Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ tại các khách sạn liên doanh do Accor quản lý trên địa bàn Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.66 KB, 14 trang )

-i-

Tóm tắt luận văn
Trong những năm gần đây, xu hướng toàn cầu hoá và quốc tế hoá khiến hoạt
động kinh doanh dịch vụ khách sạn cao cấp tại Việt Nam trở thành lĩnh vực cạnh
tranh gay gắt. Để đạt được mục tiêu lợi nhuận và hạn chế tối thiểu rủi ro trong kinh
doanh, các khách sạn liên doanh đã phải nâng cao hiệu quả công tác quản lý. Một
trong những công cụ hữu hiệu nhằm bảo vệ tài sản của doanh nghiệp, bảo đảm độ
tin cậy của hệ thống thông tin, bảo đảm các chế độ pháp lý cũng như hiệu quả của
hoạt động và năng lực quản lý là hệ thống kiểm soát nội bộ.
Với tư cách là một trong những tập đoàn quản lý và kinh doanh khách sạn
hàng đầu thế giới, Accor đang quản lý 10 khách sạn tại Việt Nam từ Bắc-TrungNam (và trong thời gian tới có thêm 4 khách sạn lớn khác). Accor đã áp dụng những
kinh nghiệm và phương pháp quản lý trên thế giới vào Việt Nam. Thế nhưng thực tế
cho thấy hệ thống kiểm soát nội bộ ở đây vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập. Vì vậy, hoàn
thiện hệ thống kiểm soát nội bộ phù hợp với đặc thù kinh doanh khách sạn của
Accor tại Việt Nam là công việc cần thiết.
Xét tới vị trí và tầm quan trọng của trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá
của Thủ đô (Hà Nội) và trung tâm kinh tế, tài chính, giải trí (Thành phố Hồ Chí
Minh) đối với Accor trong giai đoạn đầu kinh doanh tại Việt Nam và do yêu cầu cấp
thiết trên, Đề tài: Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ tại các khách sạn liên
doanh do Accor quản lý trên địa bàn Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh được
Học viên lựa chọn để nghiên cứu Luận văn.
Mục đích nghiên cứu của Đề tài là góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận và thực tiễn của hệ thống kiểm soát nội bộ (KSNB) tại các khách sạn liên doanh
do Accor quản lý trên địa bàn Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh để từ đó đề xuất
một số giải pháp cơ bản hoàn thiện hệ thống này.
Đối tượng nghiên cứu là hệ thống KSNB tại các khách sạn liên doanh do
Accor quản lý trên địa bàn Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh; Phạm vi nghiên
cứu chỉ giới hạn ở 04 khách sạn liên doanh do Tập đoàn Accor danh tiếng của Pháp



-ii-

quản lý trên địa bàn Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh gồm: Sofitel Métropole
Hanoi, Sofitel Plaza Hanoi, Sofitel Plaza Saigon và Novotel Garden Plaza Saigon.
Trong quá trình nghiên cứu, Luận văn có những đóng góp sau:
Về mặt lý luận: Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về hệ thống kiểm soát nội
bộ trong các doanh nghiệp nói chung và trong khách sạn liên doanh nói riêng.
Về mặt thực tiễn:


Phân tích, đánh giá thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại các khách sạn
liên doanh do Accor quản lý trên địa bàn Hà Nội và Thành phố Hồ Chí
Minh.



Đề xuất một số phương hướng và giải pháp hoàn thiện hệ thống kiểm soát
nội bộ trong các đơn vị đó.

Ngoài Lời nói đầu, Kết luận, nội dung của Luận văn gồm 03 chương:
Chương I: Lý luận chung về hệ thống kiểm soát nội bộ trong khách sạn liên
doanh.
Chương II: Thực trạng của hệ thống kiểm soát nội bộ tại các khách sạn liên
doanh do Accor quản lý trên địa bàn Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương III: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội
bộ tại các khách sạn liên doanh do Accor quản lý trên địa bàn Hà Nội và Thành phố
Hồ Chí Minh.
Trong Chương 1, Học viên trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về hệ
thống kiểm soát nội bộ của khách sạn liên doanh. Trước hết, Học viên đi vào những
lý luận chung về hệ thống KSNB trong quản lý với các khái niệm kiểm soát trong

quản lý; Phân loại hoạt động kiểm soát và hệ thống KSNB (gồm: Khái niệm, chức
năng cơ bản, mục tiêu, những hạn chế và các yếu tố cơ bản của hệ thống kiểm soát
nội bộ như: Môi trường kiểm soát, hệ thống thông tin, các thủ tục kiểm soát và kiểm
toán nội bộ).
Sau đó, Học viên trình bày hệ thống kiểm soát nội bộ với tư cách là công cụ
của quản lý của các khách sạn liên doanh mà trước hết là đặc điểm của lĩnh vực kinh
doanh khách sạn thể hiện ở quy mô đầu tư, thời gian hoàn vốn, địa điểm xây dựng,


-iii-

danh tiếng thương hiệu, đặc thù lĩnh vực kinh doanh khách sạn

Tiếp theo là bốn

yếu tố cơ bản của hệ thống KSNB tại KSLD. Thứ nhất, môi trường kiểm soát của
KSLD với những đặc thù về quản lý, cơ cấu tổ chức, chính sách nhân sự, công tác kế
hoạch. Thứ hai, hệ thống kế toán của KSLD dùng để ghi nhận, tính toán, phân loại,
kết chuyển vào sổ tổng hợp và lập báo cáo. Thứ ba, các thủ tục kiểm soát của KSLD
là những cách thức cụ thể để duy trì hành vi kiểm soát một cách thường xuyên dựa
trên ba nguyên tắc: Phân công, phân nhiệm; Bất kiêm nhiệm; Uỷ quyền và phê
chuẩn.
Trong Chương 2, sau khi khái quát về hoạt động quản lý và kinh doanh
khách sạn của Accor trên thế giới và tại Việt Nam, Học viên tập trung phân tích thực
trạng của hệ thống KSNB tại các KSLD do Accor quản lý trên địa bàn Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh. Xuất phát từ nhu cầu hoàn thiện hệ thống KSNB tại các
khách sạn này, Học viên tìm hiểu môi trường kiểm soát, hệ thống kế toán, các thủ
tục kiểm soát và kiểm toán nội bộ để từ đó thấy được những mặt đạt được cũng như
những hạn chế của hệ thống KSNB tại các KSLD này. Cụ thể là:
Những mặt đạt được của hệ thống KSNB tại các KSLD do Accor quản lý trên

địa bàn Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh gồm:
Thứ nhất, Hội đồng quản trị và Ban giám đốc các công ty liên doanh khách
sạn và Tập đoàn quản lý khách sạn đều có quan điểm rõ ràng và tạo điều kiện thuận
lợi cho việc áp dụng các thủ tục kiểm soát tại khách sạn. Họ coi trọng sự trung thực,
minh bạch trong quản lý khách sạn và đặt lợi ích của khách sạn lên trên hết thông
qua thực thi sự chính trực và đạo đức trong công việc. Tổng Giám đốc điều hành
khách sạn phê chuẩn các quyết định, chính sách và thủ tục kiểm soát áp dụng xuyên
suốt mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính và các hoạt động trong khách sạn (gọi là Chính
sách và Thủ tục). Những chính sách và thủ tục này được đảm bảo khả năng triển
khai xuyên suốt từ trên xuống dưới đối với hầu hết các nghiệp vụ của khách sạn.
Ngoài ra, nhằm đảm bảo khả năng tuân thủ các thủ tục kiểm soát, các khách
sạn này đều tổ chức được cơ cấu tổ chức rành mạch, rõ ràng đúng chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của các bộ phận trong quá trình thực hiện các công tác quản lý. Cơ
cấu tổ chức của các khách sạn nhấn mạnh tới các nguyên tắc phân công, phân
nhiệm, bất kiêm nhiệm, uỷ quyền, phê chuẩn rõ ràng nhằm thiết lập được một hệ


-iv-

thống các thủ tục kiểm soát xuyên suốt từ Ban quản lý cao cấp, các cấp quản lý
trung gian và các cấp thi hành. Đây là một phần do đặc thù quản lý kinh doanh
khách sạn yêu cầu cơ cấu tổ chức phải thiết lập được sự điều hành và kiểm soát trên
toàn bộ hoạt động của khách sạn sao cho không bị chồng chéo hoặc bỏ trống.
Hơn nữa, các khách sạn này coi trọng chính sách nhân sự vì đội ngũ nhân
viên là một trong những yếu tố quan trọng đối với Accor khi đầu tư, kinh doanh tại
bất kỳ quốc gia nào, trong đó có Việt Nam. Vì vậy, các khách sạn đều ban hành
những quy định chi tiết về chính chính sách tuyển dụng, đào tạo, thưởng phạt rõ
ràng... và thiết lập cơ chế, hành lang nhằm bảo đảm khả năng thực thi các quy định
đó.
Bên cạnh các yếu tố trên, các khách sạn này đều đề cao các công tác kế

hoạch thông qua lập, thực thi và giám sát kế hoạch quý, năm hoặc thậm chí lập kế
hoạch dài hạn tương đương với thời hạn của Hợp đồng quản lý giữa Chủ đầu tư
(Công ty Liên doanh) và Tập đoàn quản lý (Accor) (khoảng 10 năm).
Thứ hai, các KSLD do Accor quản lý tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh
đã tổ chức được hệ thống kế toán chi tiết, chặt chẽ bao gồm: Hệ thống chứng từ kế
toán, hệ thống sổ kế toán, hệ thống tài khoản kế toán, hệ thống bảng tổng hợp và cân
đối kế toán mà trong đó quá trình lập và luân chuyển chứng từ đóng vai trò quan
trọng trong công tác kiểm soát nội bộ.
Hệ thống kế toán chi tiết của các khách sạn được vận hành tốt trước hết là
nhờ cơ cấu tổ chức phòng kế toán rõ ràng với sự phân chia rành mạch dựa trên các
nguyên tắc phân công, phân nhiệm; bất kiêm nhiệm; uỷ quyền và phê chuẩn tại từng
vị trí. Chính sự tổ chức chặt chẽ của hệ thống kế toán đã giúp cho các khách sạn này
thực thi quá trình kiểm soát và quản lý rủi ro tối ưu.
Một ưu điểm nổi bật trong công tác tổ chức hạch toán kế toán trong các
khách sạn này là hầu hết các khách sạn đã ứng dụng các phần kế toán máy trong
quản lý thông tin và luân chuyển chứng từ. Cụ thể, là các phần mềm như Micros (kế
toán nhà hàng), Fidelio (Quản lý sảnh), Check EAM (Kế toán Giá thành), SUN
(Tổng hợp dữ liệu từ các phần mềm quản lý khác nhau) và các phần mềm khác (như
RIM-Quản lý nhân sự) được các khách sạn sử dụng. Đây là những phần mềm nổi


-v-

tiếng thế giới trong lĩnh vực kinh doanh khách sạn cao cấp nói chung và các khách
sạn do Accor quản lý tại Việt Nam nói riêng.
Về hệ thống chứng từ kế toán: Các KSLD do Accor quản lý trên địa bàn Hà
Nội và Thành phố Hồ Chí Minh sử dụng mẫu chứng từ kế toán dựa trên Quyết định
số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính kết hợp với thực tế
đặc thù kinh doanh khách sạn bao gồm các chứng từ theo Chế độ kế toán Việt Nam
hiện hành, các chứng từ ban hành trong nội bộ đơn vị và một số chứng từ ở các văn

bản pháp qui khác.
Về hệ thống tài khoản kế toán: Hệ thống tài khoản kế toán trong các KSLD
này được sử dụng căn cứ vào Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/3/2006 của
Bộ trưởng Bộ Tài chính về Chế độ Kế toán Doanh nghiệp.
Về hình thức kế toán: Các KSLD này đều áp dụng hình thức kế toán tương
đương với hình thức Chứng từ ghi sổ và được thực hiện thống nhất bằng phần mềm
kế toán SUN.
Về hệ thống sổ kế toán: Các KSLD của Accor trên địa bàn Hà Nội và Thành
phố Hồ Chí Minh đang sử dụng 2 loại sổ kế toán tổng hợp và sổ kế toán chi tiết. Sổ
kế toán tổng hợp là Sổ Cái (Mẫu S02c1-DN) sử dụng để ghi chép, phản ánh các hoạt
động kinh tế tài chính của đơn vị theo thứ tự thời gian và theo hệ thống. Sổ kế toán
chi tiết sử dụng để chi chép các hoạt động kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản lý chi
tiết, cụ thể của đơn vị đối với hoạt động đó. Các sổ chi tiết này chính là các báo cáo
được in ra từ các phần mềm máy tính như Fidelio, Micros, Check EAM. Hiện nay,
các mẫu sổ kế toán dùng trong các KSLD đều được phần mềm máy tính thiết kế
bằng tiếng Anh nên không hoàn toàn giống mẫu sổ kế toán ghi bằng tay theo qui
định. Dù được ghi bằng tiếng Anh nhưng vẫn đảm bảo những yêu cầu kiểm soát cần
thiết của từng loại sổ. Sau khi khoá sổ kế toán trên máy vi tính, các loại sổ này được
in ra giấy và đóng thành quyển riêng cho từng kỳ kế toán năm (tháng).
Về hệ thống báo cáo kế toán: Dùng để cung cấp thông tin về tình hình tài
chính, tình hình kinh doanh, các luồng tiền của khách sạn, đáp ứng yêu cầu quản lý
và nhu cầu hữu ích của người sử dụng trong việc đưa ra các quyết định kinh tế. Hệ
thống báo cáo kế toán trong các KSLD ngoài các báo cáo theo qui định của Chế độ


-vi-

kế toán Việt Nam còn có các báo cáo đặc thù khác trong đơn vị phục vụ yêu cầu
quản lý, kiểm soát của Ban Giám đốc.
Thứ ba, các KSLD này đã xây dựng được các thủ tục kiểm soát chi tiết tới

từng bộ phận tạo ra doanh thu và sử dụng chi phí cũng như những phần hành đặc thù
có thể hình thành rủi ro khác. Nội dung của thủ tục kiểm soát mà Accor áp dụng tại
các khách sạn này dựa trên 08 tiêu chí cơ bản: Doanh thu phòng, Ăn uống, Các
khoản tiền, Các khoản phải thu, Kho, Nhân sự và Tiền lương, Các biện pháp ngăn
ngừa rủi ro và Các khoản đầu tư tài sản cố định. Quá trình áp dụng các thủ tục
kiểm soát đối với từng tiêu chí và những hạng mục chi tiết trong đó đã bao gồm các
thủ tục kiểm soát quá trình lập, kiểm tra, phê duyệt và tính chính xác của các số liệu
tính toán và tài liệu liên quan tới đơn vị; Kiểm tra chương trình ứng dụng và môi
trường tin học; Kiểm tra số liệu giữa sổ kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết; Đối
chiếu kết quả kiểm kê thực tế với số liệu trên sổ kế toán; Giới hạn việc tiếp cận trực
tiếp với tài sản và các tài liệu kế toán; Phân tích, so sánh giữa các số liệu thực tế với
dự toán, kế hoạch

Các thủ tục kiểm soát được thiết lập trong các khách sạn này

cũng dựa trên ba nguyên tắc cơ bản: Phân công, phân nhiệm rõ ràng; Bất kiêm
nhiệm; Uỷ quyền và phê chuẩn.
Qua quá trình nghiên cứu các thủ tục kiểm soát, có thể đi tới nhận kết luận
rằng, bốn KSLD mà Accor quản lý đang vận hành một trong những hệ thống KSNB
với các thủ tục kiểm soát hữu hiệu được thiết kế, vận hành và đúc rút kinh nghiệm
trong rất nhiều năm trong lĩnh vực kinh doanh khách sạn của Tập đoàn. Sẽ rất hữu
ích nếu sử dụng những thủ tục kiểm soát này làm mô hình cho việc thiết lập các cơ
chế kiểm soát tại các đơn vị kinh doanh trong cùng lĩnh vực ở nước ta.
Sau khi phân tích thực trạng của hệ thống KSNB tại các KSLD này, Học viên
nên lên đánh giá thực trạng của hệ thống KSNB đó và tìm ra các nguyên nhân dẫn
tới những hạn chế của hệ thống KSNB đang vận hành tại các khách sạn này. Nhìn
chung, một hệ thống KSNB dù được thiết kế chi tiết tới đâu cũng không thể không
có những hạn chế. Hệ thống KSNB tại các KSLD này cũng vậy. Những hạn chế có
thể phát sinh từ nhiều nguyên nhân khác nhau: có thể là hạn chế về môi trường kiểm
soát (bên trong, bên ngoài), về hệ thống kế toán, hoặc thậm chí các thủ tục kiểm



-vii-

soát. Thế nhưng, một trong những khiếm khuyết đáng kể là các công ty liên doanh
kinh doanh khách sạn này không có dấu hiệu tồn tại bộ phận kiểm toán nội bộ tại
đơn vị dù Tập đoàn mà họ thuê quản lý tài sản của họ đều đã thiết lập ở cấp độ khu
vực..
Trong Chương 3, Học viên nên lên phương hướng và giải pháp hoàn thiện hệ
thống KSNB tại các KSLD do Accor quản lý trên địa bàn Hà Nội và Thành phố Hồ
Chí Minh. Thể hiện trước hết ở chiến lược mở rộng hoạt động kinh doanh của Accor
tại Việt Nam trong những năm tới và nhu cầu cần thiết hoàn thiện hệ thống KSNB
của các khách sạn mà Tập đoàn quản lý.
Thứ nhất, phương hướng hoàn thiện hệ thống KSNB của các KSLD này sẽ
dựa vào những yếu tố chính của hệ thống KSNB.
Về môi trường kiểm soát: Các KSLD đều có quan điểm quản lý khá rõ ràng
về vai trò của hệ thống KSNB trong quản lý cho nên môi trường kiểm soát bên trong
khách sạn được tổ chức khá chặt chẽ và quy củ. Các đơn vị thành viên của Accor có
thể tổ chức môi trường kiểm soát bên trong chặt chẽ nhưng lại không thể hạn chế
được những rủi ro do các tác động của môi trường bên ngoài như điều kiện kinh tế,
xã hội, các quy định pháp luật của quốc gia sở tại nơi Tập đoàn đầu tư, quản lý. Vì
vậy, hoàn thiện môi trường kiểm soát sẽ không những tập trung ở môi trường kiểm
soát bên trong mà còn cả những yếu tố tác động từ bên ngoài. Cụ thể đó là các quy
định pháp luật liên quan tới doanh thu nội bộ, mức phụ thu cước điện thoại và vấn đề
vệ sinh an toàn thực phẩm
Về hệ thống kế toán: Đây là bộ phận rất quan trọng trong hệ thống KSNB của
khách sạn. Hướng hoàn thiện hệ thống kế toán sẽ tập trung vào phần mềm kế toán
SUN nổi tiếng mà hầu hết các khách sạn cao cấp đang sử dụng với hạn chế trong
việc ghi chép tài khoản đối ứng khi in báo cáo không đảm bảo sự tuân thủ những
quy định của Chuẩn mực Kế toán Việt Nam.

Về thủ tục kiểm soát: Dù đã thiết kế và vận hành một trong những hệ thống
thủ tục kiểm soát ưu việt nhất trong lĩnh vực kinh doanh khách sạn và khu nghỉ mát,
các thủ tục kiểm soát của 04 khách sạn này vẫn để lại nhiều thiếu sót có nguy cơ rủi
ro dẫn tới mất doanh thu. Hướng hoàn thiện thủ tục này sẽ tập trung vào các hạng


-viii-

mục chi tiết như: Khách đã đặt phòng nhưng không tới, kiểm soát doanh thu tại các
quầy bar, kiểm soát quá trình mua hàng, kiểm soát kho và kiểm soát quá trình thu
nợ.
Về kiểm toán nội bộ: Đây là một trong những khiếm khuyết đáng kể nhất của
hệ thống KSNB áp dụng tại 04 KSLD mà Học viên nghiên cứu. Việc thành lập bộ
phận KTNB trở nên rất cần thiết. KTNB phải trực thuộc cấp đủ cao (Hội đồng Quản
trị) và xây dựng quy chế đảm bảo quyền hạn thực thi vai trò kiểm soát và sự độc lập
tương đối của bộ phận này.
Thứ hai, giải pháp góp phần hoàn thiện hệ thống KSNB tại các KSLD do
Accor quản lý trên địa bàn Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Hoàn thiện kiểm toán nội bộ: Trong cả bốn KSLD do Accor quản lý trên địa
bàn Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh mà Học viên nghiên cứu đều không tồn tại
bộ phận Kiểm toán nội bộ (KTNB) bởi các KSLD đều này cho rằng các khâu kiểm
soát hiện có của mình là chặt chẽ, đảm bảo hệ thống KSNB vận hành tốt. Đây là một
trong những hạn chế đáng kể để có thể duy trì được tính hữu hiệu của hệ thống
KSNB vì KTNB là một trong bốn yếu tố cơ bản cấu thành nên hệ thống KSNB.
KTNB trong khách sạn là một bộ phận độc lập được thiết lập để tiến hành các
công việc kiểm tra và đánh giá các hoạt động phục vụ yêu cầu quản trị nội bộ của
đơn vị. Bộ phận KTNB của KSLD còn có thể cung cấp một sự quan sát, đánh giá
thường xuyên về toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm cả tính hiệu quả của
việc thiết kế và vận hành các chính sách, thủ tục KSNB. Nếu các KSLD tổ chức bộ
phận KTNB hữu hiệu sẽ giúp cho Ban Giám đốc có được những thông tin kịp thời và

xác thực về hoạt động trong khách sạn nhằm kịp thời bổ xung, điều chỉnh các quy
quy chế, thủ tục kiểm soát cho thích hợp và hiệu quả.
Như vậy, để hoàn thiện hệ thống KSNB thì nhu cầu tổ chức và vận hành bộ
phận KTNB hiệu quả tại các KSLD mà Accor quản lý trên địa bàn Hà Nội và Thành
phố Hồ Chí Minh trở nên rất cần thiết. Về lý thuyết, bộ phận này phải trực thuộc
một cấp đủ cao để không giới hạn phạm vi hoạt động và đồng thời phải được giao
cho quyền hạn rộng rãi và không bị chi phối bởi hệ thống quản lý kế toán, tài chính
của khách sạn. Chính vì vậy, tổ chức và thành lập bộ phận KTNB là một giải pháp


-ix-

quan trọng từng bước hoàn thiện hệ thống KSNB không những của các KSLD mà
Accor quản lý trên địa bàn Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh mà còn cả những
khách sạn cao cấp khác mà tập đoàn của Pháp này quản lý trên lãnh thổ Việt Nam.
Hoàn thiện thủ tục kiểm soát với các thủ tục như:


Về kiểm soát trong trường hợp khách đã đặt phòng nhưng không tới (no-

show): Doanh thu phòng bán thường chiếm tỷ trọng 50-60% tổng doanh thu, bởi
vậy, kiểm soát doanh thu phòng bán trở nên rất cần thiết mà trong đó có kiểm soát
trường hợp khách đã đặt phòng những không tới mà không báo trước trong thời hạn
quy định. Hoàn thiện thủ tục kiểm soát này sẽ đảm bảo sự ổn định của doanh thu
và tỷ lệ sử dụng phòng của các KSLD.


Về kiểm soát thu nợ: Các khoản doanh thu chuyển qua kế toán theo dõi

thanh toán chậm thường chiếm 40% doanh thu hàng tháng của các KSLD. Hạn chế

của các KSLD này là chưa ban hành một chính sách thu nợ hoàn chỉnh. Vì thế, cần
thiết lập cơ chế thu nợ chuyên nghiệp nhằm đảm bảo doanh thu và dự phòng rủi ro
trong trường hợp nợ khó đòi.


Về kiểm soát doanh thu từ các quầy bar: Doanh thu ẩm thực thường

chiếm tỷ trọng khoảng 20-30% tổng doanh thu. Vì vậy, kiểm soát doanh thu tại các
quầy bar là tương đối nhạy cảm vì có thể sẽ dẫn đến mất doanh thu hoặc mất đồ
uống nếu không có sự kiểm soát chặt chẽ. Quy trình quản lý đang được áp dụng ở
các KSLD này là chưa hoàn thiện, cần thiết phải thực hiện một cách có hệ thống
trên giấy tờ với mẫu biểu cụ thể. Việc đưa ra mẫu Báo cáo yêu cầu xuất hàng để
bán hàng ngày do quản lý quầy bar lập, có kiểm tra của Kế toán kho và Kế toán
Kiểm soát Giá sẽ giúp khách sạn có cách kiểm soát hiệu quả, cân đối giữa hàng đã
xuất và hàng đã bán, ngừa việc bị mất doanh thu.


Về mua hàng: Quá trình mua hàng trong các KSLD của Accor trên địa

bàn Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh được tiến hành khá chặt chẽ. Tuy nhiên,
các KSLD này mới chỉ quan tâm tới yếu tố vệ sinh, chất lượng tươi ngon mà không
chú ý tới nguồn gốc, chất lượng đảm bảo của hàng hoá thực phẩm. Các loại thực
phẩm này là nguyên liệu chính tạo nên sản phẩm là các món ăn phục vụ khách
hàng. Để giữ uy tín và tránh những rủi ro đáng tiếc có thể xảy ra, tất cả các khách


-x-

sạn nên yêu cầu nhà cung cấp kiểm tra chất lượng thực phẩm hàng hoá trước khi
giao. Nhà cung cấp sẽ phải trình giấy xác nhận về vệ sinh an toàn thực phẩm đã

qua kiểm định đảm bảo từ khâu đầu vào có nguồn gốc xác đáng cho các sản phẩm
của khách sạn.
Về kiểm soát kho: Các khâu trong qui trình kiểm soát kho tại các KSLD



này là tương đối tốt. Tuy nhiên chỉ xin đưa ra một ý kiến nhỏ nhằm hoàn thiện hơn
hệ thống kiểm soát này. Đó là hiện nay trong các khách sạn này chưa có Báo cáo
hàng sắp hết hạn sử dụng. Hàng hoá trong kho chiếm phần lớn là các đồ thực
phẩm có thời hạn nhất định. Vì vậy, nếu có thể thủ kho nên lập báo cáo hàng sắp
hết hạn hàng tuần, gửi cho Kế toán Kiểm soát Giá, Giám đốc Tài chính, Tổng
Giám đốc và trưởng các bộ phận liên quan (bếp, nhà hàng, phòng). Việc theo dõi
và lập báo cáo gửi cho cấp quản lý để có biện pháp xử lý kịp thời không những
tránh được những rủi ro khi vẫn xuất hàng quá hạn có thể gây ngộ độc thức ăn,
khiếu nại của khách

mà còn giúp cho khách sạn giảm thiểu chi phí, mang lại lợi

nhuận tối đa cho đơn vị.
Hoàn thiện môi trường kiểm soát
Về doanh thu nội bộ: Đối với các chuyên gia nước ngoài làm việc tại



khách sạn dùng sản phẩm trong khách sạn như phòng ở, ăn uống

không nên coi

là doanh thu nội bộ.



Về mức phụ thu cước điện thoại: Quy định mức phụ thu điện thoại 15%

của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch không hợp lý. Cần điều chỉnh mức phụ thu này
cho hợp lý.


Về vệ sinh an toàn thực phẩm: Để tránh rủi ro tiềm tàng về vệ sinh an toàn

thực phẩm, nhà cung cấp sẽ phải trình cho các khách sạn Phiếu đảm bảo vệ sinh an
toàn thực phẩm cho từng loại hàng hoá cung cấp. Việc này chỉ thực sự hiệu quả khi
có sự kết hợp của các cơ quan chức năng. Đó là việc các cơ quan quản lý về vệ sinh
an toàn thực phẩm cần có bộ phận chuyên môn kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm,
nguồn gốc xuất xứ, cấp giấy xác nhận kịp thời và tạo điều kiện cho các nhà cung cấp
thực phẩm lên xin xác nhận. Giấy xác nhận này phải có giá trị nghĩa là nó có tính
đảm bảo cao đối với loại thực phẩm có được nó. Giấy này sẽ bao gồm tên nhà cung


-xi-

cấp, tên loại hàng hóa, nguồn gốc hàng hoá, xác nhận hàng hóa này đảm bảo vệ sinh
an toàn thực phẩm, thời hạn của giấy xác nhận. Đây chính là sự hỗ trợ hữu ích của
các cơ quan quản lý về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với các đơn vị kinh doanh ăn
uống đặc biệt là các KSLD.
Hoàn thiện hệ thống kế toán: Trong cả 04 KSLD nghiên cứu, sổ cái được
thiết kế sẵn trong phần mềm máy tính (SUN) và được in ra để lưu vào cuối kỳ kế
toán. Thế nhưng trong sổ cái lại không ghi được tài khoản đối ứng theo như yêu cầu
của Chuẩn mực Kế toán ban hành theo Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20
tháng 3 năm 2006 (mẫu biểu số S02c1-DN). Đây là bất cập khi sử dụng hệ thống
phần mềm kế toán SUN.

Thứ ba, một số kiến nghị để thực hiện các giải pháp
1. Kiến nghị với các KSLD do Accor quản lý trên địa bàn Hà Nội và Thành
phố Hồ Chí Minh:
Về thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ: Rõ ràng KTNB là một trong bốn yếu
tố cơ bản cấu thành nên hệ thống KSNB. Vì vậy, để xây dựng một hệ thống KSNB
hoàn thiện các KSLD này cần phải thành lập bộ phận KTNB trong các KSLD do
Accor quản lý trên địa bàn Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Cụ thể, bộ phận
KTNB của các KSLD này có thể được xây dựng theo hướng sau:


Thành lập bộ phận KTNB trực thuộc Hội đồng Quản trị của Công ty liên

doanh khách sạn. Nhân sự dự kiến cho bộ phận này khoảng từ 3-5 người. Trưởng bộ
phận KTNB sẽ báo cáo trực tiếp với Chủ tịch Hội đồng Quản trị còn các thành viên
của bộ phận KTNB sẽ là những người có kinh nghiệm trong lĩnh vực kiểm toán (ưu
tiên những người có kinh nghiệm kiểm toán khách sạn cao cấp) hoặc nhân sự từng
đảm đương các vị trí quản lý kế toán cao cấp trong lĩnh vực kinh doanh khách sạn và
khu nghỉ mát cao cấp (do đòi hỏi đặc thù của lĩnh vực). Mô hình này đảm bảo được
sự độc lập tương đối và thẩm quyền thực thi hoạt động kiểm soát của bộ phận KTNB
trong các KSLD đối với các bộ phận khác như Kế toán, Ban Giám đốc.


Bộ phận KTNB hàng năm soạn thảo chương trình kiểm toán làm chương

trình hành động và đệ trình lên Tổng Giám đốc Công ty liên doanh phê duyệt làm cơ
sở cho việc thực thi chức năng trong khách sạn. Căn cứ vào chương trình này, định


-xii-


kỳ, bộ phận KTNB thực hiện vai trò của mình nhằm đảm bảo các hoạt động tài
chính, kế toán và các nghiệp vụ khác diễn ra đúng các quy định của pháp luật cũng
như các thủ tục, chính sách mà khách sạn đề ra.
Ngoài ra, bộ phận KTNB của KSLD sẽ phải ban hành quy chế hoạt động cho
mình như: Xác lập mối quan hệ với các bộ phận bên trong khách sạn như các phòng,
ban khác và với các tổ chức bên ngoài như các công ty kiểm toán độc lập, các
chương trình kiểm toán định kỳ của Tập đoàn quản lý khách sạn Accor hoặc của
công ty đối tác nước ngoài tham gia trong liên doanh (ví dụ như của United
Overseas Land của Singapore với tư cách là chủ sở hữu nước ngoài với Sofitel Plaza
Hanoi, Sofitel Plaza Saigon và Novotel Garden Plaza Saigon hay Vina Capital - Quỹ
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam - với tư cách là cổ đông chi phối Sofitel Métropole
Hanoi)...
Ngoài việc xác lập được mối quan hệ với cấp trên trực tiếp và các bộ phận
khác trong KSLD, quy chế hoạt động của bộ phận KTNB cần đề cập tới một loạt các
vấn đề như: Trình tự thiết lập bộ máy KTNB, việc bổ nhiệm, miễn nhiệm các vị trí
trong bộ phận này; Quy định chi tiết các quy trình kiểm toán, trách nhiệm cung cấp,
lưu trữ thông tin, tính bảo mật, chế độ báo cáo và xây dựng các hệ thống biểu mẫu
tài liệu kiểm toán; Quy định về công tác đào tạo về nghiệp vụ kiểm toán; Xây dựng
hệ thống các câu hỏi đánh giá hệ thống KSNB của khách sạn.
Về hệ thống kế toán: Các KSLD này nên cùng nhau viết thư yêu cầu đơn vị
cung cấp phần mềm là SUN hiệu chỉnh lại thông tin trên sổ cái: Thêm cột số hiệu tài
khoản đối ứng. Thậm chí các khách sạn này nên kết hợp với tất cả các khách sạn
khác tại Việt Nam đang sử dụng phần mềm kế toán này (được biết hầu hết các
khách sạn đều sử dụng phần mềm này như: Sheraton, Hilton, Continental, Horison,
Equatorial...).
Về kiểm soát khách đặt phòng nhưng không tới, kiểm soát quá trình thu nợ,
kiểm soát doanh thu quầy bar, kiểm soát hàng tồn kho quá hạn và kiểm soát vấn đề
mua hàng như đã đề cập ở phần trên, đề nghị các khách sạn bố trí nhân lực để thực
hiện và kiểm tra, đốc thúc nhằm nâng cao hiệu quả của hệ thống KSNB.
2. Kiến nghị với Bộ Tài chính



-xiii-

Nhìn một cách tổng thể thì việc ghi nhận doanh thu nội bộ vừa không đúng
theo định nghĩa của tinh thần chuẩn mực, vừa làm mất thời gian của đơn vị do việc
chấp hành những qui định bắt buộc của Tổng cục Thuế mà không đem lại lợi ích
kinh tế hay quản lý cho bất kỳ đơn vị chủ thế nào (không nộp thuế). Vì vậy, thiết
nghĩ, Bộ Tài chính nên cân nhắc lại vấn đề này để tạo ra môi trường pháp lý phù hợp
và thuận lợi cho các khách sạn. Nếu việc ghi nhận doanh thu nội bộ cho các chuyên
gia nước ngoài ở trong khách sạn là không cần thiết thì nên xóa bỏ hoặc không bắt
buộc các khách sạn phải làm theo qui định này.
3. Kiến nghị với Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch
Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch cùng với Thủ tướng chính phủ đã qui định
mức phụ thu cước điện thoại trong các khách sạn 03 sao trở lên là 15% từ ngày 26
tháng 3 năm 1999. Từ đó đến nay đã hơn 8 năm cùng với nhiều thay đổi vượt bậc
của ngành bưu chính viễn thông, đặc biệt là trong hạn chế độc quyền. Đã có nhiều
đơn vị được phép kinh doanh bưu chính viễn thông ngoài Tổng công ty Bưu chính
Viễn thông. Điều này đã tạo ra một thị trường tự do, cạnh tranh lành mạnh mà điển
hình là các cuộc chạy đua về tăng mạnh các loại hình, chất lượng dịch vụ và giảm
giá cước điện thoại. Cùng với làn sóng này, doanh thu điện thoại tại các khách sạn
dịch vụ cũng bị giảm theo một cách tương ứng. Thế nên, Bộ Văn hoá, Thể thao và
Du lịch có thể xem đây là thời điểm đã chín muồi để có những quyết định cần thiết
để tăng giá cước phụ thu điện thoại tại các khách sạn (đặc biệt là các khách sạn 4-5
sao có qui mô đầu tư lớn như đã phân tích ở trên) theo thông lệ quốc tế. Tối thiểu
mức phụ thu cần phải tăng là 25% (lỗ 32% ) cho đến 48% (điểm hoà vốn) cho phù
hợp với thông lệ quốc tế.
4. Kiến nghị với các cơ quan quản lý về vệ sinh an toàn thực phẩm
Các cơ quan quản lý về vệ sinh an toàn thực phẩm nên thành lập một bộ phận
chuyên môn kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm, có giấy xác nhận kịp thời và tạo

điều kiện cho các nhà cung cấp thực phẩm lên xin xác nhận bảo đảm chất lượng.
Giấy xác nhận này phải có giá trị nghĩa là nó có tính đảm bảo cao đối với loại thực
phẩm có được nó. Đề nghị cơ quan quản lý về lĩnh vực này yêu cầu tất cả các nhà
cung cấp thực phẩm phải có giấy xác nhận này, nếu không sẽ không được phép kinh


-xiv-

doanh. Đây chính là sự hỗ trợ hữu ích của các cơ quan quản lý về vệ sinh an toàn
thực phẩm đối với các đơn vị kinh doanh ăn uống đặc biệt là các KSLD. Cơ quan
quản lý về vệ sinh an toàn thực phẩm không chỉ giúp các khách sạn phòng ngừa rủi
ro tiềm tàng mà còn hướng tới mục tiêu sâu xa hơn là đảm bảo sức khoẻ người tiêu
dùng.



×