Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường sử dụng công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường làng nghề truyền thống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (674.71 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
--------------------------

NGUYỄN ĐÌNH QUANG KHẢI

NGHIÊN CỨU VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP
NHẰM TĂNG CƯỜNG SỬ DỤNG CÔNG CỤ
KINH TẾ TRONG BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG

TÓM TẮT LUẬN VĂN

HÀ NỘI, NĂM 2013


TÓM TẮ LUẬN VĂN
MỞ ĐẦU

1 .Tính cấp thiết của đề tài
Các làng nghề truyền thống ở Việt Nam đã và đang có nhiều đóng góp cho sự phát
triển của đất nước nói chung và đối với nền kinh tế nông thôn nói riêng. Nhiều làng nghề
truyền thống hiện nay đã được khôi phục, đầu tư phát triển với quy mô và kỹ thuật cao
hơn, hàng hóa không những phục vụ nhu cầu trong nước mà còn cho xuất khẩu với giá trị
lớn. Tuy nhiên, một trong những thách thức đang đặt ra đối với các làng nghề là vấn đề
môi trường và sức khỏe của người lao động, của cộng đồng dân cư đang bị ảnh hưởng
nghiêm trọng từ hoạt động sản xuất của các làng nghề. Những năm gần đây, vấn đề này
đang thu hút sự quan tâm của Đảng, Nhà nước cũng như các nhà khoa học nhằm tìm ra các
giải pháp hữu hiệu cho sự phát triển bền vững các làng nghề. Đã có nhiều làng nghề thay
đổi phương thức sản xuất cũng như quản lý môi trường và thu được hiệu quả đáng kể.
Song, đối với không ít làng nghề, sản xuất vẫn đang tăng về quy mô, còn môi trường ngày


càng ô nhiễm trầm trọng.
Rất nhiều biện pháp khắc phục cũng như hạn chế tình hình ô nhiễm hiện nay ở các
làng nghề đã được Đảng và Nhà nước quan tâm chỉ đạo song kết quả thu được không
đem lại nhiều khả quan.Cũng như nhiều nước trên thế giới, công tác bảo vệ môi trường ở
Việt Nam cho đến nay chủ yếu được thực hiện theo cơ chế mệnh lệnh và kiểm soát (
Command and Control – CAC) . Theo đó các cộng đồng cũng như các doanh nghiệp phải
tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường cụ thể. Vai trò của nhà nước là đảm bảo sự tuân thủ
về môi trường thông qua các chương trình quan trắc và cưỡng chế nghiêm ngặt. Tuy
nhiên hiệu quả của những chính sách quản lý môi trường này không thực sự thỏa mãn:
thành công trong một số trường hợp nhưng cũng gây thất vọng trong rất nhiều trường hợp
khác. Mặc dù có vai trò quan trọng trong hệ thống quản lý môi trường, phương pháp
CAC trên thực tế cần được bổ sung bằng các công cụ khuyến khích cần thiết để xúc tiến
việc kiểm soát ô nhiễm và bảo vệ môi trường.


Do vậy song song với việc ban hành và áp dụng các chính sách quản lý môi trường
CAC, ngay từ những năm 1960 đã có nhiều công trình nghiên cứu tập trung vào việc thiết
kế và phân tích những chính sách quản lý môi trường nhằm tạo ra các khuyến khích (
incentive-based policies) kinh tế. Những chính sách này được coi là linh hoạt hơn so với
các chính sách quản lý môi trường CAC mang tính truyền thống.Cho tới nay đã có những
bước tiến đáng kể trong sự hiểu biết về cả hai dạng chính sách quản lý môi trường này,
đặc biệt thông qua thực tế áp dụng ở các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam.. Công
cụ kinh tế là một trong những công cụ quan trọng để bảo vệ môi trường, đã và đang được
ứng dụng rộng rãi trên thế giới, đặc biệt là trong các nước công nghiệp phát triển. Tính ưu
việt của các công cụ kinh tế là chúng không những đưa ra được con số giới hạn tổ chức cho
các quyết định về môi trường, mà còn cho phép định lượng riêng biệt từng trường hợp một
cách linh hoạt, trong khi vẫn đảm bảo được yêu cầu chung về chất lượng môi trường trong
toàn khu vực. Bên cạnh đó các công cụ kinh tế còn mang lại các lợi ích tiềm tàng như:
Nâng cao thu nhập cho người dân, thúc đẩy sự đổi mới trong công nghệ kiểm soát ô nhiễm
và giảm bớt chi phí trong kiểm soát ô nhiễm. Tuy nhiên việc áp dụng công cụ kinh tế tại

các làng nghề truyền thống còn tương đối hạn chế.Do vậy việc phân tích, đánh giá và đề
xuất các giải pháp nhằm tăng cường sử dụng công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường làng
nghề truyền thống là một trong những yêu cầu cấp thiết. Do vậy vậy với mong muốn
nghiên cứu và sử dụng các công cụ kinh tế vào việc bảo vệ môi trường tại các làng nghề
được nhiều hơn tôi đã lựa chọn đề tài:” Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm tăng
cường sử dụng công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường làng nghề truyền thống”làm
đề tài luận văn cao học.


CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG CÔNG CỤ
KINH TẾ TRONG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG

1.1 Khái niệm chung về quản lý môi trường, sự cần thiết phải quản lý môi
trường
1.1.1 Khái niệm chung về quản lý môi trường
Trước tiên chúng ta hiểu quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng
quản lý và khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong điều kiện biến động của
môi trường ngoài.
Quản lý môi trường là một dạng của quản lý. Đó là sự tác động liên tục, có tổ chức và
hướng đích của chủ thể quản lý môi trường nên cá nhân hoặc cộng đồng người tiến hành các
hoạt động phát triển trong hệ thống môi trường và khách thể quản lý môi trường, sử dụng
một cách tốt nhất mọi tiềm năng và cơ hội nhằm đạt được mục tiêu quản lý môi trường đã đề
ra, phù hợp với luật pháp và thông lệ hiện hành.
Sự tác động liên tục, có tổ chức và hướng đích của chủ thể quản lý môi trường
chính là việc tổ chức thực hiện các chức năng của quản lý môi trường nhằm phối hợp
mục tiêu và các động lực hoạt động của mội người nằm trong hệ thống môi trường để đạt
tới mục tiêu chung của hệ thống môi trường

1.1.2. Sự cần thiết phải quản lý môi trường.
Xét về mặt tổ chức kỹ thuật của hoạt động quản lý, quản lý môi trường chính là sự

kết hợp mọi sự lỗ lực chung của con người hoạt động trong hệ thống môi trường và việc
sử dụng tốt các cơ sở vật chất kỹ thuật thuộc phạm vi sở hữu của hệ thống môi trường để
đạt tới mục tiêu chung của toàn hệ thống và mục tiêu riêng của cá nhân hoặc nhóm người
một cánh khôn khéo và có hiệu quả nhất. Quản lý môi trường phải trả lời các câu hỏi “
Phải tiến hành các hoạt động phát triển nào, để làm gì?”, “Phải tiến hành hoạt động phát
triển đó như thế nào, bằng cách nào?”, “Tác động tích cực và tiêu cực nào có thể xảy
ra?”, “ Rủi ro nào có thể gánh chịu và cách xử lý ra sao?”.


Quản lý môi trường được tiến hành chính là để tạo ra một hiệu quả hoạt động phát
triển cao hơn, bền vững hơn so với hoạt động của từng cá nhân riêng rẽ hay của một
nhóm người.Nói một cách khác, thực chất của quản lý môi trường là quản lý con người
trong các hoạt động phát triển và thông qua đó sử dụng có hiệu quả nhất mọi tiềm năng
và cơ hội của hệ thống môi trường.

1.2 Đối tượng, mục tiêu, nội dung và các nguyên tắc của quản lý nhà nước về
môi trường.
1.2.1 Đối tượng,mục tiêu của quản lý môi trường
Quản lý môi trường, trước hết là quản lý một hệ thống bao gồm các phần tử (yếu
tố) tự nhiên và nhân tạo có quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh
hưởng tới đời sống sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và tự nhiên. Đó là một
hệ thống bao gồm các phần tử của thế giới vô sinh và hữu sinh hoạt động theo những qui
luật khác nhau và có con người tham dự.
Mục tiêu của quản lý môi trường
Mục tiêu chung, lâu dài và nhất quán của quản lý môi trường là nhằm góp phần
tạo lập sự phát triển bền vững. Đó là cách phát triển bền vững .Và được xem là một tiến
trình đòi hỏi sự tiến triển đồng thời của cả bốn lĩnh vực: Kinh tế, xã hội nhân văn, môi
trường và kỹ thuật với những mục tiêu cụ thể của từng lĩnh vực. Giữa bốn lĩnh vực này
có mối quan hệ tương tác rất chặt chẽ và hành động trong lĩnh vực này có thể thúc đẩy
các lĩnh vực khác phát triển


1.2.2 Nội dung của quản lý môi trường.
Quản lý môi trường được cần tiến hành ở các cấp,ở mọi quy mô: toàn cầu, khu vực,
quốc gia, tỉnh, huyện, cơ sở sản xuất, hộ gia đình,...bao gồm các nội dung sau đây:
+ Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường, ban
hành hệ thống tiêu chuẩn môi trường.
+ Xây dựng,chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách bảo vệ môi trường, kế hoạch
phòng – chống, khắc phục suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường.


+ Xây dựng, quản lý các công trình bảo vệ môi trường, công trình có liên quan đến
bảo vệ môi trường…..

1.2.3 Các nguyên tắc quản lý môi trường.
- Khái niệm.
Các nguyên tắc quản lý môi trường là các qui tắc chỉ đạo những tiêu chuẩn
hành vi mà các chủ thể quản lý phải tuân thủ trong suốt quá trình quản lý môi
trường.

1.3 Các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường
1.3.1 Khái niệm
Công cụ kinh tế là những chính sách nhằm thay đổi chi phí và lợi ích của những
hành động của hoạt động kinh tế thường xuyên xảy ra tác động tới môi trường, tăng
cường ý thức trách nhiệm trước việc gây ra huỷ hoại môi trường.Công cụ kinh tế sử dụng
sức mạnh thị trường để đề ra các quyết định nhằm đạt tới mục tiêu môi trường, từ đó sẽ
có cách ứng xử hiệu quả chi phí cho bảo vệ môi trường.

1.3.2. Các nguyên tắc
1.3.2.1 Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền (PPP).
Nguyên tắc PPP có nguồn gốc từ sáng kiến của tổ chức hợp tác kinh tế và phát

triển (OEDC) đề ra năm 1972 và 1974. PPP tiêu chuẩn năm 1972 cho rằng, những tác
nhân gây ô nhiễm phải trả mọi chi phí cho hoạt động kiểm soát và phòng chống ô
nhiễm.PPP “Mở rộng” năm 1974 chủ trương rằng, các tác nhân gây ra ô nhiễm thì ngoài
việc phải tuân thủ các chi phí khắc phục ô nhiễm gây ra còn phải chịu mọi khoản chi phí
để thực hiện các biện pháp làm giảm ô nhiễm do chính quyền tổ chức thực hiện, nhằm
khắc phục và hoàn trả.


1.3.2.2 Nguyên tắc người hưởng thụ phải trả tiền (BPP- Benefit pays principle ).
Nguyên tắc này chủ trương tạo lập một cơ chế nhằm đạt được các mục tiêu về môi
trường.Đối nghịch với việc trực tiếp gây ô nhiễm phải trả tiền, người hưởng thụ một môi
trường đã được cải thiện cũng phải trả một khoản chi phí. Nói cách khác là trong tất cả
những ai hưởng lợi do có được môi trường trong lành, không bị ô nhiễm thì đều phải nộp
phí.

1.3.3 Các công cụ kinh tế thường được sử dụng
1.3.3.1 Thuế tài nguyên.
Thuế tài nguyên là một khoản thu của ngân sách nhà nước đối với các doanh
nghiệp về việc sử dụng các dạng tài nguyên thiên nhiên trong quá trình sản xuất.

1.3.3.2. Côta gây ô nhiễm (Giấy phép xả thải có thể chuyển nhượng).
Côta gây ô nhiễm là một dạng giấy phép xả thải có thể chuyển nhượng mà thông
qua đó, nhà nước công nhận quyền các nhà máy, xí ngiệp… Được phép thải các chất ô
nhiễm vào môi trường.

1.3.3.3. Phí dịch vụ môi trường
Đây là một dạng chi phí phải trả khi sử dụng một số dịch vụ môi trường, mức phí
tương ứng với chi phí cho dịch vụ môi trường đó.Bên cạnh đó, chi phí dịch vụ môi
trường còn có mục đích hạn chế sử dụng quá các dịch vụ môi trường. Có hai dạng dịch
vụ môi trường chính và theo đó là 2 dạng phí phục vụ môi trường.


 Phí dịch vụ cung cấp nước sạch và xử lý nước thải.
 Phí dịch vụ thu gom chất thải rắn và rác thải.

1.3.3.5 Phí môi trường.
Phí môi trường được xem xét theo 2 nội dung: Phí đối với hoạt động khai thác
thành phần môi trường và phí đối với hoạt động gây ô nhiễm môi trường


1.3.3.6 Một số công cụ khác:
Ký quỹ trong hoạt động khai thác khoáng sản theo Quyết định số 71/2008/QĐTTg ngày 29/5/2008 của Thủ tướng Chính phủ. Ký quỹ môi trường đã đem lại những kết
quả bước đầu đáng khích lệ trong công tác kiểm soát ô nhiễm đối với các hoạt động khai
thác khoáng sản. Tuy nhiên, việc áp dụng công cụ này trên thực tế chỉ mới dừng lại các
dự án quy mô nhỏ hoặc còn ở giai đoạn thử nghiệm do công thức dự toán chi phí cải tạo,
phục hồi môi trường, chưa cụ thể, khó thực hiện

1.3.4 Thực tiễn sử dụng công cụ kinh tế của thế giới
- Kinh nghiệm từ các nước phát triển
- Kinh nghiệm từ các nước đang phát triển
1.4. Khái niệm làng nghề và phát triển làng nghề theo hướng bền vững
1.4.1 Khái niệm làng nghề truyền thống
Khái niệm làng nghề
Như vậy, có thể quan niệm rằng làng nghề là một cụm dân cư như làng, thôn, ấp,
bản, buôn, phum, sóc,... (gọi chung là làng) có sản xuất kinh doanh ngành nghề nông
thôn mà số hộ làm nghề và thu nh ập từ các nghề đó chiếm tỷ trọng cao
Khái niệm làng nghề truyền thống
Làng nghề truyền thống: là những thôn, làng làm nghề thủ công truyền thống có từ
lâu đời, qua nhiều năm, nhiều thế kỷ và các bí quyết của nghề được giữ bí mật và lưu
truyền từ đời này sang đời khác. Làng nghề truyền thống phải có các yếu tố sau: hình
thành và phát triển lâu đời; có nhiều nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề đông đảo; sử

dụng nguyên liệu trong nước là chủ yếu; sản phẩm mang tính truyền thống và độc đáo
của Việt Nam, có giá trị chất lượng cao, vừa là hàng hoá tiêu dùng, vừa là sản phẩm văn
hoá, nghệ thuật, mỹ thuật, thậm chí trở thành các di sản văn hoá của dân tộc, mang tính
bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam; là nghề nuôi sống phần lớn bộ phận dân cư của làng.
Thông tư 116/2006/TT-BNN quy định làng nghề truyền thống có nghề đã xuất hiện trên


50 năm, tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hoá dân tộc, nghềgắn với tên tuổi của
một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của làng nghề.

1.4.2 Sơ lược về đặc điểm, tình hình phát triển ở các làng nghề truyền thống
hiện nay
- Nguyên liệu cho sản xuất:
Nguyên vật liệu cho các làng nghề chủ yếu được khai thác ở các địa phương trong
nước.Nước ta có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, phong phú nông sản và thực vật, đồng
thời có nguồn khoáng sản phong phú, đa dạng trong đó có các loại vật liệu xây dựng. Do
đó, hầu hết các nguồn nguyên liệu vẫn lấy từ trực tiếp từ tự nhiên
- Công nghệ, thiết bị và cơ sở hạ tầng sản xuất
Hầu hết các cơ sở sản xuất nghề nông thôn, nhất là ở khu vực các hộ tư nhân vẫn
còn sử dụng các loại công cụ thủ công truyền thống hoặc cải tiến một phần. Trình độ
công nghệ còn lạc hậu, cơ khí hóa thấp, các thiết bị phần lớn đã cũ, sử dụng lại của các
cơ sở sản xuất công nghiệp quy mô lớn không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, an toàn và vệ
sinh môi trường
- Đặc điểm về lao động và tổ chức sản xuất
Với người lao động trực tiếp, thành phần đã tốt nghiệp phổ thông ở các cơ sở sản
xuất và các hộ chuyên chiếm hơn 70%; còn đối với các hộ kiêm và các hộ thuần nông,
lao động nghề chiếm từ 40 đến 70% mới tốt nghiệp cấp I và II, tỷ lệ hết cấp III chưa đến
20%. Đối với các chủ hộ và chủ doanh nghiệp, nhìn chung trình độ học vấn, chuyên môn
còn rất hạn chế
- Thị trường công nghệ

Mang một đặc tính riêng của các làng nghề. Các thợ thủ công có khả năng tạo ra các
công cụ sản xuất từ đơn giản đến phức tạp. Quá trình chuyên môn hóa sản xuất là động
lực cho ra đời các làng nghề chuyên chế tạo công cụ sản xuất cung ứng cho các làng nghề
- Thị trường tiêu thụ sản phẩm: Trước đây, về cơ bản thị trường này nhỏ hẹp, tiêu
thụ tại chỗ (các vùng nông thôn, các làng nghề) do đó giá thành cũng thấp. Từ khi nền
kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, cơ cấu kinh tế và quan hệ hệ sản xuất ở nông thôn


cũng dần thay đổi, điều này đã tác động mạnh mẽ đến tình hình sản xuất và kinh doanh
của các làng nghề, chúng dần thích ứng, đáp ứng các nhu cầu của một nền kinh tế mới
- Giá trị sản lượng các làng nghề: Trong thời gian qua, các làng nghề Việt Nam đã
có nhiều bước tiến mới trong quá trình phát triển. Các làng nghề đã tạo ra một khối lượng
hàng hóa lớn đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu
- Một số thách thức chủ yếu đối với các làng nghề hiện nay
Sự phát triển làng nghề và các làng nghề truyền thống đã góp phần thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trong giá trị sản xuất nông nghiệp, tăng
giá trị sản xuất công nghiệp và dịch vụ nông thôn, góp phần giải quyết việc làm cho
nhiều người lao động. Sản xuất tại các làng nghề đã tạo ra nhiều mặt hàng có giá trị kinh
tế cao, kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng mỗi năm; nhiều cơ sở sản xuất tại một số làng
nghề đã bước đầu khẳng định được uy tín chất lượng và thương hiệu hàng hoá của mình
đối với khách hàng trong nước và quốc tế

 Thứ nhất là nội lực của các làng nghề nói chung còn yếu, thể hiện:
 Thứ hai là khả năng cạnh tranh trên thị trường
 Ba là, phát triển các làng nghề hiện đang làm gia tăng ô nhiễm môi trường
- Hiện trạng quy hoạch :
Các làng nghề, đặc biệt là các làng nghề truyền thống hiện nay đang hết sức khó
khăn trong quy hoạch

1.4.3 Khái quát về ô nhiễm môi trường làng nghề Việt Nam hiện nay

Vấn đề môi trường mà các làng nghề đang phải đối mặt không chỉ giới hạn ở trong
phạm vi các làng nghề mà còn ảnh hưởng đến người dân ở vùng lân cận. Theo Báo cáo
môi trường quốc gia năm 2008 với chủ đề "Môi trường làng nghề Việt Nam", Hiện nay
“hầu hết các làng nghề ở Việt Nam đều bị ô nhiễm môi trường (trừ các làng nghề không
sản xuất hoặc dùng các nguyên liêu không gây ô nhiễm như thêu, may...)

CHƯƠNG 2


THỰC TRẠNG QUẢN LÝ,BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ TRUYỀN
THỐNG VÀ VIỆC ÁP DỤNG CÔNG CỤ KINH TẾ HIỆN NAY

2.1 Thực trạng quản lý bảo vệ môi trường làng nghề hiện nay
2.1.1 Công tác quy hoạch, tập trung các làng nghề còn gặp nhiều khó khăn
Thực tế những năm qua đẵ chỉ rõ vai trò quan trọng của sự phát triển làng nghề góp
phần vào quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đang diễn ra mạnh mẽ nói riêng và sự
nghiệp phát triển kinh tế - xă hội của đất nước nói chung. Điều đó thể hiện chủ trương
khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống của Đảng và Nhà nước ta là một hương đi
đúng đắn.Tuy nhiên chính sự phát triển của những làng nghề này cũng đă và đang phát
sinh ra nhiều vấn đề bức xúc ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển bền vững của các làng
nghề, cũng như sự phát triển kinh tế - xă hội của vùng nông thôn.

2.1.2 Các văn bản quy phạm pháp luật bảo vệ môi trường làng nghề chưa đồng
bộ và cụ thể
2.1.2.1 Một số văn bản đã được ban hành
Đơn cử như nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 07/07/2006 của thủ tướng chính
phủ về phát triển ngành nghề nông thôn có quy định một số nội dung liên quan đến
BVMT
- Một số địa phương cũng đã chú ý đến việc ban hành các văn bản liên quan nhằm
cụ thể hóa đường lối của Đảng và Nhà nước ở địa phương mình:


2.1.3 Tổ chức thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường còn yếu và chưa phát
huy hiệu quả.
Theo Tổ ng Cu ̣c môi trư ờng, sở dĩ nhiều cơ sở và cá nhân vi phạm, là do ý thức
tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường của nhiều cơ sở sản xuất, chủ đầu tư các khu
công nghiệp còn kém. Mặt khác, các cơ quan chức năng dư ờng như đã “bao bọc”, làm
ngơ trước những sai phạm.

2.1.4 Công tác phổ biến thông tin, nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường cho
cộng đồng làng nghề chưa được chú trọng


Mặc dù đã có một số biện pháp nâng cao nhận thức cho cộng đồng thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng như đài phát thanh, đài truyền hình baó đài trung
ương và địa phương, tuy nhiên có thể thấy công tác này chưa được chú ý thường
xuyên, kịp thời. vẫn còn nhiều chiến dịch tuyên truyền, hoạt động theo phong trào mà
chưa đi vào bề sâu thực chất.

2.1.5 Nguồn nhân lực, tài chính và công nghệ cho Bảo vệ môi trường làng nghề
không đáp ứng nhu cầu hiện nay
Lực lượng cán bộ làm công tác môitrường các cấp còn quá mỏng về
sốlượng và hạn chế về trình độ. Nhân lực quản lý môi trường từ trung ương tới cấp tỉnh,
huyện, xã, thôn hiện nay chưa đủ về số lượng, thiếu người chuyên trách về môi
trường làng nghề và không được đào tạo một cách bài bản.

2.1.6 Chưa huy động được đầy đủ các nguồn lực xã hội trong Bảo vệ môi trường
làng nghề
Tiềm năng của cộng đồng trong Bảo vệ môi trường vẫn chưa được phát huy đầy
đủ sự tham gia của cộng đồng vào các quá trình đóng góp ý kiến ra quyết định,
hoạch định chính sách và các hoạt động quản lý môi trường làng nghề vẫn còn

nhiều hạn chế

2.2. Thực trạng sử dụng công cụ kinh tế trong bảo vệ làng nghề truyềnthống
hiện nay.
Tại nhiều nước, các công cụ kinh tếnhư phí Bảo vệ môi trường đối với nước thải,
khí thải, chất thải rắn là công cụ kinh tế quan trọng trên nguyên tắc “người gây
ônhiễm phải trả tiền” đã góp phần làm thay đổi ý thức và hành vi của các chủ cơ sở sản
xuất. Tại nước ta đặc biệt là trong các làng nghề truyền thống thì việc đưa công cụ kinh tế
vào áp dụng trong bảo vệ môi trường chưa được thực hiện phổ biến và mới chỉ sử dụng
một số giải pháp cơ bản.


CHƯƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG ĐẨY MẠNH ÁP DỤNG CÔNG
CỤ KINH TẾ TRONG BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG

3.1 Yêu cầu cần thiết của việc đẩy mạnh sử dụng công cụ kinh tế trong bảo vệ
môi trường làng nghề truyền thống
3.1.1 Xuất phát từ yêu cầu bức thiết của làng nghề
Ô nhiễm môi trường do sản xuất và hoạt động xã hội gây ra bao giờ cũng
gây ra các thiệt hại kinh tế dù lớn hay nhỏ. Xét riêng về ô nhiễm do sản xuất ở các làng
nghề nước ta hiện nay, các thiệt hại kinh tế chủ yếu là:
- Ô nhiễm môi trường làng nghề gây tác hại xấu tới sức khoẻ người lao động và
cộng đồng dân cư
- Ô nhiễm môi trường không khí làng nghề, đặc biệt là khí thải từ các lò nung
gạch ngói, nung vôi thủ công, làm giảm năng suất sản xuất nông nghiệp đối với các
đồng ruộng, vườn tược xung quanh
- Ô nhiễm môi trường làng nghề làm giảm sức thu hút đối với du lịch, giảm
lượng khách du lịch và dẫn đến các thiệt hại về kinh tế


3.1.2 Xuất phát từ cơ sở pháp lý để áp dụng công cụ kinh tế trong bảo vệ môi
trường ở Việt Nam.
3.1.3 Xuất phát từ xu thế tất yếu của thế giới
Từ kinh nghiệm của các nước OECD và một số nước đang phát triển đã cho chúng
ta thấy. Nếu như vài ba thập kỷ trước đây, các công cụ kinh tế nhất là các biện pháp thị
trường còn chưa hề được các nước OECD chú ý, thậm chí thị trường còn bị coi là “Kẻ
thù của môi trường”, thì nay nhờ các ưu thế về hiệu quả linh hoạt và mềm dẻo.

3.2 Thuận lợi và khó khăn và hiệu quả kinh tế khi áp dụng công cụ kinh tế
vào trong bảo vệ môi trường làng nghề


3.2.1 Thuận lợi
Do còn hạn chế về nguồn tài chính cũng như kỹ thuật, công nghệ nên khi áp dụng
công cụ kinh tế trong việc bảo vệ môi trường đôí với các doanh nghiệp thì các doanh
nghiệp này vẫn có khả năng thực hiện được việc sản xuất kinh doanh
Tính ưu việt của công cụ kinh tế là chúng không những đưa ra con số giới hạn tổ
chức cho các quyết định về môi trường, mà còn cho phép định lượng riêng biệt từng
trường hợp một cách linh hoạt, trong khi vẫn đảm bảo được yêu cầu chung về chất lượng
môi trường cho toàn khu vực.

3.2.2 Khó khăn
Quản lý môi trường là một lĩnh vực mới xuất hiện trong những năm đổi mới trở lại
đây đặc biệt là áp dụng với mô hình làng nghề.Vì vậy khi áp dụng các công cụ kinh tế
vào thực tiễn còn bộc lộ nhiều thiếu sót, không đáp ứng được thực tiễn đòi hỏi.Chúng ta
chưa có tính chiến lựơc có tính dài hạn, kế hoạch giải quyết cho từng giai đoạn phát triển
kinh tế- xã hội. Nghĩa là công tác quản lý môi trường chưa trở thành một công tác có tính
kế hoạch hoá, đây là một khó khăn cơ bản cho việc áp dụng các công cụ kinh tế vào quản
lý và bảo vệ môi trường ở nước ta
Sự thiếu vắng thị trường, thiếu sự cạnh tranh hoàn hảo: Do môi trường cạnh tranh

phức tạp, sản phẩm sản xuất ra của các làng nghề không đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng
trong nước, đặc biệt là nước ngoài nên giá thành sản phẩm thường không đạt được như
mong muốn, giá thành bán thấp, lợi nhuận không cao. Do đó để đảm bảo được lợi ích
kinh tế cũng như duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh thì các cơ sở sản xuất thường tối
giản hóa các chi phí đặc biệt là chi phí cho bảo vệ môi trường nhiều nơi không hề quan
tâm, và như vậy việc áp dụng, thực hiện các công cụ kinh tế rất khó đạt được hiệu quả
cao.
Thiếu quyền sở hữu đối với tài nguyên môi trường: Hầu hết các văn bản pháp quy
đều chưa xác lập một cách rõ ràng về quyền sở hữu và quyền sử dụng lâu dài và ổn định
các nguồn tài nguyên như đất, rừng và đất rừng và các loại tài nguyên thiên nhiên khác,
bảo vệ một cách có hiệu quả các nguồn này. Do vậy các làng nghề họ chỉ biết sản xuất
dựa trên tài nguyên, đất đai mà không tạo ra ý thức bảo vệ, giữ gìn.


Những bất cập trong hệ thống kế toán quốc gia: Chưa có sự ổn định nền kinh tế vĩ
mô và chính sách kinh tế vĩ mô, thị trường vốn, điều kiện hoạt động của doanh nghiệp,
đặc biệt là nguồn tài chính để đổi mới công nghệ của doanh nghiệp còn hạn chế, vì vậy
mà việc chủ động bảo vệ môi trường khó được thực hiện, thậm chí không thực hiện được.
Do mức thu nhập còn thấp nên việc đánh thuế, phí (áp dụng các công cụ kinh tế) đối
với hành vi gây ô nhiễm môi trường không cao, thậm chí không thoả đáng, đủ ý nghĩa đối
với các đối tượng chịu thuế, phí, từ đó ý thức bảo vệ môi trường không cao dẫn đến việc
áp dụng các công cụ kinh tế không đạt hiệu quả cao

3.2.3 Hiệu quả kinh tế
Chúng ta biết rằng, mục tiêu chủ yếu của việc sử dụng các công cụ kinh tế là nhằm
đạt được một sự liên kết hữu hiệu giữa các chính sách kinh tế và chính sách môi trường.
Mặc dù công cụ kinh tế đã được phát hiện và ứng dụng đầu tiên ở các nước công nghiệp
phát triển OECD, song chúng cũng có thể mang lại lợi ích cho các nước đang phát triển
và các nước đang chuyển đổi nền kinh tế như Việt nam. Cải cách kinh tế đang được tiến
hành theo cả chiều rộng và chiều sâu ở Việt nam là cơ hội rất thuận lợi cho việc sử dụng

các công cụ kinh tế vào quản lý môi trường một cách có hiệu quả hơn so với các qui chế
mang tính chất mệnh lệnh và kiểm soát
+ Khi áp dụng các công cụ kinh tế cho quản lý môi trường trong nền kinh tế thị
trường như ở Việt nam có thể tránh được suy thoái môi trường do sự thất bại thị trường
gây ra, chẳng hạn như giá không phản ánh đầy đủ các giá trị môi trường. Ngoài ra cũng
có thể tránh được suy thoái môi trường do sự can thiệp không hợp lý, quá mức, do sự yếu
kém trong khâu quản lý của nhà nước.
+ Sử dụng công cụ kinh tế sẽ đảm bảo được tính bình đẳng giữa các thành phần kinh
tế, thông qua hệ thống thuế/phí trên cơ sở chi phí cận biên, lợi ích cận biên...
+ Thông qua các công cụ kinh tế sẽ kết hợp được hài hoà giữa các chức năng tăng
thu nhập ngân sách và chức năng khuyến khích nhằm bảo vệ môi trường.
+ Các công cụ kinh tế tạo ra sức hút mạnh mẽ đối với người gây ô nhiễm, vì chúng
mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với những qui định có tính pháp lý trong điều hành
và kiểm soát CAC.


+ Công cụ kinh tế hướng tới sức mạnh của thị trường để xác định việc lựa chọn
công nghệ có chi phí thấp nhất. Điều đó là vô cùng quan trọng vì nước ta đang trong quá
trình Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước nên nguồn tài chính rất là eo hẹp.
+ Thực hiện dễ dàng và đạt được kết quả nhanh chóng: so với các công cụ pháp
lý thì việc sử dụng công cụ kinh tế mang lại kết quả nhanh hơn và hiệu quả cao hơn.
Đồng thời các doanh nghiệp và cộng đồng dễ dàng chấp nhận hơn do quá trình tiến hành
đơn giản, thuận tiện, chi phí không cao phù hợp với khả năng của đối tượng thực hiện.
Các thủ tục hành chính đơn giản, tiện lợi và tạo được sự chủ động cho các doanh nghiệp
tiến hành sản xuất

3.3 Các giải pháp tăng cường đẩy mạnh sử dụng công cụ kinh tế
3.3.1 Những giải pháp có tính chiến lược
Để đảm bảo cho việc phát triển của các làng nghề truyền thống được bền vững, cần
có một số biện pháp hữu hiêu nhằm bảo vệ môi trường của các làng nghề về các mặt tổ

chức quản lý, khoa học kỹ thuật, kinh tế – tài chính.
- Nhà nước cần có những chính sách cụ thể trong việc thưởng, phạt về môi trường,
đặc biệt là các vấn đề về bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả…, vấn đề về quỹ môi
trường cần phải đầu tư thích đáng, quản lý thu chi đúng quy định và phù hợp sao cho có
hiệu quả, phải chi ngân sách nhiều hơn nữa cho công tác quản lý và bảo vệ môi trường.
Trên cơ sở Chiến lược bảo vệ môi trường làng nghề đến năm được trung ương
thông qua và được nhà nước phê duyệt, cần phải có chương trình kế hoạch trong từng
giai đoạn với phương châm là vừa phải đảm bảo cho phát triển kinh tế, vừa phải bảo vệ
và cải thiện môi trường từng bước

3.3.2 Những giải pháp cần thiết:
- Các địa phương cần đầu tư vào hệ thống cấp thoát nước của các làng nghề đặc biệt
quan trọng nhất là ở các khu vực làng nghề có số lượng dân cư và cơ sở lớn.
- Cùng với tuyên truyền, giáo dục ý thức bảo vệ môi trường trong toàn dân và trên
các phương tiện thông tin đại chúng. Để tăng cường việc thu gom và xử lý rác thải cần có
một hệ thống thu phí thích hợp nhằm giải quyết cơ bản vấn đề chất thải rắn hiện nay.
Chúng ta nên thu phí theo đầu người trong các hộ gia đình,các cơ sở sản xuất và ký hợp


đồng với các doanh nghiệp thu gom rác thải. Đây chính là nền tảng của việc áp dụng
công cụ kinh tế vào bảo vệ môi trường làng nghề vì nó là phương pháp phù hợp nhất có
thể hiện nay.

3.3.3 Giải pháp quản lý và phối hợp sự tham gia của cộng đồng
- Nâng cao năng lực quản lý môi trường
Trước tiên cần nâng cao năng lực của đội ngũ quản lý môi trường cho địa phương.
Nhanh chóng thiết lập được một hệ thống quản lý môi trường của xã mang tính chuyên
trách thay cho kiêm nghiệm như hiện nay vì đa số các làng nghề tập trung ở các xã.
- Cần nâng cao vai trò và tích cực phối hợp sự tham gia của cộng đồng trong vấn
đề bảo vệ môi trường làng nghề:

Cộng đồng làng nghề là những người trực tiếp tham gia sản xuất, cũng là tác nhân
cơ bản nhất gây ô nhiễm môi trường, đồng thời lại là những người phải gánh chịu trực
tiếp hậu quả của việc ô nhiễm. Do đó, cộng đồng có vai trò quan trọng và quyết định đối
với vấn đề nâng cao năng lực sản xuất và bảo vệ môi trường. Có thể nói ở đây đang tồn
tại một mâu thuẫn: Đó là giữa nhận thức về hiện trạng môi trường và hành động nhằm
bảo vệ môi trường của cộng đồng.Đây là một yếu tố vô cùng quan trọng trong việc có thể
duy trì bảo vệ làng nghề trước sự tàn phá của ô nhiễm hiện nay.Người dân dĩ nhiên rất
không muốn môi trường sinh sống của mình bị ô nhiễm và tàn phá ngày càng trầm trọng
như hiện nay. Song họ cũng không thể hoàn toàn bỏ công việc sản xuất tại các cơ sở, hộ
kinh doanh được vì đấy là một nguồn thu không thể thiếu thậm chí là nguồn thu chính
của họ. Chính vì vậy để có thể bảo đảm được mục tiêu vừa phát triển làng nghề, vừa bảo
vệ môi trường thì sự thông suốt, ủng hộ của người dân là vô cùng quan trọng. Chỉ có tạo
được sự đồng thuận đến từ người dân thì dung giải pháp nào đi chăng nữa cũng sẽ đem
lại kết quả lớn. Đặc biệt việc áp dụng các giải pháp mang tính kinh tế thì với nguồn ngân
sách hạn hẹp hiện nay của chúng ta sẽ không bao giờ có thể đảm bảo tốt được.Chỉ có thể
nhận được sự đóng góp của người dân thì các chính sách, giải pháp mới đi được vào mục
tiêu và đạt hiệu quả.
Cách thức để thực hiện giải pháp:
+ Cần nâng cao nhận thức của người dân: Qua khảo sát thấy rằng, người dân nhận biết
được môi trường đang ô nhiễm, song lại chưa ý thức được đầy đủ những hậu quả của nó nên


chưa có những hành động giảm thiểu ô nhiễm, bảo vệ môi trường. Vì vậy, cần tích cực giáo
dục môi trường cho cộng đồng với nội dung chính:
+ Lên kế hoạch và lồng ghép thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường cho cộng
đồng làng nghề, với các nội dung chính gồm:
- Giữ gìn vệ sinh sạch sẽ nơi ở, nơi sản xuất cũng như đường làng, ngõ xóm.
- Thu gom rác đúng nơi quy định của địa phương, không vứt rác bừa bãi ra các nơi
công cộng.
- Vận động người dân tham gia các chương trình sử dụng nước sạch và vệ sinh môi

trường nông thôn (nạo vét, khơi thông kênh mương, cống rãnh; dọn vệ sinh đường phố
định kỳ;…)
- Trong quá trình sản xuất, có kế hoạch tận thu các sản phẩm phụ để tái sản xuất,
vừa tăng thu nhập, vừa giảm nguồn thải.
- Người sản xuất cần nâng cao ý thức tôn trọng vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm,
chú ý tới việc “sản xuất sạch hơn”, vừa nâng cao uy tín, chất lượng sản phẩm, vừa bảo vệ
môi trường. Như vậy là tự bảo vệ cho sức khỏe của mình, cộng đồng làng nghề cũng như
người tiêu dùng sản phẩm…
+ Việc giáo dục môi trường cho người dân có thể tiến hành đa dạng dưới mọi hình
thức:
- Tuyên truyền qua chương trình phát thanh của xã, qua các cuộc thi tìm hiểu về sản
xuất và môi trường; có thể lồng ghép với các dịp lễ hội (trung thu, tết nguyên đán…); và
nên kết hợp giáo dục cho học sinh ngay tại trường học các cấp của xã qua các buổi học
ngoại khóa, các cuộc thi viết, thi thuyết trình;
+ Đội ngũ đi đầu trong chương trình giáo dục này chính là đội ngũ quản lý môi
trường, đội ngũ thanh thiếu niên của xã, và phối hợp với tất cả các ban ngành khác. (Hội
phụ nữ, cựu chiến binh, hợp tác xã, hội người cao tuổi…).

3.3.4 Một số giải pháp khác
3.4 Kiến nghị - đề xuất
- Đề xuất, xây dựng một số chính sách của Nhà nước cũng như các cấp ngành có
liên quan:


 Cho người dân vay vốn đầu tư công nghệ nhằm nâng cao năng suất và giảm thiểu
chất thải cũng như sử dụng vốn để đầu tư các thiết bị xử lý chất thải sơ bộ.
 Có những chính sách hỗ trợ người sản xuất trong việc quảng bá, tạo thương
hiệu sản phẩm trên thị trường.



Có những bộ phận chuyên trách về kiểm định chất lượng sản phẩm cũng như

kiểm định nguồn thải để có những căn cứ cho việc thực hiện các chính sách thưởng –
phạt đối với những hộ có thành tích tốt hoặc vi phạm. Đó đồng thời là cơ sở giúp cho các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các chế tài của Luật bảo vệ môi trường.
 Nhà nước và các cấp có thẩm quyền cần nghiên cứu, sâu sát thực tế để ngày
càng hoàn thiện hơn bộ Luật BVMT và bộ máy quản lý môi trường từ tất cả các cấp. Các
hình thức xử phạt đối với các hành vi vi phạm cũng cần được thắt chặt, nghiêm minh
hơn, có tính chất răn đe triệt để hơn.
Ngay tại địa phương, các cơ quan, các ban - hội cũng cần có những người nhiệt huyết
hơn, trách nhiệm hơn đối với công tác bảo vệ môi trường của chính làng nghề thông qua các
chương trình hoạt động cụ thể, thường xuyên, vì hơn ai hết họ hiểu tường tận các hoạt động
diễn ra hàng ngày tại làng nghề và những gì còn tồn đọng.


NHỮNG ĐÓNG GÓP VÀ HẠN CHẾ CỦA LUẬN VĂN
Những đóng góp của luận văn.
Thứ nhất, luận văn đã nghiên cứu và cho thấy những điểm chưa đạt được của
các công trình nghiên cứu trước, từ đó khắc phục, bổ sung thêm cho hoàn thiện trong việc
đưa ra các giải pháp sử dụng công cụ kinh tế
Thứ hai, cũng giống như các nghiên cứu khác, Luận văn đã tổng hợp và trình
bày được hệ thống các lý luận khoa học về Công cụ Kinh tế và quản lý môi trường trong
bảo vệ môi trường làng nghề
Thứ ba, nhận thức được tầm quan trọng của việc phải xây dựng một môi
trường làng nghề bền vững với nền tảng áp dụng các giải pháp về công cụ kinh tế. Từ đó
nhấn mạnh việc sử dụng các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường nói chung và môi
trường làng nghề nói riêng là vô cùng quan trọng và cần thiết
Thứ tư, từ những cơ sở phân tích đã trình bày, Luận văn đã áp dụng vào để đưa
ra những giải pháp, kiến nghị đối với các nhà quản lý trong việc đảm bảo môi trường và
kinh tế luôn song hành hỗ trợ lẫn nhau

Hạn chế của luận văn
Trong quá trình nghiên cứu, Luận văn vẫn tồn tại một số điểm hạn chế, ảnh hưởng
đến những nhận định của tác giả. Những hạn chế này chủ yếu là do yếu tố khách quan mà
Luận văn chưa thể thực hiện được nhưng cũng một phần do yếu tố chủ quan từ năng lực
và nguồn lực hiện có.
Thứ nhất, để có thể phân tích và đưa ra những nhận định chính xác cần phải thu
thập được nguồn thông tin đầy đủ trong nhiều năm của việc áp dụng công cụ kinh tế vào
trong thực tế các làng nghề
Thứ hai, nguồn thông tin chính mà Luận văn sử dụng để phân tích là các báo cáo
Kinh tế, môi trường nhưng những số liệu trên báo cáo chỉ là con số thời điểm
Thứ ba, ở Việt Nam hiện ra có rất nhiều các làng nghề nhưng nhiều làng nghề rất
nhỏ và không phải làng nghề nào cũng giống nhau do sự khác biệt về hoàn cảnh, địa
hình, dân số, trình độ… Do đó dù mục đích của luận văn là muốn đưa ra được các giải
pháp cho áp dụng công cụ kinh tế thì vẫn rất cần có sự nghiên cứu kỹ lưỡng và cẩn trọng
đến các làng nghề cụ thể


KẾT LUẬN

Môi trường là một trong những vấn đề toàn cầu của thời đại. Nó là mối quan tâm
trung của toàn nhân loại, đồng thời cũng là đối tượng nghiên cứu của nhiều nghành khoa
học. Nó đóng vai trò quan trọng, có tính chất quyết định đối với sự tồn tại và phát triển
của nhà chức trách và sự sống của con người.Đặc biệt trong giai đoạn phát triển kinh tế
diễn ra nhanh và mạnh mẽ như hiện nay.Không chỉ là vấn đề đối với các khu vực dân
cư,khu công nghiệp...mà đây là vấn đề nhức nhối đối với khu vực làng nghề truyền thống
tại các địa phương.
Để hướng tới một sự phát triển bền vững các quốc gia đều phải cân nhắc, tính toán,
xem xét cân bằng cả ba mục tiêu là Kinh tế- Xã hội và Môi trường. Ba mục tiêu này có
quan hệ mật thiết với nhau, ràng buộc và qui định lẫn nhau. Phát triển kinh tế xã hội
nhằm thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất của con người trên cơ sở nâng cao

không ngừng tính hiệu quả, đảm bảo tính ổn định, vững chắc. Việt Nam bước vào một
thời kỳ phát triển mới –Thời kỳ Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước. Đó là yêu cầu
tất yếu, khách quan và bức xúc nhằm đưa nước ta từ một nước nghèo, lạc hậu trở thành
một nước công nghiệp tiên tiến. Tuy nhiên, tình trạng môi trường nước ta ngày càng bị ô
nhiễm và suy thoái đặc biệt là tại các làng nghề truyền thống. Do vậy,để đạt được mục
tiêu phát triển bền vững, hướng tới một xã hội bền vững trong tương lai thì ngay từ đầu
và trong suốt quá trình phát triển, phải kết hợp chặt chẽ – hài hoà giữa quản lý tài nguyên
và môi trường với quản lý kinh tế, quản lý xã hội thông qua việc hoạch định chính sách
và chiến lược phát triển đúng đắn có tầm quan trọng bao quát và có tính tổng hợp, bảo vệ
môi trường trở thành mối quan tâm đặc biệt của toàn xã hội.
Nhà nước Việt nam có đầy đủ điều kiện, pháp lý và điều kiện thực tế để tiến hành
công việc này. Suy cho cùng thì quản lý nhà nước về môi trường cũng là một trong
những lĩnh vực của quản lý nhà nước. Nhà nước xác định rõ mục đích, nguyên tắc và nội
dung quản lý môi trường, hướng tới hành vi sử sự của con người trong việc gìn giữ và


làm trong sạch môi trường sống, làm cân bằng hiện trạng môi trường; Thiết lập một hệ
thống các cơ quan quản lý từ trung ương (TW) đến địa phương; Qui định cơ cấu, chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn cũng như xác định hình thức và phương pháp hoạt động
của các cơ quan này để có thể giúp nhà nước tiến hành được hoạt động quản lý môi
trường trên thực tế. Xuất phát từ tính bảo vệ cộng đồng, tính phổ biến của hoạt động bảo
vệ môi trường, nhà nước cần qui định trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân khác trong
việc hỗ trợ nhà nước thực hiện chức năng quản lý môi trường của mình. Trên cơ sở phân
tích và đánh giá về thực tiễn phát triển, tôi xin đề nghị đối với việc áp dụng một số công
cụ kinh tế trong quản lý,bảo vệ môi trường ở các làng nghề truyền thống nói riêng và
Việt nam nói chung. Đối với bất cứ một công cụ nào có liên quan đến túi tiền của cá nhân
hay tổ chức mà mong muốn đạt hiệu quả thì các công cụ hay chính sách đó phải phù hợp
với thực tế, đúng với luật môi trường mà nhà nước Việt nam đã đưa ra. Các cơ quan
chuyên trách, các nhà chức trách phải đi sát với cuộc sống của người dân thì mới có thể
đưa ra các mức xử phạt, khen thưởng hợp lý đối với công tác bảo vệ môi trường từ đó thì

mới có thể góp phần cải thiên môi trường.Chính vì vậy việc đưa vào áp dụng các công cụ
kinh tế trong tương lai sẽ là một giải pháp phù hợp cũng như đạt được hiệu quả cao.



×