Tải bản đầy đủ (.docx) (67 trang)

Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả vào việc bảo vệ môi trường sinh thái trong sản xuất nông nghiệp ở huyện mê linh (hà nội) hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.26 KB, 67 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

vũ THỊ THU

VÂN DUNG MỐI QUAN HÊ BIÊN CHÚNG
GIỮA NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT QUẢ VÀO VIỆC
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI TRONG SẢN XUẤT
NÔNG NGHIỆP Ở HUYỆN MÊ LINH (HÀ NỘI) HIỆN NAY

KHÓA LUÂN TỐT NGHIẼP ĐAI HOC
Chuyên ngành: Triết học

Ngưòi hướng dẫn khoa học:
TS. Trần Thị Hồng Loan

HÀ NỘI,


Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Tràn Thị Hồng Loan, người đã tận tình giúp đõ, hướng dẫn, khích lệ
và động viên tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu
hoàn
thành khóa luận tốt nghiệp này.
LỜIvà
CẢM
ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong tổ Bộ môn Triết học, khoa Giáo dục Chính trị, trường Đại
học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu trong khóa luận tốt nghiệp này được thực hiện một cách trung thực.
Kết quả nghiên cứu được trình bày trong khóa luận tốt nghiệp này chưa được công bố trên bất kì công trình nào
khác.


Hà Nội, ngày 09 tháng 05 năm 2016
Sinh viên thực hiện


LỜI CẢM ƠN


MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Hiện nay nước ta đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ trọng tâm là thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để làm được điều này, chúng ta cần tận dụng các nguồn lực để phát triển
kinh tế cả về con người, nguồn vốn, tài nguyên thiên nhiên... Sau đại hội đổi mói 1986, mặc dù cơ cấu nền kinh
tế nước ta đã có bước phát triển mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhưng ngành nông nghiệp
vẫn chiếm một vị trí quan ữọng. Hiện nay nền nông nghiệp ở Việt Nam không chỉ đảm bảo an n inh lương thực
quốc gia mà còn xuất khẩu ra bên ngoài thế giói. Nếu như trước kia con người chỉ biết gieo trồng một số loại cây
có sẵn trong tự nhiên để phục vụ nhu càu cho mình mà không cần đến thuốc bảo vệ thực vật hay phân bón,thì
nay trong quá trình phát triển đã có nhiều tiến bộ khoa học được đưa vào ứng dụng trong sản xuất, nhiều giống
cây ừồng nhiều loại phân bón và nhiều chủng loại thuốc bảo vệ thực vật khác nhau ra đời đáp ứng yêu cầu sản
xuất của bà con nông dân. Tuy nhiên, cùng với phát triển kinh tế nông nghiệp là sự ô nhiễm nghiêm trọng về
môi trường sinh thái. Chính hoạt động sản xuất nông nghiệp chưa an toàn, khoa học như: Sử dụng thuốc bảo vệ
thực vật và phân bón tùy tiện, tập quán canh tác lạc hậu, ý thức người dân chưa cao.. .đã là nguyên nhân gây ra
tình trạng ô nhiễm môi trường trong sản xuất nông nghiệp ở nông thôn. Việc phát triển kinh tế luôn mâu thuẫn
vói việc bảo vệ môi trường, vậy làm sao để phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng bền vững gắn với bảo vệ
môi trường đang là câu hỏi lớn đặt ra cho mỗi chúng ta.
Với đặc điểm là một huyện ngoại thành của thành phố Hà Nội, sản xuất nông nghiệp vẫn là hoạt động
chính của người dân, vĩ vậy, huyện Mê Linh cũng đang đứng trước thách thức về môi trường. Hiện Mê Linh có
diện tích trồng hoa lớn nhất miền Bắc, ngoài ra huyện còn thành lập các vùng trông cây rau màu như: Súp lơ,
bắp cải, su hào, hành, rau thơm.. .Việc thiếu kiến thức, kĩ năng sản xuất, lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật, phân
bón của người dân đã làm cho môi trường sinh thái của huyện đang dần bị hủy hoại ảnh hưởng trực tiếp đến sức

khỏe con người, làm gia tăng bệnh tật. Do đó, đây là một vấn đề cấp thiết cần có hướng giải quyết. Ngoài ra đã
có nhiều công trình nghiên cứu về bảo vệ môi trường nhưng chủ yếu là nghiên cứu trong lĩnh vực sản xuất công
nghiệp, trong quá trình đô thị hóa mà rất ít có công trình nào nghiên cứu riêng về bảo vệ môi trường ưong sản
xuất nông nghiệp tại địa phương. Vì vậy, tôi đã quyết định lựa chọn đề tài “ Vận dụng mối quan hệ biện chứng
giữa nguyên nhân và kết quả vào việc bảo vệ môi trường sinh thái trong sản xuất nông nghiệp ở huyện Mê Linh (Hà
Nội) hiện nay ” làm đề tài nghiên cứu cho bài khóa luận của mình.


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Môi trường có ý nghĩa to lớn đối với cuộc sống của con người và đối với toàn nhân loại. Do đó, bảo vệ môi
trường là ừách nhiệm chung của tất cả chúng ta nhằm giữ cho môi trường được trong sạch. Ở Việt Nam vấn đề
bảo vệ môi trường luôn được Đảng, Nhà nước chú trọng quan tâm, được nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Đã có
rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về đề tài môi trường dưới các góc độ khác nhau như:
Tràn Thị Hồng Loan, vẩn đề văn hóa sinh thái trong sự phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ
Triết học, Viện khoa học, xã hội Việt Nam (2012), luận án đã cho thấy sự cần thiết phải xây dựng văn hóa sinh
thái đối vói sự phát triển bền vững ở nước ta hiện nay
Nguyễn Văn Tuyên (1997), Sinh thái học và môi trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội đã chỉ ra vai trò quan trọng
của môi trường đối với cuộc sống con người Mai Đình Yên (1994), Con người và môi trường, Nxb Giáo dục, Hà
Nội đã làm rõ mối quan hệ mật thiết không thể tách rời giữa con người và môi trường sống, qua đó thay đổi nhận
thức của con người về môi trường.
Như vậy, đề tài về môi trường không phải là một vấn đề mới mà đã được các tác giả, các nhà nghiên cứu
quan tâm bàn bạc để tìm ra giải pháp. Nhưng những công trình nghiên cứu trên mới chỉ tìm hiểu chung về môi
trường,vẫn chưa phân tích kĩ các khía cạnh của vấn đề, hơn nữa với đề tài “Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa
nguyên nhân và kết quả vào việc bảo vệ môi trường sinh thái trong sản xuất nông nghiệp ở huyện Mê Lỉnh (Hà Nội) hiện
nay” thì hiện chưa có một công trình nghiên cứu nào. Vì vậy, nhằm góp phần nâng cao công tác bảo vệ môi

trường sinh thái trong sản xuất nông nghiệp ở huyện Mê Linh (Hà Nội) tôi đã mạnh dạn quyết định nghiên cứu
đề tài này.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu


3.1.

Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lí luận về cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả và sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa

nguyên nhân và kết quả trong bảo vệ môi trường sinh thái trên cơ sở tìm hiểu thực trạng môi trường sinh thái;
trong sản xuất nông nghiệp ở huyện Mê Linh, bước đầu đề xuất một số biện pháp thiết thực để bảo vệ môi
trường sinh thái ở địa phương này

3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

-

Trình bày những lí luận cơ bản về nguyên nhân và kết quả, về môi trường sinh thái.

-

Chỉ ra thực trạng của môi trường sinh thái trong sản xuất nông nghiệp ở huyện Mê Linh (Hà Nội) hiện nay.

-

Chỉ ra được nguyên nhân của thực trạng trên, từ đó đề xuất một số biện pháp khắc phục.


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1.


Khóa luận tập trung nghiên cứu vấn đề môi trường sinh thái trong sản xuất nông nghiệp ở Mê Linh (Hà
Nội) hiện nay.

4.2.

-

-

Đối tượng nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu

về không gian

Trên địa bàn huyện Mê Linh (Hà Nội) hiện nay.
về thòi gian

Khóa luận nghiên cứu từ năm 2010 đến nay.

5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu lí luận và thực tiễn sau:

-

Phương pháp nghiên cứu lí luận như: Phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử.

-


Phương pháp nghiên cứu thực tiễn như: so sánh, thống kê, điều tra, phân tích, tổng hợp, bảng biểu...
Trong quá trình triển khai khóa luận tôi không tuyệt đối hóa bất cứ một phương pháp nghiên cứu nào mà
linh hoạt sử dụng tất cả các phương pháp trên cho bài khóa luận của mình.

6. Đóng góp của khóa luận

6.1.

6.2.

về mặt lí luận

Góp phàn củng cố nhận thức lí luận về cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả, đặc biệt là mối quan hệ biện
chứng giữa nguyên nhân và kết quả trong việc bảo vệ môi trường sinh thái.
về măt thưc tiễn
• •

Góp phần nâng cao nhận thức, thái độ của con người đối với tự nhiên. Giúp người dân ý thức sâu sắc hơn
trong hoạt động sản xuất nông nghiệp để không gây hại đến môi trường.

7. Kết cấu khóa luân
Ngoài phần mở đàu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận gồm 3 chương, 9 tiết.


CHƯƠNG1
MỘT SỐ LÍ LUẬN CHUNG VÈ CẶP PHẠM TRÙ
NGUYÊN NHÂN-KẾT QUẢ YÀ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
1.1.

Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả


1.1.1.

Khái niệm nguyên nhân và kết quả
Nguyên nhân và kết quả là một cặp phạm trù trong phép biện chứng duy vật

và là một trong những nội dung của nguyên lí về mối liên hệ phổ biến, dùng để
chỉ mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả.
Nguyên nhân dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự
vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau, từ đó tạo ra sự biến đổi
nhất định.
Kết quả dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động giữa các mặt,
các yếu tố trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Khói bụi từ các nhà máy, các khu công nghiệp là nguyên nhân gây ra
ô nhiễm không khí. Hay phá rừng là nguyên nhân dẫn đến tài nguyên rừng bị can
kiệt, suy thoái, lũ lụt, hạn hán...
1.1.2.

Nội dung quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ khách quan, bao

hàm tinh tất yếu. Nguyên nhân xuất hiện trước và sinh ra kết quả.
- Nguyên nhân là cái có trước sinh ra kết quả; còn kết quả là cái có sau và
chỉ xuất hiện sau khi có nguyên nhân tác động. Tuy nhiên không phải cứ hai hiện
tượng nào nối tiếp nhau về thời gian cũng là quan hệ nhân quả. Cụ thể:
Ví dụ: Ngày kế tiếp đêm, mùa đông kế tiếp mùa thu...
Ở đây, không phải đêm là nguyên nhân của ngày, không phải mùa thu là
nguyên nhân của mùa đông. Cái phân biệt quan hệ nhân quả với quan hệ kế tiếp
về mặt thời gian là ở chỗ nguyên nhân và kết quả có quan hệ sản sinh cho nhau.
-


Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả thể hiện ở chỗ; một kết quả có thể do
một hoặc nhiều nguyên nhân khác nhau sinh ra và một nguyên nhân có thể sinh
ra một hoặc nhiều kết quả khác nhau:


+ Sự tác động của nhiều nguyên nhân dẫn đến sự hình thành một kết quả có
thể diễn ra theo các hướng thuận, nghịch khác nhau và đều có ảnh hưởng đến sự
hình thành kết quả nhưng vị trí, vai trò của chúng là khác nhau: có nguyên nhân
trực tiếp, nguyên nhân gián tiếp, nguyên nhân bên ừong, nguyên nhân bên
ngoài...
+ Một nguyên nhân có thể dẫn đến nhiều kết quả, trong đó có kết quả chính,
kết quả phụ, trực tiếp và gián tiếp, cơ bản và không cơ bản...
-

Nếu nhiều nguyên nhân cùng tồn tại và tác động cùng chiều trong một sự vật thì
chúng sẽ gây ảnh hưởng cùng chiều dẫn đến sự hình thành kết quả, làm cho kết
quả xuất hiện nhanh hơn. Ngược lại, nếu những nguyên nhân tác động đồng thời
theo các hướng khác nhau, thì sẽ cản trở tác dụng của nhau, thậm chí triệt tiêu tác
dụng của nhau. Điều đó sẽ ngăn cản sự xuất hiện của kết quả.

-

Khi các nguyên nhân tác động cùng lúc lên sự vật thì hiệu quả tác động của từng
nguyên nhân dẫn đến việc hình thành kết quả sẽ khác nhau, tùy thuộc vào hướng
tác động của nó.

-

Nguyên nhân sinh ra kết quả, song kết quả có thể tác động trở lại nguyên nhân đã

sinh ra nó, nếu nguyên nhân đó chưa mất đi. Sự ảnh hưởng tác động trở lại theo
hai hướng: Hướng tích cực (tức là thúc đẩy sự hoạt động của nguyên nhân),
hướng tiêu cực (tức là cản trở sự hoạt động của nguyên nhân). - Trong sự vận
động của thế giói vật chất, không có nguyên nhân đầu tiên và không có kết quả
cuối cùng. Nguyên nhân và kết quả có thể chuyến hóa cho nhau. Một sự vật, hiện
tượng nào đó trong mối quan hệ này là kết quả, song trong mối quan hệ khác lại
là nguyên nhân. Trong thế giói chuỗi quan hệ nhân - quả là vô cùng, vô tận,
không có điểm bắt đầu và không có điểm kết thúc. Một hiện tượng nào đó được
coi là nguyên nhân hay kết quả bao giờ cũng được xét trong mối quan hệ xác
định, ở một không gian, thòi gian cụ thể.
Ph.Ăngghen có viết: “ Chúng ta thấy rằng nguyên nhân và kết quả khi được

áp dụng trong trường hợp riêng biệt nhất định, nhưng một khỉ chúng ta nghiên
cứu trường hợp riêng biệt ẩy trong mối liên hệ chung của nỏ với toàn bộ thế giới
thì những khái niệm ẩy vẫn gắn bó với nhau và xoắn xuýt với nhau trong một


khái niệm về sự tác động qua lại lẫn nhau một cách phổ biến, trong đó nguyên
nhân và kết quả luôn thay đổi vị trí cho nhau, cái ở đây hoặc trong lúc này là
nguyên nhân thì ở chỗ khác hoặc ở lúc khác lại là kết quả và ngược /<«*”[13,
tr.38]

Ph.Ăngghen khẳng định: Nguyên nhân và kết quả là những biểu tượng có ý
nghĩa là nguyên nhân và kết quả khi nào được áp dụng vào một trường hợp riêng
biệt, nhưng khi ta xét trường hợp riêng biệt ấy trong mối quan hệ chung của nó
với toàn bộ thế giới thì nguyên nhân hội tụ lại và quyện vào nhau trong biểu
tượng về sự tác động qua lại phổ biến, trong đó nguyên nhân và kết quả luôn đổi
vị trí cho nhau, cái ở đây bây giờ là nguyên nhân thì ở chỗ khác hay lúc khác lại
thảnh kết quả và ngược lại.
Tính chất

Phép biện chứng duy vật của Triết học Mac- Lênin khẳng định mối liên hệ
nhân quả có tính khách quan, tính phổ biến và tính tất yếu. Cụ thể:
-

Tính khách quan:
Mối liên hệ nhân quả là cái vốn có của bản thân sự vật, hiện tượng, không
phụ thuộc vào ý thức con người. Dù con người biết hay không biết thì các sự vật
vẫn tác động lẫn nhau và tác động đó tất yếu gây nên những biến đổi nhất định.
Con người chỉ phản ánh vào trong đàu óc mình những tác động và những biến
đổi, tức là mối liên hệ nhân quả của hiện thực chứ không sáng tạo ra mối liên hệ
nhân quả hiện thực từ trong đầu óc mình

-

Tính phổ biến
Mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội đều có nguyên nhân nhất
định gây ra. Không có hiện tượng nào mà không có nguyên nhân, chỉ có điều là
nguyên nhân đó được nhận thức hay chưa mà thôi. Không nên đồng nhất vấn đề
nhận thức của con người về mối liên hệ nhân quả với vấn đề tồn tại của mối liên
hệ đó trong hiện thực
- Tính tất yếu
Cùng một nguyên nhân nhất định, trong những điều kiện giống nhau sẽ gây
ra kết quả như nhau. Tuy nhiên trong thực tế không có sự vật nào tồn tại trong


những điều kiện, hoàn cảnh giống nhau. Do tính tất yếu của mối liên hệ nhân quả,
trên thực tế phải hiểu được là: Nguyên nhân tác động trong những điều kiện,
hoàn cảnh càng ít khác nhau bao nhiêu thì kết quả do chúng gây ra càng giống
nhau bấy nhiêu.
1.1.3.


Ỷ nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện chứng giữa

nguyên nhân và kết quả
Từ việc phát hiện ra mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả,
Triết học Mác-Lênin nêu ra một số ý nghĩa phương pháp luận cho mối quan hệ
này để ứng dụng vào thực tiễn và tư duy, cụ thể là:
Vì mối quan hệ nhân quả là mối quan hệ có tính khách quan, nên trong nhận
thức và thực tiễn không thể phủ nhận quan hệ nhân- quả. Trong thế giới hiện thực
không thể tồn tại những sự vật, hiện tượng hay quá trình biến đổi, không có
nguyên nhân nào không dẫn đến kết quả nhất định.
Vì mối quan hệ nhân quả rất phức tạp, đa dạng nên phải phân biệt chính xác
các loại nguyên nhân để có phương pháp giải quyết đúng đắn, phù hợp với những
trường hợp cụ thể tiong nhận thức và thực tiễn.
Vì một nguyên nhân có thể dẫn đến nhiều kết quả và ngược lại một kết quả
có thể do nhiều nguyên nhân tạo ra nên trong nhận thức và thực tiễn càn có cách
nhìn nhận mang tính toàn diện và lịch sử cụ thể trong phân tích, giải quyết và ứng
dụng quan hệ nhân quả.
Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan và tính phổ biến, nghĩa là không có
sự vật, hiện tượng nào trong thế giói vật chất lại không có nguyên nhân, nhưng
không phải con người có thể nhận thức ngay được mọi nguyên nhân. Nhiệm vụ
của nhận thức khoa học là phải tìm ra nguyên nhân của những hiện tượng trong
tự nhiên, xã hội và tư duy để giải thích được những hiện tượng đó.
Muốn tìm được nguyên nhân phải tìm trong thế giới hiện thực, trong bản thân các
sự yật, hiện týợng tồn tại trong thế giói vật chất chứ không phải trong týởng
týợng của ðầu óc con ngýời tách rời thế giới hiện thực.
Vì nguyên nhân luôn có trước kết quả nên muốn đi tìm nguyên nhân của
một hiện tượng nào đó cần tìm trong mối liên hệ xảy ra trước khi hiện tượng đó



xuất hiện.
Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân gây ra, những nguyên nhân này có
vai trò khác nhau, tìm ra nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân
chủ quan, nguyên nhân khách quan, đồng thời phải nắm được chiều hướng tác
động của nguyên nhân. Từ đó có biện pháp thích hợp để tạo điều kiện cho
nguyên nhân có tác động tích cực hoạt động và hạn chế hoạt động của nguyên
nhân có tác động tiêu cực.
1.2.
1.2.1.

Môi trường sinh thái
Khái niệm môi trường sinh thái
Khái niệm môi trường
Ngày nay con người đã và đang phải dối mặt với hàng loạt các vấn đề mang

tính toàn cầu, một trong số đó là môi trường. Hằng ngày những tình trạng báo
động như mất cân bằng sinh thái, tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, nạn săn bắt
động vật hoang dã... luôn xảy ra đe dọa trực tiếp sự tồn tại, phát triển của con
người và xã hội loài người. Vì vậy nhiều tổ chức quốc tế, các nhà khoa học khắp
nơi ừên thế giới đã lên tiếng cảnh báo mức độ gia tăng theo chiều hướng xấu đi
của môi trường.
Có thể thấy môi trường là một khái niệm khá rộng và tương đối phức tạp.
chính vì vậy tùy vào cách nhìn nhận mối quan hệ của thực tế (sinh thể) với các
điều kiện xung quanh và phạm vi xem xét, nói chung khái niệm môi trường được
hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
Thứ nhất, môi trường được hiểu là toàn bộ thế giới vật chất, vói tất cả sự đa
dạng, muôn màu, muôn vẻ, nó luôn tồn tại khách quan. Môi trường hiểu theo
nghĩa như vậy thì được gọi là môi trường toàn cầu, môi trường trái đất và những
điều kiện xung quanh trái đất. Nó bao gồm cả thạch quyển, thủy quyển.
Thứ hai, môi trường được hiểu là môi trường sống, là phàn của thế giới vật

chất đã và đang tồn tại sự sống, hay còn gọi là sinh quyển. Môi trường sống bao
gồm trong đó những điều kiện hữu cơ, vô cơ liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp
đến sự tồn tại, phát triển của các sinh thể.
Thứ ba, môi trường sống còn được hiểu là môi trường của con người và xã


hội loài người. Nó bao gồm sinh quyển và các điều kiện xã hội. Nói cách khác đó
là môi trường tự nhiên- xã hội, môi trường sinh thái nhân văn.
Trên thực tế cho đến nay ở Việt Nam và thế giới đã có khá nhiều công trình
bàn đến khía cạnh của vấn đề này và đề xuất nhiều vấn đề khác về khái niệm môi
trường. Năm 1981 Tổ chức Giáo dục của Liên Hợp Quốc (UNESCO) đã đưa ra
một định nghĩa về khái niệm này như sau: Môi trường bao gồm toàn bộ các hệ
thống tự nhiên và nhân tạo, ừong đó con người sinh sống và bằng lao động của
mình đã khai thác những tài nguyên thiên nhiên hay nhân tạo để thỏa mãn nhu
càu của mình. Ở nước ta, một số tác giả từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau cũng
đã đưa ra quan niệm khác nhau về vấn đề này.
Khi bàn đến khái niệm môi trường có ý kiến cho rằng: Đứng về mặt sinh
học thì “ Môi trường là tất cả yếu tố xung quanh bao gồm các nhân tố vô sinh và
hữu sinh ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống, sự phát triển, sự sinh
sản của sinh vật”. Tuy nhiên tác giả của quan điểmtrên cũng nhấn mạnh rằng, đối
với môi trường của con người thì phải được hiểu theo nghĩa rộng hơn. Nó bao
gồm toàn bộ hệ thống tự nhiên và những gì do con người sáng tạo ra như các hệ
sinh thái nhân tạo, những nhóm và hội môi trường văn hóa... trong đó con sống,
khai thác và hoạt động của mình, những nguồn lợi từ tự nhiên và nhân tạo cho
phép thỏa mãn những nhu cầu của con ngưòi.[3,tr.6]
Tác giả khác,khi xác định khái niệm môi trường lại nhấn mạnh đến mối
quan hệ giữa môi trường và cơ thể sinh vật sống trong môi trường đó. Theo ý
kiến này, hiểu theo nghĩa rộng thì môi trường bao gồm tất cả những gì ở xung
quanh một đối tượng và có mối quan hệ nhất định đến nó. Nếu đối tượng đó là
một cơ thể sinh vật thì môi trường là tất cả những gĩ trực tiếp hay gián tiếp ảnh

hưởng đến sự sinh trưởng, phát triển, tồn tại của cơ thể đó. Vì vậy cơ thể sống và
môi trường có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, tạo thả nh một hệ thống nhất
định.
Dựa vào những cách hiểu trên và từ góc độ triết học, xã hội, có thể định nghĩa
khái niệm môi trường như sau “Mổỉ' trường là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ

những điều kiện xung quanh và thực thể luôn tồn tại mối quan hệ ảnh hưởng tác


động lẫn nhau. Đổi với con người và xã hội loài người, các điều kiện bao quanh
đó không chỉ là điều kiện tự nhiên mà còn là điều kiện xã hội ’ ’ [3,tr.5]
Như vậy, nó đến bảo vệ môi trường là nói đến môi trường sinh thái nhân
văn- môi trường sống của con người và xã hội loài người. Con người ở đây phải
được hiểu trên cả 2 mặt: Một là thực thể tự nhiên có những nhu càu sống như
sinh vật khác, đồng thời là một thực thể xã hội mà xã hội là bộ phận không thể
tách rời tự nhiên.
Tóm lại nhìn chung có thể thấy rằng, môi trường là tất cả những gì xung
quanh chúng ta, cho ta cơ sở để sống và phát triển. Khái niệm môi trường sống
của con người và xã hội loài người rất rộng, trong đó bao gồm tất cả những điều
kiện tư nhiên và điều kiện xã hội. Thực tế con người theo đúng nghĩa của từ
này,không chỉ sống bằng nhu cầu mang tính bản năng tự nhiên, hơn thế cò tồn tại,
phát triển trong hàng loạt mối quan hệ đa dạng, phong phú. Tuy nhiên môi trường
ở đây mà bài khóa luận đề cập trước hết và chủ yếu giới hạn ở khía cạnh các điều
kiện tự nhiên, nghĩa là môi trường tự nhiên- môi trường sinh thái.
Khái niệm môi trường tự nhiên- môi trường sinh thái
Sinh thái theo tiếng Hy Lạp là “oikos”, có nghĩa là nhà ở, nơi cư trú,nơi sinh
sống của các sinh vật từ nhỏ bé nhất đến lớn nhất, trong đó có cả con người. Vì
vậy môi trường sinh thái có nghĩa là môi trường tự nhiên, là môi trường sống hay
nhà ở sinh vật, bao gồm tất cả điều kiện tự nhiên xung quanh liên quan đến sự
sống của sinh thể, bao gồm các nhân tố chủ yếu là: Nhân tố vô cơ ( đất, nước,

không khí...), các nhân tố hữu cơ ( vi sinh vật, nấm, động vật, thực vật...), con
người. Giữa các nhân tố này có liên hệ chặt chẽ với nhau và hoạt động của chúng
phải theo những quy luật cơ bản của sinh thái học, cụ thể là nguyên tắc tự tổ
chức, tự điều chỉnh, tự bảo vệ, tự làm sạch của sinh quyển. Trong môi trường tự
nhiên sự tác động của con người vào giói tự nhiên là tác động có ý thức, có quy
mô rộng lớn nên hoạt động của con người có tác động làm thay đổi mạnh mẽ môi
trường sinh thái, cụ thể: Nó có thể làm cho môi trường sinh thái trở nên phong
phú, đa dạng, giàu có hơn, phát triển hơn, nhưng bên cạnh đó cũng có thể làm
cho chúng bị suy thoái.


Như vậy có thể khẳng định rằng, cách thức tác động của con người vào tự
nhiên là nhân tố quyết định đế sự sinh tồn của bản thân con người nói riêng và tất
cả sự sống trên Trái Đất nói chung bỏi: Chỉ có con người mới đật được đến cái in
cái dấu của mình lên giói tự nhiên, không chỉ bằng cách di chuyển các loài động
vật và thực vật từ chỗ này sang chỗ khác mà còn làm biến đổi cả diện mạo, thậm
chí còn làm biến đổi cả cây cối và các thú vật tới một mức độ mà kết quả hoạt
động của họ chỉ có thể biến mất khi nào toàn bộ Trái Đất tiêu vong [2,tr.475]
Từ các khái niệm về môi trường, sinh thái trên cơ sở kế thừa có chọn lọc
những quan niệm môi trường sinh thái của các công trình công bố và dựa trên
quan điểm duy vật biện chứng, thì môi trường sinh thái là một khái niệm rộng lớn
“ bao gồm tất cả những điều kiện xung quanh cỏ liên quan đến sự sổng của sinh thể”.
Đối với con người, môi trường sinh thái là tất cả những điều kiện si nh thái, là tất
cả những điều kiện tự nhiên, cả vô cơ và hữu cơ có liên quan đến cuộc sống của
con người, sự tồn tại và phát triển của xã hội. Như vậy, môi trường sinh thái là
môi trường có liên quan trực tiếp đến sự sống của con người và xã hội loài ngưòi.
[2,tr.487]
1.2.2.

Kết cẩu môi trường sinh thái

Môi trường tự nhiên- môi trường sinh thái là một khái niệm rộng lớn, tùy

thuộc vào từng góc độ nghiên cứu mà kết cấu của môi trường sinh thái có sự
phân chia riêng, song tựu chung lại cấu trúc của môi trường sinh thái gồm 4
thành phần cơ bản là: Thạch quyển, sinh quyển, thủy quyển, khí quyển
Thạch quyển
Theo các tư liệu về thiên văn học, Trái Đất là một hành tinh trong hệ Mặt
Tròi, hệ Mặt Tròi của Trái Đất- Thái Dương hệ, là một trong hàng triệu hệ thống
tương trợ thuộc một thiên hà có tên là ngân hà. Trong vũ trụ bao la và không có
biên giới có hàng triệu thiên hà như vậy, vũ rụ luôn tồn tại và biến động, ở nơi
này có các thiên hà hay là một hệ Mặt Trời mới được hình thành thì ở nơi khác có
thể có một hệ Mặt Trời hay thiên hà đang đi tới diệt vong. Cho tới bây giờ các
nhà khoa học trên Trái Đất chưa trả lời rõ ràng được câu hỏi: Vũ trụ bắt đầu như
thế nào, và kết thúc ra sao? Một học thuyết giải thích cho sự hì nh thành của vũ trụ


được nhiều người ủng hộ nhât là lí thuyết về vụ nổ lớn Bigbang. Để giải thích
cho sự hình thành và cấu trúc Trái Đất chúng ta bắt đàu từ sự kiện có thể tìm thấy
và chứng minh là đám mây bụi Thái Dương Hệ. Từ đám mây tồn tại vào thời
điểm cách đây 4,6 tỷ năm đã hình thành nên hệ Mặt Trời và các hành tinh, trong
đó có Trái Đất.
Thủy quyển
Nước là môi trường quan trọng của sự sống, sự sống lần đầu tiên phát si nh
trong nước và những bước tiến hóa đàu tiên của sự sống cũng diễn ra trong môi
trường nước.
Từ nghiên cứu có khoảng 71% (301N/cm2) là mặt Trái Đất được bao phủ
bởi mặt nước đã có nhiều nhà khoa học đề nghị thay vì gọi Trái Đất nên gọi bằng
“Trái Nước”. Nước được coi là dạng thực vật càn cho tất cả sinh vật sống trên
Trái Đất và là môi trường sống của nhiều loài. Nước tồn tại trên Trái Đất ở 3
dạng: rắn (băng,tuyết), thể lỏng và thể khí (hơi nước), trong trạng thái chuyển

động ( sông, suối) hay tương đối tĩnh ( ao, hồ, biển). Toàn bộ nước trên Trái Đất
tạo nên thủy quyển, phần lớn lớp nước phủ trên Trái Đất là biển và đại dương.
Hiện nay nhưòi ta chia thủy quyển làm bốn đại dương bốn vùng biển và một
vùng vịnh lớn, ngoài ra trên các lục địa còn có mạng lưới sông, suối dày đặc và
nhiều hồ lớn nhỏ.
Sinh quyển
Khái niệm về sinh quyển lần đầu tiên được nhà bác học người Nga
V.T.Vemadske đề xướng vào năm 1926. Sinh quyển là toàn bộ các dạng vật chất
sống tồn tại bên trong, bên ừên và phía trên Trái Đất hay lớp vỏ sống của Trái
Đất, trong đó các cơ thể sống và hệ sinh thái hoạt động. Đây là một hệ thống
động và rất phức tạp. Nhờ hoạt động của các hệ sinh thái mà năng lượng ánh
sáng mặt trời đã bị biến đổi cơ bản để tạo thành vật chất hữu cơ trên Trái Đất. Sự
sống trên Trái Đất được phát triển nhờ sự tổng họp các mối liên hệ tương hỗ giữa
các sinh vật với môi trường tạo thành dòng liên tục trong quá trình trao đổ vật
chất và năng lượng.
Nơi sinh sống của sinh vật trong sinh quyển bao gồm môi trường cạn ( địa


quyển ), môi trường không khí (khí quyển) hoặc môi trường mặt nước hay nước
ngọt(thủy quyển). Đại bộ phận các sinh vật không sinh sống ở các địa hình quá
cao, càng lên cao số lượng loài càng giảm, giống ánh sáng thủy quyển và khí
quyển, sinh quyển chứa chủ yếu các yếu tố nhẹ hơn số lượng các nguyên tử, sinh
quyển được cấu tạo từ 90% Hiđrô, oxy, cacbon và nitơ, bốn nguyên tố này được
tìm thấy ở trong tất cả các sinh vật sống trên Trái Đất.
Khí quyển
Khí quyển là lớp vỏ ngoài của Trái Đất, vói ranh giới dưới là bề mặt thủy
quyển, thạch quyển và ranh giới trên là khoảng không giữa các hành tinh. Khí
quyển trên Trái Đất được hình thành do sự thoát hơi nước, các chất khí từ khí
quyển và thạch quyển. Khí quyển chr yếu gồm hơi nước, amoniac, meetan, các
loại khí trơ, hidro. Dưới tác dụng phân hủy của tia sáng mặt tròi hơi nước bị phân

hủy thành oxy và hidro. Oxy tác dụng với amoniac và mêtan tạo ra nitơ và
cacbonic. Quá trình tiếp diễn, một lượng hidro nhẹ mất vào khoảng không, khí
quyển còn lại chủ yếu là hơi nước, nitơ, cacbonic và một ít oxy. Thực vật xuất
hiện trên Trái Đất cùng với quá trình quang hợp đã tạo nên một lượng lớn oxy và
làm giảm đáng kể nồng độ cacbonic trong khí quyển. Sự kiện có mặt với nồng độ
cao của oxy trong khí quyển Trái Đất vào khoảng 500 triệu năm trước đây, có thể
chứng minh điều đó bằng sự hình thành hàng loạt các mỏ trầm tích trên các thềm
lục địa cổ như: Nền Nga và nền Nam Phi. Sự phát triển mạnh mẽ của động thực
vật trên Trái Đất cùng vói sự gia tăng bài tiết, phân hủy xác chết động thực vật,
đã làm cho nồng độ khí nitơ trong khí quyển tăng lên nhanh chóng để đạt được
phần khí quyển như hiện nay.[3,ư.23]
1.3.

Nội dung của sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân

và kết quả vào việc bảo vệ môi trường sinh thái
Xu thế toàn cầu hóa đã làm thay đổi bộ mặt thế giới về kinh tế, ch ính trị, xã
hội, nhưng bên cạnh đó con người cũng đang phải đối mặt với một trong những
hiểm họa đang đe dọa cuộc sống của mình, đó là ô nhiễm môi trường. Chính con
người chúng ta đang tự hủy diệt cuộc sống của mình. Ở bất kì đâu trên thế giói
tình ừạng ô nhiễm môi trường vẫn đang được diễn ra mặc cho những cảnh báo.


Vì vậy bảo vệ môi trường là một điều tất yếu. Sự vận dụng mối quan hệ biện
chứng giữa nguyên nhân và kết quả được thể hiện như sau:
1.3.1.

Việc giải quyết vẩn đề ô nhiễm môi trường sinh thái phải bắt đầu

từ việc tìm ra các nguyên nhân của nó

Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ khách quan, vì
vậy không sự vật nào là không có nguyên nhân, nguyên nhân là cái có trước sinh
ra kết quả cho nên việc đề ra các biện pháp bảo vệ môi trường sinh thái phải
được xuất phát từ việc đi tìm nguyên nhân
Môi trường đang là vấn đề mang tính toàn cầu, đặc biệt là ô nhiễm môi
trường đang dần hủy hoại cuộc sống của chính chúng ta. Có thể thấy hiện nay
môi trường không khí trên thế giới đang bị ô nhiễm nặng nề, là một trong những
nguyên nhân gây thủng tầng ôzôn, biến đổi khí hậu ảnh hưởng nghiêm trọng đến
cuộc sống, sức khỏe người dân. Do vậy để khắc phục tình trạng này ta phải đi tìm
nguyên nhân sinh ra kết quả, nguyên nhân chính ở đây là do sự gia tăng của các
phưomg tiện xe cơ giới, khí thải của các nhà máy, khu công nghiệp, hoạt động
nông nghiệp, đặc biệt là Trung Quốc và Mĩ, 2 nước được xem là đã thải nhiều khí
thải nhất trên thế giói. Như vậy xuất phát từ việc tim hiểu nguyên nhân ta có thể
đưa ra các biện pháp như: giảm thiểu các phương tiện tham gia giao thông,
khuyến khích người dân sử dụng các phương tiện công cộng, các nhà máy phải
đầu tư công nghệ tiên tiến, yêu cầu các nước phải kí cam kết cắt giảm lượng khí
thải, nhất là các nước phát triển, trồng cây xanh...
Như vậy bằng việc đi tìm nguyên nhân của tình trạng trên ta sẽ đề ra được
biện pháp như: bắt các nhà máy phải kí cam kết đầu tư hệ thống xử lí nước thải,
hoàn thiên hệ thống pháp luật, xử lí nghiêm minh các trường họp vi phạm...
Tóm lại, để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái trước hết
phải bắt đầu từ việc đi tìm nguyên nhân, hiểu được nguyên nhân, từ đó mới có
thể đề ra được những biện pháp mang lại kết quả tốt.
1.3.2.

Thực hiện có hiệu quả đồng thời các biện pháp để bảo vệ môi

trường sinh thái trên cơ sở khắc phục tất cả những nguyên nhân sinh ra thực
trạng của môi trường



Vì một kết quả cỏ thể được sinh ra bởi rất nhiều những nguyên nhân khác
nhau, có thể tác động cùng lúc hay riêng lẻ nên khi xem xét giải quyết vẩn đề cần
tìm đầy đủ những nguyên nhân gây ra kết quả, xác định nguyên nhân trực tiếp,
nguyên nhân gián tiếp để kịp thời đưa ra biện pháp.
Việc tìm ra những nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường sinh thái có ý nghĩa
vô cùng quan trọng, bởi khi phát hiện ra được nguyên nhân, trên cơ sở đó sẽ có
cách thức, biện pháp tác động để khắc phục được hậu quả.
Ta thấy tình trạng ô nhiễm môi trường đất hiện nay là kết quả do hàng loạt
các nguyên nhân mang lại như: Biến đổi khí hậu, người dân xả rác bừa bãi, do
chiến tranh, do hoạt động công nghiệp, nông nghiệp...điều này ảnh hưởng trực
tiếp đến sản xuất, sức khỏe người dân khiến chất lượng cuộc sống đi xuống, nên
để khắc phục tình trạng này trước tiên ta cần phải xem xét tìm ra tất cả những
nguyên nhân gây ra kết quả là ô nhiễm môi trường đất. Phải xác định được
nguyên nhân gián tiếp và nguyên nhân trực tiếp gây ra kết quả, cụ thể: ở đây
nguyên nhân gián tiếp là do trình độ dân trí còn thấp nên thiếu kiến thức về bảo
vệ môi trường, do tác động của biến đổi khí hậu, do tác động của xu thế toàn cầu
hóa...,nguyên nhân trực tiếp là do tình trạng người dân chặt phá rừng, xả thải trực
tiếp nước thải chưa qua xử lí ra môi trường, ... bằng việc tìm hiểu cụ thể những
nguyên nhân trên ta sẽ đề ra thực hiện đồng thòi một nhóm các biện pháp khắc
phục, đó là: Ngăn chăn việc chặt phá rừng để tránh xói mòn sạt lở ðất, tiến hành
xử lí ðất ở những nõi bị ô nhiễm ðiôxin, chất phóng xạ ðể ngýời dân sinh sống an
toàn, hạn chế sử dụng thuốc trừ sâu trong nông nghiệp, nâng cao ý thức người
dân, ngăn chặn việc xả nước thải chưa qua xử lí...Có vậy, tình ừạng ô nhiễm môi
trường đất sẽ được hạn chế.
Qua đây, ta có thể thấy rằng tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái không
chỉ do một nguyên nhân gây ra mà do rất nhiều những nguyên nhân gây ra. Do đó
nhiệm vụ của chúng ta là cần nhận thức đầy đủ các nguyên nhân gây ra kết quả,
từ đó có được những biện pháp hiệu quả, kịp thòi.
1.3.3.


Tác động vào các nguyên nhân dẫn tới xu hướng môi trường sinh

thái phát triển ngày càng hoàn thiện


Vì một nguyên nhân có thể dẫn đến nhiều kết quả khác nhau, tùy thuộc vào
hoàn cảnh, điều kiện cụ thể có thể tác động theo các chiều hướng khác nhau có
thể tiêu cực, tích cực. Do đó khỉ đưa ra biện pháp ta cần hạn chế nguyên nhân
tiêu cực và phát huy nguyên nhân tích cực
Có thể thấy hiện nay việc đẩy mạnh tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước là một xu thế tất yếu nhằm xây dựng cơ sở vật chất- kĩ thuật của chủ
nghĩa xã hội, tạo điều kiện phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động
xã hội, giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế, tránh nguy cơ tụt hậu. Để tiến hành đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa chúng ta đã tận dụng mọi nguồn lực, biện pháp tiến
hành để phát triển, tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được ta cũng đang
phải đối mặt với không ít những vấn đề tiêu cực nảy sinh như: Đạo đức con
người đi xuống, chạy theo lợi nhuân bắt chấp thủ đoạn, một số các giá trị truyền
thống bị phai mờ, đặc biệt trong đó có vấn đề ô nhiễm môi trường sinh thái. Có
thể thấy khí thải của các phương tiện cơ giới cùng vói hoạt động của các khu
công nghiệp...gây ra ô nhiễm không khí; chất thải chưa qua xử lí, hóa chất...
trong các hoạt động sản xuất công nghiệp và nông nghiệp thì gây ra hiện tượng ô
nhiễm môi trường đất, nước, ảnh hưởng nghiêm ừọng đến sản xuất, cuộc sống,
sức khỏe con người.
Vĩ vậy, biện pháp để khắc phục tình trạng này không phải là dừng việc tiến
hành đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bởi đây là một việc làm
tất yếu cần thiết để đưa kinh tế đất nước đi lên mà biện pháp càn thức hiện ở đây
đó là việc vẫn tiếp tục tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng
phải đi đôi với công tác bảo vệ môi trường sinh thái thông qua những việc làm cụ

thể như: Tuyên truyền nâng cao nhận thức người dân về sự cần thiết phải bảo vệ
môi trường, đầu tư xây dựng hệ thống tiên tiến xử lí nước thải và khói bụi trước
khi xả thải, áp dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất, hoàn thiện hệ thống pháp
luật, xử lí nghiêm minh những trường hợp vi phạm về môi trường...
Như vậy ở đây rõ ràng là chỉ một nguyên nhân nhưng lại gây ra rất nhiều
những hậu quả khác nhau, nguyên nhân ấy có thể mang lại kết quả tốt cũng có


thể mang lại kết quả xấu tùy vào hoàn cảnh, điều kiện. Do vậy biện pháp càn tiến
hành đó là khắc phục những mặt tiêu cực do nguyên nhân đem lại và phát huy
mặt tích cực, nhờ vậy môi trường sinh thái se được bảo vệ.
Qua đây có thể thấy ô nhiễm môi trường đang là vấn đề mang thủi toàn cầu
gây ra những biến đổi tiêu cực ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống con người, làm
gia tăng tình trạng nghèo đói, nguy cơ bệnh tât. Tất cả những biến đổi về môi
trường như: ô nhiễm không khí, đất, nước đều có nguyên nhân của nó. Vì vậy khi
đưa ra bất kì biện pháp nào ta cũng cần phải xuất phát từ nguyên nhân, tìm được
nguyên nhân dẫn đến kết quả, xác định được nguyên nhân mang lại kết quả tốt
hay xấu. Từ đó mới có thể đưa ra được các biện pháp thực sự đúng đắn, phù họp
và phát huy được tính hiệu quả.


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG SINH THÁI Ở
HUYỆN MÊ LINH TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
HIỆN NAY VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA THựC TRẠNG ĐÓ
2.1.

Vài nét khái quát về điều kiện tự nhiên và kỉnh tế- xã hội ở huyện Mê

Linh ( Hà Nội)

2.1.1.

về điều kiện tự nhiên

Huyện Mê Linh nằm ở phía Tây Bắc của thả nh phố Hà Nội, cách trung tâm
Hà Nội 30km. Địa giói của huyện giáp với các khu vực sau:
Phía Bắc giáp thị xã Phúc Yên
Phía Tây giáp huyện Yên Lạc, huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc
Phía Nam giáp huyện Đan Phượng
Phía Đông giáp huyện Đông Anh, Sóc Sơn
Mê Linh là huyện nằm trong vùng đồng bằng Sông Hồng, địa hình tương
đối bằng phẳng, thấp dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam theo hướng ra Sông
Hồng. Với diện tích tự nhiên là 14.251 ha, theo đặc điểm địa hình huyện Mê Linh
được chia thành 3 tiểu vùng sau:
Tiểu vùng đồng bằng chiếm 47% diện tích đất tự nhiên toàn huyện, có địa
hình nhấp nhô, lượn sóng với độ dốc khoảng 8o, do phù sa cũ của hệ thống Sông
Hồng, Sông Cà Lồ bồi đắp bao gồm các xã Tự Lập, Tiến Thắng, Thanh Lâm, Đại
Thinh, Kim Hoa, Quang Minh, Mê Linh, Tiền Phong. Thích hợp cho trồng cây
rau màu.
Tiểu vùng ven đê Sông Hồng chiếm 23% diện tích đất tự nhiên của huyện,
có địa hình tương đối bằng phẳng, bao gồm các xã Tiến Thịnh, Chu Phan, Thạch
Đà, Hoàng Kim, Văn Khê, Tráng Việt. Tiểu vùng địa hình này có diện tích đất đất
phù sa giàu hàm lượng dinh dưỡng, được Sông Hồng bồi đắp hàng năm, do vậy
thích họp cho phát triển sản xuất nông nghiệp. Với phân bố ven Sông Hồng một ố
xã có thể phát triển du lịch sinh thái như Chu Phan, Tráng Việt.
Tiểu vùng trũng chiếm 30% diện tích đất toàn huyện bao gồm các xã Tam
Đồng, Liên Mạc và một phần còn lại của các xã ven Sông Hồng. Tiểu vùng trũng


là đất bãi ngoài đê phù họp cho phát triển nông nghiệp kĩ thuật cao.

Hệ thống sông, hồ, kênh và đầm trên địa bàn huyện có tác động lớn về thủy
lợi, ngoài ra chế độ thủy văn của cả huyện phụ thuộc vào chế độ thủy văn của
Sông Hồng.
Huyện Mê Linh thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm với 4 mùa
trong năm,trong đó có 2 mùa rõ rệt: Mùa nóng từ tháng 4- tháng 11, mùa lạnh từ
tháng 12- tháng 3.
Nhìn chung khí hậu của huyện tương đối thuận lợi cho phát triển sản xuất
nông nghiệp, tuy nhiên hàng năm do xuất hiện mưa bão nên rửa trôi đất đất canh
tác vùng phía Bắc, ngập úng cục bộ vùng phía Nam ảnh hưởng nhiều đến sản
xuất nông nghiệp.
2.1.2.

Điều kiện kinh tế- xã hội huyện Mê Linh
- Điều kiện kinh tế
Trong những năm qua mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, tuy nhiên kinh tế

của huyện vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao và ổn định bình quân đạt
20,8%/năm, gấp 1,6 làn tốc độ tăng trung bình của toàn thả nh phố, trong đó: Công

nghiệp- xây dựng tăng bình quân 25,1%/năm, các nghành dịch vụ tăng bình quân
trên 15,6%, nông nghiệp tăng bình quân 1,7%. Năm 2010 tổng giá trị sản xuất
trên địa bàn huyện đạt trên 10.700 tỷ đồng, bình quân đầu người trên 55 triệu
đồng/ năm, con số này gấp 1,5 lần huyện Hoài Đức, 1,36 lần huyện Thạch Thất.
Tỷ ữọng nghành lâm nghiệp, nông nghiệp, thủy sản giảm mạnh từ 19,7%
năm 2005 xuống còn 10,2% năm 2010. Nhiều sản phẩm công nhiệp, dịch vụ mới
có giá trị kinh tế cao được mở ra và phát triển như: Lắp ráp ô tô, linh kiện điện tử,
dược, bia.. .Giá trị sản xuất công nghiệp- dịch vụ tăng trưởng khá, năm 2010 ước
đạt 3.590 tỷ đồng. Cơ cấu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng so với
toàn kinh tế tăng từ 76,3% năm 2005 lên 86,7% năm 2010.[17,tr.22]
Cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp chuyển biến tích cực theo hướng tăng tỷ

trọng giá trị nghành chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp và các loại sản phẩm nghành
trồng trọt, hình thành các vùng trồng rau, ữồng hoa và cây ăn quả rõ nét, tăng
cường dịch vụ khoa học- kĩ thuật trong sản phẩm nông nghiệp.


Chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra còn mang tính tự phát, chưa có quy
hoạch thống nhất về việc đầu tư, vì vậy chưa mang tính tập trung cao. Việc
chuyển dịch cơ cấu nghành mói chỉ chú ừọng vào nghành công nghiệp.
- Điều kiện xã hội

Năm 2010 dân số toàn huyện là 193.727 người (thành thị chiếm 9,77%,
nông thôn chiếm 90,23%) chiếm 0,3% dân số toàn thành phố Hà Nội. Mạng lưới
các cơ sở Giáo dục- Đào tạo được phân bố ở các xã và thị trấn trong toàn huyện
với tổng diện tích là 83,49ha. Tuy nhiên cơ sở vật chất còn gặp nhiều khó khăn,
thiếu phòng chức năng ở hầu hết các cấp, trạng thiết bị mới chỉ đáp ứng tối thiểu
nhu cầu giảng dạy đổi mới, đội ngũ giáo viên và các cán bộ quản lí ở các cấp học
được đào tạo tương đối cơ bản.
Các phong trào xây dựng đời sống văn hoá mới được triển khai tích cực và
sôi động, đạt kết quả tốt và bước đầu đi vào nề nếp. Các hoạt động văn hoá, thể
dục thể thao được tổ chức sâu rộng, thiết thực góp phàn khơi dậy và phát triển
nhiều nét văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Nhiều cơ sở vật chất được
xây dụng. Một số lĩnh vực có bước phát triển tốt và chuyển biến rõ nét.
về phong ừào xây dựng nếp sống văn minh gia đình văn hóa. Tính đến nay

toàn huyện có 75% số hộ đạt gia đình văn hóa, 65% số làng đạt lằng văn hóa. số
Câu lạc bộ văn hóa, văn nghệ là 52
Các công trình văn hóa: Đến nay toàn huyện có 18 nhà văn hóa, thị trấn, 92
nhà văn hóa thôn, làng, tổ dân số. Song, hầu hết nhà văn hóa chủ yếu là cải tạo,
tận dụng từ hội trường của các xã, thị trấn, các công trình có sẵn của địa phương.
Số câu lạc bộ văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao là 52, toàn huyện mói có 6/18

xã xây dựng quy hoạch cho các công trình văn hóa - thể dục thể thao. Có 1 thư
viện (nằm ở xã Thạch Đà); có 1 nhà truyền thống (nằm ở xã Tiền Phong).
Sự nghiệp y tế có nhiều tiến bộ, cơ sở vật chất và trang thiết bị từng bước
được nâng cấp. Đội ngũ cán bộ, các ừang thiết bị phục vụ công tác chăm sóc sức
khỏe được củng cố kiện toàn; hoạt động y tế cơ bản hoàn thành nhiệm vụ, đáp
ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe nhân dân trên địa bàn.
Công tác dân số - gia đình - trẻ em : Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,58%; tỷ


lệ sinh con thứ 3 trở lên là 12%.
Triển khai thực hiện tốt các kế hoạch, các chương trình y tế hàng năm. Giám
sát, phát hiện, triển khai kịp thời các biện pháp phòng dịch, không để dịch bệnh
bùng phát, lan rộng. Tổ chức khám sức khoẻ định kỳ hàng năm cho học sinh các
trường tiểu học và Trung học Cơ sở trong huyện đạt kết quả tốt. Thực hiện tốt
công tác thanh kiểm tra, giám sát chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm. [17,tr.25]
Hệ thống giao thông đồng bộ, thuận tiện gồm: Mạng lưới đường bộ vành đai
3,4; quốc lộ 23B; có tuyến giao thông trọng điểm Bắc Thăng Long- Nội Bài.
Có nhiều điểm du lịch văn hóa- lịch sử và sinh thái như: Đồn thờ Hai Bà
Trưng, đồi 97 mùa xuân. Người dân có truyền thống yêu nước, lao động cần cù,
sáng tạo.
2.2.

Thực trạng môi trường sinh thái trong sản xuất nông nghiệp ở huyện

Mê Linh
2.2.1.

Thực trạng môi trường đất
- Tích cục
Môi trường đất huyện Mê Linh có nhiều cải thiện đáng kể, tình trạng đất bị


bỏ hoang còn ít đa phàn đã được đưa vào sử dụng, đất bạc màu, chai cứng được
cải tạo. Hệ thống thủy lợi ngày càng được chăm lo đầu tư nên nguồn nước cung
cấp cho hoạt động sản xuất nông nghiệp được đảm bảo, diện tích đất bị nhiễm
phèn, nhiễm mặn đều được giảm xuống do được xử lí bằng vôi và rửa trôi bằng
nước ngọt. Huyện đã xây dựng được mô hình vườn- ao- chuồng nhằm sử dụng có
hiệu quả quỹ đất, tránh được những độc hại do canh tác nông nghiệp gây ra.
Mê Linh hiện có hệ thống thủy lợi khá phát triển đã sử dụng 612,82 ha đất,
toàn huyện có gần 100 ữạm bơm tưới và tiêu với 576 km kênh (trong đó công ty
thủy nông quản lý 8 trạm bơm và 74,6 km kênh cấp I, II; xã và họp tác xã quản lý
86 trạm bơm và 501 km kênh mương cấp III) được phân bố đều trên các địa bàn,

về cơ bản đảm bảo tưới, tiêu cho diện tích canh tác của huyện.[17,tr.28]
- Hạn chế

Đất vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm lao động của con người,
tài nguyên quốc gia quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là môi trường sống, là


địa bàn xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng.
Trong công nghiệp là địa điểm, làm cơ sở để tiến hành các thao tác, trong nông
nghiệp là tư liệu sản xuất. Tuy nhiên môi trương đất nói chung và huyện Mê Li nh
nói nói riêng đang bị ô nhiễm
Qua tiến hành điều tra, chất lượng môi trường đất huyện Mê Linh được
khảo sát, đánh giá dựa trên các mẫu phân tích dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và
hàm lượng các kim loại nặng trong đất theo QCVN 15: 2008/BTNMT và QCVN
03: 2008/ BTNMT của Bộ Tài nguyên Môi trường về dư lượng hóa chất bảo vệ
thực vật và hàm lượng kim loại nặng trong đất.
Kết quả phân tích chất lượng môi trường đất được thực hiện thông qua 39
mẫu đất nông nghiệp trên địa bàn 16 xã huyện Mê Linh. Kết quả phân tích cho

thấy dư lượng một số loại thuốc bảo vệ thực vật cơ phôtpho, cacbamat trong một
số mẫu đất đã vượt quá giới hạn cho phép, các mẫu này tập trung tại các thửa
ruộng trồng rau màu, vùng trồng hoa ở các xã Mê Linh, Tiền Phong, Đại Thịnh,
Thanh Lâm, Tráng Việt, Văn Khê. Một số loại thuốc bảo vệ thực vật có mặt trong
đất phân tích được nằm ngoài danh sách quy định tiêu chuẩn tại quy chuẩn kĩ
thuật Quốc gia về dư lượng. Các thuốc bảo vệ thực vật họ cơ clo mặc dù không
vượt quá giới hạn cho phép nhưng nhiều mẫu đất còn tồn dư các loại hóa chất
độc hại khó phân hủy.
r

Bảng 1.9: Các loại hóa châtBVTVđược sử dụng trên địa bàn huyện Mê Linh


×