Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Nâng cao lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng thuộc Bộ xây dựng.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (567.6 KB, 24 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Luận án:
Để giữ vững thị phần, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh thì
việc nâng cao lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp là việc làm hết sức quan trọng.
Câu hỏi làm thế nào để giúp các doanh nghiệp đưa ra được các quyết định nâng cao
năng lực cạnh tranh đúng đắn hơn, có hiệu quả hơn; các giải pháp nào sẽ giúp doanh
nghiệp nâng cao lợi thế cạnh tranh của mình không chỉ có ý nghĩa đối với các nhà
quản trị mà còn là chủ đề rất quan trọng đối với các nhà nghiên cứu.
Chính vì vậy, trong môi trường cạnh tranh ngày nay, việc nâng cao lợi thế cạnh
tranh của doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng
thuộc Bộ là yêu cầu hết sức cấp thiết. Đề tài “Nâng cao lợi thế cạnh tranh của các
doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng thuộc Bộ Xây dựng” là một đề tài nghiên
cứu hết sức cần thiết và có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Mục tiêu của Luận án:
Mục tiêu của đề tài này là nhận diện các lợi thế cạnh tranh của các doanh
nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng thuộc Bộ Xây dựng và tìm ra các nguồn lực, đặc
biệt là nguồn lực vô hình góp phần tạo ra những lợi thế cạnh tranh này. Mục tiêu
nghiên cứu này được cụ thể hóa bằng các câu hỏi nghiên cứu sau đây:
-

Thứ nhất: Hiện trạng lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất vật liệu
xây dựng thuộc Bộ Xây dựng?

-

Thứ hai: Các nguồn lực hữu hình và vô hình nào đóng vai trò quan trọng trong
việc tạo ra lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng
thuộc Bộ Xây dựng?


-

Thứ ba: Các giải pháp nâng cao lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp sản
xuất thuộc Bộ Xây dựng?
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là Lợi thế cạnh tranh của các doanh

nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng thuộc Bộ Xây dựng. Đề tài nghiên cứu tác động
của các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực vô hình của doanh nghiệp đối với Lợi thế
cạnh tranh của các doanh nghiệp này. Đề tài khảo sát 43 doanh nghiệp nhà nước và
công ty cổ phần có sở hữu nhà nước trên 51% thuộc Bộ Xây dựng. Các doanh nghiệp


2

này thuộc 4 lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng chủ yếu của Việt nam gồm: kính xây
dựng, sứ vệ sinh, gạch ốp lát và gạch ngói đất sét nung. Các doanh nghiệp được
nghiên cứu nằm trong lãnh thổ Việt Nam, phân bố và hoạt động trong cả nước. Các
số liệu thứ cấp sẽ được thu thập chủ yếu trong giai đoạn từ năm 2008 – 2013. Các số
liệu sơ cấp có được từ điều tra phỏng vấn được thực hiện trong năm 2012 – 2013.
4. Các phƣơng pháp nghiên cứu:
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu đã đặt ra, đề tài thực hiện ba bước:
Bảng 1.1: Các bƣớc nghiên cứu
STT Mục tiêu nghiên cứu

1

2

3


Tổng hợp lý thuyết, xây dựng
mô hình nghiên cứu, kiểm tra ý
nghĩa thực tiễn và lý luận của
mô hình nghiên cứu;

Cụ thể hóa các lợi thế cạnh
tranh;
Cụ thể hóa các nguồn lực tạo ra
lợi thế cạnh tranh của các doanh
nghiệp

Kiểm định mối quan hệ riêng lẻ
giữa các nguồn lực hữu hình, vô
hình với lợi thế cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Kiểm định sự tác động tổng hợp
của các nguồn lực này đối với
lợi thế cạnh tranh của doanh
nghiệp.
Kiểm định mối quan hệ giữa lợi
thế cạnh tranh và kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.

(Nguồn: nghiên cứu của tác giả)

Thu thập và xử
lý thông tin
- 05 lãnh đạo doanh Nghiên cứu thứ

nghiệp
cấp
- 08 khách hàng hiện tại Phỏng vấn sâu
của các doanh nghiệp
- 05 nhà nghiên cứu về
quản trị doanh nghiệp
- 04 cuộc phỏng vấn Phỏng vấn theo
theo nhóm đối với các nhóm
khách hàng ở bốn lĩnh
vực
- 04 cuộc phỏng vấn
theo nhóm đối với cán
bộ quản lý các doanh
nghiệp ở bốn lĩnh vực
- 900 cán bộ quản lý các Điều tra xã hội
doanh nghiệp sản xuất học
vật liệu xây dựng ở bốn Bảng câu hỏi
lĩnh vực chính: gạch ốp Phân tích hồi
lát, kính xây dựng, sứ vệ qui
sinh, và gạch ngói đất
sét nung.
Đối tƣợng khảo sát


3

5. Kết cấu:
Luận án được chia làm các phần cơ bản sau:
- Giới thiệu chung về đề tài
- Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về lợi thế cạnh tranh của các

doanh nghiệp sản xuất
- Chương 2: Động thái phát triển của các doanh nghiệp sản xuất vật liệu
xây dựng thuộc Bộ Xây dựng
- Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
- Chương 4: Thực trạng lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất
vật liệu xây dựng thuộc Bộ Xây dựng
- Chương 5: Nâng cao lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất
vật liệu xây dựng thuộc Bộ Xây dựng
- Kết luận.


4

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LỢI THẾ CẠNH
TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT

Mục này gồm ba nội dung chính được tóm tắt ở phần dưới đây.
1.1 Nguồn gốc hình thành lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp
Về mặt lý luận, vẫn còn rất nhiều quan điểm và cách hiểu khác nhau về lợi thế
cạnh tranh, lợi thế cạnh tranh bền vững và nguồn gốc hình thành các lợi thế cạnh
tranh của doanh nghiệp. Tuy có nhiều lý thuyết khác nhau để giải thích nguồn gốc
hình thành lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp nhưng có thể chia các lý thuyết này
thành hai nhánh lớn: (a) những lý thuyết giải thích nguồn gốc lợi thế cạnh tranh từ
bên ngoài doanh nghiệp gồm: lợi thế cạnh tranh quốc gia, lợi thế cạnh tranh ngành;
(b) lý thuyết giải thích nguồn gốc lợi thế cạnh tranh từ bên trong doanh nghiệp gồm:
chuỗi giá trị, nguồn lực của doanh nghiệp.
Nghiên cứu trên thế giới của Miller và Shamsie (1996) sử dụng lý thuyết nguồn
lực để phân tích vai trò của nguồn lực bên trong doanh nghiệp đối với kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Một số nghiên cứu tại Việt nam (Nguyễn Vĩnh Thanh,
2005; Nguyễn Đình Thọ, 2008; Zhan và đồng tác giả, 2009; Bùi Xuân Phong, 2006;

Phạm Quang Trung, 2009; Vũ Trọng Lâm, 2006; Nguyễn Kế Tuấn, 2011) đã tiến
hành đánh giá lợi thế cạnh tranh và nguồn gốc hình thành lợi thế cạnh tranh của
doanh nghiệp.
1.2 Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.2.1 Các khái niệm cơ bản
1.2.1.1 Cạnh tranh
Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế (giữa các quốc gia, doanh
nghiệp) trên cơ sở sử dụng hiệu quả các nguồn lực kinh tế, sử dụng các công nghệ sản
xuất ưu việt, cung cấp dịch vụ hoàn hảo để thỏa mãn nhu cầu khách hàng bằng cách
cung cấp các sản phẩm có chất lượng và giá cả hợp lý hơn so với các đối thủ cạnh
tranh. Cạnh tranh là một quy luật cơ bản của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh có tính
chất hai mặt: tác động tích cực và tác động tiêu cực.


5

1.2.1.2 Lợi thế cạnh tranh
Như vậy, nhìn chung Porter, 1980, [56] và nhiều tác giả đều thống nhất cho
rằng lợi thế cạnh tranh phát sinh từ các giá trị mà doanh nghiệp có thể tạo ra cho
người mua, giá trị này phải lớn hơn các chi phí của doanh nghiệp đã bỏ ra. Như vậy,
hai yếu tố thể hiện doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh hay không, đó là: lượng giá trị
mà khách hàng cảm nhận về hàng hóa hay dịch vụ của công ty, và chi phí sản xuất ra
nó. Các điểm chung về lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp được tóm tắt như sau:
- Lợi thế cạnh tranh được đánh giá từ nhận thức của khách hàng: lợi thế cạnh
tranh thể hiện nhận thức chung của khách hàng hoặc người sử dụng cuối cùng về giá
trị của sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp so với đối thủ cạnh tranh.
- Lợi thế cạnh tranh của một doanh nghiệp luôn phải được so sánh với đối thủ
cạnh tranh: Thông thường, các đối thủ cạnh tranh này là những doanh nghiệp hoạt
động trong cùng một lĩnh vực và trên cùng một thị trường với doanh nghiệp.
- Đo lường lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp không thể sử dụng một chỉ

tiêu, mà đòi hỏi phải sử dụng tổng hợp các chỉ tiêu khác nhau, có mối liên hệ chặt
chẽ với nhau. Các chỉ tiêu này so sánh lợi thế của doanh nghiệp với đối thủ cạnh
tranh ở các phương diện khác nhau: như giá cả, chất lượng sản phẩm, dịch vụ, thời
gian giao hàng.
1.2.1.3 Lợi thế cạnh tranh bền vững
Lợi thế cạnh tranh bền vững (Sustained Competitive Advantages) cũng đã
được đề cập từ khá lâu bởi nhiều học giả. Alderson (1965), Hamel và Prahalad (1989)
và Dickson (1992), Hall (1980) và Henderson (1983) có những lập luận này là cơ sở
cho việc duy trì được lợi thế cạnh tranh bền vững.
Ý tưởng về lợi thế cạnh tranh bền vững được đề cập đến lần đầu tiên vào
năm 1984 khi Day đề cập đến các chiến lược có thể giúp “duy trì lợi thế cạnh tranh
của doanh nghiệp”. Trên thực tế, thuật ngữ “lợi thế cạnh tranh bền vững” được
chính thức xuất hiện vào năm 1985 khi Porter thảo luận về các chiến lược cạnh
tranh cơ bản mà doanh nghiệp có thể sử dụng (chi phí thấp hoặc khác biệt hóa) để
có được lợi thế cạnh tranh bền vững, và được bổ sung bởi Barney (1991) và
Collins & Montgomery (1995).


6

1.2.1.4 Năng lực cạnh tranh và lợi thế cạnh tranh
Một khái niệm khác có liên quan và gắn chặt với lợi thế cạnh tranh là năng lực
cạnh tranh (competitiveness). Năng lực cạnh tranh là một khái niệm cũng được nhiều
nhà nghiên cứu đề cập. Porter, 1980 [56] cho rằng “một doanh nghiệp được gọi là có
năng lực cạnh tranh phải là doanh nghiệp có khả năng duy trì và tăng cường liên tục
khả năng cạnh tranh của mình”.
Như vậy, Porter,1980 [56] cũng như nhiều tác giả khác cho rằng năng lực cạnh
tranh là khái niệm rộng hơn, bao hàm khái niệm lợi thế cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh
là sự thể hiện cụ thể của năng lực cạnh tranh tại một thời điểm, một địa bàn hoặc một
thị trường cụ thể. Một doanh nghiệp có thể có lợi thế cạnh tranh tại một thời điểm

này, địa bàn này hoặc thị trường cụ thể. Tuy nhiên, do sự thay đổi về nhu cầu thị hiếu
của khách hàng, hoặc do đối thủ cạnh tranh đã cải tiến và thay đổi thì lợi thế cạnh
tranh của doanh nghiệp này sẽ bị suy yếu hoặc mất đi. Muốn tồn tại và phát triển,
doanh nghiệp sẽ phải tiếp tục cạnh tranh bằng cách tìm kiếm và duy trì lợi thế cạnh
tranh mới. Như vậy có thể kết luận rằng năng lực cạnh tranh chính là khả năng tìm
kiếm, phát triển và duy trì lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.2.1.5 Các khối cơ bản tạo nên lợi thế cạnh tranh
Theo Lê Thế Giới và cộng sự (2007), bốn khối cơ bản tạo nên lợi thế cạnh
tranh là: hiệu quả, chất lượng, sự cải tiến, và đáp ứng khách hàng. Chúng là những
khối chung của lợi thế cạnh tranh mà mọi công ty có thể làm theo, bất kể công ty đó
làm ở ngành nào, cung cấp dịch vụ gì. Mặc dù chúng ta nghiên cứu chúng tách biệt
nhưng giữa bốn khối này có sự tương tác lẫn nhau rất mạnh.
1.2.1.6 Chiến lược chung của doanh nghiệp
Theo Porter, những doanh nghiệp có thể thành công trong việc áp dụng nhiều
chiến lược thường phải thành lập các đơn vị kinh doanh riêng biệt, trong đó mỗi đơn
vị theo đuổi một chiến lược. Bằng cách tách riêng chiến lược cho các đơn vị khác
nhau về chính sách hay thậm chí cả văn hóa, một doanh nghiệp có thể giảm bớt rủi ro
bị rơi vào trì trệ không thể phát triển.
1.2.1.7 Lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất
Sản xuất là hoạt động chủ yếu trong các hoạt động kinh tế của con người. Sản


7

xuất là quá trình làm ra sản phẩm để sử dụng, hay để trao đổi trong thương mại. Các
doanh nghiệp sản xuất sẽ phải đưa ra các quyết định sản xuất trả lời được những vấn
đề chính sau: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Giá thành sản
xuất và làm thế nào để tối ưu hóa việc sử dụng và khai thác các nguồn lực cần thiết
làm ra sản phẩm?
1.2.2 Các trƣờng phái lý thuyết liên quan đến lợi thế cạnh tranh của doanh

nghiệp
1.2.2.1 Lý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia (competitive advantages of a nation)
Theo lý thuyết này, lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi
những đặc điểm cơ bản của quốc gia. Những đặc điểm dưới đây sẽ tạo ra môi trường
thuận lợi hoặc khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước trong quá trình cạnh tranh
với các doanh nghiệp nước ngoài: (a) điều kiện các yếu tố sản xuất trong nước; (b)
điều kiện về nhu cầu trong nước; (c) các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan trong
nước; và (d) chiến lược, cơ cấu và đối thủ cạnh tranh của công ty. Bên cạnh đó, hai
nhân tố bên ngoài doanh nghiệp là tác động về chính sách của chính phủ và ảnh
hưởng của cơ hội cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo sự hấp dẫn của môi
trường kinh doanh trong nước (Porter, 1990).
1.2.2.2 Lý thuyết năm lực lượng cạnh tranh ngành
Lý thuyết này được Porter (1980) đưa ra nhằm phân tích những lực lượng cạnh
tranh quyết định lợi thế cạnh tranh và mức lợi nhuận của từng ngành. Lý thuyết này
giả định các lực lượng cạnh tranh trong ngành gồm: (1) đối thủ cạnh tranh hiện tại
của doanh nghiệp, (2) đối thủ mới tiềm năng, (3) sản phẩm thay thế, (4) quyền lực
của nhà cung ứng, và (5) quyền lực của người mua sẽ tác động đến khả năng sinh lời
và lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp trong ngành.
1.2.2.3 Lý thuyết về chuỗi giá trị của doanh nghiệp (Value Chain)
Porter (1985) cho rằng lợi thế cạnh tranh được hình thành từ chính các hoạt
động và quá trình nội bộ của doanh nghiệp. Cũng cần lưu ý rằng lợi thế cạnh tranh
không xuất phát từ một vài hoạt động riêng lẻ mà phụ thuộc và là kết quả của sự
tương tác, phối hợp của các hoạt động trong chuỗi giá trị.
Chuỗi giá trị được đánh giá là một công cụ hữu hiệu trong việc tìm ra nguồn
gốc của lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu, trong đó điển hình là
Barney (2002) cho rằng việc sử dụng chuỗi giá trị khó phát hiện được những nguồn


8


lực riêng có, mang tính vô hình, nhưng lại có vai trò rất lớn đối trong việc tạo ra lợi
thế cạnh tranh của doanh nghiệp: các nguồn lực dựa trên tri thức, các kỹ năng đặc
biệt của các nhân viên phát triển sản phẩm mới, các khả năng thiết lập mối quan hệ
với các đối tác như khách hàng, các nhà cung ứng, các nhà phân phối có liên quan
trong quá trình hoạt động, v.v… Vì vậy, các nhà nghiên cứu lại tiếp tục xây dựng lý
thuyết mới để giải thích nguồn hình thành lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.2.2.4 Lý thuyết nguồn lực của doanh nghiệp (Resource Based Theory)
Các nhà nghiên cứu đã phân chia các nguồn lực của doanh nghiệp theo nhiều
cách thức khác nhau. Barney (1991) phân loại các nguồn lực thành nguồn lực về vốn
con người, vốn vật chất, vốn tổ chức. Grant (1991) chia thành nguồn lực hữu hình, vô
hình, và con người. Các cách phân loại này không thể hiện được các đặc tính theo mô
hình VRIN do vậy ít có giá trị trong việc giải thích nguồn gốc hình thành nên lợi thế
cạnh tranh của doanh nghiệp.
Miller và Shamsie (1996) dựa trên rào cản để đối thủ cạnh tranh bắt chước lại
chia thành nguồn lực dựa trên tri thức (kỹ năng và bí quyết liên quan đến năng lực
quản lý, năng lực công nghệ, và năng lực Marketing) và nguồn lực dựa trên sở hữu tài
sản (thiết bị, nhà xưởng, nhà máy, đất đai, v…). Cách phân loại này thể hiện được
đặc tính của nguồn lực theo mô hình VRIN vì vậy đã góp phần giải thích được việc
hình thành nên lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
Các nguồn lực có thể là hữu hình hoặc vô hình được doanh nghiệp sở hữu và sử
dụng trong quá trình xây dựng và thực hiện chiến lược (Barney và Hesterley, 2006).
Các nguồn lực vô hình có thể bao gồm các kỹ năng, vốn con người, vốn tổ chức và
thông tin, vốn danh tiếng và quan hệ. Tất cả những nguồn lực này thể hiện những
nguồn lực mà doanh nghiệp sở hữu. Nguồn lực hữu hình là số lượng cán bộ công
nhân viên, là quy mô tổng nguồn vốn của doanh nghiệp. Nguồn lực vô hình là định
hướng học hỏi, định hướng thị trường của doanh nghiệp.
Định hướng thị trường (market orientation):
Naver và Slater (1990) cho rằng định hướng thị trường bao gồm ba thành phần:
định hướng khách hàng (a target-buyer focus), định hướng đối thủ cạnh tranh
(competitor orientation) gồm các đối thủ hiện tại và đối thủ tiềm năng, sự phối hợp đa

chức năng trong doanh nghiệp (interfuntional coordination). Boris và ctg (2010) bổ
sung thêm khái niệm định hướng thị trường mang tính nội bộ (Internal Market


9

Orientation) dựa trên quan điểm của Joseph (1996) và Berry và Parasuraman (1991).
Định hướng thị trường nội bộ vì thế được cụ thể hóa bằng định hướng nhân viên
(Employee Orientation) và định hướng cạnh tranh nhân viên (Competitor Orientation
on the employee market).
Định hướng học hỏi (learning orientation):
Theo Sinkula (1997), định hướng học hỏi bao gồm ba thành phần chính: Cam
kết của doanh nghiệp đối với việc hỏi hỏi của các thành viên (commitment to
learning), Chia sẻ tầm nhìn giữa các thành viên trong doanh nghiệp (shared vision),
Có tư duy cởi mở trong hoạt động quản trị điều hành doanh nghiệp (openmindedness).
1.3 Các công trình nghiên cứu trên thế giới và Việt nam có liên quan
Miller và Shamsie (1996) đã nghiên cứu các nguồn lực đóng góp như thế nào
đối với kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong thời kỳ môi trường kinh doanh biến
động ít từ năm 1936 đến 1950 và biến động nhiều từ năm 1951 đến 1965.
Nghiên cứu thực nghiệm của Zhan và cùng tác giả (2009) sử dụng lý thuyết
nguồn lực để nghiên cứu việc hình thành nên lợi thế cạnh tranh của các liên doanh tại
Việt nam.
Tác giả Nguyễn Vĩnh Thanh (2005) đề cập chủ yếu đến vai trò và tác động của
nguồn lực hữu hình (vốn doanh nghiệp) và các hoạt động trong doanh nghiệp (gồm
nghiên cứu thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu, chiến lược kinh doanh của
doanh nghiệp, nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, trình độ công nghệ, năng lực
quản lý và điều hành) đối với lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
Tác giả Bùi Xuân Phong (2006) cho rằng cho rằng xây dựng văn hóa doanh
nghiệp, một nguồn lực vô hình của doanh nghiệp, là giải pháp nâng cao lợi thế cạnh
tranh của ngành viễn thông.

Tác giả Phạm Quang Trung (2009) cho rằng các nguồn lực có ảnh hưởng đến
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bao gồm: vốn và tiềm lực tài chính, chất lượng
nguồn nhân lực và trình độ công nghệ, thương hiệu và hoạt động Marketing.
Tác giả Vũ Trọng Lâm (2006) đã hệ thống hóa các lý thuyết đánh giá về khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp, phân tích hiện trạng về khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp.


10

CHƢƠNG 2: ĐỘNG THÁI PHÁT TRIỂN CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
VẬT LIỆU XÂY DỰNG THUỘC BỘ XÂY DỰNG
Chương này gồm bốn nội dung chính sau đây:
2.1. Giới thiệu ngành sản xuất vật liệu xây dựng

Hiện nay, ngành công nghiệp vật liệu xây dựng của Việt nam đã sớm tiếp cận và
hội nhập với khoa học công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện đại của quốc tế để đầu tư phát
triển sản xuất, nhanh chóng chuyển từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn, từ công nghệ lạc
hậu sang công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện đại. Tiềm năng về tài nguyên khoáng sản, thị
trường, công nghệ, lao động sẽ được khai thác để phát triển ngành vật liệu xây dựng
thành ngành kinh tế mạnh, từ năm 2010, đáp ứng về số lượng, chất lượng và các chủng
loại vật liệu xây dựng cơ bản cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Ngoài ra, các công ty từ rất nhiều thành phần kinh tế đã tham gia vào sản xuất
và kinh doanh vật liệu xây dựng: sở hữu nhà nước, tư nhân, cổ phần, liên doanh trong
và ngoài nước, đầu tư nước ngoài 100%. Hiện nay, có 43 doanh nghiệp sản xuất vật
liệu xây dựng thuộc Bộ Xây dựng (phụ lục 3) với gần 25.000 cán bộ công nhân viên.
Ngoài ra còn có một số doanh nghiệp sản xuất, khai thác nguyên liệu để cung cấp đầu
vào cho các doanh nghiệp này. Bên cạnh đó, hai Tổng Công ty là Tổng Công ty Vật
liệu xây dựng và Tổng Công ty Viglacera cũng có mảng kinh doanh bất động sản, xây
lắp với nhiều công ty con nhằm mục đích mở rộng thị trường tiêu thụ cho các doanh

nghiệp này.
2.2.

Môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất vật liệu

xây dựng
2.2.1. Môi trường chung
Thể chế, luật pháp (Political): Môi trường chính trị và hành lang pháp lý của
một quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt
động sản xuất vật liệu xây dựng nói riêng. Trong những năm gần đây, Việt Nam luôn
giữ vững được ổn định, phát triển khu vực tư nhân năng động, tích cực tham gia kinh
tế quốc tế, cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, gỡ bỏ các rào cản trong kinh doanh,
cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài…


11

Kinh tế (Economics): Nền kinh tế Việt Nam trong năm 2011 đã cho thấy
những dấu hiệu ban đầu vượt qua khó khăn của khủng hoảng kinh tế toàn cầu và dần
hồi phục đà tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên do tác dụng phụ của chính sách kích cầu
và chính sách tiền tệ mở rộng, lạm phát tăng khiến bất ổn kinh tế vĩ mô trở thành một
rủi ro lớn cho nền kinh tế Việt Nam.
Văn hóa xã hội (Sociocultrural): Việt Nam là một nước đang phát triển với tốc
độ tăng trưởng GDP hàng năm đều đạt mức cao, thu nhập bình quân đầu người liên
tục tăng nhất là ở những thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng,… do đó,
việc sử dụng các loại vật liệu xây dựng có chất lượng tốt là nhu cầu ngày càng tăng
của người tiêu dùng. Đó là trào lưu và xu hướng tiêu dùng giàu sang hơn.
Công nghệ (Technological): Tốc độ tiến bộ khoa học kỹ thuật quá nhanh,
những phát minh khoa học đã làm cho sản phẩm mới hoàn thiện hơn xuất hiện liên
tục. Nhiều công nghệ mới làm biến đổi những công nghệ truyền thống, tạo ra khả

năng thay thế triệt để các hàng hoá truyền thống.
2.2.2. Môi trường ngành
Môi trường ngành về các vấn đề sau: (1) Về vốn doanh nghiệp, (2) Về trình độ
công nghệ, (3) Về nhân lực trong các doanh nghiệp, (4) Về năng lực quản lý và điều
hành của doanh nghiệp, (5) Về hoạt động nghiên cứu thị trường và lựa chọn thị
trường mục tiêu, (6) Về chiến lược sản phẩm, (7) Về chiến lược phân phối, (8) Về
đầu tư chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới.
2.2.3. Cơ hội và thách thức
Ngành vật liệu xây dựng Việt nam trong những năm qua vẫn có tốc độ phát
triển và thành tựu rất ấn tượng: đáp ứng cơ bản và ngày càng tốt hơn nhu cầu tiêu
dùng trong nước về sản lượng, chất lượng, và chủng loại sản phẩm; chất lượng sản
phẩm tương đương với nhiều nước trong khu vực, có khả năng cạnh tranh với các sản
phẩm nhập khẩu; sản phẩm đã được xuất khẩu đến trên 100 quốc gia trên thế giới;
đóng góp khoảng 9 - 10% GDP toàn ngành công nghiệp; đóng góp lớn cho ngân sách
nhà nước; thúc đẩy các ngành công nghiệp khác phát triển; tạo nhiều công ăn việc
làm [10].


12

Một trong những mục tiêu theo Quy hoạch tổng thể phát triển vật liệu xây
dựng Việt nam đến năm 2020 đã được Thủ tướng phê chuẩn tại Quyết định số
121/2008/QĐ-TTg ngày 29 tháng 8 năm 2008 là “tiếp tục đầu tư phát triển các loại
vật liệu cơ bản như ximăng, vật liệu ốp lát, sứ vệ sinh, kính xây dựng, vật liệu xây,
vật liệu lợp” (trang 2) và “không ngừng đào tạo nâng cao năng lực quản lý” (trang 1),
“sản phẩm có sức cạnh tranh cao trên thị trường trong nước và quốc tế” (trang 2). Qui
hoạch này cũng xác định rõ Bộ Xây dựng là cơ quan có chức năng quản lý nhà nước
về vật liệu xây dựng và đại diện chủ sở hữu phần vốn của nhà nước tại doanh nghiệp
có vốn nhà nước về sản xuất vật liệu xây dựng.
2.3. Động thái phát triển các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng thuộc


Bộ Xây dựng
Trong các ngành sản xuất vật liệu xây dựng tại Việt Nam hiện nay, có tất cả 5
ngành sản xuất chính là xi măng, gạch ốp lát, sứ vệ sinh, kính xây dựng, gạch ngói và
các sản phẩm đất sét nung. Trong đó, riêng sản phẩm xi măng tuy là một ngành chính
song nó chủ yếu chỉ phụ thuộc vào công nghệ, các sản phẩm đồng nhất, chênh lệch
nhau không nhiều như các sản phẩm còn lại. Do đó, đề tài này chỉ tập trung nghiên
cứu bốn ngành còn lại. Bởi các ngành này ngoài những sự khác biệt về chất lượng
sản phẩm, nó còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như chủng loại, chất liệu, sự đổi mới
nguyên vật liệu,…
Các ngành nghiên cứu là: (1) Kính xây dựng, (2) Sứ vệ sinh, (3) Gạch ốp lát:
Granite và Ceramic, (4) Gạch ngói và các sản phẩm đất sét nung.
2.4. Tình hình tài chính của các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng

thuộc Bộ Xây dựng
Trong các nguồn lực hữu hình của các doanh nghiệp, nguồn lực về tài chính có
vai trò khá quan trọng, nó phản ánh nội lực của doanh nghiệp, phản ánh tổng tài sản
của doanh nghiệp,… Vì thế, tác giả đã phân tích một số chỉ tiêu về tài chính của các
doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng thuộc Bộ Xây dựng. Số lượng các doanh
nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng thuộc Bộ Xây dựng là không nhỏ, hơn nữa việc thu
thập số liệu tài chính của các công ty này gặp nhiều khó khăn vì thế, ở phần này, tác
giả chỉ đánh giá tình hình tài chính của một số doanh nghiệp trực thuộc Tổng Công ty


13

Gốm và Sư thủy tinh Viglacera.
Vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp vật liệu xây dựng đều ở mức trung bình
so với các doanh nghiệp nhà nước. Tác giả thấy rằng, trong thời kỳ 2009-2011, khi
thị trường bất động sản có những tăng trưởng vượt bậc, các doanh nghiệp sản xuất

vật liệu xây dựng cũng được hưởng lợi từ sự tăng trưởng đó, hoạt động sản xuất kinh
doanh tốt hơn. Tuy nhiên, từ năm 2012, khi thị trường bất động sản đóng băng, hoạt
động của các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng kém hiệu quả hơn, tỷ trọng
Vốn chủ sở hữu trong Tổng tài sản giảm đi rõ rệt.
Trong bốn lĩnh vực nghiên cứu, lĩnh vực sản xuất Gạch ngói và các sản phẩm
đất sét nung đang là một thế mạnh của các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng.
Điều này cũng khẳng định được một thực tế khách quan, rằng các lĩnh vực kính, sứ
vệ sinh, gạch ốp lát đang chịu sự cạnh tranh rất lớn đến từ rất nhiều doanh nghiệp, từ
các sản phẩm ngoại nhập.
Lợi nhuận thuần của hầu hết các doanh nghiệp đều không ổn định và có chiều
hướng suy giảm trong những năm qua. Tính theo giá trị tồn kho hàng hóa, chúng ta
có thể thấy ngay rằng, giá trị này gần bằng giá trị vốn chủ sở hữu. Các doanh nghiệp
này hiện tại đang sản xuất chỉ ở mức cầm chừng, duy trì hoạt động. Và vấn đề này
càng khẳng định sự cấp thiết của việc nâng cao lợi thế cạnh tranh của các doanh
nghiệp này.


14

CHƢƠNG 3: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Mô hình nghiên cứu

Các lợi thế cạnh tranh sẽ dựa trên cơ sở nghiên cứu là các quan điểm của
Koufteros và đồng tác giả (1995), Li và đồng tác giả (2006), Thatte (2007). Các
nguồn lực của doanh nghiệp sẽ được phân loại theo quan điểm của Miller và Shamsie
(1996).
Sơ đồ 3.1: Mô hình các nguồn lực và lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp
Nguồn lực hữu hình:
- Số lượng lao động
- Quy mô Tổng nguồn vốn


Lợi thế
cạnh
tranh

Nguồn lực vô hình:
- Định hướng học hỏi
- Định hướng thị trường

Mức độ
biến
động thị
trường

Mức độ
cạnh
tranh

Kết quả
kinh
doanh

Mức độ
phát
triển
công
nghệ

3.2. Trình tự nghiên cứu


Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu đã đặt ra, tác giả đã thực hiện ba bước:
(1) Nghiên cứu sơ bộ, (2) Nghiên cứu định tính, (3) Nghiên cứu định lượng.
3.3. Các khái niệm nghiên cứu và thang đo

Phần này tác giả trình bày khái niệm nghiên cứu và thang đo của các biến độc
lập và biến phụ thuộc có trong mô hình nghiên cứu đã xây dựng. Đó là: (1) Lợi thế
cạnh tranh của công ty; (2) Số lượng cán bộ nhân viên trong công ty, (3) Quy mô
Tổng nguồn vốn, (3) Định hướng học hỏi; (4) Định hướng thị trường; (5) Mức độ
biến động thị trường, (6) Mức độ cạnh tranh, (7) Mức độ phát triển công nghệ, (8)


15

Kết quả kinh doanh. Các biến được trình bày dưới đây dựa trên mô hình và thang đo
được xây dựng từ cơ sở lý luận, các nghiên cứu trước đây và được chỉnh sửa từng
biến qua bước nghiên cứu định tính.
Thang đo sử dụng là các thang đo đa biến (multi-item scale) để đo các khái niệm
chính. Các thang đo đa biến được áp dụng trong nghiên cứu này đã được chứng minh là
phù hợp với tiêu chuẩn về độ giá trị và độ tin cậy bởi những nghiên cứu trước đó.
3.4. Thiết kế bảng câu hỏi trong phiếu điều tra

Nội dung của bảng câu hỏi bao gồm:
Thông tin mở đầu: Nội dung phần này bao gồm phần giới thiệu nội dung, mục
đích nghiên cứu. Tác giả hướng dẫn ngắn gọn cách trả lời các câu hỏi trong bảng và
thông tin liên hệ khi người được điều tra có những thắc mắc.
Thông tin chính cần nghiên cứu: Trong phần này, tác giả đặt ra những câu hỏi
định lượng nhằm ghi lại mức độ ý kiến của người trả lời. Nội dung của những phát
biểu được thiết kế thành các thang đo đã được nghiên cứu. Các thang đo này gồm
nhiều biến quan sát về (1) Lợi thế cạnh tranh của công ty, (2) Định hướng học hỏi, (3)
Định hướng thị trường, (4) Kết quả kinh doanh của công ty.

Thông tin bổ sung: Nhằm thu thập thêm những nội dung khác liên quan đến mô
hình nghiên cứu. Những thông tin bổ sung này gồm các thang đo về (5) Các thông tin
về môi trường kinh doanh, (6) Các thông tin chung về công ty, (7) Thông tin về người
trả lời trong trường hợp họ muốn biết kết quả nghiên cứu này.
3.5. Thiết kế mẫu điều tra

Mẫu trong nghiên cứu này được thực hiện theo phương pháp chọn mẫu phi xác
suất. Theo phương pháp này, tác giả đã tập trung khảo sát các doanh nghiệp sản xuất
vật liệu xây dựng thuộc Bộ Xây dựng. Các doanh nghiệp này đều là các doanh nghiệp
nhà nước hoặc có vốn nhà nước trên 51% trong bốn lĩnh vực: kính xây dựng, sứ vệ
sinh, gạch ốp lát, gạch ngói và các sản phẩm đất sét nung. Các doanh nghiệp hoạt
động tại các vùng miền trên khắp cả nước. Tác giả thực hiện phát phiếu điều tra cho
43 doanh nghiệp.
Mỗi doanh nghiệp sẽ lấy ý kiến theo thứ tự là: thành viên Hội đồng quản trị,


16

thành viên ban giám đốc, các cán bộ lãnh đạo cấp phòng, ban. Các phòng ban cơ sở
của các doanh nghiệp bao gồm: phòng kinh doanh, kế toán, kế hoạch, nhân sự, kỹ
thuật và cơ điện. Tổng số phiếu phát ra là 900 phiếu.
Sau quá trình thu thập, số phiếu thu về là 236 phiếu (chiếm 26,2% số phiếu
phát ra). Có thể nói, mẫu điều tra này bao gồm tổng hợp tất cả các doanh nghiệp sản
xuất vật liệu xây dựng thuộc Bộ Xây dựng.
3.6. Mô tả mẫu điều tra

Bảng 3.2 : Phân nhóm đối tƣợng điều tra theo vị trí công tác
Vị trí

Tỉ lệ phần trăm


1

Chủ tịch Hội đồng quản trị

2

Tổng Giám đốc

4,5%

3

Phó Giám đốc

13,6%

4

Trưởng phòng

36,4%

5

Phó phòng

41,5%

Tổng số


100,0%

4%

(Nguồn: Khảo sát về mô hình ảnh hưởng nguồn lực tới lợi thế cạnh tranh, tác giả)
Bảng 3.3: Phân nhóm điều tra theo lĩnh vực kinh doanh
Lĩnh vực kinh doanh

Tỉ lệ phần trăm

1

Kính xây dựng

23,6%

2

Sứ vệ sinh

24,4%

3

Gạch ốp lát

26,8%

4


Gạch ngói và đất sét nung

25,2%

Tổng số

100,0%

(Nguồn: Khảo sát về mô hình ảnh hưởng nguồn lực tới lợi thế cạnh tranh, tác giả)


17

CHƢƠNG 4: THỰC TRẠNG LỢI THẾ CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP SẢN XUẤT VẬT LIỆU XÂY DỰNG THUỘC BỘ XÂY DỰNG
Sau khi thu thập các phiếu điều tra, tác giả đã tiến hành làm sạch thông tin, lọc
bảng câu hỏi và mã hóa những thông tin cần thiết trong bảng câu hỏi, nhập liệu và
phân tích dữ liệu bằng phần mềm SPSS phiên bản 20.
4.1.Đánh giá độ tin cậy của các biến khảo sát
Để đo độ tin cậy của dữ liệu khảo sát, chúng ta phân tích các nhóm nhân tố
bằng mô hình Cronbach’s Alpha. Phương pháp Cronbach’s Alpha dùng để loại bỏ các
câu không phù hợp và hạn chế các câu nhiễu trong quá trình nghiên cứu và đánh giá
độ tin cậy của các biến. Hệ số Cronbach’s Alpha biến thiên từ 0 đến 1. Về lý thuyết,
Cronbach’s Alpha càng cao thì các biến có độ tin cậy càng cao. Những biến có Hệ số
tương quan khi đã khắc phục nhỏ hơn 0,3 sẽ bị loại. Thang đo có hệ số Cronbach’s
Alpha từ 0.6 trở lên là có thể sử dụng được trong trường hợp khái niệm đang nghiên
cứu mới. Thông thường, thang đo có Cronbach alpha từ 0,7 đến 0,8 là sử dụng được.
4.2.Mô tả thống kê của các biến
Trước khi đi phân tích mô hình hồi quy, tác giả thống kê các biến trên như sau:

Bảng 4.2: Mô tả thống kê các biến

236

Độ
Bình
Phƣơn
lệch
quân
g sai
chuẩn
3,61 0,59
0,35

Khoản
Tối
Tối
g biến
thiểu đa
thiên
2,42
2,29 4,71

236

4,25

1,41

1,98


5,00

1,00

6,00

236
236

3,78
3,66

1,48
0,75

2,18
0,56

5,00
3,00

1,00
1,82

6,00
4,82

236


3,57

0,83

0,70

3,04

1,86

4,90

236
236

3,78
3,64

0,15
0,25

0,02
0,06

1,40
1,33

2,40
2,67


3,80
4,00

236

3,63

0,30

0,09

1,50

2,75

4,25

Mẫu
Lợi thế cạnh tranh
Số lượng cán bộ nhân
viên
Quy mô tổng nguồn
vốn
Định hướng học hỏi
Định
hướng
thị
trường
Mức biến động của
thị trường

Mức độ cạnh tranh
Mức độ phát triển
công nghệ

(Nguồn: Điều tra và phân tích của tác giả)


18

4.3.Phân tích tƣơng quan giữa Lợi thế cạnh tranh và các nguồn lực
Phân tích tương quan hai biến dựa trên giả thuyết H0i: “ Biến i và biến gốc 0
không có mối quan hệ tuyến tính, tức hệ số tương quan bằng 0”. Trong giả thuyết này,
mức ý nghĩa được chọn là 0,01 (tức là xác suất chấp nhận giả thuyết sai là 1%). Khi
Hệ số tin cậy > 0,01 thì sẽ chấp nhận giả thuyết H0i, tức là hai biến đang xét không có
quan hệ tương quan. Còn khi Hệ số tin cậy < 0,01 thì sẽ bác bỏ giả thuyết H0i, hay là
hai biến đang xét có quan hệ tương quan. Sau khi phân tích số liệu qua SPSS ta có:
Lợi thế cạnh tranh chịu ảnh hưởng bởi Định hướng học hỏi và Định hướng thị trường,
mà không chịu ảnh hưởng bởi Số lượng cán bộ nhân viên và Quy mô tổng nguồn vốn.
4.4.Phân tích mô hình hồi quy
Để đánh giá tác động của các yếu tố vào Lợi thế cạnh tranh, tác giả sử dụng mô
hình hồi quy đa biến. Phương trình hồi quy đa biến cho mô hình được đề xuất như
sau: Y = f(x) = β0 + β1X1 + β2X2 + … + βnXn + ε.
Trong mô hình: Y là Lợi thế cạnh tranh.

X1, X2,…, X7 lần lượt là các yếu

tố Số lượng nhân viên, Quy mô tổng nguồn vốn, Định hướng học hỏi, Định hướng thị
trường, Mức độ biến động của thị trường, Mức độ cạnh tranh, Mức độ phát triển công
nghệ. β1, β2,…, β7 lần lượt là hệ số của các yếu tố tương ứng.
Kiểm định giả thuyết sử dụng phần mềm SPSS để đánh giá và kiểm định độ

phù hợp của mô hình hồi quy đa biến và kiểm định về độ phù hợp của mô hình, tác
giả lần lượt có kết luận:
- Ba yếu tố môi trường không ảnh hưởng tới Lợi thế cạnh tranh.
- Hai yếu tố nguồn lực hữu hình không ảnh hưởng tới Lợi thế cạnh tranh.
- Hai yếu tố nguồn lực vô hình ảnh hưởng tới Lợi thế cạnh tranh.


19

4.5.Phân tích các yếu tố Lợi thế cạnh tranh, Định hƣớng học hỏi, Định hƣớng thị
trƣờng
4.5.1. Lợi thế cạnh tranh
Bảng 4.6 : Các yếu tố cấu thành Lợi thế cạnh tranh
Bình quân
Giá/ Chi phí
Chất lượng
Giao hàng theo yêu cầu của khách hàng
Đổi mới sản phẩm
Thời hạn cung ứng sản phẩm ra thị trường
Lợi thế cạnh tranh
(Nguồn: Điều tra và phân tích của tác giả)

3,29
3,71
3,90
3,63
3,48
3,60

Độ lệch

chuẩn
0,69
0,76
0,78
0,75
0,65
0,59

4.5.2. Định hướng học hỏi
Bảng 4.7: Các yếu tố cấu thành Định hƣớng học hỏi
Bình quân
Cam kết học hỏi
Chia sẻ tầm nhìn
Tư duy mở
Định hƣớng học hỏi
(Nguồn: Điều tra và phân tích của tác giả)

3,90
3,59
3,44
3,66

Độ lệch
chuẩn
0,97
0,80
0,77
0,75

4.5.3. Định hướng thị trường

Bảng 4.8: Các yếu tố cấu thành Định hƣớng thị trƣờng
Bình quân
Định hướng khách hàng
Định hướng đối thủ cạnh tranh
Định hướng hợp tác đa chức năng
Định hướng nhân viên
Định hướng cạnh tranh nhân viên
Định hƣớng thị trƣờng
(Nguồn: Điều tra và phân tích của tác giả)

3,61
3,46
3,63
3,74
3,39
3,57

Độ
lệch
chuẩn
0,76
1,00
0,95
1,01
0,98
0,83

4.6.Phân tích Mô hình Lợi thế cạnh tranh phụ thuộc vào Định hƣớng học hỏi,
Định hƣớng thị trƣờng
Tác giả sử dụng SPSS phân tích các mô hình và đạt được kết quả như sau:



20

Lợi thế cạnh tranh = 1,007 + 0,363 x Định hướng học hỏi + 0,356 x Định
hướng thị trường
Lợi thế cạnh tranh = 1,162 + 0,668 x Định hướng học hỏi
Lợi thế cạnh tranh = 1,433 + 0,609 x Định hướng thị trường
Lợi thế cạnh tranh = 1,176 + 0,264 x Cam kết học hỏi + 0,129 x Chia sẻ tầm
nhìn + 0,273 x Tư duy mở
Lợi thế cạnh tranh = 1,004 + 0,505 x Định hướng khách hàng - 0,257 x Định
hướng đối thủ cạnh tranh + 0,007 x Định hướng hợp tác đa chức năng + 0,3 x Định
hướng nhân viên + 0,155 x Định hướng cạnh tranh nhân viên
Kết quả kinh doanh = 1,368 + 0,414 x Lợi thế cạnh tranh
CHƢƠNG 5: NÂNG CAO LỢI THẾ CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP SẢN XUẤT VẬT LIỆU XÂY DỰNG THUỘC BỘ XÂY DỰNG
5.1.Định hƣớng phát triển kinh tế xã hội Việt Nam đến năm 2020
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2011 – 2020) đã đặt ra mục tiêu “Xây
dựng Việt Nam về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020”. Trên cơ sở phan tích các nguyên nhân của tình trạng yếu kém, phát triển khó
khăn như hiện nay là do thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, thiếu hệ thống kết cấu
hạ tầng (đồng bộ và hiện đại), và thiếu các doanh nghiệp kinh doanh hiện đại mà linh
hồn của nó là các doanh nhân. Như ông Matsushita Konosuke (1894 – 1969), người
sáng lập tập đoàn Matsushita, một trong số 20 nhà doanh nghiệp tài ba, lỗi lạc nhất thế
kỷ XX của Nhật Bản – đã viết: “sự nghiệp thành hay bại đều do con người”. Trung
tâm của sự phát triển là do có chiêu mộ được nhân tài phù hợp hay không.
5.2.Định hƣớng phát triển ngành vật liệu xây dựng
Mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 của ngành công nghiệp vật liệu xây dựng là
phấn đấu cơ bản hoàn thành quá trình công nghiệp hóa theo hướng hiện đại và hướng
đến năm 2030 đạt trình độ là ngành công nghiệp hiện đại, công nghiệp xanh ngang

hàng với các nước trong khu vực và thế giới.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký ban hành Quyết định số
121/2008/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển vật liệu xây dựng
(VLXD) Việt Nam đến năm 2020, theo đó tiếp tục đầu tư phát triển các loại vật liệu
cơ bản như xi măng; vật liệu ốp lát, sứ vệ sinh; kính xây dựng; vật liệu xây, lợp; đá,


21

cát xây dựng và vật liệu trang trí hoàn thiện; đồng thời chú trọng phát triển các loại
vật liệu mới, thân thiện với môi trường.
5.3.Những thách thức và mục tiêu cần hƣớng tới
5.3.1. Những thách thức
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, hàng hóa được xuất, nhập khẩu đi các nơi
trên thế giới, thị trường tiêu thụ nhiều, có phạm vi rộng trên toàn thế giới. Vì thế, bất
kỳ một doanh nghiệp nào muốn lớn mạnh, đủ tiềm lực cũng muốn mở rộng thị trường
ra ngoài lãnh thổ. Các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng thuộc Bộ Xây dựng
cũng đứng trước thách thức vươn ra thị trường nước ngoài.
Doanh nghiệp trong ngành gặp khó khăn với việc tiếp cận nguồn lao động có
chất lượng: thiếu hụt kỹ năng càng trở nên khó khăn trong tương lai do lực hấp dẫn
hạn chế của ngành đối với giới trẻ và chất lượng đào tạo tại Việt Nam.
Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu trong những năm gần đây, hay
ngay tại Việt Nam, lạm phát tăng cao, lãi suất biến động thất thường,… các doanh
nghiệp đều gặp khó khăn trong việc tiếp cận với nguồn tài chính.
5.3.2. Mục tiêu cần hướng tới
Là Bộ chủ quản ngành, định hướng chung của Bộ Xây dựng là nâng cao khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng tại Việt Nam. Bộ
Xây dựng đã đưa ra những mục tiêu cụ thể cần hướng tới:
Thứ nhất là tăng trưởng chiều sâu và đồng bộ.
Thứ hai là tăng trưởng bền vững.

Thứ ba là tăng trưởng thông minh.
5.4.Các giải pháp nâng cao lợi thế cạnh tranh tại các doanh nghiệp sản xuất vật
liệu xây dựng thuộc Bộ Xây dựng
5.4.1. Nâng cao các yếu tố làm tăng lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp
Các hoạt trực tiếp nâng cao lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất
vật liệu xây dựng là rất quan trọng. Các giải pháp đó bao gồm:
Thứ nhất, tiến hành tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và đẩy mạnh cổ phần
hóa các doanh nghiệp nhà nước sản xuất vật liệu xây dựng.
Thứ hai, các doanh nghiệp cần giảm chi phí sản xuất, đưa ra mức giá cạnh
tranh bằng hoặc thấp hơn đối với các đối thủ.
Thứ ba, doanh nghiệp cần đẩy mạnh hơn hoạt động nghiên cứu và phát triển


22

cũng như nghiên cứu thị trường.
5.4.2. Nâng cao định hướng học hỏi của doanh nghiệp
Thức nhất là tăng cường tư duy mở. Các doanh nghiệp cần thường xuyên tập
hợp ý kiến phản biện về cách thức giải thích các thông tin về khách hàng.
Thứ hai là nâng cam cam kết học hỏi. Giá trị cơ bản của công ty bao gồm việc
coi học tập là chìa khóa để cải tiến, mọi người cần cho rằng việc học tập của mỗi cá
nhân là sự đầu tư chứ không phải hoạt động tăng chi phí.
Thứ ba là chia sẽ tầm nhìn. Các lãnh đạo cấp cao cần nhận thức được việc này,
cần tuyên truyền, phổ biến cho mọi người nắm được, hiểu được định hướng của
doanh nghiệp, tầm nhìn của cán bộ quản lý.
5.4.3. Nâng cao định hướng thị trường của doanh nghiệp
Thứ nhất là định hướng cạnh tranh nhân viên. Doanh nghiệp đẩy mạnh các
biện pháp nâng cao điều kiện làm việc của nhân viên, nhằm giữ chân nhân viên, giúp
người lao động gắn bó lâu dài với doanh nghiệp bằng những hợp đồng dài hạn, hấp
dẫn.

Thứ hai là đối thủ cạnh tranh. Trong các bộ phận doanh nghiệp, bộ phận bán
hàng là bộ phận tiếp cận với thị trường nhiều nhất. Do đó, doanh nghiệp cần kích
thích bộ phận này tìm hiểu thông tin về các đối thủ cạnh tranh, hay các hành động của
đối thủ cạnh tranh.
Thứ ba là định hướng khách hàng. Cần nâng cao việc đánh giá và kiểm soát
mức độ cam kết trong việc phục vụ nhu cầu khách hàng, thường xuyên đo lường sự
thỏa mãn của khách hàng; coi trọng và chú ý đến các dịch vụ sau bán hàng.
Thứ tư là định hướng hợp tác đa chức năng. Thường xuyên, tăng cường hơn
nữa việc chia sẻ nguồn lực với các chức năng khác nhau trong doanh nghiệp; thoải
mái trao đổi các thông tin về các kinh nghiệm thành công và không thành công đối
với khách hàng giữa tất cả các phòng ban chức năng của công ty.
Thứ năm là định hướng nhân viên. Nguồn nhân lực chính là người trực tiếp tạo
ra sản phẩm. Các doanh nghiệp cần phân tích một cách hệ thống điều kiện làm việc
của cán bộ và nhân viên trong công ty.
5.5.Các giải pháp nâng cao lợi thế cạnh tranh của các lĩnh vực sản xuất vật liệu
dây dựng của các doanh nghiệp thuộc Bộ Xây dựng
5.5.1. Kính xây dựng


23

Thứ nhất, nâng cao sự an toàn của sản phẩm.
Thứ hai, nâng cao khả năng chịu lực, chịu nhiệt.
Thứ ba, nâng cao khả năng chịu lực tác động ngang của tải trọng gió tăng dần
theo chiều cao công trình.
Thứ tư, cần ta ̣o các điề u kiê ̣n tố i đa về viê ̣c xúc tiế n thương ma ̣i xuấ t khẩ u sản
phẩ m kiń h.
Thứ năm, sử dụng công nghệ hiện đại, tiêu hao nhiên liệu thấp.
Thứ sáu, nhà nước cần rà soát và tiế n hành thực hiê ̣n nghiêm yêu cầ u sử du ̣ng
kính tiết kiệm năng lượng đối với các công trình xây dựng , yêu cầu bắt buộc trong

việc sử dụng sản phẩm này trong các công trình cao tầng
5.5.2. Sứ vệ sinh
Thứ nhất, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Thứ hai, song song với sản phẩm chính cũng cần phát triển các sản phẩm phụ
kiện đi kèm với sứ vệ sinh.
Thứ ba là xây dựng thương hiệu, quảng bá hình ảnh.
Thứ tư, thực hiện các quy định về quản lý cạnh tranh, quản lý thị trường.
5.5.3. Gạch ốp lát
Thứ nhất, rà soát, chọn lọc những dòng sản phẩm riêng lẻ hiện có thành những
bộ sản phẩm cao cấp, tạo giá trị thặng dư cao, bên cạnh đó vẫn phát triển dòng sản
phẩm giá rẻ, phù hợp với khách hàng có mức thu nhập trung bình.
Thứ hai, trong đầu tư cần tập trung thành cụm, công suất lớn, chuyên môn hóa
sản xuất cao.
Thứ ba, nâng cao quy mô công suất, tiến tới loại bỏ các cơ sở sản xuất gạch ốp
lát có sản lượng thấp.
Thứ tư, đầu tư công nghệ mới hiện đại, dây chuyền tự động hóa cao.
Thứ năm, công nghệ cần đảm bảo để sản xuất được nhiều loại sản phẩm với các
kích thước khác nhau.
5.6.4. Gạch ngói và các sản phẩm đất sét nung
Thứ nhất, tiếp tục đầu tư chiều sâu cải tiến công nghệ sản xuất gạch đất sét
nung nhằm giảm tiêu hao nguyên nhiên liệu, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Thứ hai, phát triển các loại gạch có kích thước lớn, độ rỗng cao từ 50% trở lên.
Thứ ba, phát triển sản xuất gạch nung chất lượng cao có giá trị kinh tế, đặc biệt


24

là các loại gạch xây không trát phục vụ xây dựng trong nước và xuất khẩu.
Thứ tư, phát triển sản xuất gạch nung bằng nguyên liệu đất đồi, đất ít hiệu quả
trong nông nghiệp và phế thải công nghiệp (đất bìa trong khai thác than, đá sít

than,…)
Thứ năm, kiến nghị Bộ Tài chính nghiên cứu đề xuất chính sách về thuế tài
nguyên đất sét sản xuất gạch nung cho phù hợp để giảm dần việc khai thác đất.
KẾT LUẬN
Với đóng góp quan trọng về mặt lý thuyết, tác giả đề xuất từng bước áp dụng
các giải pháp để nâng cao lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất vật liệu
xây dựng thuộc Bộ Xây dựng. Bên cạnh đó, đề tài cũng gợi mở ra nhiều hướng cho
các nhà nghiên cứu tiếp tục tìm tòi, đưa ra những phát hiện mới để áp dụng vào các
doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng thuộc Bộ Xây dựng nói riêng và các doanh
nghiệp Việt Nam nói chung.
Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài mới nghiên cứu được tác động của hai nguồn
lực vô hình là định hướng học hỏi và định hướng thị trường tới lợi thế cạnh tranh của
các doanh nghiệp vật liệu xây dựng thuộc Bộ Xây dựng. Vì thế, nghiên cứu này vẫn
còn rất nhiều hạn chế cần nghiên cứu bổ sung và phát triển thêm. Các nghiên cứu bổ
sung có thể là nghiên cứu sự tác động giữa khả năng phát triển công nghệ tới lợi thế
cạnh tranh; mở rộng phạm vi nghiên cứu đối với lĩnh vực sản xuất xi măng tại Việt
Nam, nghiên cứu các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng ngoài Bộ Xây dựng.
Một hướng nghiên cứu mới là sự tác động lẫn nhau giữa hai nguồn lực vô hình là
định hướng học hỏi và định hướng thị trường. Ngoài ra, việc kiểm định vai trò của
hai nguồn lực này đối với lợi thế cạnh tranh ở các doanh nghiệp sản xuất thuộc nhiều
lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế cũng là một hướng nghiên cứu tiếp theo. Tất cả
gợi ý trên đều nhằm mục đích nâng cao lợi thế cạnh tranh bền vững của các doanh
nghiệp sản xuất tại Việt Nam thông qua hai nguồn lực vô hình là định hướng thị
trường và định hướng học hỏi.



×