Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH tác ĐỘNG của PHÂN hóa GIÀU NGHÈO đến xây DỰNG TIỀM lực CHÍNH TRỊ TINH THẦN nền QUỐC PHÒNG TOÀN dân ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.14 KB, 33 trang )

MỞ ĐẦU
Phân hóa giàu nghèo là một hiện tượng kinh tế, đồng thời là một hiện tượng
mang tính chính trị, văn hoá, xã hội rất phức tạp. Cùng với quá trình chiếm hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất và phân cơng lao động xã hội là q trình phân hố về phân
phối sản phẩm và trình độ lao động, theo đó phân hóa giàu nghèo xuất hiện. Khi
nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phân hóa
giàu nghèo có xu hướng ngày càng gia tăng, tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, trong đó tác động trực tiếp đến xây dựng nền quốc phịng tồn
dân. Đảng ta khẳng định: Thực hiện nền kinh tế thị trường chúng ta thừa nhận trên
thực tế “Khoảng cách chênh lệnh giàu nghèo cịn khá lớn và ngày càng dỗng ra”1.
Phân hóa giàu nghèo quá mức góp phần làm gia tăng sự hình thành chênh
lệnh về chất lượng sống của các giai tầng xã hội, tạo nên sự phân hoá xã hội, gây
mất ổn định chính trị xã hội, phá vỡ sự thống nhất về chính trị, tư tưởng của
nhân dân. Xây dựng nền quốc phịng tồn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới địi hỏi phải có một chiến lược tổng
hợp xây dựng, củng cố về lực lượng, tiềm lực và thế trận quốc phòng vững chắc.
Những năm gần đây, đời sống đại bộ phận nhân dân được cải thiện,
chính trị ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững, lòng tin của nhân dân
vào Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa ngày càng được nâng lên. Song, một
bộ phận không nhỏ nhân dân cịn nhiều khó khăn, xố đói giảm nghèo chưa
bền vững, khoảng cách chênh lệnh giàu nghèo còn lớn làm cho phân hóa giàu
nghèo có xu hướng gia tăng, dẫn đến nhân dân có những bức xúc về tư tưởng
và tình cảm, biểu hiện thiếu tin tưởng vào chủ trương đường lối quốc phịng
tồn dân của Đảng, cịn tâm trạng cịn bi quan, dao động thiếu ý chí phấn đấu
vươn lên… Thực trạng đó đặt ra yêu cầu cần phải có giải pháp phát huy tác
động tích cực, khắc phục tác động tiêu cực của phân hóa giàu nghèo đến xây
dựng nền quốc phịng tồn dân ở Việt Nam hiện nay. Từ những lý do trên tôi
chọn vấn đề nghiên cứu: “Tác động của phân hóa giàu nghèo đến xây dựng
tiềm lực chính trị - tinh thần nền quốc phịng tồn dân ở Việt Nam”.

1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà nội 2011, tr.168




1. Phân hoá giàu nghèo và xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần nền
quốc phịng tồn dân ở Việt Nam hiện nay
1.1. Quan niệm về phân hoá giàu nghèo, đặc điểm phân hoá giàu nghèo ở
Việt Nam, tiềm lực chính trị - tinh thần nền quốc phịng tồn dân ở Việt Nam
Quan niệm về phân hoá giàu nghèo
Quan niệm về giàu: Giàu là nhiều tiền của; giàu là trái ngược với nghèo;
giàu là có nhiều hơn mức bình thường cái có giá trị về vật chất hoặc tinh thần.
Hộ giàu thường có nhiều tài sản ban đầu, nhất là đất, lao động và vốn; quan hệ
xã hội tốt; tiếp cận nhanh với thơng tin, thị trường; có nhà cửa chắc chắn và
nhiều tiện nghi sinh hoạt; có đủ đất nơng nghiệp, đất vườn màu mỡ; có tư liệu
sản xuất và máy móc; được dùng nước sạch, điện, có nhiều tiền và thu nhập khá;
được vay vốn và có nhiều vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh; có sức khoẻ tốt,
có trình độ học vấn khá; có kiến thức, biết làm ăn, có lao động và khả năng tìm
kiếm việc làm ổn định, người ăn theo ít; con cái được học hành đầy đủ; quan hệ
xã hội rộng; cư trú ở địa điểm thuận lợi, có phương tiện giao thơng tốt. Như vậy,
có thể khái qt những nội dung chính về giàu: Giàu là những người có thu nhập
bình quân cao gấp nhiều lần thu nhập bình quân đầu người của cả nước; họ được
hưởng thoả mãn về nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần cao hơn mức khá của xã
hội; họ có tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng; có nhiều tài sản, của cải có giá trị
lớn; có chất lượng sống cao; có khả năng tổ chức sản xuất và mở rộng sản xuất.
Giàu có hai hình thức, giàu chính đáng và giàu khơng chính đáng. Giàu chính
đáng là hình thức làm giàu hợp pháp, các chủ thể phát huy sức lực, trí tuệ, huy
động vốn, tiếp thu thành tựu khoa học kỷ thuật, mở rộng sản xuất, kinh doanh làm
giàu cho bản thân, gia đình và xã hội. Giàu khơng chính đáng là các chủ thể bất
chấp pháp luật, làm giàu phi pháp để trở nên giàu có, nó thường tồn tại dưới các
hình thức như bn gian, bán lận, lừa đảo, trốn thuế, tham ơ, tham nhũng …Do
vậy, cần có chính sách khuyến khích làm giàu chính đáng, đồng thời, ngăn chặn
làm giàu khơng chính đáng, tạo lịng tin của nhân dân và khuyến khích họ làm giàu

cho bản thân, gia đình và xã hội.
Quan niệm về nghèo: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư khơng được
hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu này đã


được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế và phong tục tập quán của
địa phương1. Theo đó, có thể quan niệm nghèo là những người có mức thu nhập
bình qn thấp hơn nhiều lần so với thu nhập bình quân đầu người của cả
nước; họ không được hưởng thoả mãn về nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần;
khơng có tư liệu sản xuất và ít tư liệu tiêu dùng; khơng có tài sản, của cải có giá
trị lớn; chất lượng sống thấp; khơng có khả năng mở rộng sản xuất.
Tiêu chí đánh giá nghèo dựa theo mức chuẩn nghèo của Chính Phủ. Theo
đó, mức chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2010-2015 đối với khu vực nơng
thơn những hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000 đồng/người/tháng trở
xuống là hộ nghèo; khu vực thành thị những hộ có mức thu nhập bình quân từ
500.000 đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo. Mức cận nghèo ở nơng thơn
những hộ có mức thu nhập bình quân từ 401.000 đến 520.000 đồng/người/tháng
và ở thành thị những hộ có mức thu nhập bình qn từ 501.000 đến 650.000
đồng/người/tháng là hộ cận nghèo.
Có hai loại nghèo là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Nghèo tuyệt đối
là tình trạng bộ phận dân cư khơng có khả năng thỗ mãn những nhu cầu tối
thiểu nhằm duy trì cuộc sống, đó là tình trạng con người khơng có ăn, khơng đủ
lượng dinh dưỡng tối thiểu, cần thiết. Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận
dân cư có mức sống dưới mức trung bình của cộng đồng ở một thời kỳ nhất
định, nghèo tương đối phát triển theo không gian và thời gian nhất định tuỳ vào
mức sống chung của xã hội. Trên thực tế, chỉ có thể xố được nghèo tuyệt đối,
cịn nghèo tương đối thì ln tồn tại hiện diện ở bất kể quốc gia nào, ở trình độ
phát triển kinh tế nào.
Phân hố giàu nghèo
Có khá nhiều quan điểm khác nhau về phân hóa giàu nghèo, song có thể

quan niệm phân hóa giàu nghèo là một hiện tượng kinh tế - xã hội, phản ánh
quá trình phân chia xã hội thành các nhóm xã hội có điều kiện về kinh tế và
chất lượng sống khác biệt nhau, thể hiện ở sự chênh lệnh về tài sản, thu
nhập, mức sống và sự hưởng thụ, tiếp cận các dịch vụ xã hội, giữa các con
người và các nhóm xã hội.
1 Bùi Thị Hồn (2012), Vấn đề phân hố giàu – nghèo trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Luận án
tiến sĩ Triết học, Hà Nội, tr.28


Thực chất của phân hóa giàu nghèo là q trình phân chia xã hội thành các
nhóm xã hội có sự khác biệt nhau về kinh tế và chất lượng sống. Từ một nhóm xã
hội tương đối đồng nhất chia ra thành các nhóm xã hội khác biệt nhau, người giàu
có đời sống vật chất và tinh thần khá hơn, ngược lại người nghèo đời sống khó
khăn hơn chất lượng sống thấp hơn. Mặt khác phân hóa giàu nghèo chính là sự
phân tầng xã hội, nghĩa là trên cơ sở thu nhập, tài sản và mức sống hình thành các
nhóm xã hội ở các thứ bậc khác nhau, có tầng cao, tầng trung bình và tầng thấp.
Biểu hiện sự khác nhau của phân hóa giàu nghèo trên các khía cạnh:
Thứ nhất, sự khác nhau về tài sản như: tư liệu sản xuất (đất đai, cơng
xưởng, máy móc, ...), nhà ở, các phương tiện phục vụ đời sống và sinh hoạt.
Người giàu có đất đai rộng, có cơng xưởng, máy móc, có nhiều vốn đầu tư mở
rộng sản xuất, kinh doanh hoặc cho vay nặng lãi. Nhà ở và các phương tiện phục
vụ đời sống sinh hoạt chất lượng cao. Người nghèo ít đất đai, khơng có cơng
xưởng, máy móc, khơng đủ vốn sản xuất kinh doanh, phải đi vay, nhà ở và các
phương tiện đời sống sinh hoạt chất lượng thấp.
Thứ hai, sự chênh lệch về thu nhập: người giàu có thu nhập cao trong xã
hội, người nghèo thu nhập thấp.
Thứ ba, sự chênh lệch về mức sống: người giàu mức chi tiêu cao hơn so
với mức sống chung của xã hội, có nhiều điều kiện để thoả mãn nhu cầu cá nhân
và phát triển toàn diện. Người nghèo mức chi tiêu thấp, cá biệt có người phải đi
vay mượn mới đủ ăn, khơng có điều kiện học tập, hưởng thụ các thành quả văn

hố xã hội và chăm sóc sức khoẻ.
Đặc điểm phân hoá giàu nghèo ở Việt Nam hiện nay
Một là, phân hóa giàu nghèo là một hiện tượng kinh tế - xã hội hình thành
cùng với những biến đổi kinh tế - xã hội ở Việt Nam.
Phân hóa giàu nghèo là hiện tượng kinh tế - xã hội khách quan trong nền
kinh tế thị trường, do đó nó hình thành cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội
trong quá trình thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế. Trên cả nước Việt Nam hiện nay, trong tất cả các cộng đồng dân cư,
các giai cấp, tầng lớp, các nhóm xã hội, kể cả đơ thị hay nơng thơn, đồng bằng,


miền núi, hải đảo, trong tất cả các dân tộc đều diễn ra tình trạng phân hóa giàu
nghèo với mức độ và tính chất khác nhau.
Hai là, phân hóa giàu nghèo ở Việt Nam hiện nay đang trong xu thế gia tăng.
Cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế và những nỗ lực trong cơng cuộc xố
đói giảm nghèo của Đảng và Chính phủ, tỷ lệ hộ nghèo liên tục giảm, đời sống các
tầng lớp dân cư có nhiều chuyển biến tiến bộ rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người
của các nhóm dân cư năm sau cao hơn năm trước. Song nhóm thu nhập thấp tăng
trưởng rất chậm so với nhóm có thu nhập khá và nhóm giàu, vì vậy khoảng cách
chênh lệch về thu nhập, tài sản, mức sống giữa các nhóm dân cư khơng ngừng tăng
lên, phân hóa giàu nghèo có xu hướng gia tăng.
Ba là, phân hóa giàu nghèo ở Việt Nam diễn ra khơng đều và đang diễn tiến
rất phức tạp.
Phân hóa giàu nghèo ở khu vực thành thị mạnh hơn khu vực nông thơn;
khoảng cách giữa nhóm giàu và nhóm nghèo khu vực thành thị cao hơn khu vực
nông thôn; khoảng cách giàu nghèo ở các vùng, miền trong cả nước cũng có sự
khác nhau. Hiện nay, khu vực nông thôn, nhất là nông thôn miền núi, biên giới,
hải đảo là địa bàn có tỷ lệ hộ đói nghèo cao. Theo số liệu thống kê, nếu tính theo
chuẩn nghèo mới của Chính phủ cho giai đoạn 2011-2015 thì tỷ lệ hộ nghèo cả
nước năm 2010 là 14,2%, thành thị là 6,9% và nông thơn là 17,4%. Vùng Trung

du và miền núi phía Bắc có tỷ lệ nghèo cao nhất cả nước, tiếp đến là 2 vùng Tây
Nguyên và vùng Bắc Trung Bộ và dun hải miền Trung; Đơng Nam Bộ có tỷ lệ
nghèo thấp nhất trong cả nước.
Tình trạng tái nghèo cịn lớn, diễn ra trên diện rộng. Đại hội Đảng lần thứ
XI khẳng định: “Đời sống của một bộ phận dân cư, nhất là ở miền núi, vùng sâu,
vùng xa, còn nhiều khó khăn. Xố đói, giảm nghèo chưa bền vững, tình trạng tái
nghèo cao. Khoảng cách chênh lệch giàu nghèo còn khá lớn và ngày càng doãng
ra”1. Mặt khác, xã hội hiện nay đã và đang xuất hiện các kiểu quan hệ xã hội
dựa trên mức sống, điều kiện sống, từ đó mà hình thành kiểu quan hệ đẳng
cấp giàu nghèo làm cho vấn đề phân hóa giàu nghèo trở nên phức tạp.

1 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.168


Bốn là, phân hóa giàu nghèo ở Việt Nam có những tác động tích cực đến sự phát
triển kinh tế - xã hội.
Xét trong những trường hợp cụ thể phân hóa giàu nghèo ở Việt Nam có
những tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Phân hóa giàu
nghèo góp phần khơi dậy tính năng động xã hội trong con người ở nhiều nhóm xã
hội, kích thích họ tìm kiếm và khai thác cơ may, vận hội để phát triển vượt lên,
người giàu phấn đấu giàu hơn, người nghèo quyết tâm thoát nghèo, tạo ra động
lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Phân hóa giàu nghèo cịn kích thích sự
sáng tạo của con người, nhằm tạo môi trường cạnh tranh quyết liệt, qua đó sàng
lọc và tuyển chọn những thành viên vượt trội, tạo động lực cho sự phát triển của
mỗi ngành nghề, mỗi lĩnh vực hay mỗi địa phương. Khi người giàu càng giàu lên,
tài sản của họ sẽ làm gia tăng của cải cho xã hội, một mặt họ đầu tư vào sản xuất,
tạo ra việc làm cho người nghèo, mặt khác, họ hướng dẫn cách làm ăn cho người
nghèo làm cho nền kinh tế phát triển với năng suất lao động cao, tăng phúc lợi xã
hội cho người dân. Đảng ta khẳng định: “phát huy tiềm năng và vai trị tích cực
của đội ngủ doanh nhân trong phát triển sản xuất kinh doanh, tạo việc làm, thu

nhập cho người lao động”1.
Năm là, phân hóa giàu nghèo ở Việt Nam có những tác động tiêu cực đến
sự phát triển kinh tế - xã hội và giữ vững ổn định xã hội.
Trước hết, phân hóa giàu nghèo góp phần gia tăng bất bình đẳng xã hội,
phân hố xã hội, nguy cơ gây mất ổn định chính trị - xã hội. Phân hóa giàu nghèo
gia tăng làm tăng nhanh sự chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các giai cấp,
tầng lớp, hình thành nên các nhóm xã hội khác nhau. Từ sự phân hoá về thu
nhập, mức sống kéo theo sự chênh lệch trong hưởng thụ các quyền trên các lĩnh
vực văn hố, giáo dục, y tế, góp phần gia tăng bất bình đẳng xã hội. Phân hóa
giàu nghèo cịn là nguy cơ dẫn đến phân hoá giai cấp, bần cùng hố người lao
động, làm suy giảm nền tảng chính trị - xã hội.
Mặt khác, phân hóa giàu nghèo sẽ tác động tiêu cực đến việc thực hiện dân
chủ của mọi tầng lớp nhân dân và toàn xã hội. Một bộ phận quần chúng nhân dân
sống ở mức nghèo đói thiếu thông tin ngôn luận dẫn đến nhận thức hạn chế về
1 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.50


vấn đề dân chủ và thực hiện dân chủ. Sự phân hóa giàu nghèo làm cho đời sống
của đồng bào các dân tộc thiểu số khó khăn cơng thêm sự kích động của kẻ thù
thơng qua thủ đoạn “diễn biến hồ bình” dể làm tăng thêm hoạt động ly khai dân
tộc, tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định xã hội. Bên cạnh đó, phân hóa giàu nghèo gia
tăng sẽ làm phát sinh các tệ nạn xã hội.
Sáu là, phân hóa giàu nghèo ở Việt Nam đang được kiềm chế bởi chủ trương
chính sách của Đảng và Nhà nước.
Phân hóa giàu nghèo ở Việt Nam hiện nay đang được kiềm chế bởi các chủ
trương, chính sách của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Thực tế cho thấy,
những năm qua Đảng, Nhà nước luôn đẩy mạnh công tác tuyên truyền và tổ
chức thực hiện tốt các chính sách xã hội, đẩy mạnh phong trào xố đói giảm
nghèo, xố nhà dột nát, hỗ trợ người nghèo về giáo dục, y tế, và nhà ở, tạo việc
làm tăng thêm thu nhập, phát triển mạng lưới an sinh, công bằng xã hội, đào tạo

và nâng cao năng lực của đội ngủ làm công tác xố đói giảm nghèo…nhìn
chung phân hóa giàu nghèo ở Việt Nam đang được kiềm chế.
Quan niệm về tiềm lực chính trị - tinh thần của nền quốc phịng tồn dân ở Việt Nam
Quốc phịng tồn dân là khái niệm chỉ việc tồn dân tham gia sự nghiệp
quốc phịng, bảo vệ Tổ quốc. Quốc phịng tồn dân ở Việt Nam là khái niệm chỉ
chỉ nền quốc phòng của dân, do dân, vì dân, tồn dân tham gia sự nghiệp quốc
phịng, bảo vệ Tổ quốc, phát triển theo phương hướng toàn dân, toàn diện, độc
lập, tự chủ, tự lực, tự cường và ngày càng hiện đại, kết hợp chặt chẽ kinh tế với
quốc phòng và an ninh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của
Nhà nước, do nhân dân làm chủ, nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp, tồn diện giữ
vững hồ bình, ổn định đất nước, sẵn sàng đánh bại mọi hành động xâm lược và
bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Bản chất của nền quốc phịng tồn dân ở Việt Nam là nền quốc
phịng của dân, do dân, vì dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt, Nhà nước quản lý điều hành tập trung thống nhất. Là nền
quốc phòng phát triển theo phương hướng toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ,
tự lực, tự cường và ngày càng hiện đại, mang tính chất hồ bình và tự vệ nhằm
mục đích bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.


Tiềm lực quốc phòng là “khả năng vật chất và tinh thần ở trong nước và
ngoài nước mà mỗi quốc gia, dân tộc có thể huy động nhằm mục tiêu bảo vệ đất
nước, giữ vững hồ bình, ngăn ngừa mọi âm mưu và hành động gây chiến của các
thế lực thù địch, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược mọi quy mơ có thể
xảy ra”1. Theo đó có thể quan niệm tiềm lực quốc phòng Việt Nam là tổng hợp
những khả năng về vật chất và tinh thần ở trong và ngoài nước của Đảng, Nhà
nước và toàn dân có thể huy động tạo thành sức mạnh để giữ vững ổn định chính
trị - xã hội, giữ vững hồ bình và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hoạt động
chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.

Tiềm lực chính trị - tinh thần của nền quốc phịng tồn dân
Tiềm lực chính trị - tinh thần là “khả năng về chính trị - tinh thần có thể
huy động để tạo thành sức mạnh vật chất hiện thực nhằm thực hiện những nhiệm
vụ nhất định. Được biểu hiện: trước hết ở hệ tư tưởng, chế độ chính trị - xã hội,
hệ thống các chính sách đối nội, đối ngoại của Nhà nước; trình độ nhận thức,
niềm tin, ý chí quyết tâm, trạng thái tâm lý …của các thành viên trong xã hội
trước những nhiệm vụ đặt ra đối với họ … trong quân sự tiềm lực chính trị - tinh
thần được biểu hiện ở ý chí, quyết tâm của quân chúng nhân dân và lực lượng vũ
trang sẵn sàng vượt qua mọi thử thách để thực hiện nhiệm vụ”2
Tiềm lực chính trị - tinh thần của nền quốc phịng tồn dân ở Việt Nam là khả
năng về chính trị - tinh thần có thể huy động để tạo thành sức mạnh vật chất hiện
thực, nhằm thực hiện nhiệm vụ xây dựng, củng cố nền quốc phịng tồn dân, bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, được biểu hiện: trước hết ở hệ tư tưởng, chế độ
chính trị - xã hội, hệ thống các chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng, Nhà nước;
trình độ nhận thức, niềm tin, ý chí quyết tâm, trạng thái tâm lý …của các thành viên
trong xã hội trước nhiệm vụ xây dựng, củng cố nền quốc phịng tồn dân, bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đó là những khả năng đang tồn tại một cách khách
quan mà bằng đường lối và chủ trương đúng đắn, bằng công tác tư tưởng, tổ chức
của Đảng và Nhà nước có thể huy động được để biến thành sức mạnh chính trị - tinh
thần của đất nước trong việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phịng. Nói khả năng
1 Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam (1996), Nxb QĐND, Hà Nội, tr. 766 , 767.
2 Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam (2004), Nxb QĐND, Hà Nội, tr.953


khơng có nghĩa là khả năng đó hồn tồn chưa được bộc lộ trong thực tế, mà có
những cái đã bộc lộ thành sức mạnh nhưng chưa bộc lộ hết, hoặc đã được huy động
nhưng ở mức độ chưa cao, chưa toàn diện, chưa đầy đủ.
1.2. Quan niệm về sự tác động của phân hố giàu nghèo đến tiềm lực
chính trị - tinh thần nền quốc phịng tồn dân ở Việt Nam
Tác động của phân hóa giàu nghèo đến tiềm lực chính trị - tinh thần nền

quốc phịng tồn dân ở Việt Nam hiện nay là tổng hợp nội dung, phương thức,
hệ quả tác động của q trình phân hóa giàu nghèo đến các yếu tố cấu thành
tiềm lực chính trị - tinh thần nền quốc phịng tồn dân làm cho các yếu tố đó
có những biến đổi nhất định. Thực chất tác động của phân hóa giàu nghèo đến
tiềm lực chính trị - tinh thần nền quốc phịng tồn dân ở Việt Nam là sự tác
động của quá trình phân hóa giàu nghèo dẫn tới sự phân hố về nhận thức, thái
độ, niềm tin hành vi và các yếu tố chính trị - tinh thần của các tầng lớp nhân
dân, các nhóm xã hội đối với sự nghiệp xây dựng nền quốc phịng tồn dân và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.2.1. Nội dung tác động của phân hóa giàu nghèo đến tiềm lực chính
trị - tinh thần nền quốc phịng tồn dân ở Việt Nam
Có thể khái quát tác động của phân hóa giàu nghèo đến tiềm lực chính trị
tinh thần nền quốc phịng tồn dân ở Việt Nam trên một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, tác động đến nhân thức chính trị của các tầng lớp nhân dân về
những vấn đề cơ bản như: nhận thức về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, chủ trương đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, về thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội. Nhận thức về đường lối chủ trương của Đảng, chính sách Nhà
nước về xây dựng nền quốc phịng tồn dân, gắn với xây dựng, củng cố thế trận
chiến tranh nhân dân của nước ta trong tình hình mới, những vấn đề về xây dựng khu
vực phòng thủ, các khu kinh tế - quốc phòng, xây dựng cơ sở chính trị - xã hội của
nền quốc phịng, xây dựng và phát triển cơng nghiệp quốc phịng. Nhận thức về về
bản chất, tính chất tồn diện, độc lập tự chủ, tự lực tự cường và ngày càng hiện đại,
mang tính tự vệ là chính của nền quốc phòng nước ta. Nhận thức yêu cầu, nội dung
và những vấn đề cơ bản về xây dựng và hoạt động của các lực lượng vũ trang nhân
dân, quân đội nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ


nghĩa. Nhận thức về mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, quyền
hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi người dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Nhận thức quan điểm của Đảng về đối tác và đối tượng, hợp tác và đấu tranh,

nguyên tắc xử lý vấn đề đối tác và đối tượng trong điều kiện mới. Đồng thời, còn tác
động đến nhận thức của nhân dân về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch
trong chiến lược “diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ chống phá cách mạng nước ta,
cũng như tính chất nguy hiểm của nó và yêu cầu, biện pháp đấu tranh làm thất bại
“diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ trong tình hình mới.
Thứ hai, tác động đến niềm tin chính trị và tâm trạng xã hội như: niềm tin
vào chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm chủ trường
đường lối của Đảng, pháp luật Nhà nước. Niềm tin vào sự nghiệp đổi mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chu nghĩa.
Niềm tin vào sức mạnh của đất nước, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức
mạnh của nền quốc phịng tồn dân, chiến tranh nhân dân, sức mạnh của lực
lượng vũ trang nhân dân. Niềm tin vào trình độ và sức mạnh chiến đấu của lực
lượng vũ trang, của quân đội nhân dân, khả năng giành thắng lợi trong chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền quốc phịng tồn dân; đường lối phát triển
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, về thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vào khả năng đưa nước ta ra
khỏi tình trạng đói nghèo. Niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý,
điều hành của Nhà nước đối với việc thực hiện chính sách an sinh xã hội nhằm
đảm bảo cơng bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, khắc phục phân hóa giàu nghèo,
với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tác động
đến tâm trạng hoặc tin tưởng hoặc băn khoăn lo lắng của toàn bộ xã hội đối với
đường lối quốc phịng tồn dân bảo vệ Tổ quốc.
Thứ ba, tác động đến hành vi chính trị của nhân dân biểu hiện ở việc làm,
hành động cụ thể của xã hội đối với sự nghiệp xây dựng nền quốc phịng tồn dân,
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Cụ thể tác động đến hành động cảnh giác cách
mạng và quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, ln sẵn sàng nhận và hồn thành tốt
mọi nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Tác động đến hành động sẵn



sàng nhận và hồn thành tốt nhiệm vụ quốc phịng, an ninh ở cơ sở nơi sinh sống,
tinh thần sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc và xã hội chủ nghĩa. Tác động đến
quyết tâm vươn lên thoát nghèo, vượt khó, quyết tâm làm giàu cho bản thân, gia
đình, cho q hương và xã hội; ý chí quyết tâm, tâm thế sẵn sàng bảo vệ những
thành quả lao động của mình, bảo vệ quyền làm chủ và mọi quyền lợi của người
dân, bảo vệ quê hương. Tác động đến tinh thần trách nhiệm xây dựng quê hương
giàu mạnh, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã
hội, bảo vệ các tổ chức đảng, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân ở địa
phương. Tích cực tham gia đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá
của các thế lực thù địch ở địa phương, cơ quan, đơn vị mình sinh sống và cơng tác.
Tác động đến ý chí quyết tâm sẵn sàng tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa khi chiến tranh xảy ra, khơng trốn tránh, thối thác nhiệm vụ.
Coi chiến đấu bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm cao cả và là vinh dự của công dân,
thực hiện tốt nhiệm vụ chiến đấu; phát huy cao độ chủ nghĩa u nước và ý chí
"Khơng có gì q hơn độc lập tự do" trong điều kiện lịch sử mới.
Thứ tư, tác động đến chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng
như: tinh thần yêu nước, lòng tự hào với truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân
tộc; tinh thần chịu đựng gian khổ, lòng dũng cảm, chí hy sinh, tinh thần lạc quan,
tính sáng tạo trong xây dựng, cũng cố nền quốc phịng tồn dân. Khả năng phát huy
tinh thần yêu nước trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, cống hiến sức lực và trí tuệ của
mình cho việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Làm thất bại chiến lược "diễn biến hồ bình" của các thế lực
thù địch chống phá cách mạng nước ta và mọi âm mưu gây chiến, xâm phạm độc lập
dân tộc, chủ quyền quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thái độ, tình cảm, niềm tin của mọi người dân đối với nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa được thể hiện trực tiếp ở tình yêu q hương, làng xóm,
u gia đình, tình cảm gắn bó với họ hàng, người thân, bạn bè; tình cảm yêu mến và
tôn trọng nhân dân, nhất là nhân dân lao động. Tình yêu đối với chế độ xã hội chủ
nghĩa, yêu nước gắn với yêu chủ nghĩa xã hội. Tình cảm yêu mến, biết quý trọng và
giữ gìn thành quả cách mạng, có lịng biết ơn sâu sắc các thế hệ cha anh đã hy sinh



xương máu trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm để dân tộc được giải
phóng, đất nước được thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ Năm, tác động đến bản sắc văn hoá dân tộc như: tinh thần đồn kết, tính
cộng đồng, lịng tự trọng, lịng thương người, trọng nhân nghĩa, đức tính cần cù chịu
khó, lịng tự tơn dân tộc. Văn hố làng, xã trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, sự đồng
thuận trong cấu kết cộng đồng các dân tộc. Tinh thần “khơng có gì q hơn độc lập,
tự do”, tinh thần đại đoàn kết dân tộc, đại đoàn kết toàn dân trong xây dựng nền quốc
phòng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, phấn đấu vì mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
1.2.2. Hệ quả tác động của phân hóa giàu nghèo đến tiềm lực chính trị tinh thần nền quốc phịng tồn dân ở việt Nam
Hệ quả tích cực
Một là, sự tác động của phân hóa giàu nghèo thơng qua chính sách phát
triển kinh tế, chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước góp phần nâng cao nhận
thức, củng cố niềm tin, hành vi của các tầng lớp xã hội trong quá trình xây dựng,
củng cố nền quốc phịng tồn dân, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Cơ chế thị trường tạo cơ chế ganh đua, là địn bẩy thúc đẩy rất hiệu nghiệm
tới tính tích cực, sáng tạo của từng thành viên trong xã hội vì lợi ích của mình và
cộng đồng, đánh giá thực tiễn năng lực hoạt động sản xuất và kinh doanh của
từng người, xác lập rõ ràng cho hoạt động kinh tế của từng chủ thể. Vì vậy phân
hóa giàu nghèo trong cơ chế thị trường sẽ tạo sự cạnh tranh, ganh đua về kinh tế,
khai thác nguồn lực xã hội để phát triển sản xuất, nâng cao đời sống. Bộ phận dân
cư đã giàu tiếp tục tích luỹ vốn, kinh nghiệm sản xuất, tiếp thu khoa học kỹ thuật,
tiếp cận thị trường ...để sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế cho ngày càng giàu
hơn. Ngược lại bộ phận dân cư nghèo đói cũng tiếp cận những thành tựu của kinh
tế thị trường làm đòn bẩy phát triển sản xuất để thốt khỏi đói nghèo. Khi cuộc
sống của người dân no đủ tạo điều kiện cho họ nâng cao nhận thức, tuyệt đối tin
tưởng vào chủ trương, đường lối quốc phòng toàn dân của Đảng, vào sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc. Mặt khác, đời sống của nhân dân được nâng cao, họ ý thức được

nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, trên cơ sở
đó nêu cao được ý chí quyết tâm, sẵn sàng tham gia và tham gia có hiệu quả vào


đường lối quốc phịng tồn dân, sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thực tế cho thấy, với ý thức “người giàu là giàu
trước, người nghèo là những người chưa giàu và giàu sau, ai cũng có thể giàu có”,
“dân giàu thì nước mạnh”. Do vậy, mọi người, mọi nhà, mọi cộng đồng ra sức
phát huy sức lực, trí tuệ, huy động mọi nguồn vốn để phát triển sản xuất, tìm việc
làm, tăng thu nhập, cải thiện và nâng cao đời sống, góp phần rất lớn vào sự
nghiệp xây dựng, củng cố nền quốc phịng tồn dân, bảo vệ vững chắc thành quả
cách mạng. Đảng ta khẳng định: “Cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích
cực, to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Nó chẳng những khơng đối lập mà
cịn là nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước theo
con đường xã hội chủ nghĩa”1.
Hai là, sự tác động của phân hóa giàu nghèo thơng qua các thành tựu xố đói
giảm nghèo, thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội sẽ phát huy được tinh thần yêu nước
xã hội chủ nghĩa, giữ gìn bản sắc truyền thống văn hoá giữ nước của dân tộc trong sự
nghiệp xây dựng, củng cố nền quốc phịng tồn dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong xu thế phân hóa giàu nghèo gia tăng, trước những cảnh ngộ đói nghèo
trong xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng, định hướng của các tổ chức chính trị xã
hội, hoạt động giúp đỡ người nghèo, giúp nhau thoát nghèo trở thành một phong
trào xã hội rộng khắp. Tinh thần dân tộc “lá lành đùm lá rách”, “bầu ơi thương lấy
bí cùng”,... lại được khơi dậy, giữ gìn, phát triển trở thành giá trị văn hoá của con
người Việt Nam. Mặt khác, hoạt động giúp đỡ người nghèo trong xã hội khơng chỉ
trong phạm vi xố đói giảm nghèo mà lan toả sang các lĩnh vực xã hội khác, nhất là
lĩnh vực y tế, chăm sóc người già, người nhiễm chất độc da cam, người có hồn
cảnh đặc biệt khó khăn, … Thơng qua các hoạt động đó tính cố kết cộng đồng, cố
kết dân tộc trong nhân dân ta được khơi dậy, củng cố và phát huy, tạo ra sự đồng

thuận xã hội cao trên tinh thần đó phát huy tốt tinh thần yêu xã hội chủ nghĩa, giữ gìn
bản sắc truyền thống văn hoá giữ nước của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng, củng
cố nền quốc phịng tồn dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hệ quả tiêu cực
1 Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, Hà Nội. tr. 26


Thứ nhất, tác động của phân hóa giàu nghèo sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến
nhận thực, niềm tin, hành vi của các tầng lớp nhân dân đến sự nghiệp xây dựng
nền quốc phịng tồn dân, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Phân hóa giàu nghèo gia tăng làm tăng nhanh sự chênh lệch về thu nhập,
mức sống giữa các giai cấp, tầng lớp, các nhóm xã hội và ngay cả trong bản thân
mỗi giai cấp, tầng lớp, hình thành nên các nhóm xã hội khác nhau. Từ sự phân
hố về thu nhập, mức sống kéo theo sự chênh lệch trong hưởng thụ các quyền
trên các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, y tế ... hình thành bất bình đẳng xã hội. Mặt
khác, từ phân hoá về thu nhập, mức sống, chất lượng sống, đến một mức độ nào
đó sẽ đến phân hố về chính trị tư tưởng, ảnh hưởng đến niềm tin của của nhân
dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, vào đường lối quốc phịng
tồn dân và ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Phân hóa giàu nghèo ln tiềm tàng nguy cơ phân hoá giai cấp, bần cùng
hoá người lao động, làm suy giảm nền tảng chính trị xã hội, tạo nguy cơ chệch
hướng xã hội chủ nghĩa. Mỗi chế độ xã hội bao giờ cũng có kết cấu kinh tế và
cơ cấu xã hội, trong đó cơ cấu giai cấp – xã hội là cơ cấu xã hội cơ bản giữ vai
trị chủ đạo. Nền tảng chính trị - xã hội ở nước ta là khối liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do giai cấp cơng nhân lãnh
đạo. Mối quan hệ đó dựa trên cơ sở thống nhất về mặt lợi ích giữa các giai tầng,
phân hóa giàu nghèo quá mức sẽ làm rạn nứt sự thống nhất lợi ích giữa các giai
tầng, một khi sự thống nhất và phù hợp về mặt lợi ích bị vi phạm, phá vỡ, nó
làm cho cơ cấu xã hội biến dạng, biến đổi theo chiều hướng xấu, tạo hố ngăn
cách giữa Đảng với giai cấp công nhân và nhân dân lao động, các giai cấp, tầng

lớp khơng thể có sự thống nhất chung về mục đích, tư tưởng và hành động, ảnh
hưởng đến tính cấu kết cộng đồng và sự đồng thuận xã hội.
Nói đến con người và xã hội trước hết phải có ăn, có mặc, có nhà ở và
phương tiện đi lại rồi sau đó mới có thể nói đến khoa học, chính trị và các nhu
cầu văn hố khác. Khi đời sống của nhân dân chưa đảm bảo thì nhân dân chủ
yếu dành sự quan tâm suy nghĩ, công sức lo cho cái ăn, cái mặc, hơn nữa, đời
sống nghèo nàn của nhân dân, một bộ phận nhân dân khơng có điều kiện để
được tun truyền đường lối chủ trương của Đảng, Nhà nước. Mặt khác, phân


hóa giàu nghèo tác động vào vấn đề dân tộc, tôn giáo dể làm tăng thêm hoạt động
ly khai dân tộc, tôn giáo, tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định xã hội. Vì vậy, phân hóa
giàu nghèo gia tăng sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hành động của nhân dân trong
thực hiện xây dựng, củng cố nền quốc phịng tồn dân, bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, tác động của phân hóa giàu nghèo ảnh hưởng tiêu cực đến giữ
gìn, phát huy chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hoá dân tộc đối với sự
nghiệp quốc phịng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Phân hóa giàu nghèo trước hết là phân hoá về kinh tế, nó chi phối đến tồn
bộ đời sống vật chất và tình thần của gia đình và xã hội, dẫn đến người giàu
muốn giàu hơn, người nghèo muốn thốt nghèo hình thành tư tưởng làm giàu
bằng mọi giá bất chấp kỷ cương pháp luật nhà nước góp phần làm phát sinh và
gia tăng các tệ nạn xã hội. Thực tế cho thấy, vì mục đích làm giàu khơng chính
đáng, các tệ nạn xã hội như trộm cắp, mại dâm, đâm thuê, chém mướn, ….ngày
càng gia tăng, tình trạng đặc quyền đặc lợi, tham ô, tham nhũng, buôn lậu, trốn
thuế, lừa đảo, bệnh thành tích, khơng cơng khai, mất dân chủ, lợi dụng khe hở
của chính sách, pháp luật để bịn rút tiền bạc, tài sản của Nhà nước, của nhân
dân…diễn ra thường xuyên, ảnh hưởng tiêu cực đến lòng tin của nhân dân vào
chủ nghĩa xã hội và tinh thần yêu nước xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, phân hóa
giàu nghèo khơng chỉ phân hố về thu nhập, tài sản, mức sống mà cịn kéo theo sự

phân hố về xã hội như học vấn, văn hoá, lối sống và các quan hệ xã hội, theo đó
nó ảnh hưởng tiêu cực truyền thống văn hoá của dân tộc. Từ phân hoá về mặt
kinh tế tạo sự chênh lệch trong hưởng thụ các quyền về mặt xã hội trong các tầng
lớp dân cư, ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định thứ bậc của các giá trị xã hội,
thang giá trị xã hội, hình thành trên thực tế sự đề cao quá mức các giá trị vật chất,
coi nhẹ giá trị nhân văn, đẩy nhanh quá trình hình thành và phát triển lề thói thực
dụng, cực đoan, đề cao q mức lợi ích cá nhân, chạy theo lối sống phương Tây,
gây phương hại đến lợi ích cộng đồng, lợi ích quốc gia và giá trị văn hoá truyền
thống tốt đẹp của dân tộc.
2. Thực trạng phân hoá giàu nghèo ở Việt Nam hiện nay
2.1. Thực trạng khác biệt về tài sản


2.1.1.Về đất đai và cơng xưởng, máy móc: Những năm qua, đẩy mạnh sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mở rộng đa phương hoá, đa dạng
hoá quan hệ đối ngoại, thu hút vốn đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, tỷ lệ
doanh nghiệp và cơ sở kinh doanh không ngừng được nâng lên. Tổng số các
doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh năm 2005 là 112.950 doanh nghiệp; năm
2006 là 131.318; năm 2007 là 155.771; năm 2008 là 205.668; và năm 2009 là
248.847. Số cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể phi nông nghiệp liên tục tăng: năm
2005 là 3.053.000 cơ sở; năm 2006 là 3.748.100; năm 2007 là 3.868.700; năm
2008 là 3.986.000; và năm 2009 là 4.124.200. Tuy nhiên, khoảng cách chênh lệnh
các doanh nghiệp và cơ sở kinh doanh giữa các vùng miền và giữa người giàu,
người nghèo khá lớn. Cơ sở kinh doanh vùng cao nhất Đồng bằng sông Hồng là
1.092.200 so với vùng thấp nhất Tây Nguyên 181.100 cơ sở, cao gấp 6,0 lần[100,
mục 60,70], tỷ lệ nắm các công ty xí nghiệp và cơ sở kinh doanh nhóm 5 là 87%;
nhóm 4 là10%; nhóm 3 là 2%; nhóm 2 là 0,7% và nhóm 1 là 0,3%. Phần lớn
những hộ giàu đều có nhiều đất hoặc đất có giá trị sử dụng, lợi nhuận cao, người
nghèo chủ yếu sử dụng đất nơng nghiệp, đất có giá trị sử dụng và lợi nhận thấp,
thậm chí nhiều người khơng có đất sử dụng1.

2.1.2. Về nhà ở: Do có những giải pháp phù hợp, kết hợp với việc phát
động phong trào “xoá nhà tranh tre dột nát”, bằng nhiều nguồn lực của Nhà nước
và cộng đồng xã hội nên nhà ở của các hộ nghèo được cải thiện đáng kể. Diện tích
nhà ở thường xun được cải thiện, bình qn một người có diện tích là 9,67 m 2
năm 1998 tăng lên 12,5 m2 năm 2002 và 13,5 m2 năm 2004. Tỷ lệ hộ có nhà ở
kiên cố tăng từ 12,7% năm 2002 lên 27,8% năm 2008; hộ có nhà tạm và nhà khác
giảm nhanh, từ 24,6% năm 2002 xuống còn 13,1% năm 2008 2. Tuy nhiên, có sự
chênh lệnh về chất lượng nhà ở giữa thành thị, nông thôn và giữa các nhóm thu
nhập là rất lớn. Tồn bộ nhà biệt thự đều thuộc về 40% hộ có thu nhập cao nhất.
Nhóm hộ giàu nhất có tới 50% số hộ có nhà kiên cố, trong khi nhóm hộ nghèo
nhất chỉ có 10,8%, số nhà tạm và nhà khác của nhóm nghèo nhất cao gấp 6,2 lần
nhóm hộ giàu nhất.
1

Nguồn: Tổng cục thống kê, KSMS 2008, Mục 8.1

2 Tổng cục Thống kê (2010), kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2008, Nxb Thống kê, Hà Nội, tr.18


2.1.3. Về tài sản có giá trị và đồ dùng lâu bền:

Trong những năm qua, tỷ

lệ hộ có các loại tài sản có giá trị đã tăng lên đáng kể, nhất là những loại tài sản
trước kia được coi là xa xỉ, đắt tiền thì nay đã trở thành những hàng hố khơng
thể thiếu đối với nhiều hộ gia đình và đã tăng một cách đột biến. Tỷ lệ hộ có đồ
dùng lâu bền tăng từ 96,9% năm 2002 lên 99% năm 2008, hầu hết các loại đồ
dùng lâu bền hiện có của các hộ đều tăng kể cả khu vực thành thị, nơng thơn ở các
vùng và các nhóm thu nhập1. Ví dụ: Tỷ lệ hộ có ơ tơ năm 2004 là 0,1% tăng lên
0,4% năm 2008; tương ứng như vậy đối với xe máy là 55,3% và 89,4%; điện

thoại 28,5% và 107,2%; tủ lạnh 16,6% và 32,1% đầu máy video là 32,8% và
53,4%; ti vi màu là 69,8% và 92,1%; dàn nhạc là 1,0% và 14,9%; máy tính là
5,1% và 11,5%; máy điều hoà là 2,2% và 5,5%; máy giặt là 6,2% và 13,3%;
bình tắm nước nóng lạnh là 5,4% và 10,1%.
Tuy nhiên, số hộ có đồ dùng lâu bền ở thành thị vẫn cao hơn rất nhiều so
với hộ ở nông thôn. Phần lớn những tài sản đắt tiền, có giá trị sử dụng trong sinh
hoạt gia đình đều thuộc về nhóm giàu, nhóm nghèo ít có cơ hội được sử dụng các
loại tài sản đắt tiền như ơ tơ, máy điều hồ nhiệt độ ... và ngay cả những loại tài sản
cần thiết trong sinh hoạt gia đình như: điện thoại, tủ lạnh, máy giặt, bình tắm nước
nóng, máy vi tính ..., cũng chỉ chiếm một tỷ lệ thấp .
2.2. Thực trạng khác biệt về thu nhập, chi tiêu
2.2.1. Thực trạng về thu nhập: Những năm gần đây, đời sống các tầng lớp
dân cư cả nông thôn và thành thị ở tất cả các vùng trên phạm vi cả nước tiếp tục
được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người trên một tháng chung cả nước có
xu hướng tăng nhanh. Trong thời kỳ 2006-2008 thu nhập bình quân 1 người 1/1
tháng theo giá hiện hành tăng bình quân 26%, cao hơn mức tăng 16,6% mỗi năm
của thời kỳ 2002-2004 và mức tăng 14,6% mỗi năm của thời kỳ 2004-2006. Nếu
loại trừ yếu tố tăng giá thì thu nhập thực tế của thời kỳ 2006-2008 tăng 7,6% mỗi
năm, cao hơn mức tăng thu nhập thực tế 6,2% mỗi năm của thời kỳ 2004-20062.
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế và những nỗ lực trong cơng cuộc xố đói giảm
nghèo của Đảng và Nhà nước, tỷ lệ hộ nghèo hộ nghèo liên tục giảm, đời sống
1 Tổng cục Thống kê (2010), kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2008, Nxb Thống kê, Hà Nội, tr.19
2 Tổng cục Thống kê (2010), kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2008, Nxb Thống kê, Hà Nội, tr.12


các tầng lớp dân cư có nhiều chuyển biến tiến bộ. Theo Tổng cục Thống kê tỷ lệ
hộ nghèo ở nước ta qua các năm đều giảm nhanh: năm 1993 là 58,1% năm 1998
giảm xuống còn 37,4%[97, tr.263]; 28,9% năm 2002, 18,1% năm 2004, đến năm
2006 giảm xuống còn 15,5%1. Thu nhập bình quân đầu người tăng khá nhanh
năm sau tăng hơn năm trước, song nhóm có thu nhập thấp tăng rất chậm so với

nhóm có thu nhập khá, vì vậy, khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa các
nhóm dân cư có xu hướng tăng lên, vẫn cịn có sự cách biệt khá xa giữa thành thị
- nông thôn, giữa các vùng miền, giữa các nhóm dân cư giàu và nghèo. Chênh
lệch thu nhập bình quân 1 người/1 tháng của khu vực thành thị so với khu vực
nông thôn năm 1999 là 2,30 lần; năm 2002 là 2,26 lần; năm 2004 là 2,15 lần;
năm 2006 là 2,09 lần và năm 2008 là 2,21 lần[99, tr.13]. Chênh lệnh giữa vùng
có thu nhập bình qn đầu người cao nhất là Đơng Nam bộ cao gấp 3 lần vùng có
thu nhập thấp nhất là vùng Tây Bắc[PL2]. Mặt khác, khoảng cách chênh lệnh về
thu nhập bình qn đầu người/tháng giữa nhóm có thu nhập thấp và nhóm có thu
nhập cao ngày càng tăng: năm 1990 là 4,1 lần; năm 1993 là 6,2 lần; năm 1994 là
6,5 lần; năm 1995 là 7,0 lần; năm 1996 là 7,3 lần; năm 1999 là 7,6 lần; năm
2002 là 8,1 lần; năm 2004 là 8,3 lần, năm 2006 là 8,4 lần và năm 2008 là 8,9 lần.
2.2.2. Về chi tiêu: Mức chi tiêu tiếp tục có những chuyển biến tích cực
thơng qua các số liệu thống kê, chi tiêu bình quân đầu người/tháng của cả nước
theo giá cả hiện hành có xu hướng tăng lên: năm 2004 là 396.800đ; năm 2006 là
511.000đ và năm 2008 là 793.000đ bình quân mỗi năm tăng 24,5%. Chi tiêu cho
đời sống đạt 705.000đ, tăng 53,1% so với năm 2006, bình quân mỗi năm tăng
23,7% cao hơn các năm trước. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì chi tiêu thực tế
thời kỳ 2006-2008 tăng 7,1% mỗi năm, cao hơn mức tăng 5,2% của thời kỳ
2004-20062. Song mức chi tiêu cho đời sống giữa khu vực thành thị và nông
thôn, giữa các vùng, miền có sự chênh lệnh đáng kể. Năm 2008 tổng chi tiêu cho
đời sống bình quân đầu người/tháng khu vực thành thị đạt 1.245.300 gấp 2,01
lần so với khu vực nơng thơn là 619.500đ, vùng có mức chi tiêu đời sống cao
nhất là Đông Nam Bộ (1.292.600đ) gấp 2,6 lần vùng có mức chi tiêu đời sống
thấp nhất là Tây Bắc (496.800đ) . Nếu so sánh mức chi tiêu cho đời sống giữa
1 Tổng cục Thống kê (2007), Kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2006, Hà Nội, tr.3
2 Tổng cục Thống kê (2010), kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2008, Nxb Thống kê, Hà Nội, tr.14


20% hộ có mức chi tiêu cao nhất với 20% hộ có mức chi tiêu thấp nhất thì hệ số

chênh lệnh có xu hướng tăng qua các năm: năm 2002 là 4,5 lần; năm 2004 là 4,5
lần; năm 2006 là 4,5 lần và năm 2008 là 4,2 lần, tỷ trọng chi cho ăn, uống, hút
giữa các vùng cũng có sự chênh lệnh.
hi tiêu những hàng hố dịch vụ ngồi ăn uống của nhóm giàu nhất lớn
C
gấp 6,5 lần so với nhóm nghèo, trong đó chi về nhà ở, điện nước, vệ sinh gấp 8,5
lần; chi thiết bị và đồ dùng gia đình gấp 6 lần; chi y tế, chăm sóc sức khoẻ gấp 3,2
lần; chi đi lại và bưu điện gấp 10,6 lần; chi giáo dục gấp 5 lần; chi văn hố thể
thao giải trí gấp 89,3 lần.
2.3. Thực trạng khác nhau giáo dục, ý tế, giải trí
2.3.1. Về giáo dục:Theo thống kê khảo sát mức sống hộ gia đình năm
2008, tỷ lệ biết chữ của dân số từ 10 tuổi trở lên đạt ở mức khá cao: 93,1%,
bằng năm 2006 và tăng nhẹ so với các năm trước. Tuy nhiên, tỷ lệ của nhóm
hộ giàu và nhóm hộ nghèo có sự chênh lệnh đáng kể: nhóm hộ giàu nhất
chiếm 98%, trong khi đó nhóm hộ nghèo chỉ chiếm 85%; ở thành thị là 96%,
nông thôn chiếm 92%; vùng Đồng bằng sông Hồng đạt tỷ lệ cao nhất là
96,7%, thấp nhất là vùng Tây Bắc 80,3% và Tây Nguyên là 88,7%. Tỷ lệ
khơng có bằng cấp hoặc chưa bao giờ đến trường của dân số từ 15 tuổi trở lên
của nhóm nghèo nhất là 36,7% cao hơn 3,8 lần so với nhóm hộ giàu nhất. Chi
tiêu cho giáo dục và đào tạo của các hộ gia đình khu vực thành thị bình quân
là 3,088 triệu đồng cao hơn 2,3 lần so với nơng thơn là 1,354 triệu đồng;
nhóm hộ giàu nhất cao hơn 5,4 lần so với nhóm hộ nghèo nhất 1.
2.3.2. Về y tế và chăm sóc sức khoẻ: Những năm qua, chúng ta đã có
nhiều cố gắng trong việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu và phịng chống các
căn bệnh xã hội hiểm nghèo, tuy nhiên mức độ được hưởng thành quả y tế
và chăm sóc sức khoẻ ở các vùng và các nhóm xã hội có sự khác nhau. Năm
2008 có 82% lượt người ở khu vực nông thôn khám, chữa bệnh nội trú tại
các bệnh viện nhà nước, trong khi tỷ lệ này đối với khu vực thành thị là
92%, nhóm giàu nhất có tỷ lệ khám chữa bệnh nội trú tại các bệnh viện nhà
nước cao hơn rất nhiều so với nhóm nghèo nhất, chênh lệnh này còn cao hơn

1 Tổng cục Thống kê (2010), kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2008, Nxb Thống kê, Hà Nội, tr.7, 8


đối với khám chữa bệnh ngoại trú. Chi phí điều trị nội trú và ngoại trú bình
quân 1 người khám chữa bệnh của các hộ ở khu vực thành thị là 1,423 triệu
đồng, cao hơn 1,6 lần so với khu vực nơng thơn; nhóm hộ giàu nhất là 1,688
triệu đồng, cao gấp 3 lần so với nhóm hộ nghèo[99, tr.10].
2.3.3. Về vui chơi giải trí: Trên thực tế, nhưng hộ giàu có điều kiện để nâng
cao mức sống và tham gia các hoạt động văn hố, vui chơi, giải trí hơn các hộ
nghèo. Họ có điều kiện để tham gia các hoạt động văn hoá tinh thần như: du
lịch, lễ hội văn hố, mua sách báo... trong khi đó các hộ nghèo khơng có điều
kiện chi trả những loại hoạt động dịch vụ đó.
3. Thực trạng tác động của phân hố giàu nghèo đến tiềm lực chính trị tinh thần nền quốc phịng tồn dân ở Việt Nam hiện nay
3.1. Tác động tích cực
3.1.1. Tác động tích cực của phân hóa giàu nghèo đến nhận thức của các
tầng lớp xã hội trong sự nghiệp xây dựng nền quốc phịng tồn dân bảo vệ Tổ
quốc.
Trước tác động của phân hóa giàu nghèo, tạo động lực cho mọi tầng lớp
vươn lên làm giàu, người giàu phấn đấu giàu hơn, người nghèo phấn đấu thốt
nghèo. Đồng thời, thơng qua các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, các chính
sách xố đói giảm nghèo thực hiện an sinh, công bằng xã hội, đời sống của nhân
dân không ngừng được nâng lên, dẫn đến nhận thức của các tầng lớp xã hội vào
các chủ trương, chính sách của Đảng, đặc biệt là đường lối quốc phịng tồn dân,
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ngày càng được nâng cao. Đại đa số các tầng
lớp nhân dân nhận thức khá sâu sắc về mục tiêu lý tưởng chiến đấu của Đảng,
đường lối quốc phịng tồn dân, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Tuyệt đạt đa số nhân
dân đều cho rằng sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu, quyết định mọi
thành công và mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam; Trong nhận thức nhiệm
vụ bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay, những nội dung mới như
bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, bảo

vệ tài sản và sinh mạng của nhân dân, bảo vệ các giá trị văn hoá dân tộc, chống
can thiệp, ly khai, chống bạo loạn chính trị... đều được bổ sung vào tư duy chính
trị của các tầng lớp nhân dân. Theo kết quả điều tra nhận thức về mục tiêu lý tưởng


chiến đấu của Đảng có 67,5% nhận thức sâu sắc, 17,5% nhận thức ở mức trung bình
và 15,0% khó trả lời. Nhận thức về đường lối quốc phịng tồn dân, nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc có 70,0% ý kiến nhận thức sâu sắc, 17,5% nhận thức trung bình
và 12,5% khó trả lời. Nhận thức về đường lối phát triển kinh tế - xã hội của
Đảng, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm
của mỗi người dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc đa số các ý kiên đều nhận
thức khá sâu sắc. Các ý kiến đều cho rằng sự nghiệp xây dựng nền quốc phịng
tồn dân, bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, ai
cũng có trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ như nhau và tin tưởng với đường
lối phát triển kinh tế xã hội đúng đắn của Đảng, thực hiện tốt tiến bộ, công bằng
xã hội sẽ hạn chế được tác động tiêu cực của phân hóa giàu nghèo đến sự nghiệp
xây dựng nền quốc phịng tồn dân, bảo vệ Tổ xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức về sự tác động của tình trạng phân hóa giàu nghèo ở nước ta
hiện nay và chủ trương xố đói giảm nghèo của Đảng. Phần lớn các ý kiến cho
rằng, phân hóa giàu nghèo tác động cả tích cực và tiêu cực đến việc quán triệt
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế đất
nước, trong đó tác động tiêu cực là làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh
đạo của Đảng, sự điều hành và quản lý của Nhà nước. Mặt khác, các ý kiến đều
thống nhất nhận định tác động tiêu cực của phân hóa giàu nghèo làm suy giảm
trách nhiệm trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ xây dựng nền quốc phịng
tồn dân bảo vệ Tổ quốc, làm tăng thêm xu hướng chủ nghĩa cá nhân, lối sống
thực dụng trong các tầng lớp nhân dân.
3.1.2. Tác động tích cực của phân hóa giàu nghèo ở Việt Nam đến niềm tin
chính trị của các tầng lớp xã hội vào chủ trương, đường lối xây dựng nền quốc
phịng tồn dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

Trước tác động tích cực của phân hóa giàu nghèo, thơng qua các chủ trương
khuyến khích làm giàu hợp pháp, ngăn chặn việc làm giàu bất hợp pháp, khuyến
khích mọi tầng lớp nhân dân phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống.
Mặt khác thông qua các chính sách an sinh xã hội như xố đói giảm nghèo, điều
tiết thu nhập và truyền thống nhân văn của dân tộc, “lá lành đùm lá rách”, “bầu ơi
thương lấy bí cùng”… đời sống nhân dân khơng ngừng được cải thiện, dẫn đến,


đa số các tầng lớp nhân dân tin tưởng vào đường lối phát triển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng
bằng, văn minh, trên cơ sở đó, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Kết quả điều tra cho thấy, 87,5% tin tưởng vào sự
nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, 2,5% không tin tưởng và 10,0% khó trả lời, 77,5% tin tưởng vào khả
năng thực hiện thành công mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh 2,5% không tin tưởng và 20,0% khó trả lời. Trả lời câu hỏi trước sự tác
động của phân hóa giàu nghèo hiện nay chúng ta có đánh thắng mọi kẻ thù xâm
lược, các ý kiến đều khẳng định chắc chắn chúng ta sẽ giành thắng lợi, trong đó
85,0% ý kiến tin tưởng vào sức mạnh của đất nước, của nền quốc phịng tồn dân,
75,0% ý kiến tin tưởng vào trình độ và sức mạnh chiến đấu của quân đội, 72,5% ý
kiến tin tưởng vào khả năng giành thắng lợi trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, xây
dựng nền quốc phịng tồn dân. Thực chất đó là niềm tin vào truyền thống chống
giặc ngoại xâm của dân tộc, biểu thị truyền thống yêu nước Việt Nam. Đánh giá
về khả năng lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý điều hành của nhà nước trong
việc thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, khắc phục hạn chế tác động
tiêu cực của phân hóa giàu nghèo, phần lớn các ý kiến đều tin tưởng vào khả
năng lãnh đạo của Đảng, sự điều hành quản lý của Nhà nước, tin tưởng vào khả
năng khắc phục, hạn chế tác động tiêu cực của tình trạng phân hóa giàu nghèo
và tin tưởng chắc chắn cơng cuộc xố đói nghèo sẽ giành được nhiều thành tựu
cao hơn. Kết quả điều tra cho thấy 72,5% ý kiến tin tưởng vào sự lãnh đạo của

Đảng, sự điều hành quản lý của Nhà nước thực hiện tốt cơng bằng, bình đẳng,
tiến bộ xã hội, 72,5% ý kiến cho rằng sẽ khắc phục được tác động tiêu cực của
phân hóa giàu nghèo, chỉ có 27,5% ý kiến khó trả lờ.
Điều tra ở một số đơn vị quân đội, đại đa số quân nhân không hề tỏ ra bất
ngờ, trước sự tác động mạnh mẽ của phân hóa giàu nghèo, nhưng vấn đề quan
trọng là cần phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực để phát triển đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện nhất quán mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh. Song, có một bộ phận còn băn khoăn, lo
lắng, thiếu tin tưởng vào chủ trương xố đói nghèo, thực hiện tiến bộ, cơng bằng


xã hội trong từng bước phát triển; băn khoăn về tính bền vững, và hiệu quả của
các hoạt động xã hội để góp phần xố đói, giảm nghèo.
3.1.3. Tác động tích cực của phân hóa giàu nghèo ở Việt Nam đến hành vi
chính trị của các tầng lớp xã hội đối với chủ trương, đường lối xây dựng nền
quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Trước sự tác động tích cực của phân hóa giàu nghèo, đã làm thay đổi những
giá trị căn bản cả đời sống vật chất và tinh thần của quân chúng nhân dân thơng
qua chính sách phát triển kinh tế và các chính sách xã hội, đời sống nhân dân
khơng ngừng được cải thiện, tỷ lệ nghèo liên tục giảm. Dẫn đến, đa số các tầng
lớp nhân dân hiện nay luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, sẵn sàng chiến
đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Kết quả điều tra xã
hội học cho thấy 82,5% ý kiến nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, khắc phục
khó khăn, tham gia tích cực vào nhiệm vụ xây dựng nền quốc phịng tồn dân;
85,0% ý kiến sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tích cực đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu chống phá của kẻ thù; 87,5% ý kiến nêu cao tinh
thần trách nhiệm xây dựng và bảo vệ quê hương, giữ vững ổn định chính trị - xã
hội, quyết tâm vươn lên thốt nghèo, làm giàu cho bản thân gia đình và xã hội.
Trả lời câu hỏi khi có chiến sự xẩy ra bản thân ông bà và con em của ông bà sẵn
sàng cầm súng ra mặt trận bảo vệ Tổ quốc? 80,0% ý kiến trả lời sẵn sàng ra mặt

trận, đặc biệt là khu vực Bắc trung Bộ các ý kiến trả lời dứt khốt khi Tổ quốc cần
chúng tơi có mặt.
3.1.4. Tác động tích cực của phân hóa giàu nghèo đến chủ nghĩa yêu nước
và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam hiện nay
Hiện nay trước sự tác động của phân hóa giàu nghèo, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước và sự hoạt động định hướng của
các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động giúp đỡ người nghèo trở thành phong
trào rộng khắp, tinh thần tương thân, tương ái được khơi dậy trở thành giá trị
trong con người Việt Nam. Dẫn đến, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đang phát
huy tốt trong các hoạt động xã hội, ở các tầng lớp dân cư, trở thành sức mạnh tinh
thần to lớn của nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Kết quả điều tra cho thấy đa số các tầng lớp xã hội đều có lịng u


nước, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa, biểu hiện tinh thần u q hương, làng xóm, biết
q trọng, gìn giữ những thành quả của cách mạng, xây dựng tốt các mối đồn kết ở
địa phương, tham gia tích cực vào sự nghiệp xây dựng, củng cố sự nghiệp quốc
phòng, bảo vệ Tổ quốc.
Trước sự tác động tích cực của phân hóa giàu nghèo, chủ nghĩa anh hùng cách
mạng Việt Nam trong đấu tranh giải phóng dân tộc đã và đang được các tầng lớp
nhân dân phát huy trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Biểu hiện trên thực tế trong xây dựng đất nước đã xuất hiện nhiều
gương lao động sáng tạo, quả cảm, có hiệu quả cao, đi đầu trong phát triển sản
xuất, nâng cao đời sống nhân dân. Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, xuất hiện
nhiều tấm gương sáng, anh dũng hy sinh vì sự bình yên của Tổ quốc và nhân dân,
nhiều cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang đóng quân ở biên giới, hải đảo, vùng sâu,
vùng xa, nơi đặc biệt khó khăn, nguy hiểm, để làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh chính
trị, trật tự an tồn xã hội. Hàng năm, có hàng ngàn thanh niên hăng hái lên đường
làm nghĩa vụ quân sự, trong đó nhiều thanh niên, sau khi tốt nghiệp phổ thơng tình
nguyện phục vụ lâu dài trong qn đội. Phong trào thanh niên tình nguyện và tham

gia các hoạt động từ thiện đã thu hút nhiều thanh niên, nhiều người tham gia đạt
hiệu quả tốt.
3.2. Tác động tiêu cực
3.2.1. Tác động tiêu cực của phân hóa giàu nghèo đến nhận thức của các
tầng lớp xã hội trong sự nghiệp xây dựng nền quốc phịng tồn dân bảo vệ Tổ quốc
Trước sự tác động tiêu cực của phân hóa giàu nghèo, đời sống của một bộ
phận quân chúng nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, dẫn đến một bộ phận cán bộ
và nhân dân còn hiểu biết chưa đầy đủ về mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng nền quốc
phịng tồn dân, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Quan niệm của người dân về
mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cịn có sự khác biệt nhau: có
81,2% cho rằng bảo vệ vững chắc chủ quyền vùng trời vùng biển, biên giới hải
đảo; trong khi đó có 20,2% bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; 19,6% giữ vững ổn
định chính trị - xã hội; 19,4% bảo vệ Đảng, Nhà nước; 16,4% bảo vệ tính mạng và
tài sản của nhân dân; 11,8% bảo vệ thống nhất Tổ quốc1.
1 Lê Minh Vụ (2010), Định hướng và giải pháp xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cho mọi người
dân Việt Nam, Đề tài KX.04.22/06-10, Hà Nội, tr.66


Khơng chỉ có sự thiếu quan tâm của nhiều người đến nhiệm vụ bảo vệ
Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ chế độ, mà nhận thức và thái độ của các giai
tầng khác nhau đối với những nhiệm vụ đó cũng có sự phân hố mạnh. Trong
khi 82,7% cán bộ các cấp huyện, xã, thôn bản quan niệm nhiệm vụ trọng yếu
của bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ Đảng, Nhà nước thì chỉ có 43,7% cơng nhân và
25,0% chiến sĩ quân đội, 18,4% sinh viên nhất trí với quan niệm đó. Tương tự,
63,3% cán bộ, trí thức, và 64,2% sĩ quan xác định phát huy vai trò của hệ thống
chính trị trong củng cố và giữ vững sự ổn định xã hội là giải pháp quan trong để
xây dựng nền quốc phịng tồn dân, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, thì chỉ có
hơn 35% cơng nhân, sinh viên đồng thuận với ý kiến đó. Kết quả điều tra xã hội
học cho thấy nhận thức về mục tiêu lý tưởng chiến đấu của Đảng cịn có 17,5%
nhận thức ở mức trung bình và 15,0% khó trả lời; nhận thức về đường lối quốc

phịng tồn dân, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc cịn 17,5% nhận thức trung bình và 12,5%
khó trả lời[PL5]. Số ít người dân chưa thấy hết âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hồ
bình” của các thế lực thù địch ở trong nước, ngoài nước đang nhằm chống phá
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta, một số người được hỏi ý kiến
cho rằng: chiến lược “diễn biến hồ bình” khơng phải là nguy cơ phá hoại đối
với đại đoàn kết dân tộc, cũng như đối với độc lập, chủ quyền quốc gia và chế
độ xã hội.
3.2.2. Tác động tiêu cực của phân hóa giàu nghèo ở Việt Nam đến niềm tin
chính trị của các tầng lớp xã hội vào chủ trương, đường lối xây dựng nền quốc
phịng tồn dân bảo vệ Tổ quốc
Sự tác động tiêu cực của phân hóa giàu nghèo biểu hiện qua những vấn đề
chính trị - xã hội của phân hóa giàu nghèo, dẫn đến niềm tin của một bộ phận
cán bộ, nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng nền quốc phịng tồn dân, bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đang có chiều hướng suy giảm. Một bộ phận nhân dân
có những biểu hiện giảm sút niềm tin vào tổ chức Đảng, chính quyển các cấp,
nhất là cấp cơ sở xã, phường và niềm tin vào tương lai của chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, dẫn đến ảnh hưởng xấu đến niềm tin vào sự nghiệp củng cố
xây dựng nền quốc phịng tồn dân bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Kết quả
điều tra cho thấy, niềm tin vào sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ


×