Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của hiệp hội ngành hàng xuất khẩu tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.67 KB, 20 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG


PHẠM THỊ MINH HƯƠNG

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG CỦA HIỆP HỘI NGÀNH HÀNG
XUẤT KHẨU TẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành : KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. BÙI THỊ LÝ

HÀ NỘI 2006


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra cho các quốc gia cả cơ hội lẫn thách thức.
Ngoài những cơ hội nhƣ thông qua quá trình hội nhập các nƣớc có thể tranh thủ thời
cơ tận dụng những yếu tố bên ngoài để rút ngắn giai đoạn phát triển, phát huy tối ƣu
những lợi thế so sánh của mình trong phân công lao động và hợp tác quốc tế, thì
thách thức đặt ra là phải làm thế nào để nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm phát
triển xuất khẩu. Nếu chỉ có riêng sự quản lý và điều hành của Chính phủ đối với nền


kinh tế của mỗi quốc gia thì chƣa đủ và sẽ còn nhiều trì trệ, bất cập. Do đó cùng với
sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại là sự tham gia ngày càng
sâu rộng của các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực vào việc kiểm soát và điều tiết
hoạt động kinh tế trên pham vi toàn cầu, các tập đoàn xuyên quốc gia, các Hiệp hội
kinh tế cũng đang phát triển và trở thành những nhân tố thúc đẩy thiết lập một trật
tự mới trong bức tranh kinh tế thế giới.
Trong mỗi quốc gia, sự tham gia của các tổ chức dân sự, các tổ chức Hội
hoặc Hiệp Hội, các tổ chức phi Chính phủ, các Hiệp hội ngành hàng kinh tế ngày
càng nhiều vào các hoạt động xã hội. Với tính chất đặc trƣng là tự nguyện, phi
Chính phủ và phi lợi nhuận, nhằm thực hiện mục tiêu là tập hợp các doanh nghiệp
để bảo vệ quyền lợi cho chính họ và thúc đẩy phát triển nhằm nâng cao năng lực
cạnh trạnh của các doanh nghiệp thành viên nên các Hiệp hội ngành hàng ngày càng
thu hút đƣợc sự quan tâm của Chính phủ cũng nhƣ cộng đồng các doanh nghiệp.
Hiệp hội ngành hàng đang dần trở thành một mô hình phổ biến và là một hình thức
liên kết hiệu quả trong xu hƣớng liên kết của các nền kinh tế hiện đại.
Với bản chất ƣu việt của Hiệp hội trong việc bảo vệ quyền lợi của doanh
nghiệp và nâng cao sức cạnh tranh, những năm gần đây số các Hiệp hội ngành hàng
ở nƣớc ta ngày một tăng lên ở nhiều lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Tuy nhiên do còn
mới mẻ và thiếu kinh nghiệm quản lý cũng nhƣ sự quan tâm và chỉ đạo của Nhà
nƣớc còn nhiều bất cập nên đã hạn chế không nhỏ tới vai trò của các Hiệp hội.Tham
khảo sự hình thành và phát triển Hiệp hội ngành hàng và vai trò của nó ở một số
nƣớc nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cũng nhƣ nghiên cứu đánh giá thực trạng
hoạt động của các Hiệp hội ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam nhằm đề


2

xuất các giải pháp để nâng cao vai trò của nó là mục tiêu hết sức cần thiết trong xu
thế hội nhập hiện nay. Đó chính là lý do mà vấn đề: “MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HIỆP HỘI NGÀNH HÀNG XUẤT KHẨU TẠI

VIỆT NAM” đƣợc chọn làm đề tài luận văn thạc sỹ này.

2. Tình hình nghiên cứu
Do mô hình Hiệp hội ngành hàng đƣợc hình thành chƣa lâu ở Việt Nam nên
chƣa có những nghiên cứu một cách bài bản về vấn đề này. Hiện nay đƣợc sự quan
tâm của Chính phủ và các Bộ, ngành cũng nhƣ các doanh nghiệp nên mới chỉ có
một số công trình nghiên cứu về Hiệp hội ở giai đoạn triển khai. Cụ thể là một số
công trình sau:
- Hội thảo khoa học: Nâng cao vai trò của Hiệp hội ngành hàng. Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam, 29/6/2004
- Hội thảo “Đổi mới tổ chức và phƣơng thức hoạt động của Hiệp hội các tổ
chức kinh tế trong thời kỳ đổi mới” – Hội thảo khoa học liên Bộ, Phòng thƣơng mại
và Công nghiệp Việt Nam và Bộ nội vụ.
- Tổng hợp thực trạng hoạt động của các Hiệp hội- Báo cáo của Bộ nội vụ, 2005.
- Đối thoại chính sách giữa Hiệp hội doanh nghiệp và chính quyền địa
phƣơng ở Việt Nam- Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam- Trần Hữu
Huỳnh.
- Giải pháp nâng cao năng lực hoạt động của các Hiệp hội ngành hàng nhằm
đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế Quốc
tế- Viện nghiên cứu thƣơng mại- PGS.TS Nguyễn Văn Nam
- Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Hiệp hội ngành hàng trong thúc
đẩy hoạt động xuất khẩu cho các doanh nghiệp. Báo cáo tại Hội thảo khoa họcPhòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam, 3/2004.
- Các Hiệp hội doanh nghiệp - thực trạng và giải pháp phát triển- Vũ Tiến
Lộc- Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam
Các đề tài trên chỉ mang tính chất hội thảo hoặc chƣa chuyên sâu nhằm đặt ra
tình huống để làm tiền đề cho các nghiên cứu chuyên sâu sau này. Luận văn này là
nghiên cứu tiếp bƣớc nhằm tăng cƣờng vai trò định hƣớng và hỗ trợ doanh nghiệp của
các Hiệp hội ngành hàng trong việc nâng cao sức cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu.


3


3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích để làm rõ vai trò quan trọng của các Hiệp hội ngành
hàng trong việc thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu trong và ngoài
nƣớc và đánh giá thực trạng tại Việt Nam, đề tài rút ra các kinh nghiệm cũng nhƣ
nêu ra các giải pháp nhằm tạo tiền đề cho định hƣớng phát triển của các Hiệp hội
ngành hàng.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ vai trò, nhiệm vụ của các Hiệp hội ngành hàng trong việc hỗ trợ
các doanh nghiệp thành viên.
- Đánh giá thực trạng và năng lực của các Hiệp hội ngành hàng trong việc hỗ
trợ và nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu tại Việt Nam,
những thành công cùng những hạn chế và các nguyên nhân.
- Đề xuất các giải pháp nhằm phát huy hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội
ngành hàng xuất khẩu tại Việt Nam.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: Hoạt động của các Hiệp hội ngành hàng ở trong và
ngoài nƣớc .
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu các Hiệp hội
ngành hàng có triển vọng xuất khẩu lớn và chủ lực của Việt Nam, hoạt động của nó
cũng nhƣ đề ra các giải pháp trong thời gian tới.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Sử dụng lý luận về các Hiệp hội cũng nhƣ vai trò và chức năng của nó.
- Thu thập và xử lý (phân tích, tổng hợp) các thông tin, dữ liệu về thực
trạng hoạt động của các Hiệp hội ngành hàng trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp
- Tham khảo có chọn lọc các công trình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc về
các vấn đề có liên quan tới các Hiệp hội ngành hàng.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chƣơng
nhƣ sau:



4

Chƣơng 1: Một số lý luận chung về hiệp hội ngành hàng
Chƣơng 2: Thực trạng hoạt động của các hiệp hội ngành hàng ở Việt Nam
trong thời gian qua
Chƣơng 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các hiệp
hội ngành hàng xuất khẩu tại Việt Nam.


5

CHƢƠNG 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆP HỘI NGÀNH HÀNG
1.1 KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA HIỆP HỘI NGÀNH HÀNG

1.1.1 Khái niệm về Hiệp hội ngành hàng
1.1.1.1 Khái niệm Hội
Theo nhiều nhà xã hội học quốc tế, Hội ra đời khi con ngƣời ý thức đƣợc sức
mạnh tập thể, sức mạnh của sự hợp tác với nhau giữa các nhóm ngƣời, giữa các
cộng đồng ngƣời. Sự phát triển của Hội gia tăng và phong phú theo trình độ phát
triển của xã hội loài ngƣời và nhu cầu ngày càng cao, càng đa dạng của các tầng lớp
dân cƣ trong xã hội. Xã hội không phó mặc cho Nhà nƣớc và thị trƣờng việc điều
hành đời sống kinh tế xã hội. Trong xã hội hiện đại, xây dựng nền kinh tế thị
trƣờng, củng cố tính hiệu quả của Nhà nƣớc và phát triển các đoàn thể, Hội là quá
trình diễn ra đồng thời, làm tiền đề cho nhau và quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong
bất cứ quốc gia nào, các đoàn thể, các Hội đều đóng vai trò quan trọng, là cơ chế
đảm bảo sự phát triển của xã hội và tạo ra nguồn vốn xã hội. Do đó có thể chia xã
hội thành ba khu vực riêng biệt là: Nhà nƣớc, thị trƣờng và xã hội dân sự và Hội là

một tổ chức nằm trong xã hội dân sự đó.
Tìm hiểu về Hội ở một số nƣớc có Hội phát triển mạnh nhƣ Mỹ, Pháp, Liên
Xô cũ thì Hội có một số khái niệm sau:
- Hội là tập hợp một nhóm ngƣời gặp gỡ nhau vì những mục đích chung (Từ
điển Mỹ)
- Hội, Hiệp hội là khế ƣớc giữa hai, nhiều ngƣời cùng góp kiến thức hoặc
hành động một cách thƣờng xuyên để đạt đƣợc mục đích nào đó khác sự chia lời
(Bộ luật về Hiệp hội ngày 1-7-1901 của Pháp).
- Từ điển Chủ nghĩa xã hội khoa học Nhà xuất bản Tiến bộ Mátxcơva và Nhà
xuất bản Sự thật, Hà Nội 1986 cho rằng: Hội là những tổ chức liên hợp tự nguyện
của công dân xây dựng theo nguyên tắc tự quản và chủ động nhằm bảo vệ lợi ích
của những tập đoàn nhất định trong nhân dân nhƣ các tập đoàn xã hội – nghề


6

nghiệp, xã hội- nhân khẩu hoặc các tập đoàn liên hợp lại với nhau chỉ cùng có
chung những mục tiêu này hoặc những mục tiêu khác và những lợi ích nhƣ nhau.
- Theo từ điển tiếng Việt, Hội là tổ chức của những ngƣời cùng nghề nghiệp,
cùng sở thích hay cùng chính kiến, tự nguyện và tập hợp lại để tiến hành các hoạt
động kinh tế nhƣ buôn bán, sản xuất, kinh doanh hoặc các hoạt động văn hoá, xã
hội hay chính trị đƣợc thành lập theo thể thức do pháp luật quy định. Các Hội nhƣ
vậy đều có điều lệ, quy định tôn chỉ, mục đích, cơ cấu tổ chức và hoạt động của
mình.[15]
Từ những định nghĩa trên, có thể rút ra Hội mang một số đặc điểm sau:
+ Hội là những tổ chức tự nguyện của quần chúng
+ Những tổ chức đó tập hợp đông đảo ngƣời cùng ngành nghề, hoặc cùng
giới, hoặc cùng sở thích…
+ Họ cùng góp kiến thức, sức lực và hành động một cách thƣờng xuyên để
đạt một mục đích nào đó, do những ngƣời tự nguyện sáng lập đề ra, mục đích đó

không trái với lợi ích dân tộc và Tổ quốc, không vụ lợi và trong khuôn khổ pháp
luật.
Khái niệm này giúp ta bƣớc đầu phân biệt đƣợc Hội với các nhóm và tập thể
tự nguyện khác do nhân dân tự nguyện bột phát, tức thời lập ra (các nhóm đó không
có điều lệ, không có đóng góp vật chất, sức lực, trí tuệ, không có hệ thống tổ chức
thống nhất, cố kết không chặt chẽ và không thƣờng xuyên hành động).
1.1.1.2 Khái niệm Hiệp hội ngành hàng
Trong các Hội có một hình thức liên kết gồm các doanh nghiệp cùng kinh
doanh một số mặt hàng hay nhóm hàng và đƣợc gọi là Hiệp hội ngành hàng (trade
association)
Theo từ điển kinh doanh của Nhà xuất bản Oxford thì Hiệp hội ngành hàng
là sự tập hợp của các doanh nghiệp trong cùng một ngành, đƣợc lập ra để thay mặt
trong việc đàm phán với Chính phủ, các tổ chức công đoàn, các Hiệp hội ngành
hàng khác… để đảm bảo cho các hội viên luôn đƣợc cung cấp thông tin mới nhất về
sự phát triển của ngành hàng kinh doanh của họ. Các Hiệp hội ngành hàng cũng


7

thƣờng mang về các hợp đồng cho hội viên của họ và đƣa ra các quy trình tố tụng
để giải quyết tranh chấp giữa các hội viên.
Theo từ điển kinh tế kinh doanh do Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật biên
soạn từ một số từ điển kinh tế nổi tiếng thế giới, Hiệp hội ngành hàng là một Hiệp
hội của các nhà sản xuất và các thƣơng gia trong cùng một ngành kinh doanh, đƣợc
thành lập nhằm mục đích bảo vệ và phát triển quyền lợi của các thành viên và đại diện
cho họ, chẳng hạn nhƣ trong các cuộc thƣơng lƣợng với chính quyền hay với các
nghiệp đoàn hay với các Hiệp hội ngành hàng khác.
Ở Việt Nam cho đến nay vẫn chƣa có một tài liệu nào hay một nguồn luật
nào đƣa ra khái niệm cụ thể về Hiệp hội ngành hàng cho dù trong Nghị định
57/1998/NĐ- CP ngày 31/7/1998 có điểm qua thuật ngữ này: “ Thƣơng nhân kinh

doanh cùng ngành hàng, không phân biệt thành phần kinh tế, đƣợc phép thành lập
Hiệp hội ngành hàng xuất khẩu, nhập khẩu trên cơ sở tự nguyện để phối hợp hoạt
động và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của các hội viên, đồng thời bảo đảm lợi ích quốc gia”.
Bản thân từng Hiệp hội ngành hàng cũng đƣa ra các định nghĩa riêng cho
mình nhƣ:
- Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (Vasep): là tổ chức tự
nguyện của các doanh nghiệp, các tổ chức sự nghiệp và các nhà quản lý hoạt động
trong lĩnh vực chế biến và xuất nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam.
- Hiệp hội Cà phê- cacao Việt Nam : là tổ chức phi Chính phủ, phi lợi nhuận,
tập hợp và đại diện cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và thể nhân sản xuất, chế
biến, kinh doanh dịch vụ cung ứng xuất khẩu, nghiên cứu khoa học – công nghệ và
đào tạo thuộc ngành cà phê đƣợc thành lập trên cơ sở tự nguyện nhằm phối hợp có
hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trƣờng trong nƣớc và ngoài
nƣớc, thống nhất nhận thức và hành động.
Từ các khái niệm trên cho thấy tất cả các khái niệm đó cho dù đƣợc trình bày
nhƣ thế nào đều thì đều thống nhất ở một số điểm và có thể đƣợc hiểu nhƣ sau:
Hiệp hội ngành hàng là một tổ chức tập hợp và đại diện cho các cá nhân hay các


8

tổ chức kinh tế cùng kinh doanh một hoặc một số mặt hàng nhất định hoạt động
theo nguyên tắc tự nguyện tự quản dựa trên các quy tắc chung đã thoả thuận
phù hợp các quy định của pháp luật và không vì mục tiêu lợi nhuận.
1.1.1.3 Sự cần thiết phải phát huy khả năng liên kết thông qua Hiệp hội ngành hàng
Trong lĩnh vực kinh tế, cùng với quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc
tế, những năm gần đây chúng ta chứng kiến rất nhiều hình thức liên kết đa dạng của
các doanh nghiệp nhằm phát huy thế mạnh cộng đồng, nâng cao hiệu quả và sức
cạnh tranh của các doanh nghiệp. Các hình thức liên kết trên, dù tạo lên một thực

thể kinh doanh mới hay không nhƣng đều làm phát sinh các quan hệ kinh tế, hình
thành các hành vi thƣơng mại và do đó nó chịu sự tác động của quan hệ lợi ích một
cách rõ rệt. Nhƣ vậy, trong những hoàn cảnh nhất định khi “cơm chẳng lành, canh
chẳng ngọt” thì việc chia tay xảy ra, tính chất ổn định lâu dài không lớn.
Có hình thức tập hợp và liên kết các doanh nghiệp nhằm phát triển thị trƣờng
và nâng cao chất lƣợng sản phẩm hàng hoá nhƣ Câu lạc bộ doanh nghiệp. Câu lạc
bộ này không chỉ là nơi để các doanh nghiệp trao đổi kinh nghiệm, phƣơng thức
làm ăn mà còn tổ chức cho các doanh nghiệp đi khảo sát thị trƣờng, tăng cƣờng phát
triển thƣơng hiệu.
Có hình thức liên kết nhằm nâng cao khả năng cung ứng hàng hoá nhƣ hiện
tƣợng các hợp tác xã thƣơng mại liên kết với nhau để hình thành Liên hiệp Hợp tác
xã kiểu mới hay Liên minh hợp tác xã. Hay nhƣ hiện nay các doanh nghiệp bắt đầu
hợp tác với nhau trong việc thành lập các Tổng công ty, hay các tập đoàn thƣơng
mại, các liên doanh đấu thầu xây dựng, các Ngân hàng thực hiện phƣơng thức đồng
tài trợ các dự án lớn.
Có hình thức liên kết các doanh nghiệp thông qua mạng Internet, trên cơ sở
một hoặc một vài thành viên nòng cốt nhằm tập hợp, lựa chọn và cung cấp thông
tin, trao đổi ý tƣởng giữa các thành viên thông qua phƣơng tiện chủ yếu là email.
Còn có thể kể ra rất nhiều những hình thức liên kết đa dạng với nhiều cấp độ
khác nhau của các doanh nghiệp trong nền kinh tế, trong đó hình thức chủ đạo trong
mối liên kết của các doanh nghiệp đang đƣợc khẳng định chính là các Hiệp hội


9

ngành hàng, các Hiệp hội ngành hàng không chỉ là khung khổ cho các mối quan hệ liên
kết tự nguyện của các doanh nghiệp trong cùng ngành hàng đó mà còn là cầu nối của
quan hệ hợp tác giữa các cơ quan chính quyền với doanh nghiệp, một xu thế và yêu cầu
của nền kinh tế thị trƣờng hiện đại.
Ƣu thế của việc liên kết doanh nghiệp thông qua các Hiệp hội ngành hàng

thể hiện ở những điểm sau:
- Hiệp hội ngành hàng có một cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có tƣ cách pháp nhân,
có tính độc lập tƣơng đối với các doanh nghiệp và với cơ quan chính quyền, có bộ
máy nhân viên thƣờng trực bảo đảm sự vận hành thƣờng xuyên, có nguồn ngân sách
hoạt động dựa vào nguyên tắc cùng chia sẻ chi phí từ đóng góp của các hội viên nên
hoạt động của Hiệp hội có tính ổn định cao hơn các hình thức liên kết khác. Vì vậy,
nếu có chính sách tạo thuận lợi và tổ chức tốt, các Hiệp hội ngành hàng thực sự có
thể trở thành một nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình liên kết các doanh nghiệp
và thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa chính quyền và doanh nghiệp.
- Do Hiệp hội tập hợp doanh nghiệp theo từng ngành hàng và là một tổ chức
có bộ máy thƣờng trực ổn định nên việc tổng kết thực tiễn, tiến hành các hoạt động
nghiên cứu, đề xuất các kiến nghị với cơ quan chức năng thể hiện đƣợc tính chất đại
diện cho ngành hàng đó của cả khu vực doanh nghiệp cao hơn so với từng doanh
nghiệp đơn lẻ.
- Do Hiệp hội ngành hàng là một pháp nhân độc lập, cơ chế quyết định của
Hiệp hội dựa trên nguyên tắc tập thể nên ít nhiều hạn chế đƣợc khả năng độc quyền,
khả năng chi phối của các doanh nghiệp lớn mà các hình thức liên kết khác khó
tránh đƣợc.
- Do Hiệp hội là diễn đàn tại đó các doanh nghiệp có thể giúp đỡ vật chất lẫn
nhau, kể cả hỗ trợ kinh tế và tài chính, thoả thuận hợp tác xử lý bất đồng tranh chấp
nội bộ. Đồng thời Hiệp hội cũng là nơi có các biện pháp mà các hội viên phối hợp
hành động trừng phạt khi có một đối tác nào đó vi phạm quy chế, tiến hành những
hoạt động cạnh tranh không lành mạnh làm ảnh hƣởng đến lợi ích của các doanh


10

nghiệp hội viên. Là môi trƣờng thuận lợi để đào tạo, bồi dƣỡng kiến thức tiếp cận
thị trƣờng, thoả thuận về giá, sản lƣợng, chiến tranh thƣơng mại…[11]
- Khi tham gia vào thƣơng trƣờng quốc tế nếu doanh nghiệp đứng đơn lẻ thì

sẽ gặp khó khăn trong việc thuyết phục khách hàng, gây ảnh hƣởng tốt và lòng tin
cho khách hàng. Các Hiệp hội chính là nơi các doanh nghiệp tập hợp lực lƣợng,
đoàn kết lại, hình thành sức mạnh tổng hợp để thâm nhập và giành nhiều thị phần
trên thị trƣờng quốc tế.
Trƣớc xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế nhƣ hiện nay thì chỉ
riêng có sự quản lý và điều hành của Chính phủ đối với nền kinh tế của mỗi quốc
gia là không đủ, nhiều lúc bất cập.Việc thực hiện các liên kết “mềm” theo chiều
ngang giữa các doanh nghiệp nhằm tìm hiểu và điều phối các vấn đề có liên quan
đến cung cấp nguyên liệu, công nghệ và đẩy mạnh xuất khẩu dƣới hình thức các
Hiệp hội ngành hàng đã và đang trở thành một hình thức liên kết hiệu quả và là mô
hình phổ biến cho xu hƣớng liên kết trong nền kinh tế thị trƣờng hiện đại.
1.1.2 Vai trò của Hiệp hội ngành hàng trong việc thúc đẩy xuất khẩu
Hiệp hội ngành hàng là một tổ chức kinh tế dân sự. Hiệp hội ngành hàng góp
phần thúc đẩy kinh tế thị trƣờng phát triển lành mạnh thông qua việc nâng cao sức
cạnh tranh của các doanh nghiệp thành viên, thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá, giải
quyết các tranh chấp hoặc chống lại các hành vi độc quyền, lũng đoạn. Chỉ có sự
liên kết để yểm trợ lẫn nhau trong các Hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp
mới đủ sức vƣơn lên mở rộng và trấn giữ thị trƣờng, và đó là quan hệ “đồng
minh” để đối phó với sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trƣờng.
Nhận thức đƣợc vai trò và các tác dụng quan trọng đó, ngay từ Nghị quyết
Trung ƣơng 4 (khoá VII) Đảng ta đã đƣa ra tƣ tƣởng chủ đạo: “Phát triển các hình
thức hợp tác giữa các doanh nghiệp Nhà nƣớc với các Hợp tác xã, xây dựng các
Hiệp hội ngành nghề theo cơ chế dân chủ, tự quản”. Hội nhập với nền kinh tế khu
vực và thế giới, Nhà nƣớc buộc phải giảm dần các can thiệp trực tiếp vào tất cả các
hoạt động kinh tế (chỉ còn can thiệp gián tiếp), nhiệm vụ sẽ đặt lên vai các tổ chức


11

Hiệp hội doanh nghiệp, ngành nghề. Tổ chức Hiệp hội doanh nghiệp, ngành nghề

mà không lĩnh hội đƣợc vai trò, trách nhiệm can thiệp trực tiếp thì chắc chắn hoạt
động của các doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Sau đây là một số vai trò chủ đạo của Hiệp hội ngành hàng trong việc thúc
đẩy xuất khẩu của các doanh nghiệp hội viên ở Việt Nam
1.1.2.1 Làm cầu nối giữa các Cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ chức kinh tế
khác với các doanh nghiệp thành viên
Với vai trò cầu nối quan trọng giữa Nhà nƣớc và doanh nghiệp, các Hiệp hội
tuyên truyền, phổ biến các đƣờng lối, chính sách của Nhà nƣớc đến các doanh
nghiệp, giúp doanh nghiệp hiểu đúng và tuân thủ pháp luật của Nhà nƣớc. Hiệp hội
chính là cơ quan tƣ vấn, phản biện trong xây dựng các chiến lƣợc phát triển cho nền
kinh tế trên cơ sở chiến lƣợc phát triển ngành hàng, mặt hàng và sản phẩm, góp
phần tích cực vào việc hình thành các văn bản pháp luật, tạo thuận lợi nhiều hơn
cho doanh nghiệp nhƣ Luật đầu tƣ trong nƣớc, Luật thuế giá trị gia tăng, Luật doanh
nghiệp, Bộ luật lao động, Nghị định 90 về doanh nghiệp vừa và nhỏ…
Vai trò đại diện cho các doanh nghiệp còn đƣợc các Hiệp hội ngành hàng
thực hiện thông qua việc cùng với các cơ quan chính quyền tổ chức các cuộc đối
thoại giữa doanh nghiệp và chính quyền nhằm tháo gỡ những vƣớng mắc và tạo
thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp. Nhƣ ở Việt Nam, trên Trung ƣơng,
hàng năm Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam đã phối hợp với Văn
phòng Chính phủ tổ chức cuộc gặp của Thủ tƣớng với doanh nghiệp. Ở địa phƣơng,
lãnh đạo của nhiều tỉnh cũng thƣờng xuyên phối hợp với chi nhánh Phòng Thƣơng
mại và Công nghiệp Việt Nam và các Hiệp hội ngành hàng tổ chức các cuộc đối
thoại với doanh nghiệp. Các cơ chế tham khảo ý kiến của các doanh nghiệp thông
qua phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam và các Hiệp hội doanh nghiệp
ngày càng đƣợc mở rộng. Các kiến nghị và tác động của các Hiệp hội ngành hàng
cũng đã tích cực thúc đẩy quá trình đổi mới thủ tục hành chính của các cơ quan
quản lý Nhà nƣớc, dễ nhận thấy nhất đó là việc đổi mới trong khâu đăng kí thành


12


lập doanh nghiệp, thủ tục hải quan, thuế nhằm giải quyết những vƣớng mắc liên
quan đến việc thanh tra kiểm tra chồng chéo hay việc hình sự hoá các quan hệ kinh
tế dân sự…Đây là cách làm việc dân chủ và thiết thực, hợp tác, góp phần thu hẹp
khoảng cách giữa chính quyền và doanh nghiệp, tạo lập sự đồng thuận vì mục tiêu
phát triển kinh tế đất nƣớc. Cùng với Diễn đàn kinh tế tƣ nhân và Hội nghị tƣ vấn
các nhà tài trợ cho Việt Nam, vừa qua các diễn đàn khác cũng đã góp sức hình
thành các định hƣớng và giải pháp đổi mới kinh tế ở nƣớc ta. Kinh nghiệm từ các
nƣớc chịu tác động của cuộc khủng hoảng châu Á cho thấy để nhanh chóng vƣợt
qua khủng hoảng, thì yếu tố tạo sự thống nhất cao trong xã hội, hạn chế sự lo lắng
trong dân chúng, huy động đƣợc sự đóng góp và đồng cam cộng khổ của từng
ngƣời dân và chính quyền để vƣợt qua khủng hoảng có ý nghĩa quan trọng không
kém các biện pháp kinh tế vĩ mô. Chính một cơ chế hợp tác, sự đồng thuận của xã
hội đối với những tình huống nhất định không chỉ làm giảm biên độ và cƣờng độ tác
động tiêu cực khi nền kinh tế rơi vào khủng hoảng mà còn là giải pháp thu hút các
nguồn lực thoát khỏi khủng hoảng và phát triển.
Gần đây nhiều Hiệp hội cũng đã có chƣơng trình hợp tác với các Ngân hàng
thƣơng mại nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ kinh tế gia đình tiếp cận đƣợc tốt hơn với các
nguồn vốn chính thức.
Trƣớc yêu cầu của xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, đòi hỏi các
Chính phủ phải có sự thay đổi hoàn thiện đáng kể về cơ chế chính sách pháp luật
theo các cam kết song phƣơng và đa phƣơng. Đặc biệt đối với những nƣớc tham gia
tiến hành hội nhập đồng thời với việc chuyển nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập
trung bao cấp sang cơ chế thị trƣờng nhƣ nƣớc ta, việc hoàn thiện, bổ sung hệ thống
chính sách pháp luật để phù hợp với những yêu cầu hội nhập là một vấn đề không
dễ dàng. Với vai trò đại diện của mình, Hiệp hội ngành hàng tiến hành điều tra, tổng
hợp và phân tích tình hình kinh tế, các tác động chính sách và môi trƣờng kinh
doanh đối với sự phát triển của nền kinh tế và doanh nghiệp, xây dựng báo cáo



13

doanh nghiệp, thông qua các hoạt động xúc tiến thƣơng mại và đầu tƣ hỗ trợ các
doanh nghiệp tìm kiếm bạn hàng- đối tác, mở rộng thị trƣờng xuất khẩu, các Hiệp
hội tiến hành điều tra khảo sát xác định lợi thế cạnh tranh của hàng Việt Nam so với
một số hàng hoá tƣơng ứng của các nƣớc khác, qua đó làm cơ sở khoa học cho các
kiến nghị của Hiệp hội với Chính phủ nhằm tƣ vấn cho Chính phủ trong quá
trình đàm phán hội nhập và đề xuất với Chính phủ về mức độ và lộ trình mở cửa
thích hợp để Chính phủ có căn cứ và quyết định phƣơng án đàm phán nhằm đƣa
lại hiệu quả cao nhất.
1.1.2.2 Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Các Hiệp hội ngành hàng thƣờng chủ động hợp tác với nhiều tổ chức đào tạo
có uy tín trong và ngoài nƣớc để thực hiện các khoá đào tạo nhân lực cho bộ máy
lãnh đạo Hiệp hội cũng nhƣ các doanh nghiệp thành viên.
Về nội dung đào tạo ngoài việc tập trung đào tạo cho doanh nghiệp về kỹ
năng quản trị, quản lý kinh doanh, phát triển thị trƣờng, cổ phần hoá, tiếp cận thị
trƣờng chứng khoán, nhiều Hiệp hội còn tổ chức tuyên truyền phổ biến các chủ
trƣơng chính sách của Nhà nƣớc liên quan tới ngành, tìm hiểu về lộ trình hội nhập,
nâng cao kỹ năng xuất nhập khẩu, tìm hiểu thủ tục hải quan, các rào cản pháp luật
trong thƣơng mại quốc tế…
Về chƣơng trình đào tạo, căn cứ vào đối tƣợng học viên Hiệp hội có những
chƣơng trình đào tạo cho phù hợp nhƣ chƣơng trình chuyên sâu, chƣơng trình nâng
cao, chƣơng trình đào tạo từ xa, chƣơng trình cơ bản nhằm trang bị cho hội viên
những cái mà họ thiếu chứ không phải những cái mà lãnh đạo Hiệp hội có.
1.1.2.3 Cung cấp thông tin và tư vấn, hỗ trợ về khoa học công nghệ
Vai trò của các Hiệp hội ngành hàng còn đƣợc thể hiện rõ nét trong việc
cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp. Trong thời đại bùng nổ thông tin nhƣ hiện
nay, để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các hội viên đòi hỏi sự hoạt động năng
động của bộ máy lãnh đạo Hiệp hội. Do nhiều hạn chế nên các doanh nghiệp không

thể tự mình thu thập, xử lý các nguồn thông tin trong nƣớc và đặc biệt là nƣớc
ngoài. Các nguồn thông tin trong nƣớc thƣờng đƣợc hình thành từ việc tổng hợp các


14

báo cáo của các hội viên, các tin tức, bài viết từ các báo, tạp chí, công trình nghiên
cứu trong nƣớc, các thông tin từ các Bộ, ngành liên quan, từ các dự án nghiên cứu
của các cơ sở nghiên cứu, từ các hãng thông tấn, báo chí các cơ quan đại diện
thƣơng mại, đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nƣớc ngoài, các tổ chức Quốc tế
nhƣ Hiệp hội cà phê- Ca cao Việt Nam có liên hệ với Tổ chức Cà phê quốc tế (
ICO) để thu thập thông tin về ngành hàng này.
Về nội dung thông tin, do đối tƣợng phục vụ là các doanh nghiệp hội viên,
chuyên sản xuất, chế biến và xuất khẩu một số mặt hàng nhất định nên Hiệp hội có
thể tập trung hình thành những nội dung thông tin có chất lƣợng cao. Thông thƣờng
các thông tin của các Hiệp hội thƣờng có các nội dung cơ bản nhƣ tình hình thị
trƣờng, giá cả của ngành hàng trong nƣớc và quốc tế, những vấn đề liên quan đến
thâm nhập và phát triển thị trƣờng nƣớc ngoài nhƣ các quy định về tiêu chuẩn đối
với hàng hoá nhập khẩu, các quy định pháp luật liên quan đến các mặt hàng mà các
doanh nghiệp của Hiệp hội kinh doanh, hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc sản xuất,
xuất khẩu, tìm kiếm bạn hàng, tranh thủ các điều kiện thuận lợi để thâm nhập và
chiếm giữ các thị trƣờng có mức tiêu thụ lớn.
Về phƣơng thức cung cấp thông tin, một trong những phƣơng thức phổ biến
là phát hành các ấn phẩm định kì nhằm cung cấp các số liệu về tiêu dùng và xuất
khẩu, nhập khẩu của một hoặc một số mặt hàng nào đó trên thế giới. Hình thành các
website của Hiệp hội, ngoài các thông tin chung, website của Hiệp hội còn có một
phần dành cho các hội viên. Bằng việc sử dụng mật mã riêng, hội viên có thể vào
trang “Hội viên” để tìm kiếm những thông tin cần thiết có liên quan đến hoạt động
của doanh nghiệp mình mà những thông tin này không đƣợc phổ biến ở phần thông
tin chung. Phục vụ thông tin bằng hình thức hỏi- đáp, trong phạm vi quyền hạn của

mình, cán bộ thông tin của Hiệp hội có thể trả lời trực tiếp cho khách hàng, hoặc
chuyển cho Chủ tịch Hiệp hội trả lời hoặc hƣớng dẫn khách hàng các địa chỉ cần
thiết mà ở đó có khả năng đáp ứng yêu cầu của họ.
Cùng với việc hỗ trợ về thông tin, khi là thành viên của Hiệp hội, các doanh
nghiệp sẽ đƣợc tƣ vấn về công nghệ nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của mình


15

nhƣ áp dụng các kỹ thuật tiên tiến trên thế giới, các quy trình quản lý mới vào sản
xuất nhƣ hệ thống quản lý chất lƣợng theo bộ tiêu chuẩn ISO 9000, ISO 14000…để
nâng cao chất lƣợng sản phẩm, tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu, tăng năng suất lao
động, hạ giá thành…
1.1.2.4 Hỗ trợ giải quyết các tranh chấp thương mại
Ngoài vai trò điều hoà lợi ích trong nội bộ, hoà giải các bất đồng, bảo vệ lợi
ích chính đáng của các thành viên, hạn chế cạnh tranh lẫn nhau một cách thiếu lành
mạnh, một vai trò hết sức quan trọng của các Hiệp hội đối với doanh nghiệp là các
Hiệp hội chính là chỗ dựa trong giải quyết các tranh chấp quốc tế. Chúng ta có thể
thấy rõ điều này qua các vụ kiện cá tra, cá basa, vụ kiện bật lửa ga, giầy và đế giày
không thấm nƣớc và vụ kiện tôm. Với vai trò là ngƣời bảo vệ lợi ích cho doanh
nghiệp trong nƣớc trƣớc các rủi ro kinh doanh trên thị trƣờng thế giới, Hiệp hội phải
cùng với Nhà nƣớc đề ra các biện pháp bảo hộ thích hợp. Cùng với quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, các nƣớc thƣờng sử dụng các công cụ bảo hộ nhằm bảo vệ các
doanh nghiệp trong nƣớc của mình. Hiện nay có nhiều công cụ kỹ thuật đƣợc sử
dụng để bảo hộ các doanh nghiệp yếu kém, một trong những công cụ nhƣ vậy là
thuế chống bán phá giá. Theo nhƣ các quy định của WTO bất kỳ hàng hoá nào đƣợc
bán phá giá với biên độ phá giá lớn hơn hoặc bằng 2% giá xuất khẩu và khối lƣợng
hàng nhập khẩu từ mỗi nƣớc lớn hơn hoặc bằng 3% đều có thể bị xem xét điều tra
xem có bán phá giá hay không? Vì vậy, nếu các doanh nghiệp ồ ạt bán hàng hoá của
mình vào một thị trƣờng nào đó rất có thể sẽ bị đánh thuế chống bán phá giá. Muốn

bảo vệ lợi ích chung cho toàn bộ ngành hàng thì doanh nghiệp phải thông qua Hiệp
hội để phối hợp hành động, điều hoà sản xuất nhằm hạn chế xuất khẩu quá mức vào
các thị trƣờng, tránh bị đánh thuế chống bán phá giá vào nƣớc nhập khẩu. Đây là
một trong những biện pháp hữu hiệu giúp các doanh nghiệp chủ động đối phó với
các chính sách bảo hộ của các nƣớc nhập khẩu.
Ở hầu hết các nƣớc, việc khởi kiện và kháng kiện đều do các Hiệp hội ngành
hàng chủ động phát động chứ không phải do các cơ quan quản lý Nhà nƣớc. Vấn đề
khởi kiện và kháng kiện trong các vụ tranh chấp thƣơng mại quốc tế không phải là


16

vấn đề phán xử ai thắng ai thua mà là để đòi hỏi các quyền đối xử bình đẳng theo
nguyên tắc không phân biệt đối xử. Lâu nay, các Hiệp hội ngành hàng của chúng ta
mới chỉ tập trung vào việc đi hầu kiện mà chƣa chủ động trong việc khởi kiện và
kháng kiện. Vì vậy, trong thời gia tới các Hiệp hội ngành hàng tuỳ theo điều kiện
của mình mà cần thiết thì sẵn sàng khởi kiện và kháng kiện.
1.1.2.5 Xúc tiến xuất khẩu
Việc xúc tiến xuất khẩu của Hiệp hội thông qua các hoạt động nhằm tìm hiểu và
khai thác các thị trƣờng tiềm năng, hỗ trợ nâng cao năng lực xuất khẩu cho các doanh
nghiệp hội viên và xây dựng quảng bá thƣơng hiệu cho ngành.
Hiệp hội thƣờng phối hợp với các cơ quan xúc tiến thƣơng mại của Chính phủ
tham gia vào các phái đoàn chuyên trách của Chính phủ gặp gỡ, tìm hiểu cơ hội làm ăn
và đầu tƣ ở thị trƣờng nƣớc ngoài, tổ chức tham gia các chƣơng trình hội chợ triển lãm,
cử các đoàn đi khảo sát thị trƣờng nƣớc ngoài nhằm tìm kiếm cơ hội đầu tƣ, tham gia
các cuộc hội thảo, hội nghị về xúc tiến thƣơng mại…. Ở Việt Nam, hoạt động xúc tiến
thƣơng mại phục vụ cho xuất nhập khẩu đƣợc phối hợp với các tổ chức : Phòng
Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam, các tổ chức xúc tiến thƣơng mại thuộc Bộ,
ngành, thƣơng vụ của sứ quán Việt Nam ở nƣớc ngoài, phòng xúc tiến thƣơng mại của
các Tổng công ty…

Bên cạnh đó các Hiệp hội ngành hàng còn là ngƣời đóng vai trò trung gian
giúp các doanh nghiệp trong Hiệp hội phát triển xuất khẩu một cách có hiệu quả,
chống các hành vi gian lận, cửa quyền, tranh mua tranh bán trong kinh doanh xuất
khẩu. Thực tế cho thấy rất nhiều hàng hoá của Việt Nam chất lƣợng không thua
kém gì hàng hoá của nƣớc ngoài nhƣng thƣờng có giá thấp hơn nhiều so với một số
nƣớc trong khu vực và trên thế giới. Nguyên nhân một phần là do tình trạng tranh
mua, tranh bán đang diễn ra phổ biến, các doanh nghiệp thƣờng hoạt động đơn lẻ
trong quá trình chào hàng, bán hàng cho các công ty nƣớc ngoài, các doanh nghiệp
vô hình chung đã tự phá giá hàng hoá của mình. Hơn nữa, các công ty nƣớc ngoài
thƣờng lợi dụng tình trạng này nhằm ép giá đối với các công ty Việt Nam là giảm
hiệu quả xuất khẩu của Việt Nam.


17

Hiện nay nhiều ngƣời vẫn cho rằng trong nền kinh tế thị trƣờng ngƣời sản
xuất cần lƣu ý “không bán/ sản xuất những gì mà mình có, mà nên bán/ sản xuất
những gì thị trƣờng cần”. Nhƣng nhƣ thế vẫn chƣa thật đầy đủ và công bằng. Họ
vẫn chƣa thấy rằng trong thực tế nhiều lúc chúng ta không thể bán hay sản xuất
những gì mà chính năng lực của chúng ta không cho phép.
Tiêu chí đánh giá năng lực xuất khẩu của Hiệp hội ngành hàng phụ thuộc
phần lớn vào mức độ cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá thuộc ngành hàng đó. Và
xét cho cùng đó là khả năng tạo ra và duy trì lợi nhuận và thị phần tại các thị trƣờng
ngoài nƣớc mà tại đó có nhiều chủ thể khác cùng tham gia kinh doanh ngành hàng
đó, thông qua việc tận dụng lợi thế so sánh về chi phí sản xuất, năng suất và một
loạt các nhân tố đặc trƣng khác của ngành. Việc đạt tới một sự tăng trƣởng về thị
phần đòi hỏi một sự phối hợp xác đáng các yếu tố vĩ mô và vi mô thông qua việc
định hƣớng một cách tích cực đối với sức cạnh tranh của mặt hàng.
Năng lực xuất khẩu là chỉ tiêu quan trọng cuối cùng đánh giá năng lực cạnh
tranh, trong khi năng lực cạnh tranh của ngành lại phụ thuộc vào các yếu tố nhƣ: các

yếu tố đầu vào, chiến lƣợc, điều kiện về cầu, môi trƣờng cạnh tranh và kết cấu ngành.
Đối với yếu tố đầu vào: Nếu nhƣ việc tạo ra các yếu tố đầu vào phổ biến là
nhiệm vụ của Nhà nƣớc thì việc tạo ra các yêu tố đầu vào chuyên môn hoá lại là
trách nhiệm của chính các Hiệp hội. Việc hình thành những yếu tố đầu vào chuyên
môn hoá nhƣ vậy mỗi doanh nghiệp sẽ không thực hiện đƣợc hoặc thực hiện không
có hiệu quả mà cần phải có sự kết hợp của nhiều doanh nghiệp thông qua Hiệp hội.
Đối với kết cấu ngành: Hiệp hội giữ vai trò điều hoà quy mô sản xuất và xuất
khẩu, giá cả và chất lƣợng sản phẩm. Trong cơ chế thị trƣờng, cạnh tranh là cần
thiết và là động lực để phát triển nhƣng cạnh tranh không lành mạnh, tranh mua,
tranh bán sẽ làm tổn hại đến lợi ích của quốc gia. Trong những năm vừa qua, nhiều
trƣờng hợp các doanh nghiệp của chúng ta do chƣa có sự điều tiết của ngành đã gây
thiệt hại không nhỏ cho sản xuất của cả ngành. Điển hình là chuyện xảy ra trong bài
học về chữ tín đối với ngành điều của Việt Nam. Năm 2005 giá điều tụt xuống thảm
hại chỉ còn 4900USD/tấn và đến tháng 5 hàng loạt khách hàng nƣớc ngoài đã lần


18

lữa không lấy nhân điều của Việt Nam đó là do các doanh nghiệp đã bị trả đũa vì
trong năm 2004, các doanh nghiệp Việt Nam do sản lƣợng điều thế giới sụt giảm
kéo theo giá thu mua tăng cao, đến thời điểm phải giao hàng so sánh chênh lệch quá
lớn giữa giá xuất khẩu lúc đó và giá xuất khẩu trong hợp đồng nhiều doanh nghiệp
phải tự cứu mình bằng việc trì hoãn giao hàng hoặc thậm chí còn “ xù” luôn cả mấy
hợp đồng đó, do đó làm cho các khách hàng nƣớc ngoài mất lòng tin vào các doanh
nghiệp Việt Nam khiến cho giá điều năm 2005 sụt giảm. Nếu nhƣ Hiệp hội cây điều
phát huy đƣợc vai trò điều tiết của mình thì có lẽ chuyện buồn này đã không xảy ra.
Việc xây dựng thƣơng hiệu cho một ngành hàng nhất định để đƣa nó đến với
công chúng trong và ngoài nƣớc tại thời điểm hiện nay là rất khó khăn cho các
doanh nghiệp đặc biệt tại Việt Nam trong khi thƣơng hiệu đã và đang trở thành thứ
tài sản vô hình quan trọng và vũ khí cạnh tranh sắc bén nhất của các doanh nghiệp

trên thƣơng trƣờng. Thƣơng hiệu đã thay thế yếu tố chất lƣợng để chiếm vị trí số 1
trong cạnh tranh. Thƣơng hiệu là yếu tố sống còn của doanh nghiệp. Với thƣơng
hiệu mạnh, quyền năng thị trƣờng của doanh nghiệp sẽ rất lớn. Các Hiệp hội đã thực
hiên vai trò hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng và quảng bá thƣơng hiệu bằng cách:
+ Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc xây dựng, quảng bá thƣơng hiệu ở nƣớc
ngoài thông qua các chƣơng trình xúc tiến thƣơng mại, tham gia hội chợ triển lãm ở
nƣớc ngoài, tƣ vấn cho các doanh nghiệp chiến lƣợc xây dựng thƣơng hiệu cho
riêng mình…
+ Nâng cao nhận thức của doanh ngiệp về thƣơng hiệu thông qua hoạt động
đào tạo của mình, Hiệp hội đã dần trang bị các kiến thức cơ bản về thƣơng hiệu, vai
trò, vị trí không thể thiếu của thƣơng hiệu, kỹ năng để xây dựng và quảng bá thƣơng
hiệu.
1.1.2.6 Đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp trong mối quan hệ với các tổ chức
quốc tế
Do xu thế đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng đa phƣơng hoá, đa
dạng hoá trong quan hệ quốc tế nên các quan hệ đối ngoại không chỉ theo con
đƣờng của Nhà nƣớc mà còn theo “kênh” các Hội, tổ chức phi Chính phủ. Thực tế


19

là các hoạt động liên kết sản xuất, xúc tiến và hỗ trợ các hoạt động thƣơng mại, đầu
tƣ hợp tác khoa học công nghệ của các doanh nghiệp trong và ngoài nƣớc thông qua
con đƣờng các Hội, tổ chức phi Chính phủ tăng lên rõ rệt. Việc nhiều tổ chức phi
Chính phủ các nƣớc bắt đầu vào hoạt động ở Việt Nam đã góp phần hình thành các
Hội, tổ chức phi Chính phủ trong nƣớc với tƣ cách là đối tác tƣơng ứng của các tổ
chức nƣớc ngoài.
Nhiều Hiệp hội đã thực sự là cầu nối giữa các doanh nghiệp Việt Nam với
cộng đồng doanh nghiệp quốc tế. Một số các Hiệp hội trong các lĩnh vực kinh tế
trọng điểm của Việt Nam đều đã thiết lập quan hệ hợp tác với các Hiệp hội tƣơng

ứng của các nƣớc khác, qua đó khuyến nghị các hội viên phát triển chiến lƣợc cạnh
tranh và chuẩn bị tích cực thâm nhập vào thị trƣờng mới, đồng thời cùng các hội
viên, các cơ quan Nhà nƣớc tích cực xây dựng các cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội
để thực hiện những chiến lƣợc đầu tƣ và xuất khẩu mang tính cơ bản, lâu dài. Hiệp
hội còn hợp tác với các tổ chức nghiên cứu và các tổ chức kinh tế khác nhằm phối
hợp, trao đổi thông tin, tƣ vấn, đào tạo, tiến hành các hoạt động xúc tiến thƣơng mại
… tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Lãnh đạo các Hiệp hội còn tiến hành các thủ tục cần thiết để có thể trở
thành thành viên của các tổ chức quốc tế liên quan đến Hiệp hội của mình. Đồng
thời hiểu rõ các chức năng nhiệm vụ của các tổ chức đó để có thể tranh thủ các ý
kiến ủng hộ cũng nhƣ sự giúp đỡ về thông tin, tƣ vấn mỗi khi quyền lợi của doanh
nghiệp hội viên bị xâm phạm trên thị trƣờng quốc tế.
Với vai trò đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp trên các diễn đàn quốc tế và
khu vực, các Hiệp hội đấu tranh cho quyền lợi chính đáng của các doanh nghiệp,
chống áp đặt các điều kiện tiêu chuẩn quá cao của các nƣớc phát triển về môi
trƣờng và trách nhiệm xã hội vào các quan hệ thƣơng mại, tham gia ý kiến vào việc
xây dựng một lộ trình hội nhập với sức vƣơn lên của các doanh nghiệp và nền kinh
tế. Hiệp hội đấu tranh nhằm bảo vệ thƣơng hiệu của hội viên trên thị trƣờng quốc tế
mỗi khi có sự xâm phạm thƣơng hiệu xảy ra. Đồng thời ủng hộ doanh nghiệp không
chỉ về thông tin tƣ vấn mà có thể cả về tài chính, kỹ thuật trong các vụ kiện về bản



×