Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN đấu TRANH bảo vệ, PHÁT TRIỂN và xây DỰNG NHÀ nước xô VIẾT ý NGHĨA TRONG xây DỰNG NHÀ nước PHÁP QUYỀN ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.43 KB, 25 trang )

1

ĐẤU TRANH BẢO VỆ VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC XÔ VIẾT –
Ý NGHĨA TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM
I. NHỮNG DIỄN BIẾN CHÍNH CỦA CUỘC ĐẤU TRANH ĐỂ BẢO VỆ
VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC XÔ VIẾT NGAY SAU KHI GIÀNH ĐƯỢC CHÍNH
QUYỀN CÁCH MẠNG.

Cách mạng Tháng Mười Nga thành công đánh dấu sự ra đời Nhà nước Xô
viết – Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Ngay sau khi ra đời chính
quyền Xô viết đã gặp muôn vàn gian khó, nhiều lúc tưởng trừng như bị tiêu diệt
trước sự tấn công của 14 nước đế quốc và bọn phản động trong nước thù địch với
Chủ nghĩa xã hội. Với khả năng thiên tài của mình, Lênin Và Đảng Đảng cộng
sản (Bôn sê vích) Nga đã lãnh đạo và chỉ đạo cuộc đấu tranh để xây dựng và bảo
vệ chính quyền Xô viết, khẳng định sự đứng vững của một chế độ xã hội mới
hoàn toàn về chất trước sự tấn công của thù trong, giặc ngoài tiếp tục vững bước
xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
1. Trước hết Lênin và Đảng cộng sản Nga tiến hành ngay việc xây
dựng hệ thống chính trị - Nhà nước Xô viết
Vấn đề cơ bản của cách mạng là vấn đề chính quyền. Sau thắng lợi của cuộc
cách mạng Tháng Mười, nhiệm vụ hàng đầu của giai cấp công nhân và nông dân
nước Nga là phải đập tan toàn bộ nhà nước cũ của giai cấp tư sản và địa chủ , khẩn
trương xây dựng bộ máy nhà nước của những người lao động.
Chính quyền Xô viết đã ban hành hàng loạt các đạo luật và sắc lệnh
thành lập cảnh sát công nông thay cho cơ quan cảnh sát của Chính phủ lâm
thời, Các bộ của chính phủ tư sản, các cơ quan của chính quyền tư sản, địa chủ
ở các địa phương đều bị thủ tiêu. Các quan lại, tay chân của chính phủ lâm thời
đều bị sa thải, cách chức.


2



Lênin cùng Đảng Cộng sản Nga thiết lập ngay hệ thống chính trị từ
Trung ương đến địa phương. Bao gồm, Ban chấp hành Trung ương các Xô
viết toàn Nga, Hội đồng uỷ viên nhân dân, các cơ quan Trung ương và các
Xô viết các cấp. Đại hội các Xô viết và Ban chấp hành Trung ương Xô viết
toàn Nga nắm trong tay quyền lập pháp. Hội đồng uỷ viên nhân dân là cơ
quan hành pháp. ở các địa phương, các Xô viết đại biểu nông dân được hợp
nhất với các Xô viết đại biểu công nhân và binh lính thành lập các cơ quan
chính quyền duy nhất.
Chính quyền Xô viết tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang cho mình,
ngày 15/1/1918 Lênin kí sắc lệnh về tổ chức Hồng quân công nông và
thành lập Hạm đội đỏ. Uỷ ban đặc biệt toàn Nga – cơ quan an ninh quốc
gia cũng được thành lập. Uỷ ban đặc biệt toàn Nga đã có công lao to lớn
trong việc đập tan tổ chức phản cách mạng và các hành động phá hoại của
chúng bảo vệ nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Chính quyền Xô viết đã khẩn trương và triệt để thủ tiêu những tàn tích
của chế độ phong kiến, nông nô nhằm giải quyết những nhiệm vụ còn lại của
cách mạng dân chủ tư sản. Sau sắc lệnh xoá bỏ chế độ ruộng đất của giai cấp
địa chủ, Ban chấp hành Xô viết toàn Nga đã ban hành sắc luật xoá bỏ mọi phân
biệt đẳng cấp, dân tộc và mọi tước vị phong kiến, tất cả mọi người chỉ có một
danh hiệu chung là công dân của nước Cộng hoà Xô viết Nga. Chính quyền
Xô viết tuyên bố về sự bình đẳng nam nữ, quyền tự do tín ngưỡng, quyết định
nhà thờ tách khỏi nhà nước và trường học. Tôn giáo và nhà thờ là việc riêng
của các công dân, mọi đặc quyền của nhà thờ đều bị bãi bỏ.
Với một quốc gia có nhiều dân tộc như nước Nga, vấn đề dân tộc có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng. Trong chính phủ Xô viết đầu tiên, Uỷ ban nhân dân
về vấn đề dân tộc đã được thành lập do Xtalin đứng đầu. Ngay sau cách mạng
vừa thắng lợi chính phủ Xô viết đã tuyên bố bản tuyên ngôn về quyền các dân



3

tộc nước Nga. Tuyên ngôn đã khẳng định những nguyên tắc căn bản của chính
quyền Xô viết đối với các vấn đề dân tộc đó là:
1. Bình đẳng về quyền làm chủ của các dân tộc
2. Quyền của các dân tộc nước Nga được tự quyết một cách tự do. Kể cả
việc tách ra và thành lập các quốc gia độc lập.
3. Xoá bỏ tất cả các đặc quyền và hạn chế về dân tộc và tôn giáo.
4. Các dân tộc thiểu số và các nhóm nhân chủng sống trên lãnh thổ Nga
được phát triển tự do.
Đó là những nguyên tắc pháp lý quan trọng về vấn đề dân tộc. Trung
thành với những nguyên tắc đó, nhà nước Xô viết đã tuyên bố tán thành quyến
tách ra của Ucraina, thừa nhận nền độc lập của Phần Lan và Ba lan…Xoá bỏ
mọi hiệp ước bất bình đẳng của chính phủ Nga Hoàng trước đây đối với Thổ
Nhĩ Kỳ, Ba Tư và một số nước khác.
Mặc dù đã nắm được Chính quyền nhưng Đảng Cộng sản Nga không thủ
tiêu ngay quốc hội lập hiến khi mà tổ chức này không thừa nhận chính quyền
Xô viết cũng như mọi sắc lệnh ban hành, và từ chối không thông qua bản
“Tuyên ngôn về quyền lợi của nhân dân lao động và bị bóc lột”do Ban chấp
hành Xô viết toàn Nga công bố. Và cho đến tận đêm 6/1/1918, Ban chấp hành
Xô viết toàn Nga mới thông qua sắc lệnh giải tán Quốc hôị lập hiến, đến Đại
hội Xô viết toàn Nga lần thứ III tán thành quyết định của Đảng Cộng sản Nga
đối với việc giải tán Quốc hội lập hiến. Đồng thời đại hội còn ra quyết định
hợp nhất các Xô viết đại biểu nông dân với Xô viết đại biểu công nhân và binh
lính. Đại hội thông qua bản “Tuyên ngôn về quyền lợi của nhân dân lao động
và bóc lột”. Với sự khẳng định nước Nga là một nước Cộng hoà Xô viết và
mục tiêu hoạt động là xoá bỏ mọi chế độ người bóc lột người, xoá bỏ giai cấp,
tuyên ngôn đã trở thành cơ sở cho bản Hiến pháp đầu tiên của nước Nga Xô
viết. Đại hội đã thông qua quyết định lịch sử, đổi tên nước Cộng hoà Xô viết



4

thành Cộng hoà Xô viết xã hội chủ nghĩa Liên bang Nga. Trên cơ sở liên minh
tự nguyện giữa các dân tộc ở Nga.
Toàn bộ những biện pháp trên đây của Đảng Cộng sản Nga và chính
quyền Xô viết có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc đập tan bộ máy nhà
nước tư sản, địa chủ cũ hình thành hệ thống chính trị – Nhà nước Xô viết.
2. Để củng Nhà nước Xô viết, Lênin đã cùng Đảng cộng sản Nga bắt
tay xây dựng kinh tế của chế độ mới.
Trước cách mạng Tháng Mười những người Bôn sê vích nhận thức về
kinh tế xã hội chủ nghĩa như một nền kinh tế thị trường, một nền kinh tế chỉ
huy- trong đó không tồn tại sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, tất cả đều được
xã hội hoá toàn bộ; các mối qun hệ về kinh tế không phải dựa trên quan hệ tiền
tệ- hàng hoá mà theo nguyên tắc phân phối hành chính, nhà nước đứng ra điều
hành vấn đề phân phối.
Chính quyền Xô viết bắt đầu quốc hữu hoá các nhà máy xí nghiệp của
giai cấp tư sản, quốc hữu hoá tất cả các ngân hàng tư nhân và thành lập ngân
hàng nhà nước thống nhất, tiếp sau là giao thông, đường sắt. Chính phủ Xô viết
còn tuyên bố xóa bỏ các món nợ trước kia của Nga Hoàng và chính phủ tư sản
lâm thời với tổng số tiền là 50 tỷ rúp. Tiến hành tịch thu các công ty thương
nghiệp của tư bản nước ngoài; tuyên bố độc quyền về ngoại thương; quốc hữu
hoá toàn bộ nền đại công nghiệp. Với việc quốc hữu hoá của chính quyền Xô
viết nhằm xoá bỏ thế lực kinh tế tư sản, xoá bỏ các quan hệ tư bản chủ nghĩa và
thiết lập hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa. Thực chất là xoá bỏ cơ sở kinh tế,
nguồn gốc của mọi sự áp bức, bóc lột, bất công trong xã hội.
Lúc này Hội đồng kinh tế quốc dân tối cao đã được thành lập nhằm
thống nhất quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân của đất nước và thực hiện các
chức năng tổ chức kinh tế nhà nước Xô viết.



5

Trong thời kỳ nóng bỏng này, Lênin đã viết tác phẩm Những nhiệm vụ
trước mắt của chính quyền Xô viết. Trong tác phẩm này Lênin kêu gọi cần phải
tổ chức chặt chẽ sự kiểm sát và kiểm soát của toàn dân đối với sản xuất và
phân phối sản phẩm, củng cố kỉ luật lao động, lôi kéo các chuyên gia tư sản, sử
dụng những thành tựu mới nhất của khoa học kỹ thuật. Đồng thời trong tác
phẩm này Lênin còn chỉ ra những nguyên tắc và biện pháp quan trọng để xây
dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nứơc Nga, trong đó nguyên tắc tập trung
dân chủ là quan trọng nhất.
3. Nhà nước Xô viết đã nhanh chóng giải quyết chính sách ruộng đất
ở nông thôn.
Sắc lệnh về ruộng đất ra đời và thực hiện nhằm thoả mãn nhu cầu, nguyện
vọng từ lâu đời của người nông dân Nga. Tiến hành tịch thu ruộng đất của tư sản địa chủ, nhà thờ, Nga Hoàng; nhanh chóng chia cho nông dân. Nông dân đã được
giải phóng khỏi những khoản tiền lĩnh canh phải nộp hàng năm, xoá nợ cho nông
dân ở các ngân hàng. Chính sách ruộng đất của chính quyền Xô viết được thực
hiện theo hướng vì lợi ích của nông dân.
Lúc này một vấn đề nảy sinh là, những nông dân giàu có, chủ yếu là phú
nông đã từ chối không bàn lúa mỳ cho chính quyền Xô viết. Tình hình lương
thực trong nước ngày trở nên khan khiếm, nhiều vùng lâm vào nạn đói nghiêm
trọng, khẩu phần bánh mỳ của công nhân ở nhiều nơi giảm xuống chỉ còn 50
gam mỗi ngày. Vì bị đói, không có nguyên liệu sản xuất, nhiều nhà máy phải
đóng của, công nhân bỏ việc. Tình trạng bất mãn trong xã hội tăng lên. Lợi
dụng tình hình như vậy nhiều thế lực phẩn động ngóc đầu dậy, điên cuồng
chống phá hòng bóp chết chính quyền Xô viết non trẻ. Sự thật nạn đói ở nước
Nga lúc đó không phải là do thiếu lúa mỳ, mà là do phú nông không chịu bán
lúa mỳ cho chính quyền Xô viết theo giá quy định, đồng thời chúng ráo riết
đầu cơ lúa mỳ để làm giàu nhanh chóng. Chính quyền Xô viết đã áp dụng



6

nhiều biện pháp kiên quyết nhằm đập tan sự chống đối của phú nông, giành lấy
lúa mì từ tay chúng, bảo vệ những thành quả cách mạng.
Trong giai đoạn này Nhà nước Xô viết đã ban hành hàng loạt sắc lệnh
nhằm thiết lập độc quyền lúa mỳ trong phạm vi cả nước. Cụ thể; cấm đầu cơ
lúa mỳ, phải bán theo gía quy định của Nhà nước, kiểm kê nghiêm ngặt và
phân phối chặt chẽ tất cả số lúa mỳ dự trữ. Tất cả những kẻ cất dấu lúa mỳ thừa
đều bị coi là kẻ thù của nhân dân và bị đưa ra trước toà án cách mạng. Đồng
thời giao cho các uỷ ban bần nông ở nông thôn có nhiệm vụ phân phối lúa mỳ,
vật dụng thiết yếu và nông cụ cho bần nông, giúp đỡ đội công tác thu mua lúa
mỳ thừa của phú nông và các nhà giàu khác. Với những việc làm cương quyết
đã làm cho bọn phú nông, địa chủ phải chùn bước… Những việc làm trên bước
đầu đã gây được niềm tin tưởng của nông dân với chính quyền Xô viết.
Các Uỷ ban bần nông sau đó đã hợp nhất với các Xô viết thành cơ quan
chính quyền duy nhất ở các địa phương. Như vậy, cuộc đấu tranh giành lúa mỳ
không phải chỉ đơn thuần là giải quyết vấn đề lương thực mà còn là thắng lợi
của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nông thôn, củng cố chính quyền Xô
viết và sự lãnh đạo của Đảng Bôn sê vích.
4. Trong quan hệ quốc tế, Nhà nước Xô viết dần từng bước khẳng
định vị thế của mình.
Sau khi giành được chính quyền, bắt tay vào xây dựng và cải tạo đất
nước, Nhà nước Xô viết và Đảng Cộng sản Nga cần có được một sự ổn định
trong các quan hệ đối ngoại và an ninh biên giới lãnh thổ. Tuy nhiên giai đoạn
này các nước như Anh, Pháp, Mỹ rồi đến Đức…đã bác bỏ những lời đề nghị
hoà bình từ phía Nga và còn có âm mưu xâm lược, nô dịch. Lúc này Lênin với
tầm nhìn chiến lược của mình đã cùng với một số ít những nhà lãnh đạo chấp
nhận một số yêu sách của Đức, với một quan điểm là bằng mọi giá phải bảo vệ
và giữ cho được chính quyền Xô viết ở Nga- “tiền đồ chủ nghĩa xã hội” của



7

phong trào vô sản thế giới. Bởi “Hiện nay, không có gì và không thể có gì
giáng vào sự nghiệp của chủ nghĩa xã hội một đòn mạnh hơn là sự sụp đổ của
chính quyền Xô viết Nga”(1). Tuy nhiên, lúc này đa số các uỷ viên Trung ương
Đảng lại không tán thành lập trường quan điểm của Lênin về việc kí hoà ước
với Đức. Nhiều quan điểm rất gay gắt về vấn đề này và họ cho rằng kí hoà ước
là là kéo lùi cách mạng, là tiêu diệt Nhà nước Xô viết, tiêu diệt cách mạng...
Đứng trước sự tấn công của Đức và áo trên tất cả các mặt trận nhằm
hướng đến thủ đô Pêtrográt Trung ương Đảng Bôn sê vích giao cho Lênin toàn
quyền quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình của đất nứơc. Ngày 19/2 1918
với mong muốn hoà bình Lênin nhân danh chính phủ Xô viết gửi điện cho
chính phủ Đức để báo tin nước Nga đã “sẵn sàng ký hoà ước chính thức theo
những điều kiện do chính phủ Đức đề nghị ở Brét Litốp”(2). Nhưng Đức vẫn
im lặng và tiếp tục tần công Nga. Và chỉ sau khi không thể tiến công, đánh bại
được Nga thì Chính phủ Đức mới đồng ý nối lại cuộc đàm phán với nước Nga.
Ngày 3/3/1918 hoà ước đã được kí và đã được Đại Hội VII Đảng Cộng sản
Nga thông qua và được Đại hội toàn Nga lần thứ IV phê chuẩn. Hoà ước đã
được ký kết những với cái giá phải trả quá đắt và làm tổn thương tình cảm dân
tộc của hàng triệu công dân Nga, nhưng đổ lại là Chính quyền Xô viết đã được
giữ vững và nước Nga tranh thủ được một thời gian hoà bình để củng cố lực
lượng. Bằng việc kí hoà ước, Lênin đã để lại bài học sâu sắc cho những người
cách mạng các nước; nghệ thuật đấu tranh với kẻ thù- nghệ thuật tấn công kẻ
thù và biết rút lui khi cần thiết.
5. Song song với quá trình xây dựng Nhà nước Xô viết non trẻ còn
đánh bại thù trong giặc ngoài khẳng định tính ưu việt, phù hợp với xu thế
thời đại của nhà nước kiẻu mới - Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Mười và sự ra đời của Nhà nước Xô

viết đã làm cho các nước đế quốc hết sức lo lắng. Chúng nhanh chóng tập hợp


8

lực lượng, phối hợp hành động và ráo riết chống phá, với mưu đồ bóp chết Nhà
nước Cộng hoà Xô viết non trẻ. Đó là cuộc nội chiến do các thế lực phản động
trong nước và cuộc can thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc bên ngoài tiến
hành, kéo dài trong 3 năm từ 1918 đến 1920.
Tình hình càng căng thẳng, nghiêm trọng hơn khi nội bộ nước Nga Xô
viết có nhiều vấn đề nảy sinh. Tại Đại hội Xô viết toàn Nga lần thứu V
(7/1918), những phần tử xã hội cách mạng phái tả đòi bãi bỏ “chế độ độc
quyền lúa mì”, huỷ bỏ hoà ước Brét Litốp, giải tán Uỷ ban bần nông. Bọn xã
hội cách mạng cánh tả còn gây ra vụ ám sát đại sứ Đức tại Nga, chiếm các toà
nhà ở Matxcơva và tấn công vào điện Cremli…
Cuộc nội chiến đã diễn ra trên lãnh thổ toàn Nga. ở nhiều vùng, địa
phương chính quyền Nhà nước Xô viết bị tan dã; những kẻ nổi loạn trong nước
và quân nước ngoài can thiệp đã chiếm được một vùng lãnh thổ rộng lớn. ở hậu
phương bọn phản cách mạng đã gây ra nhiều vụ nổi loạn, phá hoại, ám sát đầy
tội ác. Chúng đã giết nhiều cán bộ và công nhân cách mạng. Nghiêm trọng là
bọn Xã hội cách mạng đã ám sát hụt Lênin và chúng đã giết chết Chủ tịch Uỷ
ban đặc biệt toàn Nga ở Pêrôgrát. Tình hình càng trở lên căng thẳng hơn khi
quân Đức tiến công chiếm đóng nhiều vùng lãnh thổ và cung cấp vũ khí cho
bọn phản động trong nước. Trên thực tế thì Đức đã cùng các nước đế quốc
tham gia chống phá nước Nga.
Như vậy, từ giữa năm 1918 nhà nước Nga Xô viết lâm vào tình hình gay
cấn và khó khăn gấp bội. Chính quyền Xô viết lúc này chỉ kiểm soát được 1/4
lãnh thổ của nứơc Nga sa hoàng trước kia và mất đi những vùng lương thực,
nguyên liệu và nhiên liệu quan trọng của đất nước.
Trước những vấn đề dặt ra, Lênin xác định nước Cộng hoà Xô viết cần

xác định như một mặt trận quân sự thống nhất. Trước những thách thức khốc
liệt của tình hình, Đảng Cộng sản Nga và Nhà nước Xô viết đã trả lời bằng


9

những biện pháp kiên quyết và tập trung toàn bộ sức lực vào mục tiêu: giữ
vững chính quyền Nhà nước Xô viết. Tháng 9/1918, nước cộng hoà Xô viết
được tuyên bố là Mặt trận quân sự thống nhất với việc thực hiện mọi biện
pháp khẩn cấp cho cuộc chiến đấu đánh bại thù trọng, giặc ngoài. Chính
quyền Nhà nước Xô viết tuyên bố thi hành chính sách “khủng bố đỏ” nhằm
vào những phần tử phản động có âm mưu bạo loạn… Tiếp đến là việc thành
lập Hội đồng quốc phòng do Lênin đứng đầu. Nhà nước Xô viết đã thực hiện
chế độ nghĩa vụ quân sự thay cho chế độ tình nguyện trước đây. Nhờ đó mà
Hồng quân Nga đã lên tới 5 triệu 300 nghìn chiến sĩ chỉ sau hơn hai năm vận
động. Trong việc xây dựng lực lượng, Hồng quân đặc biệt coi trọng chất
lượng chính trị, nguyên tắc giai cấp và kỉ luật nghiêm minh.
Trong hoàn cảnh đất nước như vậy, Nhà nước Nga Xô viết quyết định
chuyển sang thực hiện chính sách cộng sản thời chiến với những nội dung cơ
bản là;
- Nhà nước độc quyền lúa mì, thực hiện chế độ trưng thu lương thực
thừa đối với nông dân.
- Nhà nước kiểm soát toàn bộ nền công nghiệp, tiến hành quốc hữu hoá
đối với đại công nghiệp và cả công nghiệp vừa và nhỏ. Hội đồng kinh tế quốc
quốc dân tối cao là cơ quan tập trung việc quản lý, điều hành sản xuất công
nghiệp cũng như nền kinh tế quốc dân.
- Thi hành lao động cưỡng bức đối với toàn dân. Mọi công dân từ 16 đến
50 tuổi đều phải có nghĩa vụ tham gia lao động công ích cho xã hội. Thực hiện
chế độ trả tiền lương bằng hiện vật và dựa theo nguyên tắc bình quân. Chế độ
ăn uống không mất tiền đối với trẻ em, công nhân công nghiệp, đường sắt, giao

thông.
Như vậy, chính sách cộng sản thời chiến với mục đích là huy động tối đa
và sử dụng hợp lý mọi nguồn của cải của đất nước, cung cấp nhu cầu thiết yếu


10

cho quân đội, nhân dân thành thị và nông thôn, phục vụ cho cuộc chiến đấu
chống thù trong, giặc ngoài. Vừa chiến đấu vừa xây dựng, Hồng quân và nhân
dân Xô viết đã vượt qua những thử thách hiểm nghèo. Từng bước đẩy lùi các
cuộc tấn công của kẻ thù bên ngoài. ở hậu phương các cuộc bạo loạn của bọn
phản cách mạng đều bị trấn áp.
Tháng 3/1919 Đại hội lần thứ VII của Đảng cộng sản Nga Xô viết đã
thông qua cương lĩnh mới do Lênin khởi thảo với nội dung chủ yếu là xây
dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước Nga. Đại hội quyết định chính thức đổi
tên Đảng, từ tên cũ là Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga (Bôn sê vích) thành
Đảng cộng sản Nga. Giai đoạn này bọn đế quốc và bọn phản động tiếp tục tổ
chức tấn công một lần nữa hòng tiêu diệt Nhà nước Xô viết.
Một lần nữa, nước Nga Xô viết lại bị các nước đế quốc tiến công, Bằng
cuộc chiến đấu ngoan cường, dưới sự của Đảng Cộng sản Nga và Nhà nước Xô
viết, Hồng quân và nhân dân Xô viết đã lần lượt bẻ gãy các cuộc tấn công và
đánh bại các lực lượng quân sự quan trọng của kẻ thù.
Đến tháng 3/1920 sau khi đánh bại những lực lượng chủ yếu của bọn
đế quốc, phản động, nước Cộng hoà Xô viết đã tranh thủ thời gian đình
chiến để khôi phục kinh tế bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đại hội Đảng
cộng sản Nga lần thứ IX đã đề ra nhiệm vụ khôi phục nền kinh tế quốc dân
mà điều kiện chính là thực hiện triệt để một kế hoạch thống nhất trên cơ sở
điện khí hoá đất nước. Cùng lúc đó Hội đồng Uỷ viên nhân dân quyết định
thành lập Uỷ ban nhà nước điện khí hoá nước Nga. Nền kinh tế Xô viết bắt
đầu có những chuyển biến, việc cung cấp lương thực cho Hồng quân và

nhân dân thành thị được bảo đảm tốt hơn.
Cuộc đình chiến chỉ tồn tại trong vài tháng thì ngày 25/4/1920 lực lượng
đế quốc và bon phản động trong nước lại tiếp tục tấn công, phá hoại nhà nước
Xô viết. Một lần nữa nước cộng hoà Xô viết buộc phải dốc sức chiến đấu.


11

Ngày 14/5/1920 Hồng quân bắt đầu phản công và tới tháng 7 mới thu được kết
quả và kí được hoà ước với Ba lan về chấm rứt các hoạt động quân sự giữa hai
bên và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, Ba lan rút quan khỏi
lanh thổ Nga. Tiếp theo Hồng quân tập trung lực lượng tiêu diệt bọn phản động
trong nước. Cuộc nội chiến và can thiệp ở nước Nga đã chấm rứt. Như vậy sau
3 năm chiến đấu cực kỳ gian khổ và khốc liệt, giai cấp công nhân và nhân dân
lao động Xô viết đã bảo vệ thắng lợi Nhà nước xã hội chủ nghĩa đấu tiên trên
thế giới. Chính quyền Xô viết được giữ vững, nền độc lập và tự chủ của đất
nước được khẳng định. Đó là thắng lợi có ý nghĩa. lịch sử và quốc tế sâu sắc,
cổ vũ mạnh mẽ giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa tư bản thế giới.
Một số nguyên nhân thành công của cuộc đấu tranh xây dựng và
bảo vệ chính quyền Nhà nước Xô viết
Nguyên nhân có tính chất quyết định làm cho Nhà nước Nga Xô viết
đánh bại thù trong giặc ngoài là sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Nga, do Lênin
vĩ đại đứng đầu. Là người tổ chức và lãnh đạo cuộc chiến đấu, Đảng Cộng sản
đã động viên, lôi cuốn và tổ chức giai cấp công nhân, nông dân lao động và
nhân dân các dân tộc thiểu số đứng lên đấu tranh với kẻ thù. Đảng có đường lối
lãnh đạo đúng đắn, phù hợp và đã khai thác triệt để những điều kiện thuận lợi
để đưa ra những quyết sách mang tính kiên quyết, mềm dẻo có tính khả thi cao.
Đảng đã biết phát huy cao nhất mọi sức mạnh, mọi nguồn lực của cải để của
nhân dân và đất nước để giành chiến thắng.

Sức mạnh của khối liên minh công nông, tình đoàn kết hữu nghị giữa các
dân tộc Xô viết, cuộc chiến đấu vô cùng ngoan cường của Hồng quân và các
đội du kích, sự đoàn kết và ủng hộ mạnh mẽ của giai cấp công nhân quốc tế và
nhân dân bị áp bức trên toàn thế giới là những nhân tố quan trọng, không thể
thiếu được đã đưa tới thắng lợi vẻ vang của Nhà nước Xô viết.


12

Thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Mười Nga là sự vận dụng sáng tạo
các quan điểm của chủ nghĩa Mác trong điều kiện đế quốc chủ nghĩa, nó đã
khắc phục một cách căn bản những hạn chế của các cuộc cách mạng vô sản
trước đó mà trực tiếp Công xã Pari; đó là vấn đề đấu tranh giành và giữ chính
quyền nhà nước; về vai trò của Đảng Cộng sản trong đấu tranh cách mạng cũng
như xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng; vấn đề về chuyên chính vô sản,
về liên minh công nông vai trò của quần chúng, vấn đề về chiến tranh quân
đội… đặc biệt là vấn đề đấu tranh xây dựng và bảo vệ chính quyền nhà nước
cách mạng trong lúc khó khăn.
II. BẢO VỆ VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH
CÁCH MẠNG CŨNG NHƯ TRONG XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC

1. Sự vận dụng của Đảng ta trong đấu tranh bảo vệ và xây dựng
Nhà nước Việt Nam.
Cách mạng Tháng Mười đã mở ra con đường giải phóng cho dân tộc cho
cách mạng Việt Nam. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện
hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân
thực hiện cách mạng Thắng Tám lịch sử thành công, xây dựng nên Nhà nước
Việt Nam dân chủ Cộng hoà, Nhà nước công nông đầu tiên ở khu vực Đông
Nam châu á. Như Hồ Chí Minh đã nhận định “Thắng lợi của cách mạng Tháng
Tám đã chứng tỏ sự đúng dắn của Học thuyết Mác – Lênin về vấn đề dân tộc

thuộc địa, đã chứng tỏ sự đúng đắn của con đường mà cách mạng xã hội chủ
nghĩa Tháng Mười vĩ đại đã vạch ra”(3).
Sau cách mạng Tháng Tám thành công Nhà nước Việt Nam dân chủ
Cộng hoà đã phải đương đầu với những thử thách vô cùng khó khăn, phức tạp,
có thể ví như ngàn cân treo trên sợi tóc. Thù trong giặc ngoài cấu kết với nhau
nhằm xoá bỏ Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà còn non trẻ ở khu vực


13

Đông Nam chân á và muốn chiếm lại những lợi ích mà chúng vừa bị mất. Vận
dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin Đảng ta và Chủ
Tịch Hồ Chí Minh đã có những chiến lược, sách lược vừa linh hoạt, mềm dẻo
vừa cứng rắn nhằm đấu tranh giữ bằng được chính quyền. Tiếp tục đường lối
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước và trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội Đảng ta luôn quan
tâm đến vấn đề đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng bởi đó là vấn đề sống
còn của một dân tộc một chế độ xã hội.
2. Những vấn đề đặt ra trong xây dựng và bảo vệ Nhà nước Việt
Nam giai đoạn hiện nay.
Hiện nay Đảng, Nhà nước ta đang tiến hành xây dựng đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện tình hình thế giới, khu vực và tình
hình trong nước hết sức khó khăn phức tạp.
Xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đã thu hút tất cả các quốc gia có
chế độ chính trị khác nhau tham gia, bên cạnh những mặt tích cực thì cũng có
không ít những tiêu cực. Nhất là đối với các nước có nền kinh tế đang trong
giai đoạn phát triển như nước ta nếu không tham vào vào “cuộc chơi này” sẽ
dẫn đến sự tụt hậu của nền kinh tế; nhưng nếu tham gia mà không có sự định
hướng rõ ràng sẽ dẫn đến chệch hướng xã hội chủ nghĩa, mất chế độ. Tuy
nhiên, sự chênh lệch giàu nghèo là hệ qủa tất yếu của nền kinh tế thị trường

nhưng đó cũng là những hạn chế của chế độ xã hội chủ nghĩa mà các nước xã
hội chủ nghĩa phải giải quyết…
Sự phát triển của khoa học, công nghệ đã mang lại nhiều thành tựu cho
nhân loại trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, làm cho bộ mặt của thế
giới thay đổ hàng ngày, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân không ngừng
được nâng lên. Nhưng mặt trái của khoa học công nghệ tiến tiến cũng không
phải là ít. Nhiều vấn đề toàn cầu đang đặt ra và cần có câu trả lời như vần đề ô


14

nhiễm môi trường; bệnh tật hiển nghèo; chiến tranh, hoà bình…Đặc biệt là nó
làm cho sự thay đổi về lối sống của một bộ phận nhân dân trong chế xã hội chủ
nghĩa, tha hoá nhân cách của họ theo lối thực dụng, ích kỷ, lối sống chạy theo
đồng tiền, lối sống phi nhân tính làm giàu bằng mọi giá…
Mặt khác, sự chống phá của các nước đế quốc đối với những nước xã
hội chủ nghĩa điễn ra gay gắt. Bởi sau cách mạng Tháng Mười Nga sự ra đời
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Xô viết đã làm thay đổi cục diện thế giới, chủ
nghĩa tư bản không còn là một hệ thống hoàn chỉnh bao trùm thế giới. Thế
giới sau cách mạng Tháng Mười đã phân chia thành hai hệ thống đối lập
nhau, hệ thống tư bản chủ nghĩa và hệ thống xã hội chủ nghĩa. Nhất là sau
khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu xụp đổ, phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế tạm thời lắng xuống thì chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù đich chủ nghĩa xã hội lại chống phá các nước xã hội quyết liệt hơn bao
giờ hết. Chúng thực hiện chống phá chủ nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hoá tư tưởng và không từ một
thủ đoạn nào như quân sự, chính trị và hiện nay chúng đang ráo riết thực hiện
chiến lược “Diễn biến hoà bình” bạo loạn lật đổ, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn
giáo, hay vần đề nhân quyền….hòng xoá bỏ sự tồn tại của chính quyền Nhà
nước xã hội chủ nghĩa tren thế giới.

Ở trong nước, sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa đã đẩy nhanh phát triển nền kinh tế đất nước. Chỉ trong vòng hơn 20
năm đổi mới đã đưa nước ta từ một nước nghèo trở thành một nước có nền
kinh tế phát triển trong khu vực và trên thế giới, đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân không ngừng được nâng lên. Vị thế của đất đất nước có nhiều
thay đổi trên chính trường quốc tế. Quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước bước đầu đã thu được những thành tựu đáng phấn khởi tạo
được niềm tin của quần chúng nhân dân.


15

Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng nền kinh tế thị trường bên cạnh những
những mặt tích cực là những hạn chế như; Khuynh hướng phát triển theo
hướng tư bản chủ nghĩa là rất có thể, bởi chúng ta đang trong thời kỳ quá độ,
cho nên sự đan xen và đấu tranh giữa nhân tố mới và cái cũ đang tồn tại, nó
tạo ra những khả năng khách quan cho sự phát triển tư bản. Sự phân hoá
giàu nghèo diễn ra nhanh chóng, độ doãng cách giữa người giàu và người
nghèo ngày càng gia tăng. Tình trạng thiếu công ăn việc làm diễn ra khá phổ
biến, đời sống của bộ phận nhân dân còn đang ở dưới mức nghèo khổ. Công
nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn bị bóc lột, điều
kiện làm việc không bảo đảm…
Đánh giá về hạn chế của bộ máy nhà nước Đảng ta chỉ rõ: “Bộ máy
quản lý nhà nước các cấp nhất là cơ sở còn yếu. Tình trạng nhũng nhiễu, của
quyền, thiếu trách nhiệm ở một bộ phận công chức, nhất là cơ quan trực tiếp
giải quyết công việc của dân và doanh nghiệp, chậm được khắc phục. Mô hình
tổ chức chính quyền địa phương nhất là tổ chức hội đồng nhân dân, còn có
những điểm bất hợp lý. Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu. Hoạt động của
Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở nhiều nơi còn mang tính hành
chính, hình thức. Dân chủ trong xã hội có lúc có nơi còn bị vi phạm, cắt xén.

Kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi không nghiêm” (4). Đảng ta còn nhận thấy:
“Tình trạng suy thái về tư tưởng chính trị đạo đức, lối sống, bênh cơ hội, chủ
nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán
bộ, công chức diễn ra nghiên trọng (5).
3. Một số giải pháp cơ bản xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Những tác động khách quan, cùng với những nảy sinh của nền kinh tế thị
trường đã gây ra những nghi ngờ, gây mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng
với Nhà nước; làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của chế độ xã hội chủ


16

nghĩa. Nhằm khắc phục những hạn chế chúng ta cần phải trung giải quyết một
số những giải pháp cơ bản sau:
Một là, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân vì
dân. Chỉ khi có một Nhà nước như vậy mới có thể phát huy được quyền dân chủ
của nhân dân, đảm bảo quyền sống, quyền được làm việc, được lao động, được
học hành, được đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xó hội. Nú ảnh hưởng tới sự lành
mạnh của nền dân chủ, tới cuộc sống và số phận của từng người dân, tới chiều
hướng phát triển của xó hội.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vỡ dõn trờn
mọi lĩnh vực của đời sống xó hội. Trong Nhà nước đó, dân chủ đi đôi với kỷ
cương trật tự, được thể chế hoá thành pháp luật, trong khuôn khổ của pháp luật.
Nhà nước đó, biểu hiện trực tiếp sức mạnh của hệ thống chính trị dưới sự lónh
đạo của Đảng Cộng sản. Đó là một nhà nước đại diện cho quyền lực chân
chính của nhân dân; một tổ chức nhà nước dựa trên nền dân chủ, vỡ dân chủ và
do đó bằng pháp luật và vỡ cụng lý. Để làm được những điều đó cần phải giải
quyết tốt một số nội dung chủ yếu sau đây:
Nhà nước phải bảo mọi lợi ích và quyền hành đều thuộc về nhân dân.

Để đảm bảo mọi lợi ích và quyền hành đều thuộc về nhân dân, nhất thiết phải
giải quyết những vấn đề kinh tế - xó hội, phỏt triển sự nghiệp giỏo dục, văn
hoá, y tế… tất cả các yếu tố đó phải tiến hành đồng thời, nhưng phải ưu tiên
cho những vấn đề kinh tế, chăm lo tốt hơn đến cuộc sống hạnh phúc và mọi
nhu cầu phong phú, đa dạng của con người. Bởi vậy, nếu thoát ly sự tăng
trưởng kinh tế, đặt ra những yêu cầu quá cao đối với các lĩnh vực văn hoá- xó
hội là khụng thực tế. Nhưng cũng sẽ là sai lầm, nếu chỉ coi trọng phát triển
kinh tế, lợi ích về văn hoá- xó hội của nhân dân. Thực tiễn những năm qua cho
thấy nếu không chú trọng xây dựng và phát triển giáo dục, văn hoá, y tế, phúc
lợi công cộng, để cho những mặt này yếu kém và xuống cấp thỡ chẳng những


17

ảnh hưởng xấu tới việc chăm lo bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người, mà
cũn kỡm hóm nguồn lực thỳc đẩy kinh tế phát triển.
Nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, cho nên nhân dân là nguồn gốc
của quyền lực. Trong xó hội XHCN, quyền lực Nhà nước được bắt nguồn từ
nhân dân, của nhân dân, do nhân dân và vỡ nhõn dõn. Vỡ vậy, trong công cuộc
đổi mới Nhà nước hiện nay, phải ra sức phát triển và hoàn thiện chế độ đại
diện, làm cho nó thực sự thể hiện bản chất nhân dân của Nhà nước ta. Một Nhà
nước như vậy mới đảm bảo quyền con người sống trong hoà bỡnh, độc lập, tự
do; được quyền làm chủ đất nước, làm chủ xó hội và làm chủ bản thõn mỡnh;
được quyền có cuộc sống ấm no, bỡnh đẳng và hạnh phúc. Tôn trọng quyền
của mỗi con người (quyền bỡnh đẳng của công dân trước pháp luật, bỡnh đẳng
dân tộc, bỡnh đẳng nam nữ, tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng cũng như
các quyền tự do, dân chủ khác) phải gắn với nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi
người trước đất nước và xó hội. Kiờn quyết đấu tranh chống lại những hiện
tượng vi phạm pháp luật mà nổi bật là tham nhũng và buôn lậu, xâm phạm các
quyền tự do, dân chủ của công dân; làm hàng giả, trốn – gian lận thuế… gây

tổn thất lớn cho Nhà nước và nhân dân.
Việc của đất nước là việc của nhân dân. Vỡ vậy, cần phải tập hợp rộng
rói mọi lực lượng quần chúng nhân dân, phát huy đầy đủ khả năng và trí tuệ
của toàn dân để cùng lo việc nước. Hơn nữa, mọi quyền hành chỉ thuộc về
nhân dân khi có một cơ chế thích hợp để nhân dân có thể trực tiếp giám sát
các hoạt động của Quốc hội và đại biểu Quốc hội, của Hội đồng nhân dân và
đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, cũng như giám sát mọi hoạt động của
các cơ quan Nhà nước và viên chức Nhà nước. Phải có cơ chế thích hợp để
cử tri có thể bày tỏ sự tín nhiệm hay bất tín nhiệm của mỡnh đối với đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân mà mỡnh bầu ra, tạo điều kiện để
các đại biểu gắn bó hơn với cử tri, đề cao ý thức trỏch nhiệm của người đại


18

diện nhân dân, phải luôn xứng đáng với sự tín nhiệm của dân. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đó khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều
vỡ dõn, bao nhiờu quyền hạn đều của dõn… Chớnh quyền từ xó đến Chính
phủ Trung ương do dân cử ra”(6). Muốn đảm bảo mọi lợi ích và quyền hành
đều thuộc về nhân dân, phải chiến thắng được nghèo nàn và lạc hậu, phát
triển kinh tế, văn hoá, cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng và từng bước
hoàn thiện nền dân chủ làm cho dân giàu, nước mạnh và bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lónh thổ quốc gia.
Hai là, nhà nước giải quyết mối quan hệ công dân, bởi đây là mối
quan hệ chính trị cơ bản để xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dõn
và vỡ dõn. Cơ sở để giải quyết mối quan hệ công dân- Nhà nước trong Nhà
nước pháp quyền XHCN là vấn đề quyền và nghĩa vụ của tất cả mọi người
được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trong đó Nhà nước pháp quyền có nghĩa
vụ tôn trọng giá trị cao nhất là con người; Nhà nước đề ra pháp luật, đồng thời
phải tuân thủ pháp luật và bảo đảm cho công dân được chống lại chính sự tuỳ

tiện của Nhà nước. Điều đó có nghĩa là “Nhà nước phải tạo ra cho công dân
sự bảo đảm rằng người ta không bị đũi hỏi cỏi ngoài hoặc trờn những điều
kiện quy định trong Hiến pháp và pháp luật” (7). Mặt khác, con người là mục
tiêu và giá trị cao nhất. Do đó, Nhà nước phải đảm bảo cho công dân sự an toàn
pháp lý, được hưởng các quyền và tự do cơ bản đó vi phạm, kể cả từ phía các
cơ quan Nhà nước và những người có chức vụ. Chính vỡ vậy, một mặt Nhà
nước đề ra pháp luật; mặt khác, chính Nhà nước, các cơ quan Nhà nước, những
người có chức vụ đều có nghĩa vụ bắt buộc phải tuân thủ triệt để pháp luật,
không có một tổ chức Nhà nước hoặc công chức nào được đặt mỡnh đứng
ngoài pháp luật, đứng trên pháp luật. Mọi người và mọi tổ chức hợp pháp đều
bỡnh đẳng trước pháp luật. Cùng với nguyên tắc này, Nhà nước ta tiến tới thực
hiện nguyên tắc không cấm, tất nhiên phải trong khuôn khổ của nền đạo đức


19

XHCN và tôn trọng lợi ớch của xó hội và của người khác. Nguyên tắc này bảo
đảm một mặt chống lại biểu hiện lộng quyền, lạm quyền và mặt khác chống
những hành vi tự do, vô chính phủ.
Giải quyết mối quan hệ công dân- Nhà nước là xây dựng chế độ trách
nhiệm qua lại giữa Nhà nước và công dân (cá nhân), tức là giữa một bên là
người đại diện quyền lực Nhà nước và một bên vừa là chủ thể, vừa là khách thể
của quyền lực Nhà nước. Ở đây, Nhà nước xác định cho mỡnh, cho cỏc cơ
quan Nhà nước và những người có chức vụ trách nhiệm phỏp lý rừ ràng về cỏc
hành vi của họ. Cụng dõn được đảm bảo quyền và khả năng bắt buộc cơ quan
Nhà nước và những người có chức vụ phải chấp hành pháp luật, thực thi trách
nhiệm của mỡnh đối với họ.
Muốn giải quyết mối quan hệ giữa công dân và Nhà nước thỡ Nhà nước phải
đặt mục tiêu của mỡnh là phục vụ lợi ớch chớnh đáng của dân. Hơn nữa, việc của
đất nước là việc của dân, cho nên muốn làm việc của dân, cho nên muốn làm việc

của đất nước thỡ phải tập hợp rộng rói, phỏt huy khả đầy đủ năng và trí tuệ của toàn
dân để cùng lo việc nước. Đồng thời phải xây dựng một cơ chế để nhân dân kiểm
soát có hiệu quả đối với các cơ quan Nhà nước và nhân viên Nhà nước. Liên quan
tới vấn đề này, phải từng bước hoàn thiện chế độ dân chủ đại diện, nhưng cần hết
sức coi trọng việc phỏt huy quyền dõn chủ trực tiếp của nhõn dõn, tạo thành thúi
quen tốt trong sinh hoạt xó hội.
Nhà nước pháp quyền XHCN là Nhà nước của dân, do dân bầu ra.
Do đó, một khi Nhà nước không cũn vỡ dõn, nghĩa là nú khụng đáp ứng
được lợi ích và nguyện vọng của nhân dân có quyền bày tỏ sự bất tín nhiệm
đối với nó. Đó là cơ sở để Bác Hồ nói rằng: “Nếu Chớnh phủ làm hại dõn
thỡ dõn cú quyền đuổi Chính phủ” (8).
Trong chế độ dân chủ XHCN, người chủ Nhà nước là nhân dân; người
cán bộ Nhà nước là do dân lựa chọn, được nhân dân ủy quyền là “công bộc”;


20

làm cán bộ là “làm đầy tớ cho nhân dân, chứ không phải là “làm quan Cách
mạng”. Trong các cơ quan Nhà nước, cán bộ vừa là lónh đạo, vừa là người
hướng dẫn của nhân dân. Đội ngũ cán bộ phải trung thành, tận tụy, cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ; đồng thời phải
người lónh đạo thỡ phải cú trớ tuệ hơn người, minh mẫn, sáng suốt, nhỡn xa
trụng rộng, gần gũi và trọng dụng những người hiền tài, đức độ. Bởi vậy,
người thay mặt và người đại diện cho dân phải là người có đức, có tài, phải
vừa “hiền” lại vừa “minh”.
Ba là, xây dựng quyền lực Nhà nước của các công dân trên nền tảng
một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện.
Tư tưởng về xây dựng quyền lực Nhà nước trong quan hệ xó hội của
cỏc công dân thực chất là giải quyết mối quan hệ giữa quyền lực với pháp
luật. Trong đó pháp luật là cơ sở để duy trỡ quyền lực Nhà nước, bản thân

Nhà nước vừa là công cụ tổ chức của giai cấp, lại vừa là hỡnh thức thực hiện
quyền lực cụng khai. Vỡ vậy, Nhà nước chỉ có thể biểu hiện ý chớ phổ biến
và quyền lực cụng khai của mỡnh đối với xó hội, với mọi cụng dõn thụng
qua phỏp luật. Xõy dựng quyền lực Nhà nước trong quan hệ xó hội của cỏc
cụng dõn là xõy dựng một hệ thống phỏp luật trờn nền dõn chủ thực sự, xuất
phỏt từ nhõn dõn và vỡ nhõn dõn. Phỏp luật phải định hướng mọi công dân
và tổ chức xó hội vươn tới cái chân, thiện, mỹ, vươn tới tự do đích thực của
con người. Để đạt được mục đích đó, pháp luật phải khách quan, công bằng,
bỡnh đẳng và dân chủ, lấy quyền con người, giải phóng con người làm trung
tâm để xây dựng quyền lực Nhà nước.
Quyền lực Nhà nước phải thuộc về nhân dân, phải thể hiện ý chớ của
nhõn dõn, là sự phản ỏnh khỏch quan cỏc nhu cầu xó hội, thỳc đẩy tiến bộ xó
hội. Mặt khỏc, khi đặt ra các thiết chế của mỡnh trong khuụn khổ phỏp luật,
hoặc thiết lập cơ chế để kiểm tra tính hợp pháp, hợp hiến của các đạo luật, các


21

cơ quan quyền lực Nhà nước cũng phải làm sao cho hệ thống pháp luật được
xây dựng trên sự tự do và các quyền công dân được bảo đảm. Phỏp luật XHCN
thể hiện ý chớ chung của xó hội, được bảo đảm bằng sức mạnh cộng đồng. Nhà
nước tôn trọng pháp luật như một giá trị xó hội chung; đồng thời quyền lực
Nhà nước là cơ sở, là tiến đề quan trọng nhất để bảo đảm cho pháp luật có
được bản chất pháp lý của nú. Hệ thống phỏp luật của Nhà nước luôn là chỗ
dựa cho việc tổ chức và hoạt động của quyền lực làm giá đỡ cho việc xác định
các mục tiêu của quyền lực Nhà nước là vỡ con người, vỡ xó hội của cỏc cụng
dõn. Vỡ vậy, mọi thiết chế quyền lực Nhà nước phảI thực sự bảo đảm tính
công bằng, bỡnh đẳng và dân chủ của xó hội cụng dõn. Bảo đảm trên nguyên
tắc mọi người đều bỡnh đẳng trước pháp luật.
Xây dựng quyền lực Nhà nước trong quan hệ với xó hội của cỏc cụng dõn

là để bảo đảm cho mỗi công dân được hưởng những quyền tự do vốn có của họ và
không thể bị tước bỏ. Nhưng sự tự do của mỗi cụng dõn phải dẫn tới sự thống
nhất của cả trật tự xó hội. Sự thống nhất đó chống lại mọi sự chiếm đoạt quyền
lực Nhà nước bởi các cá nhân chuyên quyền đứng bên trên và bên ngoài dân, hoặc
là loại bỏ sự vô trách nhiệm và bất lực của những người cầm quyền. Chớnh vỡ
vậy, mỗi người dân là một giá trị tuyệt đối của quyền lực Nhà nước chứ “không
thể là công cụ của bất kỳ ai, dù là có mưu đồ tốt đẹp nhất” (9).
Thực chất quyền lực Nhà nước là quyền lực của mọi công dân liên hiệp
lại tạo thành Nhà nước, chính công dân giao cho người đại diện của mỡnh thừa
hành quyền lực đó. Cơ quan Nhà nước tự nó không có quyền mà chỉ thừa hành
quyền lực do công dân uỷ nhiệm. Vỡ vậy, cụng dõn mới thật sự là chủ thể của
quyền lực Nhà nước. Xây dựng quyền lực Nhà nước trong mối quan hệ với xó
hội của cỏc cụng dõn là giải quyết mõu thuẫn giữa quyền lực Nhà nước tập
trung với quyền lực và tự do của công dân. Xó hội phải cú quyền lực Nhà nước
tập trung, nhưng không phải mọi nhu cầu của người lao động Nhà nước đều lo


22

được. Bởi vỡ “không gian quyền lực Nhà nước là có giới hạn, cũn đối với cá
nhân tự do thỡ khụng gian là vụ tận” (10). Do đó xây dựng quyền lực Nhà
nước là phải tạo ra một hệ thống chính trị để làm cho hai mặt trên trở thành
điều kiện và nguyên nhấn của nhau. Trong hai mặt đó, mặt công dân là nền
tảng, là ngọn nguồn, là mục đích của mọi quyền lực Nhà nước. Chính vỡ vậy,
Nhà nước pháp quyền XHCN là Nhà nước của dân, do dân và vỡ dõn.
Bốn là, nhà nước pháp quyền XHCN phải được tổ chức và vận hành
theo nguyên tắc tập trung dân chủ dưới sự lónh đạo của Đảng Cộng Sản.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc căn bản, là một yêu cầu tự nhiên và tất
yếu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền và nền dân chủ XHCN với tư
cách là một chế độ chính trị. Vỡ nếu khụng cú dõn chủ thụng qua bàn bạc, thảo

luận, tranh luận để chọn một giải pháp hợp lý nhất thỡ khụng thể tạo được sự
thống nhất thật sự. Nhưng không có tập trung để chuyển sự thống nhất từ quan
niệm, nhận thức sang hành động, thỡ khụng bao giờ dõn chủ trở thành một giỏ
trị hiện thực.
Tập trung dân chủ trong Nhà nước pháp quyền XHCN là cần thiết để
cho dân chủ tránh được những thói xấu tệ hại của thứ dân chủ bất chấp pháp
luật, kỷ cương, vượt quá hành động pháp lý để rơi vào tự do, hỗn loạn, phá
phách, vô chính phủ. Nó bảo đảm cho các cơ quan quyền lực không thể trở nên
nhu nhược, bất lực mà có thực quyền. Nó kết hợp tính tôn trọng dân chủ, tôn
trọng các quyết định của tập trung với tinh thần trách nhiệm của các tổ chức và
các cá nhân có quyền lực.
Điểm quan trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý Nhà
nước theo tinh thần của Nhà nước pháp quyền là đề cao tinh thần tôn trọng
pháp luật, hoạt động hợp hiến, hợp pháp, thực hiện sự bỡnh đẳng của mọi tổ
chức và cá nhân trước pháp luật, xác lập rành mạch quy chế, chức trách, bổn
phận công chức trước Nhà nước và xó hội. Đó là cơ sở để khẳng định rằng: “sự


23

kết hợp đúng đắn tập trung và dân chủ là yếu tố quyết định sức mạnh và hiệu
lực của bộ máy Nhà nước ta”.
Tăng cường sự lónh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền XHCN
là nhằm đảm bảo cho Nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân, thực sự
là Nhà nước của dân, do dân, vỡ dõn. Sự lónh đạo của Đảng tạo điều kiện phối
hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, giúp Nhà nước hoàn
thành thuận lợi mọi nhiệm vụ của mỡnh. Đảng lónh đạo Nhà nước được thể hiện
bằng những phương thức khác nhau. Một là, Đảng lónh đạo Nhà nước để nó thể
chế hoá đúng đắn lập trường, các quan điểm chính trị cơ bản của mỡnh. Hai là,
Đảng định hướng hoạt động của Nhà nước vào việc tổ chức thực hiện có hiệu

quả những nghị quyết đó được thể chế hoá đó. Ba là, Đảng lónh đạo công tác
cán bộ ngay trong lĩnh vực Nhà nước…
Để tăng cường sự lónh đạo của Đảng đối với Nhà nước, phải đổi mới và
chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lónh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Vai
trũ lónh đạo của Đảng đối với Nhà nước không phải nhờ vào uy quyền, mệnh
lệnh, mà ở trỡnh độ năng lực vạch ra đường hướng chính trị đúng đắn và thông
qua công tác tuyên truyền, thuyết phục, làm cho mọi tổ chức và toàn xó hội tự
giỏc chấp nhận, ở tớnh gương mẫu và vai trũ tiờn phong chiến đấu của tổ chức
Đảng, của đội ngũ cán bộ, đảng viên; ở sự gắn bó, tín nhiệm của quần chúng
đối với Đảng; ở sự trong sạch, vững mạnh về bản lĩnh chính trị, tư tưởng và tổ
chức của Đảng.
Đổi mới, chỉnh đốn Đảng bao gồm đổi mới nội dung và phương thức
lónh đạo của Đảng, xác định đúng mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước;
Đảng lónh đạo Nhà nước, lónh đạo xây dựng nền pháp chế, nhưng Đảng và
mọi Đảng viên hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật, gương
mẫu chấp hành chính sách và pháp luật; Đảng không lấn sân Nhà nước,
không làm thay Nhà nước.


24

Hiện nay vị trớ, vai trũ lónh đạo của Đảng cộng sản đối với Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam là không thể có một lực lượng chính trị nào có thể thay
thế được. Vấn đề đó không chỉ mang tính nguyên tắc được khẳng định từ lý luận
Mỏc- Lờnin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà con là kết luận chắc chắn được rút ra từ
thực tiễn của cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay.
Năm là, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam dựa trên khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, tạo sự đồng thuận giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước theo mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.

Để xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam vững mạnh đòi hỏi phải không
ngững chăn lo củng cố khối liên minh công nhân – nông dân- trí thức; Thực hiện tốt
công bằng xã hội ; khuyến khích làm giàu chính đáng đi đôi với xoá đói giảm nghèo,
khắc phục sự cách biệt xa về mức sống giữa các vùng dân cư; làm tốt chính sách dân
tộc tôn giáo…Đồng thời cả hệ thống chính trị phải chăn lo phát triển phong trào cách
mạng của quần chúng bằng các cuộc vận động thi đua yêu nước, với những nội
dung, hình thức thiết thực, phong phú. Tất những hoạt động trên nhằm tạo ra sức
mạnh tổng hợp của Nhà nướcậphps quyền Việt Nam.
Liên hệ trách nhiệm của quân đội
Quân đội nhân Việt Nam là đội quân của nhân dân, vì nhân dân mà chiến đấu,
là công cụ bạo lực sắc bén bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo
vệ chế độ xã hội và sự nghiệp
Danh mục tài liệu
1. LêninTT, Tập 35, Nxb Tiến bộ M.1976, Tr 477.
2. LêninTT, Tập 35, Nxb Tiến bộ M.1976, Tr 411.
3. Hồ Chí Minh toàn tập, T.8, Nxb CTQG, H.1995, Tr. 576.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006,Tr 65.


25

5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006,Tr 63.
6. Hồ Chí Minh toàn tập, T.5, Nxb CTQG, H. 1995, Tr. 698.
7. Nguyễn Duy Quý. Một số suy nghĩ về vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta.
Tạp chí nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, số 2 – 1992, tr. 13.
8. Hồ Chí Minh toàn tập, T.5, Nxb CTQG, H..1995, tr. 60.
9. Chính trị học. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, H.1994, tr. 197.
10. Chính trị học. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, H. 1994, tr. 199.



×