng các yếu tố đầu vào để tăng độ màu mỡ của đất, cơ khí hoá
các công việc sản xuất và tăng cường huy động lao động trong gia đình tham
gia vào sản xuất.
c/ Tiếp cận thị trường và thông tin:
Trong quá trình đổi mới, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền
kinh tế thị trường, một trong những lĩnh vực đổi mới quan trọng nhất là vấn
đề kiểm soát giá cả. Nhà nước không còn thực hiện chế độ qui định giá đối
với các sản phẩm nông nghiệp nói chung và giá lúa nói riêng. Giá cả bước
đầu đã được định đoạt theo cơ chế thị trường. Do đó, chính sách giá cả đã có
tác dụng khuyến khích người nông dân tăng sản lượng cung ứng ra thị trường.
2.1.1.3. Đánh giá chung về lợi thế so sánh trong sản xuất lúa của Việt Nam
Trong sản xuất lúa, nhìn chung, ngoài hạn chế trong việc tiếp cận thông
tin và tiếp cận tín dụng của các hộ nông dân, Việt Nam là nước có lợi thế so
sánh khá lớn. Hiện nay, người nông dân Việt Nam có mức chi phí sản xuất
thuộc loại thấp nhất thế giới.

2.1.2. Thị trường lúa, gạo Việt Nam
+ Sản xuất và cung ứng lúa, gạo
Tham gia vào sản xuất lúa ở Việt Nam có tới 70% số hộ cả nước, hay
84% số hộ ở khu vực nông thôn. Tuy nhiên, do đặc điểm của sản xuất phân bố
rộng, qui mô nhỏ và yêu cầu đảm bảo tiêu dùng lương thực trong các hộ gia
đình, nên tỷ lệ số hộ có bán lúa chỉ chiếm khoảng 60%.
+ Tiêu dùng và mua lúa gạo.
Gạo là sản phẩm lương thực được tiêu dùng chủ yếu trong các hộ gia
đình ở Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 98% số hộ gia đình ở khu vực


vii
thành thị và 75% số hộ gia đình ở khu vực nông thôn phải mua gạo trên thị
trường. Trong khu vực nông thôn, thì Đồng bằng sông Cửu Long có tỷ lệ số
hộ mua gạo cao nhất, chiếm khoảng 89%.
+ Hệ thống marketing lúa, gạo ở Việt Nam
Những đối tượng chính tham gia vào hệ thống marketing lúa gạo ở Việt
Nam là người nông dân, nhà buôn, nhà xay xát, và các DNNN. Những mối
liên kết giữa các đối tượng này được mô tả theo các kênh phân phối. Mỗi đối
tượng trong kênh phân phối có thể thực hiện một hay nhiều nhiệm vụ, như:
cất trữ, vận chuyển, chế biến (xay xát), phân phối, xuất khẩu,…
2.1.3. Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam.
2.1.3.1. Tình hình xuất khẩu.
Cùng với sự gia tăng nhanh về sản lượng lúa, Việt Nam từ một nước
nhập khẩu lương thực ròng trở thành nước xuất khẩu ròng về gạo. Từ 1989
đến nay, gần 20 năm liên tục, Việt Nam được xem là một thế lực chủ yếu trên
thị trường gạo thế giới với số lượng và chất lượng ngày càng tăng. Trong
những năm gần đây xuất khẩu gạo của Việt Nam liên tục tăng cả về lượng và
giá gạo xuất khẩu. Năm 2006, Việt Nam đã xuất khẩu 4,6 triệu tấn gạo, với
giá trị xuất khẩu đạt 1,276 tỷ USD, so với năm 2000, lượng gạo xuất khẩu

tăng gấp 1,33 lần, giá xuất khẩu bình quân tăng 1,43 lần và giá trị tăng gấp
2,05 lần.
Bảng 02: Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam 2000 – 2006
Sản lượng gạo

Kim ngạch xuất khẩu

Giá bình quân 1 tấn

(1000 tấn)

(Triệu USD)

(USD)

2000
2001
2002
2003

3476,7
3720,7
3236,2
3810,4

621,4
623,5
726,3
719.9


192
165
224
189

2004
2005
2006

4063,1
5254,8
4641,8

950,3
1408,4
1275,9

234
268
275

Nguồn: Niên giám Tổng cục Thống kê


viii
Bên cạnh sự tăng trưởng về khối lượng gạo xuất khẩu, chất lượng gạo
xuất khẩu của Việt Nam cũng ngày càng được nâng cao cả về chất lượng gạo
và chất lượng chế biến (phân theo tỷ lệ tấm).
2.1.3.2. Cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam
Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam ngày càng được mở rộng. Các

thị trường nhập khẩu với lượng lớn và ổn định là Philippine, Inđônêsia,
Malaysia. Các nước Singapore, Thuỵ Sỹ, Hà Lan và Mỹ nhập khẩu gạo nước
ta chủ yếu là để tái xuất.
Biểu đồ 01: Thị trường gạo xuất khẩu Việt Nam năm 2006 (%)

N¬i kh¸ c
11,7%
Ch©u Phi
21,5%
Ch©u ©u
3,3%

Ch©u ¸
63,5%

2.1.4. Thị trường gạo thế giới và các nước nhập khẩu gạo của Việt Nam.
+ Thị trường gạo thế giới. Gạo là một trong những mặt hàng thiết yếu, ít
phụ thuộc vào thu nhập của các hộ gia đình. Do đó, khối lượng gạo tiêu thụ
không thay đổi nhiều trong những năm gần đây. Lượng gạo tiêu thụ chỉ tăng ở
một số nước đang phát triển hoặc kém phát triển do tăng dân số và mức tiêu
dùng gạo trước đó còn thiếu.
+ Một số nước nhập khẩu gạo lớn của Việt Nam, bao gồm: Inđônêsia,
Philippine, Malaysia, Singapore, Iran, Cuba, Châu Phi, Châu Âu.
2.1.5. Các yếu tố tác động vào thực tiễn xuất khẩu gạo của Việt Nam
Thứ nhất: Chính sách an ninh lương thực và chính sách xuất khẩu gạo.
Trong thời kỳ đầu của quá trình đổi mới, chính sách đảm bảo an ninh lương
thực là hết sức quan trọng. Sản xuất lúa của Việt Nam trước hết phải đảm bảo
đáp ứng đủ cho tiêu dùng trong nước. Sau đó, cùng với sự gia tăng sản lượng



ix
lúa và yêu cầu đảm bảo cân bằng cán cân thương mại, xuất khẩu gạo bắt đầu
được quan tâm. Tuy nhiên, trong thực tế việc tăng trưởng xuất khẩu gạo của Việt
Nam hầu như đã không gây ảnh hưởng lớn đến chính sách an ninh lương thực,
do đó, các qui định về xuất khẩu gạo ở Việt Nam cũng được nới lỏng dần.
Thứ hai: Chất lượng gạo xuất khẩu. Chất lượng gạo xuất khẩu của Việt
Nam đã được cải thiện tương đối ấn tượng trong hơn một thập kỷ qua. Tuy
nhiên, nhìn chung chất lượng gạo xuất khẩu vẫn còn ở mức thấp nên ảnh
hưởng lớn tới giá bán và thị trường trong xuất khẩu.
Thứ ba: Yếu tố mùa vụ trong xuất khẩu gạo của Việt Nam. Do tính mùa
vụ của sản xuất lúa, nên xuất khẩu gạo cũng mang đậm tính mùa vụ. Tuy
nhiên, trên thị trường thế giới, chu kỳ mùa vụ của Việt Nam lại không phù
hợp. Điều này có nghĩa là, để có thể xuất khẩu gạo vào những thời điểm nhu
cầu nhập khẩu gạo trên thị trường tăng cao, Việt Nam cần tăng thời gian lưu
kho và dự trữ gạo xuất khẩu.
Thứ tư: Giá cả (giá trong nước và giá xuất khẩu). Chênh lệch giữa giá
gạo trong nước và giá giao tại cảng khá lớn do chi phí dịch vụ xuất khẩu gạo của
Việt Nam cao. Điều đó xuất phát từ sự yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng, vận
tải, bốc dỡ. Mặt khác, tổn thất sau thu hoạch ở nước ta vẫn còn khá cao.
Thứ năm: Bao gói, quy cách, mẫu mã sản phẩm xuất khẩu. Ngoài các yếu
tố được nêu trên thì bao bì xuất khẩu Việt Nam cũng chưa đảm bảo yêu cầu.
Thứ sáu: Tiếp cận tín dụng xuất khẩu. Những hạn chế trong việc tiếp cận
tín dụng của các doanh nghiệp xuất khẩu ở Việt Nam hiện nay được xem như
một trở ngại quan trọng nhất trong việc tăng trưởng xuất khẩu của các nhà
xuất khẩu chủ yếu.
Thứ bảy: Kiểm tra chất lượng trước khi xuất khẩu. Cơ quan kiểm tra
chất lượng hàng xuất khẩu (đối với các sản phẩm nông nghiệp và phi nông
nghiệp) quan trọng nhất ở Việt Nam hiện nay là VINACONTROL.
Theo ý kiến của VINACONTROL, những vấn đề chủ yếu liên quan đến
chất lượng gạo xuất khẩu là điều kiện nghèo nàn của thiết bị trong kho dẫn

đến tình trạng ẩm ướt vào mùa mưa và sự phân bố các kho hàng quá phân tán
trong khi qui mô kho lại quá nhỏ.


x
Thứ tám: Vận chuyển tàu biển. Vận chuyển gạo xuất khẩu là dịch vụ đắt
đỏ ở Việt Nam do thiết bị cảng lạc hậu, năng lực bốc xếp thấp, lệ phí cảng cao
và năng lực vận tải biển thấp,…
Thứ chín: Hoạt động tiếp cận thị trường. Phần lớn quan hệ giao dịch
buôn bán gạo thường được bắt đầu từ người mua nước ngoài hoặc là trực tiếp,
hoặc là thông qua cơ quan Chính phủ.
2.2. Thực trạng hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam thời gian qua.
Theo các tiêu chí đánh giá hiệu quả xuất khẩu gạo, xét về hiệu quả kinh
tế – xã hội, có thể thấy rằng thời gian qua hoạt động xuất khẩu gạo đã có
những đóng góp rất quan trọng vào công cuộc phát triển chung của nền kinh
tế và góp phần đẩy nhanh tiến trình hoà nhập của Việt Nam với thị trường thế
giới bằng hình ảnh một cường quốc xuất khẩu gạo, đánh dấu bước khởi đầu
thành công của chiến lược kinh tế mở. Bên cạnh đó, hoạt động này cũng đã
tạo ra động lực mới có sức kích thích mạnh mẽ, thúc đẩy sản xuất lúa gạo
phát triển nhanh chóng, góp phần nâng cao tầm quan trọng của ngành lương
thực, đảm bảo tốt yêu cầu của vấn đề an toàn lương thực quốc gia, tạo việc
làm ổn định cho lao động trong khu vực nông nghiệp và mạng lưới lưu thông
phân phối gạo rộng khắp cả nước, cung cấp nguyên liệu dồi dào cho các
ngành công nghiệp chế biến lương thực – thực phẩm...
Về chỉ tiêu định lượng đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động xuất
khẩu gạo đã đạt được như sau:
+ Tính chung giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2006, mức tăng thu nhập
ngoại tệ nhờ tăng giá gạo xuất khẩu thể hiện ở bảng 08:
Bảng 03: Mức tăng thu nhập ngoại tệ do tăng giá gạo xuất khẩu
thời kỳ 2000 – 2006

Sản lượng gạo

Giá bình quân 1 tấn

Mức tăng thu nhập
ngoại tệ

(1000 tấn)

(USD)

(Triệu USD)

2000
2001

3476,7
3720,7

192
165

-100,5

2002
2003
2004
2005
2006


3236,2
3810,4
4063,1
5254,8
4641,8

224
189
234
268
275

190,9
-133,4
182,8
178,7
32,5


xi
Qua bảng trên có thể thấy, các năm gần đây chúng ta đã thu về được
thêm một lượng ngoại tệ đáng kể nhờ tăng giá xuất khẩu gạo. Riêng hai năm
2001 và 2003 chúng ta đã bị mất đi mỗi năm hơn 100 triệu USD do xuất khẩu
với giá bình quân thấp hơn năm trước.
+ Từ giá thành bình quân của các khâu sản xuất lúa (ở Đồng bằng sông
Cửu Long), chế biến và dịch vụ xúc tiến xuất khẩu gạo (cung ứng đến cảng
Sài Gòn), ta có thể tính ra các yếu tố chi phí có gốc ngoại tệ (phân hoá học,
thuốc bảo vệ thực vật, xăng dầu, khấu hao máy móc thiết bị…) chiếm khoảng
15% so với giá xuất 1 đơn vị sản phẩm gạo. Như vậy, hoạt động xuất khẩu
gạo đã tạo ra thu nhập ngoại tệ thuần lên đến 85% so với kim ngạch xuất

khẩu, góp phần rất quan trọng trong việc tích lũy ngoại tệ cho công nghiệp
hoá. Cụ thể là từ năm 2000 đến năm 2006 tổng kim ngạch xuất khẩu gạo
chính ngạch đạt được 6.325,7 triệu USD, ước lượng thu nhập ngoại tệ thuần
trong số đó vào khoảng 5.376,8 triệu USD.
+ Theo kết quả đánh giá lợi thế so sánh của sản phẩm gạo xuất khẩu,
thông qua xuất khẩu trị giá gia tăng của 1 đơn vị gạo thành phẩm cao hơn
23% so với tiêu thụ nội địa. Tính ra phần trị giá gia tăng vượt trội này chiếm
khoảng18% giá trị kim ngạch xuất khẩu, nghĩa là trong tổng kim ngạch xuất
khẩu gạo chính ngạch 6.327,5 triệu USD của giai đoạn 2000 – 2006 có
1.138,6 triệu USD là hiệu quả tăng thêm nhờ chênh lệch giá xuất khẩu cao
hơn giá tiêu thụ nội địa.
+ Hiện nay, giá gạo xuất khẩu bình quân của Việt Nam vẫn đang thấp
hơn so với mặt bằng giá quốc tế, vì vậy hiệu quả thu được nhờ xuất khẩu gạo
vẫn còn hạn chế. Giả sử nếu chúng ta có thể tăng giá bán thêm khoảng
30USD/tấn, thì với 28.203,7 nghìn tấn gạo xuất khẩu trong giai đoạn 2000 –
2006 đã có thể mang về thêm một khoản lợi nhuận hơn 846 triệu USD. Nói
cách khác, đó là khoản thiệt hại do không nâng cao được giá gạo xuất khẩu.
Mặc dù đã đạt được một số thành quả, tuy nhiên xét về hiệu quả kinh
doanh của các đơn vị xuất khẩu gạo trực tiếp thì đa số vẫn còn kém hiệu quả
do nhiều nguyên nhân tác động như: trình độ quản lý doanh nghiệp yếu kém,
bị ràng buộc bởi một số quy định quản lý nhà nước, giá cả thị trường nội địa
và quốc tế biến động không thuận lợi...


xii
2.3. Một số bài học kinh nghiệm đối với hoạt động xuất khẩu gạo
2.3.1. Quản lý chất lượng gạo xuất khẩu.
Để đảm bảo tốt chất lượng gạo xuất khẩu, đáp ứng được các yêu cầu thị
hiếu hết sức đa dạng của khách hàng, chúng ta phải giải quyết tận gốc những
vấn đề chọn và lai tạo giống lúa, cải tiến kỹ thuật thu hoạch và xử lý sau thu

hoạch, đầu tư cải tạo và hiện đại hoá công nghệ xay xát.
2.3.2. Quản lý nguồn hàng trong hoạt động xuất khẩu gạo.
Vấn đề quan trọng hàng đầu trong việc quản lý nguồn gạo xuất khẩu là
Chính phủ phải có tác động (thông qua các biện pháp trợ vốn, cung cấp tín
dụng đặc biệt...) để các doanh nghiệp mua hầu hết lúa hàng hoá trong từng vụ
thu hoạch, tổ chức dự trữ và cung ứng một cách ổn định, kịp thời cho nhu cầu
chế biến xuất khẩu.
2.3.3. Quản lý giá cả trong kinh doanh xuất khẩu gạo.
Giá xuất khẩu gạo phụ thuộc trước hết vào chất lượng gạo. Ngoài ra, nó
còn phụ thuộc vào một số yếu tố cơ bản khác như: chất lượng hoạt động của
hệ thống dịch vụ bổ trợ và cơ sở hạ tầng phục vụ xuất khẩu gạo; phương thức
mua bán; và uy tín kinh doanh của nhà xuất khẩu. Muốn nâng cao giá xuất
khẩu gạo bắt buộc Chính phủ và các doanh nghiệp phải giải quyết tốt
đồng thời tất cả các vấn đề trên.
2.3.4. Quản lý thị trường nội địa để hỗ trợ cho việc phát triển kinh
doanh xuất khẩu gạo.
Để giữ nghiêm kỷ luật thị trường, đảm bảo tinh thần cạnh tranh lành mạnh
giữa các doanh nghiệp tham gia kinh doanh gạo xuất khẩu, giảm thiểu (nhằm
tiến đến chấm dứt) tình trạng buôn lậu gạo qua biên giới, thì ngoài các biện
pháp kinh tế, đòi hỏi Nhà nước phải có đủ luật lệ để tạo môi trường pháp lý
thích hợp, ràng buộc chặt chẽ hoạt động của các doanh nghiệp và theo đó mà
áp dụng nghiêm khắc các biện pháp chế tài đối với những trường hợp vi phạm.
2.3.5. Quản lý hành chính nhà nước trong hoạt động xuất khẩu gạo.
Chính phủ phải thường xuyên kiểm soát được hoạt động này một cách
chặt chẽ và điều độ sao cho phù hợp với nhiệm vụ an toàn lương thực quốc
gia. Nhưng vấn đề kinh nghiệm được rút ra ở đây là các biện pháp quản lý
hành chính đều xuất phát từ nhiệm vụ kinh tế nên phải phù hợp với quy luật
kinh tế và cần phải vận dụng kết hợp tốt với các biện pháp kinh tế.



xiii

Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Mục tiêu, phương hướng nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo của
Việt Nam trong thời gian tới
3.1.1. Mục tiêu nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo:
Lúa gạo Việt Nam là sản phẩm có nhiều lợi thế so sánh, vì vậy mục tiêu
nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo là nhằm biến ngành lương thực trở thành
một ngành hàng quan trọng phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển kinh tế
đất nước phù hợp với chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Bên
cạnh đó là tạo thêm nhiều công ăn việc làm, thu hút lao động vào sản xuất và
chế biến lúa gạo.
3.1.2. Phương hướng nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo
Để nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu gạo cần phải tác động đến
tất cả các khâu từ sản xuất, chế biến, dự trữ, lưu thông lương thực nội địa và
việc củng cố tổ chức hoạt động xuất khẩu gạo trong thời gian tới.
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam
3.2.1. Đối với sản xuất lúa.
Chuyển từ đầu tư tăng diện tích và sản lượng gạo sang đầu tư cho phát
triển gạo chất lượng cao có nhiều tiềm năng xuất khẩu hơn cũng như khả năng
cạnh tranh cao hơn trên thị trường thế giới bằng các giải pháp cơ bản sau:
+ Quy hoạch từng vùng trồng các giống lúa khác nhau để tránh sự lai tạp
giữa các loại giống lúa khi cùng trồng xen lẫn trong cùng một vùng, cũng có
thể quy hoạch từng vùng lúa để phục vụ cho xuất khẩu sang từng thị trường
khác nhau.
+ Khẩn trương hoàn thiện qui hoạch vùng lúa xuất khẩu của cả nước và
kế hoạch cụ thể ưu tiên đầu tư vốn và khoa học kỹ thuật để phát triển sản xuất
lúa trong từng thời kỳ phù hợp với qui hoạch và kế hoạch xuất khẩu gạo của

cả nước.
+ Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.
- Về thủy lợi: Trong thời gian tới, chúng ta nên tiến hành phương thức tư
nhân hoá các công trình thủy lợi nội đồng nhằm đảm bảo việc tu bổ, nâng cấp
và quản lý tốt trong quá trình sử dụng có hiệu quả. Phương thức phổ biến và
tích cực là tổ chức đấu thầu các công trình thủy lợi nhỏ.


xiv
Ngoài hệ thống tưới tiêu nội đồng đã có, Nhà nước cần đầu tư xây dựng
mới những công trình thủy lợi đầu mối trọng điểm lớn, hồ đập thủy lợi như
công trình ngăn mặn giữ nước ngọt...
- Về hệ thống đường sá giao thông cấp làng, xã: Đầu tư vào đường sá
cấp làng, xã phải được quan niệm như các khoản đầu tư cần thiết vào canh tác
lúa xuất khẩu, vì hệ thống đường sá tốt một mặt thúc đẩy mạnh mẽ thâm
canh, tăng nhanh sản lượng lúa, mặt khác giảm được mức hư hao khi thu
hoạch vận chuyển lúa một cách rất thiết thực.
+ Thực hiện đồng bộ các giải pháp khoa học kỹ thuật. Đẩy mạnh công tác
nghiên cứu sản xuất, cung ứng và ứng dụng các giống lúa mới… Tăng cường
phối hợp giữa nghiên cứu và khuyến nông các giống lúa chất lượng cao.
3.2.2. Đối với khâu chế biến, vận chuyển.
Một yếu tố quan trọng gây hạn chế chất lượng gạo là công nghệ sau thu
hoạch. Đây là khâu rất yếu hiện nay, vì vậy, trong những năm tới cần tập
trung giải quyết theo các hướng:
+ Hoàn thiện công nghệ sau thu hoạch;
+ Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn và bến cảng phục vụ xuất
khẩu gạo;
+ Tăng cường dự trữ nhằm giảm thiểu các biến động bất lợi của thị
trường thế giới, và các thiệt hại do thiên tai gây ra;
+ Tăng cường quản lý chất lượng gạo xuất khẩu;

+ Tư nhân hoá và cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực
xay xát gạo nói riêng và trong toàn kênh thu mua nói chung, nhờ đó nâng cao
sức cạnh tranh của hệ thống thu mua chế biến của Việt Nam so với các nước
xuất khẩu gạo khác;
+ Thu hút vốn FDI vào lĩnh vực chế biến gạo, cũng như chế biến một số
lương thực, thực phẩm khác.


xv
3.2.3. Về tổ chức thu mua lúa hàng hoá.
Tổ chức lại hệ thống mua gom gạo xuất khẩu trên cơ sở đảm bảo quyền
lợi cho người xuất khẩu cũng như người dân, hình thành Quỹ bình ổn giá gạo
nhằm hỗ trợ hoạt động sản xuất, kinh doanh gạo trong những thời điểm bất lợi
của thị trường thế thế giới;
Hoàn thiện hệ thống chính sách của Nhà nước về đầu tư, tín dụng, tiền
tệ, xuất khẩu, thuế, đất đai, bảo hiểm và trợ giá, đào tạo nhân lực và phát huy
vai trò của hiệp hội sản xuất và kinh doanh lương thực trong phạm vi cả nước.
3.2.4. Về phát triển thị trường.
Để tăng sức cạnh tranh của hạt gạo Việt Nam trên thị trường thế giới cần
phải có nhiều giải pháp đồng bộ, không chỉ là tăng năng suất và chất lượng
sản xuất trong nước để giảm chi phí, mà còn phải mở rộng và ổn định thị
trường theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, đảm bảo chữ tín với khách
hàng, tăng cường tiếp thị, đầu tư nghiên cứu và dự báo thị trường.
3.2.5. Về quản lý và điều hành hoạt động xuất khẩu gạo
Việc khuyến khích tự do xuất khẩu trong cơ chế thị trường rất có thể
phát sinh cạnh tranh vô tổ chức giữa một số doanh nghiệp tham gia xuất khẩu.
Do vậy việc quản lý cần phải cân nhắc tính toán kỹ lưỡng nhằm bảo đảm phát
huy cao nhất khả năng chủ động của các doanh nghiệp trong xuất khẩu đáp
ứng yêu cầu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời, trong công tác
điều hành xuất khẩu gạo, Chính phủ cần quan tâm tâm đến các vấn đề, như:

+ Khắc phục biểu hiện ỷ lại vào Nhà nước hoặc phó thác cho các doanh nghiệp.
+ Tăng cường công tác thông tin về giá cả hàng hoá và các dịch vụ về thị
trường. Phổ biến kịp thời các cơ chế chính sách của Nhà nước, dự báo về
chiều hướng cung cầu hàng hoá và dịch vụ, các thông tin chiến lược, chiến
thuật và các biện pháp của Nhà nước.



×