Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Vấn đề nhận thức lại thực tại trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (889.86 KB, 116 trang )

1

Lời cảm ơn
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Tôn Thảo Miên,
người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá
trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo, nhà trường đã tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập.
Xin chân thành gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp đã dành sự ủng hộ, chia sẻ, giúp đỡ quí báu để tôi hoàn
thành luận văn này.
Hà Nội, tháng 6 năm 2011
Tác giả

Đào Thị Thùy Giang


2

Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong
luận văn này là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác.
Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận
văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn
đã được chỉ rõ nguồn gốc.


3

MỤC LỤC


Trang
Lời cảm ơn…………………………………………………………………1
Lời cam đoan………………………………………………………………2
Mục lục…………………………………………………………………….3
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài…………………………………………………………5
2. Mục đích nghiên cứu……………………………………………………10
3. Nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………………………10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………………….11
5. Phương pháp nghiên cứu…………………………...................................12
6. Đóng góp của luận văn…………………………………………………..12
NỘI DUNG
Chương 1
Tiểu thuyết Lê Lựu trong dòng chảy văn học thời kì đổi mới................13
1.1. Bức tranh văn học Việt Nam thời kì đổi mới………………………….13
1.2. Lê Lựu - sáng tác và quan niệm về nhận thức lại thực tại……………..17
1.2.1. Quá trình sáng tác của Lê Lựu……………………………………….17
1.2.2. Quan niệm về nhận thức lại thực tại…………………………………19
1.2.3. Nhận thức lại - cảm hứng chủ đạo trong Thời xa vắng ……………..21
1.2.4. Tiểu thuyết Lê Lựu và vấn đề nhận thức lại thực tại ………………..26
Chương 2
Nội dung nhận thức lại trong Thời xa vắng……………………………...31
2.1. Nhận thức lại vấn đề xã hội…………………………………………….31
2.1.1. Vấn đề chiến tranh……………………………………………………31
2.1.2. Vấn đề nông thôn……………………………………………………..43
2.1.2.1. Đời sống nông thôn………………………………………………....43


4


2.1.2.2. Bản chất người nông dân……………………………………………52
2.2. Vấn đề con người cá nhân………………………………………………58
2.2.1. Cá tính con người ………………………………………………... … 58
2.2.2. Hạnh phúc cá nhân……………………………………………............71
2.3. Nhận thức lại vấn đề văn học …………………………………………..74
2.3.1. Nhận thức lại quan niệm về hiện thực………………………………...75
2.3.2. Nhận thức lại quan niệm về con người……………………………......76
2.3.3. Nhận thức lại vai trò của văn học…………………………………... ..78
Chương 3
Cách tân nghệ thuật gắn với nhu cầu nhận thức lại thực tại……………81
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ……………………………………….....81
3.1.1. Đặt nhân vật trong tình huống xung đột………………………………83
3.1.2. Đặt nhân vật trong tương quan tính cách và số phận……………… 88
3.1.3. Khai thác quá trình tự ý thức của nhân vật …………………………...92
3.2. Ngôn ngữ……………………………………………………………… .94
3.2.1. Ngôn ngữ đời thường, cá tính hóa…………………………………….95
3.2.2. Ngôn ngữ đậm chất triết lí…………………………………………….99
3.3. Giọng điệu……………………………………………………………..101
3.3.1. Giọng chiêm nghiệm, triết lí ………………………………………..103
3.3.2. Giọng tiếc nuối, cảm thương………………………………………...105
3.3.3. Giọng mỉa mai, giễu nhại …………………………………………..106
KẾT LUẬN..................................................................................................109
THƯ MỤC THAM KHẢO……………………………………………….111


5

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Văn học là hoạt động nhận thức và sáng tạo thẩm mỹ theo qui luật
của cái đẹp. Đối tượng nhận thức của nó là toàn bộ hiện thực. Những hiểu biết
trong tác phẩm giúp văn học trở thành cuốn bách khoa toàn thư về đời sống
xã hội. Nhờ khả năng đi sâu khám phá nhiều chiều kích khác nhau của đời
sống và tâm hồn, văn học có khả năng nhận thức cuộc sống, khám phá thực
tại và thức tỉnh ý thức con người.
1.2. Sau chiến thắng năm 1975, đất nước bước vào giai đoạn hòa bình.
Đổi mới trở thành nhu cầu cấp thiết trên mọi lĩnh vực của cuộc sống. Văn học
có sự thay đổi tư duy nghệ thuật dẫn đến đổi mới quan niệm về hiện thực, con
người, sáng tạo nghệ thuật… đòi hỏi người viết phải có cái nhìn mới, thỏa
đáng hơn cho những vấn đề đang tồn tại và nảy sinh trong cuộc sống. Người
đọc có nhu cầu nhìn hiện thực toàn vẹn trên nhiều phương diện chứ không chỉ
thiên về hiện thực của mơ ước như trong văn học trước 1975.
1.3. Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) đáp ứng nhu cầu đổi mới toàn
diện đất nước. Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị, cuộc gặp gỡ của tổng bí thư
Nguyễn Văn Linh với đại diện giới văn nghệ sĩ vào cuối năm 1987 thổi một
luồng gió mới vào đời sống văn học nghệ thuật, mở ra thời kì đổi mới của
văn học Việt Nam trên tinh thần đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật.
Khuynh hướng Nhận thức lại thực tại với cảm hứng phê phán mạnh mẽ trên
tinh thần nhân bản trở thành xu hướng mới của văn học. Tiểu thuyết Thời xa
vắng của Lê Lựu được coi là tác phẩm khơi nguồn cho khuynh hướng này và
trở thành sự kiện văn học nổi bật trong những năm 1986 - 1987.
1.4. Tác dụng nhận thức không phải là chức năng duy nhất của văn
học. Nhưng trong thời đại mà “con người nhìn mọi vật xung quanh và số phận
của mình hết sức tỉnh táo thì khả năng hiểu biết và khám phá này của văn


6

nghệ cần phải đề cao hơn bao giờ hết” [65, tr.85], Nhận thức lại thực tại để

hướng tới tạo dựng cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn hơn cho con người trên
những giá trị nhân bản. Thời xa vắng là tâm huyết của nhà văn Lê Lựu “Phải
viết một cái gì về thân phận con người” [73, tr.95]. Nhà văn khám phá cuộc
sống từ trải nghiệm của cá nhân để có góc nhìn mới về vấn đề vốn không mới.
Thời xa vắng đã chạm đến tầng sâu thẳm trong tâm hồn con người bằng tinh
thần tự “mổ xẻ” bản thân thẳng thắn và quyết liệt. Từ bi kịch cá nhân, nhà văn
đi đến soi sáng vấn đề của thời đại mình. Tiếp cận Vấn đề nhận thức lại thực
tại trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu, người viết mong có được
hiểu biết về một chiều hướng vận động của văn học Việt Nam thời kì đổi mới,
bổ sung kiến thức cho bài giảng về văn học hiện đại ở trường phổ thông đồng
thời học tập một cách nhìn cuộc sống trong diện mạo phức tạp nhưng đầy hấp
dẫn của nó.
Lê Lựu được coi là một trong những nhà văn tiên phong trong đổi mới
văn học. Thời xa vắng là tác phẩm hấp dẫn bạn đọc ngay khi xuất hiện. Bởi
vậy, đã có khá nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về nhà văn Lê Lựu và sự
nghiệp sáng tác của ông. Trong đó, nhiều bài đã dành sự quan tâm đặc biệt
cho tiểu thuyết Thời xa vắng.
1. Đánh giá chung về Lê Lựu và các sáng tác của ông
Nhà thơ Trần Đăng Khoa có nhiều nhận xét độc đáo, tinh tường về Lê
Lựu. Đánh giá chung về sáng tác của nhà văn, ông cho rằng: “Lê Lựu biết
cuốn hút người đọc bằng một thứ văn đọc không nhạt. Ngay ở những chuyện
xoàng xoàng, người đọc vẫn thu lượm được một cái gì đó(...) nghĩa là đọc
anh không bị lỗ trắng. cũng bởi Lê Lựu là nhà văn không chấp nhận sự nhạt
nhẽo, tầm thường. Ở bất kì tác phẩm nào dù lớn hay nhỏ Lê Lựu cũng có vấn
đề gì đấy gửi gắm” [73, tr.669].
Nhà phê bình Ngô Thảo nhận xét: “Lê Lựu là một người đang tìm tòi.
Truyện nào của anh cũng tìm được những nét tính cách mới, những hướng


7


khai thác vấn đề mới. Anh có năng lực quan sát khá nhạy bén, sắc sảo và một
bút lực đủ sức cắt rời những mảng đời bề bộn tươi nguyên vào trang sách, cái
khả năng rất đáng quý ở một cây bút trẻ” [84].
Tác giả Lê Hồng Lâm trong bài viết: Nhà văn Lê Lựu “Đi đến tận cùng
tính cách nhân vật” có nhận xét xác đáng “Quyết liệt - có thể gọi tên cái tính
cách đó của nhà văn Lê Lựu trong cuộc sống đời thường cũng như khi ông
thể hiện nó trên trang viết (…) Ông luôn viết hết mình như ông sống, yêu ghét
rạch ròi và đặc biệt là đi đến tận cùng tính cách của nhân vật” [73, tr.703].
Trần Bảo Hưng cho rằng “Thô mộc hồn nhiên và đầy ắp chất sống ngay cả khi nghĩ ngợi triết lí cũng rất hồn nhiên, cũng là triết lí bật lên trực
tiếp từ đời sống. Tất cả dường như đã trở thành phong cách, thành cá tính
của Lê Lựu” [30].
Tác giả Đinh Quang Tốn nhận xét “Văn Lê Lựu có giọng riêng, có
duyên riêng”, “ Không rành rẽ, không mạch lạc nhưng có một chất nhựa gì
đấy ở bên trong”[73, tr.659]. Ông đưa ra nhận định về vị trí của nhà văn Lê
Lựu “ Nếu trong tổng số sáu trăm hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, cứ mười
người chọn lấy một người tiêu biểu, thì Lê Lựu là một trong số sáu mươi nhà
văn ấy” [73, tr.663].
Những ý kiến trên đều thống nhất đề cao tâm huyết của Lê Lựu trong
sáng tạo nghệ thuật, khẳng định những trang văn của ông thể hiện phong cách
độc đáo, đánh giá cao vị trí của Thời xa vắng trong văn học Việt Nam thời kì
đổi mới.
2. Đánh giá về tiểu thuyết Thời xa vắng
Ngay khi ra đời, Thời xa vắng đã thu nhận nhiều ý kiến đánh giá của
các nhà nghiên cứu. Tác giả Phong Lê cho rằng Thời xa vắng là “sự đón
nhận trước yêu cầu nhìn thẳng vào sự thật và nhận thức lại lịch sử được đề ra
với Đại hội VI, cuối năm 1986” [40].


8


Tác giả Nguyễn Hòa nhận thấy Thời xa vắng là sự “đi tìm lại những
chân giá từng bị đánh mất, từng bị lãng quên”. “Viên đại bác Thời xa vắng
khoan thủng các tấm màn vô hình che giấu nhiều điều lâu nay chúng ta không
rõ tới. Quá khứ đâu chỉ là chiếc bánh ngọt ngào mà có cả vị đắng cay” [26].
Nguyễn Văn Long trong bài “Một số vấn đề cơ bản trong nghiên cứu
lịch sử Văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975” in trong Văn học Việt Nam sau
1975, những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy cho rằng “Vào nửa cuối những
năm 80 và đầu những năm 90 đã phát triển mạnh xu hướng nhận thức lại
thực tại với cảm hứng phê phán mạnh mẽ trên tinh thần nhân bản [41, tr.11].
Tác giả nói đến sự biến đổi theo xu hướng dân chủ hóa của văn học “Văn học
thời kì này không hề từ bỏ vai trò vũ khí tinh thần - tư tưởng của nó, nhưng
nó được nhấn mạnh trước hết ở sức mạnh khám phá thực tại và ý thức thức
tỉnh về sự thật, ở vai trò dự báo, dự cảm” [41, tr.14] Theo tác giả, tiểu thuyết
Thời xa vắng của Lê Lựu được coi là tác phẩm khơi dòng cho khuynh hướng
“Nhận thức lại”, “Nhìn thẳng vào sự thật” của văn học thời kì đổi mới.
Tác giả Nguyễn Văn Lưu khẳng định tác phẩm “phản ánh sinh động và
chân thực quá trình chuyển biến trong cách nhìn nhận đánh giá lại thực tại”;
“Tác giả đã thể hiện những sự đổi mới cái nhìn vào hiện thực với nhu cầu
cấp thiết phải nhận thức lại thực tại” [42].
Tác giả Kim Hồng trong bài viết in trên tạp chí văn học số 5 năm 1988
cũng có nhận xét “Thời xa vắng của Lê Lựu là một tác phẩm giàu năng
lượng thật sự”; “Tác phẩm đã cảnh tỉnh con người tự nhận thức lại mình tự
mình đi tìm lại những giá trị nhân bản đã từng bị lãng quên, bị làm mất. Và
chỉ có như vậy, năng lượng tính người trong con người và cuộc sống xã hội
mới được khởi động lại, mới phát huy tính tích cực xã hội của nó” [27].
Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn trong bài viết “Một đóng góp vào
việc nhận dạng con người Việt Nam hôm nay” cho rằng “Lê Lựu chỉ nói
riêng về con người, những mối quan hệ giữa người với người. Một vấn đề



9

muôn thủa mà cũng là vấn đề chúng ta nói đi nói lại rất nhiều (…) làm thế
nào để giúp con người nhận thức về chính mình đầy đủ hơn từ đó tìm được
cách sống hợp lí hơn, đấy là nhiệm vụ thiêng liêng mà mọi nền văn học chân
chính xưa nay muốn đảm nhận” [71].
Trong cuốn Văn xuôi Việt Nam 1975 - 1995 những đổi mới cơ bản, tác
giả Nguyễn Thị Bình nhận định Nhận thức lại là một khuynh hướng vận động
của văn học sau 1975. “Khuynh hướng này thường lấy quá khứ làm đối tượng
phân tích, không phải là toàn bộ quá khứ mà là những phần khuất lấp, những
vấn đề chưa được văn học thời kì trước quan tâm đúng mức” [10, tr.201].
Mai Hải Oanh tác giả chuyên luận Những cách tân nghệ thuật trong
tiểu thuyết Việt Nam đương đại giai đoạn 1986 - 2006 cũng cho rằng “Mỗi
lần lịch sử sang trang, con người lại có nhu cầu nhận thức lại lịch sử và bản
thân mình. Trong quá trình nhận thức ấy, họ nhìn ra giới hạn của thời đã
qua, nhận thấy sự ấu trĩ của mình trong quá khứ” [77, tr.100]. Tác giả cũng
phân chia các nhân vật trong văn học thời kì này thành nhân vật tự ý thức,
nhân vật bi kịch, nhân vật tha hóa, nhân vật dị biệt. Trong đó, nhân vật tự ý
thức gồm nhân vật giác ngộ ý thức cá nhân, nhân vật nhận thức lại lịch sử,
nhân vật “tự thú” và “sám hối”.
Như vậy, có thể thấy rằng Thời xa vắng là cuốn tiểu thuyết được đánh
giá cao ở khả năng mang đến những nhận thức lại về thực tại trên quan điểm
nhân văn. Mặc dù vẫn có những ý kiến trái chiều như nhận xét của tác giả
Mai Ngữ trong bài “Cái tâm và cái tài của người viết” đánh giá “cuốn tiểu
thuyết Thời xa vắng cũng là một thứ tâm lí chối bỏ quá khứ, một thứ quá khứ
nặng nề và cay nghiệt” [70] . Một số ý kiến khác chỉ ra nhược điểm của Lê
Lựu về kết cấu yếu, câu chữ rối, rậm…Nhìn chung các tác giả đều cho rằng
Thời xa vắng là tác phẩm tiêu biểu cho văn học thời kì đổi mới. Có khá nhiều
khóa luận và luận văn chọn tiểu thuyết của Lê Lựu làm đối tượng nghiên cứu.



10

Những công trình này phần lớn đều khai thác sâu sắc, công phu, có hệ
thống tiểu thuyết Lê Lựu trên những phương diện khác nhau, đưa ra nhận
định khái quát về tiểu thuyết Lê Lựu và đóng góp của nhà văn trên phương
diện sáng tạo nghệ thuật. Một số công trình nghiên cứu về thế giới nghệ thuật,
quan niệm nghệ thuật về con người, thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Lê
Lựu…
Vấn đề nhận thức thực tại được đề cập đến trong một số bài báo và công
trình nghiên cứu. Các tác giả đều khẳng định Nhận thức lại thực tại là phương
diện tạo nên giá trị đặc sắc cho tiểu thuyết Lê Lựu và là một khuynh hướng
sáng tác của văn học thời kì đổi mới nhưng những tìm hiểu riêng về vấn đề
này trong Thời xa vắng, một trong những cuốn tiểu thuyết tiên phong của văn
học thời kì đổi mới, thì hầu như chưa có.
Thời xa vắng không chỉ được đánh giá là tác phẩm mở đầu cho xu hướng
sáng tác Nhận thức lại thực tại mà còn thể hiện khá đầy đủ các vấn đề thực tại
mang ý nghĩa xã hội sâu sắc trong văn học thời kì đổi mới. Người viết muốn
thông qua việc tìm hiểu về Vấn đề nhận thức lại hiện thực trong tiểu thuyết
Thời xa vắng để khẳng định tính chất tiên phong trong quá trình đổi mới văn
học của tác phẩm đồng thời tìm hiểu về đóng góp của nhà văn Lê Lựu trong
tiến trình văn học dân tộc.
2. Mục đích nghiên cứu
- Khẳng định vị trí của tác phẩm Thời xa vắng trong sự nghiệp sáng tác của
Lê Lựu nói riêng và trong văn học thời kì đổi mới nói chung.
- Khái quát những vấn đề được nhận thức lại trong tiểu thuyết Thời xa
vắng.
- Tìm hiểu sáng tạo nghệ thuật độc đáo của tác phẩm.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn của chúng tôi tập trung giải quyết những nhiệm vụ nghiên
cứu chính sau


11

3.1 Khái quát bức tranh văn học Việt Nam thời kì đổi mới văn học và
vị trí của tiểu thuyết Thời xa vắng trong dòng chảy văn học thời kì này.
3.2 Phân tích các phương diện đời sống thực tại được nhận thức lại
trong tác phẩm.
3.3 Làm rõ cách tân nghệ thuật gắn với vấn đề nhận thức lại thực tại
trong tiểu thuyết Thời xa vắng.
3.4 Tìm hiểu ý nghĩa của vấn đề nhận thức lại thực tại trong văn học
sau đổi mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu
* Đề tài chủ yếu khảo sát tiểu thuyết Thời xa vắng
* So sánh với 5 tiểu thuyết khác của Lê Lựu
- Đại tá không biết đùa
- Chuyện làng Cuội
- Sóng ở đáy sông
- Hai nhà
- Thời loạn
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Tiểu thuyết Thời xa vắng được khám phá trên các phương diện hệ
thống nhân vật, thế giới nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật về con
người…Người viết nhận thấy sức hấp dẫn của tiểu thuyết này thể hiện rõ khi
các vấn đề khá gai góc của đời sống xã hội được nhận thức lại trên tinh thần
dân chủ. Quan niệm mới khiến nhiều vấn đề quen thuộc, bình dị bộc lộ lớp ý
nghĩa nhân bản lớn lao. Do vậy, người viết chọn tìm hiểu về Vấn đề nhận

thức lại thực tại trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu để tìm hiểu một
phương diện giá trị của tác phẩm đồng thời hiểu thêm một về một xu hướng
của văn học thời kì đổi mới.


12

5. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp hệ thống, phân loại, phân
tích. Trong đó, so sánh là phương pháp được chú trọng đặc biệt để làm nổi bật
vấn đề được nhận thức trong tác phẩm.
6. Đóng góp của luận văn
Từ việc hệ thống những khía cạnh khác nhau của vấn đề thực tại được
nhận thức lại trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu, người viết muốn
khẳng định sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn và tìm hiểu vấn đề nhận
thức lại thực tại như một nét đặc trưng của văn học thời kì đổi mới.


13

NỘI DUNG
Chương 1
TIỂU THUYẾT LÊ LỰU
TRONG DÒNG CHẢY VĂN HỌC THỜI KÌ ĐỔI MỚI

1.1. Bức tranh văn học Việt Nam thời kì đổi mới
Sau năm 1975, chiến tranh kết thúc mở ra một trang mới cho lịch sử
dân tộc. Cuộc sống dần trở lại quĩ đạo vốn có của thời bình nhưng văn học
vẫn xuôi theo quán tính cũ. Khoảng mười năm sau chiến tranh, văn học Việt
Nam bỗng rơi vào tình trạng mất dần độc giả. Giữa tác phẩm và bạn đọc có

một “khoảng chân không” tạo nên sự lệch pha: “Trong khi các nhà văn chúng
ta say sưa: Bây giờ hòa bình, vốn sống tích lũy bao nhiêu năm ăm ắp như “cá
tức trứng” muốn đẻ lắm rồi, thì giờ thì thừa mứa ra đó, bom đạn căng thẳng
hết rồi, vật chất cũng đỡ khốn đốn hơn nhiều, tha hồ mà viết, viết cho hết, cho
đã…thì bỗng dưng cái mối quan hệ vốn rất thắm thiết máu thịt giữa văn học
và công chúng, giữa sáng tác và người đọc đột nhiên lạnh nhạt hẳn đi, hẫng
hụt hẳn đi. Người đọc mới hôm qua còn mặn mà thế mà bỗng dưng bây giờ
quay lưng lại với anh. Họ không thèm đọc anh nữa. Sách anh viết ra, hăm hở
dày cộm nằm mốc trên các quầy. Người ta bỏ anh. Người ta đi đọc sách Tây
và đọc …Nguyễn Du” [69]. Sự lệch pha này ban đầu gây hoang mang cho
người cầm bút nhưng rồi chính họ đã tìm ra câu trả lời đích đáng. Chiến tranh
lùi xa, cuộc sống thay đổi rất nhiều nhưng văn học lại không khác trước kia là
mấy. Nhịp sống đời thường không hề giản đơn, xuôi chiều, những mặt còn
khuất lấp trong chiến tranh nay trở nên cấp thiết và đòi hỏi vị trí xứng đáng
của nó. Vô vàn câu hỏi đặt ra cho con người trong dòng chảy xô bồ của cuộc
sống đời thường đòi hỏi phải có câu trả lời thỏa đáng. Nhiều quan niệm mang
tính chuẩn mực trước đây không còn giữ được sức thuyết phục. Người đọc
tìm đến văn học với khao khát tìm hiểu sự thật, muốn khám phá cuộc sống


14

phong phú, phức tạp như diện mạo đích thực của nó. Họ muốn có được nhận
thức chân xác về cuộc đời để tìm cho mình bài học nhân sinh thế sự.
Các nhà văn đón nhận nhu cầu này như một thách thức trong quá trình
sáng tạo. Không ít nhà văn trăn trở, tìm cách đổi mới tư duy nghệ thuật trong
việc phản ánh hiện thực để đáp ứng nhu cầu đổi mới văn học. Nguyễn Minh
Châu được coi là nhà văn tiên phong, người mở đầu tinh anh trong công cuộc
đổi mới văn học. Ông kêu gọi “ Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn
nghệ minh, các nhà văn phải tự “cởi trói” trong sáng tác” [14]. Nhà văn

Nguyên Ngọc đề nghị “ Phát huy đầy đủ chức năng xã hội của văn học nghệ
thuật” khắc phục tình trạng văn nghệ chỉ làm nhiệm vụ “minh họa chính trị”.
[68] vì cuộc sống đâu phải phẳng lì, đơn điệu, nó phức tạp, xù xì, gai góc và
đó mới là khuân mặt đích thực của nó. Nhiều nhà văn đánh giá lại sáng tác
của chính mình trên quan điểm đổi mới. Nguyễn Khải gọi các sáng tác của
mình trong giai đoạn 1945 - 1975 là “cái thời lãng mạn” còn nhà văn Lê Lựu
cho rằng các sáng tác của ông trước Thời xa vắng là “văn học sự vụ”, văn
học công việc” và tuyên bố: “Tôi tự bảo không thể viết như trước được nữa”
[98].
Các cuộc hội thảo về mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị, mối quan
hệ giữa văn học và hiện thực thu hút sự tham gia đông đảo của các nhà văn,
nhà phê bình. Nhờ đó, nhiều nhận thức xác đáng về các vấn đề có ý nghĩa
định hướng cho văn học được khẳng định. Trong điều kiện lịch sử nhất định,
văn học cần phục vụ mục tiêu trọng đại giải phóng dân tộc nhưng trong hoàn
cảnh mới, văn học cần phát huy bản chất đặc thù của mình. Hiện thực mà văn
học hướng đến cần được hiểu là hiện thực cuộc sống con người với tất cả sự
phong phú, phức tạp của nó.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) là sự kiện lịch sử có tác động
sâu sắc đến văn học nghệ thuật. Nó tạo bầu không khí dân chủ, khuyết khích
nhà văn tích cực tìm tòi, thể nghiệm những sáng tạo mới mẻ. Tổng bí thư


15

Nguyễn Văn Linh kêu gọi “đổi mới tư duy”, “nhìn thẳng vào sự thật”. Nghệ
sĩ cần được tự do trong sáng tác và bày tỏ nhận thức về cuộc sống bằng trải
nghiệm của của mình. Nhận thức lại thực tại không còn là nhu cầu của cá
nhân nghệ sĩ mà còn là nhu cầu của thời đại. Những quan niệm mới mẻ về
văn hóa, văn nghệ của Đảng làm thay đổi quan điểm và nhận thức về văn học.
Văn học vận động theo hướng dân chủ hóa, trước hết là trong nhận

thức về con người. Văn xuôi trước 1975 nhìn nhận con người và các giá trị
của nó theo nguyên tắc của giai cấp xã hội. Theo đó, các nhân vật thuộc giai
cấp công - nông - binh thường được lí tưởng hóa mang bản chất tốt đẹp của
giai cấp mình; địa vị cao mang lại cho con người khả năng tiếp cận chân lí và
hoàn thiện mình hơn; con người có sự phân định rành rọt tốt - xấu, phải - trái.
Do đó, các đối tượng có thể được qui vào khuân mẫu nhất định. Sự phản ánh
này không tránh khỏi sự phiến diện trong đánh giá về con người. Thời kì đổi
mới, khuynh hướng dân chủ hóa giúp nhà văn nhìn nhận cuộc sống đa chiều
và con người bình đẳng trong sự quan sát và phản ánh của nhà văn. Con
người với tính cách và số phận cá nhân trở thành đối tượng khám phá đến tận
cùng bản chất. Con người là sự tổng hòa, đan xen của nhiều mối quan hệ và
phẩm chất, có sự cao thượng bên cạnh cái thấp hèn, lí tưởng đan xen với dục
vọng, cái xấu xen lẫn vào cái đẹp. Bản chất đích thực của con người nhiều khi
không trùng khít với giá trị và sự thể hiện bên ngoài của nhân vật. Xóa bỏ
nguyên tắc cứng nhắc trong nhận thức về con người, văn xuôi sau đổi mới có
được sự phong phú trong miêu tả, thể hiện và đi đến khám phá toàn vẹn về
đối tượng này.
Hiện thực trong văn học thời kì đổi mới được nới rộng phạm vi thể
hiện. Không chỉ có hiện thực cách mạng, các biến cố trong đời sống cộng
đồng mà còn có hiện thực của cuộc sống hàng ngày với các quan hệ thế sự
phức tạp, đời sống cá nhân riêng tư với hạnh phúc, khát vọng, bi kịch của
riêng nó. Nhiều mảng hiện thực mới được bổ sung khiến văn học có khả năng


16

đi sâu, thâm nhập vào những ngóc ngách của đời sống xã hội và tâm hồn con
người. Dường như không còn có những vùng đất cấm kị với văn xuôi. Những
vùng hiện thực một thời phải né tránh nay lại có sức thu hút mạnh mẽ hơn bao
giờ hết. Những quan niệm ấu trĩ, sai lầm trong quá khứ được lật xới trên tinh

thần nhận thức lại. Những tiêu cực, bất cập trong đời sống được phanh phui,
mổ xẻ với thái độ thẳng thắn, nghiêm khắc nhằm mang lại nhận thức sâu sắc
hơn về thực tại.
Sự thức tỉnh ý thức cá nhân trên cơ sở tinh thần nhân bản là nền tảng tư
tưởng và cảm hứng chủ đạo bao trùm văn học sau 1975. Văn học mở rộng đề
tài, chủ đề và ngày càng đi tới quan niệm toàn vẹn, sâu sắc hơn về con người.
Con người là điểm xuất phát, đối tượng khám phá và đích đến cuối cùng của
văn học. Đồng thời, con người cũng là điểm qui chiếu và thước đo của mọi
vấn đề xã hội. Nhưng con người lại là một thực thể đa dạng của ý thức và vô
thức, con người tư tưởng và bản năng, khát vọng và dục vọng…cho nên văn
học cũng cần đi đến nhận thức toàn diện trên cơ sở nhiều bình diện khác nhau
của đời sống.
Trong thời kì chiến tranh và cách mạng, văn học nhìn con người chủ
yếu ở tư cách công dân, giai cấp mà bỏ qua các bình diện khác. Nếu có đề cập
đến thì các khía cạnh khác luôn được qui chiếu bằng các giá trị có tính chất
cộng đồng chứ không phải con người như một cá thể, thực thể sống. Nhân vật
có thể qui vào chính diện hay phản diện, tích cực hay tiêu cực và được phân
chia theo các tầng lớp xã hội, giai cấp nông dân, công nhân, người lính, bà
mẹ, phụ nữ…Văn xuôi thời kì đổi mới rất khó có thể có một bảng liệt kê bao
quát được hết các loại nhân vật vì sự phong phú trong thể hiện con người.
Con người với trăm ngàn mảnh đời khác nhau “đầy vết dập xóa trên thân thể
và trong tâm hồn”. Các tác giả không chỉ đi sâu vào thân phận con người mà
còn đề cập đến khát vọng sống, hạnh phúc cá nhân, tình yêu đôi lứa.


17

Vào nửa cuối những năm 80 đầu những năm 90, khuynh hướng Nhận
thức lại thực tại với cảm hứng phê phán trên tinh thần nhân bản phát triển
mạnh mẽ. Tiểu thuyết Thời xa vắng được coi là tác phẩm khơi dòng cho

khuynh hướng này. Vấn đề chiến tranh, nông thôn, con người và các giá trị
sống được coi là tâm điểm của sự nhận thức lại. Bức tranh hiện thực nhiều
mảng tối trước đây bị khuất lấp nay đã hiện trên trang sách xót xa, nhức nhối
về nhận thức lầm lạc của một đời người, của cả thế hệ.
Nhiệt tình xã hội, khát vọng dân chủ và tinh thần nhìn thẳng vào sự thật
là động lực cho văn học thời kì đổi mới phát triển mạnh mẽ. Tư duy văn học
mới đã hình thành làm thay đổi các quan niệm về con người, vai trò, chức
năng của văn học đồng thời, sự đổi mới tư duy nghệ thuật cũng thúc đẩy
mạnh mẽ sự tìm kiếm, thể nghiệm các thủ pháp, bút pháp nghệ thuật, phát huy
cá tính và phong cách cá nhân của nhà văn. Xu thế hội nhập, giao lưu với văn
hóa thế giới khiến văn học ngày càng gia tăng tính hiện đại.
Từ giữa những năm 90 (thế kỉ XX) đến nay, văn học về cơ bản vẫn đi
theo xu hướng đổi mới đã hình thành từ giữa những năm 80. Nếu như trước
đó, động lực thúc đẩy đổi mới văn học là tinh thần trong sáng tạo thì văn học
gần đây quan tâm nhiều hơn đến sự đổi mới chính nó. Hình thức nghệ thuật,
phương thức biểu hiện mới mẻ là thử nghiệm trong sáng tác của nhiều nhà
văn. Văn xuôi có nhiều đổi mới về nghệ thuật tự sự, nghệ thuật xây dựng
nhân vật. Các kĩ thuật như dòng ý thức, lắp ghép, hiện thực huyền ảo…không
còn xa lạ với bạn đọc. Tuy vậy, độc giả vẫn đang chờ đợi những tác phẩm có
giá trị. Sáng tạo vì một nền văn học xứng với tầm vóc dân tộc vẫn là mục tiêu
phấn đấu của các nhà văn.
1.2. Lê Lựu - sáng tác và quan niệm về nhận thức lại thực tại
1.2.1 Quá trình sáng tác của Lê Lựu
Lê Lựu sinh ngày 12 - 12 - 1942 trong gia đình nhà nho nghèo tại thôn
Mẫn Hòa, xã Tân Châu, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Hiện nay, ông


18

sinh sống ở Hà Nội, vẫn cần mẫn sáng tác và còn kiêm thêm chức danh giám

đốc doanh nhân văn hóa. Chặng đường sáng tác của nhà văn khá thăng trầm
và nhiều thử thách nhưng ông vẫn kiên định trên con đường nghệ thuật đã
chọn. Lê Lựu viết với tâm niệm: “sống thế nào viết thế ấy”, “ tốt nhất là
không mượn ai cả”. Hành trình sáng tác của ông có thể tạm chia làm hai thời
kì trước và sau thời kì đổi mới văn học.
Thời kì trước đổi mới, Lê Lựu làm báo trong quân đội. Năm 1963,
truyện ngắn đầu tay của ông ra đời có tên là Tết làng Mụa. Sau đó là một loạt
truyện ngắn Trong làng nhỏ, Người cầm súng, Phía mặt trời, Truyện kể từ
đêm trước…Song, tiểu thuyết mới là thể loại làm nên dấu ấn đặc sắc của nhà
văn. Khi Lê Lựu viết Người về đồng cói, người đọc đã cảm được chất tiểu
thuyết trong truyện ngắn này. Đây cũng là tác phẩm mang lại cho nhà văn giải
nhất trong cuộc thi sáng tác do Bộ lao động Thương binh Xã hội, Tổng cục
Chính trị và Bộ Văn hóa tổ chức. Sau này, tác phẩm được chuyển thể thành
kịch bản phim. Năm 1972, Lê Lựu đi Trường Sơn và cho ra đời cuốn tiểu
thuyết Mở rừng. Tác phẩm này tiêu biểu cho đề tài chiến tranh và người lính
cách mạng. Ngay sau khi miền nam hoàn toàn giải phóng, Lê Lựu vào Sài
Gòn và cho ra đời tiểu thuyết Ranh giới. Tác phẩm viết về cuộc truy bắt lực
lượng phản động đang tìm mọi cách chống phá cách mạng trong thời kì đất
nước mới giải phóng.
Thời kì đổi mới, Lê Lựu bắt đầu ấp ủ và viết về những điều tâm huyết
nhất, đau đớn nhất với mong muốn “lấp đầy chỗ khiếm khuyết” mà trong
chiến tranh, vì mục tiêu giải phóng dân tộc nên văn học chỉ viết về hạnh phúc
mà không nói đến bi kịch, đau khổ. Tác phẩm Thời xa vắng đánh dấu sự
chuyển hướng trong sáng tác của nhà văn. Sau thành công bước đầu, Lê Lựu
viết một loạt tiểu thuyết theo xu hướng này Đại tá không biết đùa (1989),
Chuyện làng Cuội (1991), Sóng ở đáy sông (1995), Hai nhà (2000), Thời loạn
(2009). Hai tiểu thuyết của nhà văn được chuyển thể thành phim là Thời xa


19


vắng và Sóng ở đáy sông. Lê Lựu nhận được một số giải thưởng cho tác phẩm
của mình. Giải nhì (không có giải nhất) cuộc thi truyện ngắn Báo Văn nghệ
(1967 - 1968) với truyện ngắn Người cầm súng; giải thưởng Hội Nhà văn Việt
Nam (1986) với tiểu thuyết Thời xa vắng. Gần đây nhất, tiểu thuyết Thời loạn
ra đời cũng trên tinh thần nhận thức lại thực tại. Đó là dấu hiệu cho thấy bản
lĩnh và những trăn trở tìm tòi không ngừng của nhà văn trên con đường nhận
thức sâu sắc giá trị sống đích thực của con người.
1.2.2. Quan niệm về nhận thức lại thực tại
Nhận thức thuộc về bản chất của hoạt động ý thức. Hoạt động này giúp
con người hiểu rõ các đối tượng cần biết đến từ tên gọi, khái niệm đến nghĩa
và ý nghĩa; từ hiện tượng đến bản chất; từ hình thức đến nội dung… “Nhận
thức thông thường tạo cơ sở cho nhận thức thẩm mỹ - một loại nhận thức sự
đặc thù nhằm khám phá mọi hiện tượng dưới ánh sáng của lí tưởng thẩm mỹ
và cái đẹp(…) Thực chất đó là sự phát hiện các giá trị tinh thần để nâng cao
phẩm cách con người” [65, tr.218].
Nói đến chức năng nhận thức là nói đến khả năng của văn học trong
việc cung cấp tri thức, mang đến sự hiểu biết, giúp con người khám phá thế
giới hiện thực, phản ánh cuộc sống trong toàn bộ tính tổng hợp toàn vẹn của
nó. Văn học trước hết là cái kho chứa khổng lồ những tri thức về đời sống xã
hội vì cuộc sống con người là đối tượng nhận thức trung tâm của nó. Văn học
nhận thức cái khái quát qua cái cụ thể, cái mới lạ trong cái cụ thể và quen
thuộc, khiến con người nâng cao khả năng tự nhận thức. Với người đọc, quá
trình nhận thức hiện thực đời sống trong tác phẩm đồng nghĩa với quá trình
nếm trải, sống lại từ đầu một biến cố, một tâm trạng, một tình huống hay số
phận để giác ngộ, hiểu ra vấn đề đặt ra trong đời sống xã hội của con người.
Bằng hình tượng nghệ thuật, văn học giúp con người nhận thức các
giá trị tinh thần kết tinh trong thế giới đối tượng, khơi gợi khả năng biến quá
trình nhận thức thế giới khách quan thành quá trình tự nhận thức về bản thân.



20

Nhận thức này được kết tinh trong tính cách nhân vật. Tính cách cũng là nội
dung cơ bản của nhân vật văn học. Tính cách kết tinh các quan hệ xã hội của
con người. Khám phá các số phận, tính cách khác nhau mang lại cho con
người hiểu biết sâu sắc về đời sống. Nhận thức thẩm mỹ của văn học phụ
thuộc vào trình độ chung của đời sống và những yêu cầu xã hội đặt ra cho
từng thời cho nên có biểu hiện khác nhau giữa các thời kì văn học.
Theo tác giả Nguyễn Văn Lưu, trong Thời xa vắng “Nhận thức lại
thực tại ở đây không phải là phủ nhận, gạt bỏ những thành quả trí tuệ mà
chúng ta đã được. Nhận thức lại thực tại ở đây là yêu cầu ở nhà văn sự khám
phá sâu hơn vào những vùng hiện thực mà trước đây do nhu cầu của lịch sử
hoặc do sự vận động của thực tại đời sống nên chưa được chú ý đúng mức.
Những vùng hiện thực đó đến nay trở nên sôi động và cấp thiết đòi hỏi được
nhận thức và phản ánh sâu sắc” [42].
Nhận thức lại được coi là trong những khuynh hướng vận động của
văn học Việt Nam thời kì đổi mới. “ khuynh hướng này thường lấy quá khứ
làm đối tượng phân tích, không phải toàn bộ quá khứ mà là những phần
khuất lấp, những vấn đề chưa được văn học thời trước quan tâm đúng mức”
[10, tr.201]. Tác phẩm viết theo xu hướng này vẫn lấy các sự kiện lịch sử làm
nền cho câu chuyện nhưng trung tâm soi ngắm của tác giả là số phận con
người. Văn học không dùng con người làm phương tiện biểu đạt lịch sử như
trước mà qua thăng trầm của lịch sử mà khắc họa số phận con người. Lịch sử
được đánh giá từ cái nhìn nhân bản do đó có nhiều vấn đề được đặt vào
“trường” nhận thức lại. Tuy nhiên, Nhận thức lại thực tại không phải là lối
“minh họa ngược”, nhìn lại quá khứ bằng định kiến lệch lạc, mặc cảm cá
nhân, làm cho hiện thực mất đi tính khách quan, chân thật. Nhu cầu được nói
thật đã khơi nên dòng văn học chống tiêu cực phát triển ồ ạt từ giữa những
năm tám mươi. Mặt tiêu cực, mặt trái của xã hội và cái xấu, cái ác được

phanh phui đến tận cùng. Nhưng “sự thật” hay tính “hiện thực” không phải là


21

mục đích duy nhất của văn học. Chưa kể đến việc một số tác phẩm, vì nhiệt
tình chống lại cái xấu lại sa vào cường điệu, phóng đại theo định kiến và áp
đặt của bản thân dẫn đến bóp méo hiện thực.
Hiện thực cần có cái nhìn đa dạng, nhiều chiều, sự suy ngẫm, nghiền
ngẫm về nó. Việc nhà văn lựa chọn hiện thực nào không quan trọng bằng
cách đánh giá về nó. Kinh nghiệm của cá nhân tạo ra sự độc đáo, hấp dẫn
trong nhìn nhận, đánh giá hiện thực. Từ phản ánh đến nghiềm ngẫm về cuộc
sống, vai trò chủ thể của nhà văn tăng lên và thoát khỏi sự ràng buộc của “chủ
nghĩa đề tài”. Hiện thực được mô tả trở thành nơi gửi gắm suy ngẫm về cuộc
sống và nhận thức của con người về nó. Nhận thức lại trở thành một khuynh
hướng sáng tác tạo dấu ấn đặc sắc cho văn học thời kì đổi mới.
Nhận thức lại thực tại là sự đáp ứng yêu cầu nhìn thẳng vào sự thật.
Nhiều tác giả chọn xu hướng này để nhìn lại hiện thực thời kì qua, phơi bày
những mặt trái còn bị che khuất, lên án những tư tưởng, thói quen đã lỗi thời,
trở thành vật cản trên bước đường phát triển của xã hội.
1.2.3. Nhận thức lại - cảm hứng chủ đạo trong Thời xa vắng
“Cảm hứng chủ đạo là trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên
suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư tưởng xác định, một sự đánh
giá nhất định, gây tác động đến cảm xúc của những người tiếp nhận tác
phẩm” [74, tr.39]. Nhờ cảm hứng chủ đạo, nghệ sĩ thống nhất đề tài, tư tưởng
trong tác phẩm và khẳng định các nguyên tắc thế giới quan của mình trong tác
phẩm.
Nhận thức lại thực tại là cảm hứng bao trùm Thời xa vắng. Nó chi
phối thái độ nhà văn với hiện thực cuộc sống đồng thời tác động đến tình cảm
của bạn đọc. Thời xa vắng là thành công đầu tay của Lê Lựu trong xu hướng

sáng tác xem thực tại là vấn đề cần Nhận thức lại. “làm thế nào để giúp con
người nhận thức về chính mình đầy đủ hơn, từ đó tìm cách sống hợp lí hơn,
đấy vẫn là nhiệm vụ thiêng liêng mà mọi nền văn học chân chính xưa nay


22

muốn đảm nhận” [73, tr.620]. Nhà phê bình Vương Trí Nhàn cho rằng theo
nghĩa ấy, “Thời xa vắng nên được xem là cuốn sách biết làm đúng nhiệm vụ
một tác phẩm văn học cần làm”. Như vậy, sáng tác của Lê Lựu được đánh giá
cao ở khả năng hướng tới người đọc tới hiểu biết về cuộc sống trên tinh thần
nhận thức lại các vấn đề của thực tại.
Lê Lựu mang đến cho bạn đọc một hiện thực không giống như trong
văn học thời kì trước đó. Nhà văn chú ý đến khía cạnh nhức nhối, đáng buồn
của cuộc sống. Hiện thực trong Thời xa vắng không phải là thứ hiện thực vừa
mới vừa lạ như ở Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài…Đấy là thứ
hiện thực “mới” mà không “lạ”, có tác dụng mở rộng vùng hiện thực đã quen
thuộc trên tinh thần lật xới lại các vấn đề của đời sống, trả lại cho chúng vị trí
quan tâm xứng đáng trong đời sống con người.
Lê Lựu không phải là người khởi đầu cho khuynh hướng này. Trước
khi Thời xa vắng ra đời, trên văn đàn đã xuất hiện một số tác phẩm mà người
đọc tinh ý thấy thấp thoáng nhu cầu Nhận thức lại thực tại. Nguyễn Minh
Châu thể hiện xu hướng này trong các truyện ngắn Bức tranh, Chiếc thuyền
ngoài xa, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành…Tiểu thuyết Đứng trước
biển của Nguyễn Mạnh Tuấn. Cha và con và…, Gặp gỡ cuối năm của Nguyễn
Khải cũng chỉ ra vấn đề cần có cái nhìn mới trước thực tại. Nhưng có lẽ, phải
đến khi Thời xa vắng ra đời vấn đề Nhận thức lại thực tại mới được ý thức
một cách rõ ràng và thuyết phục hơn: “nhu cầu nhận thức lại không phải chỉ
để công bằng hơn với quá khứ mà còn để diễn đạt ý thức cá nhân như một
bước phát triển mới của lịch sử cộng đồng” [10, tr.64]. Sau đó, các tiểu

thuyết Thượng đế thì cười của Nguyễn Khải; Bến không chồng của Dương
Hướng; Đám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng…là sự tiếp nối
xu hướng này trong văn học thời kì đổi mới.
Bên cạnh cảm hứng phê phán nổi trội ở một số tác phẩm thì phổ biến
và mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc hơn là cảm hứng về con người và thân


23

phận của họ. Nhà văn Nguyễn Minh Châu biến tác phẩm thành những cuộc
đối chứng trong tư tưởng để vượt lên những nhận thức sai lầm, hoặc máy
móc, giản đơn về con người, xã hội và qua đó tự phê phán nghiêm khắc bản
thân mình. Cảm hứng minh họa lùi xuống sau cảm hứng phân tích, đối thoại,
chiêm nghiệm. Nhà văn Nguyễn Khải đánh giá con người cá nhân qua cái
nhìn chế giễu, nhận thức lại để nhận ra giá trị đích thực trong cuộc sống.
Trong Thượng đế thì cười, nhân vật tôi đến cuối đời nhận thức lại về mình
trong sự soi chiếu đến tận cùng bản chất người để thấy cái xấu xa, hèn kém,
nhỏ mọn đứng bên cạnh cái tốt đẹp; cái được và mất trong cuộc đời…
Nhận thức lại thực tại không đồng nghĩa với “ xét lại” mà theo tinh
thần “ khi nhờ vào kinh nghiệm người ta gạt bỏ sai lầm khỏi cái chủ quan mà
nó bao hàm, người ta sẽ đi dần đến chân lý” (Bút kí triết học - Lênin). Tiểu
thuyết Lê Lựu thời kì đổi mới là hành trình tìm đến những chân giá trị của
cuộc sống. Nhà văn đặt ra trong tác phẩm những vấn đề “không mới” như vấn
đề chiến tranh, nông thôn, quyền sống của con người…Trên tinh thần nhận
thức lại thực tại, các vấn đề đó được nhìn nhận chân thực và mang ý nghĩa
tích cực hướng tới đề cao nhân tố con người theo hướng nhân văn. Tiểu
thuyết Lê Lựu nói riêng và các sáng tác theo xu hướng này nhờ đó mang sức
hấp dẫn của sự thật như nó đã từng tồn tại trong trong đời sống con người.
Thời xa vắng là lời tự bạch “nửa đời nhìn lại” của một con người
sống cuộc đời là chuỗi dài bi kịch. Hoàn toàn có thể xây dựng Sài thành nhân

vật anh hùng nhưng tác giả không đi theo lối mòn đó của văn học trước 1975.
Nhà văn quan tâm đến đau khổ của Sài trong thân phận con người và những
gì gần gũi nhất với nó. Điều tác giả muốn bạn đọc tiếp cận là một số phận cá
nhân với vấn đề của riêng nó.
Xét trên bình diện xã hội, Sài là người thành đạt. Gia đình rất nghèo
nhưng anh vẫn được đi học và học rất giỏi. Ra chiến trường, Sài lập được
chiến công, trở thành anh hùng. Sài may mắn trở về sau ngày đất nước giải


24

phóng, được tiếp tục đi học và trở thành giảng viên của một trường quân sự.
Sài là niềm tự hào của gia đình và mơ ước của nhiều người. Vậy, do đâu mà
Sài luôn trong tình trạng “vênh lệch” trong cuộc sống?
Nhà văn không những chỉ cho bạn đọc thấy Sài đã trưởng thành thế
nào trong vai trò xã hội mà còn nhìn nhận cuộc đời anh trên phương diện cuộc
sống cá nhân. Bất hạnh của Sài bắt đầu từ năm mười ba tuổi. Anh bị buộc
phải lấy vợ khi mới chỉ là một đứa trẻ chỉ thích học và chơi trò trận giả. Khi
bắt đầu có ý thức về việc phải sống chung với kẻ mà mình “ghét từ đầu đến
chân”, Sài đau khổ và uất ức nhưng lại luôn phải che giấu điều đó vì danh dự
của gia đình và danh hiệu của cá nhân. Sài phải sống bằng hai cuộc đời thật
và giả. Điều đó khiến Sài luôn ở trong tình trạng phải đối phó với dư luận và
giả tạo với bản thân. Dù biết mình phải chịu bất công nhưng Sài không dám
lên tiếng phản đối vì đó là nề nếp gia phong ăn sâu vào tiềm thức con người.
Đến khi Sài nhận ra tình yêu đích thực của mình thì anh rơi vào tình trạng bế
tắc. Sài trốn chạy tất cả bằng cách đi bộ đội. Nhưng, sống trong tập thể, con
người ấy vẫn cô đơn, không thể chia sẻ với ai đau khổ của mình. Anh chỉ còn
biết trút tâm sự của mình vào trang nhật kí. Càng thành đạt trong sự nghiệp
Sài lại càng bất hạnh trong tình cảm riêng tư. Tập thể áp đặt cho anh phải
“yêu vợ” thế là Sài có con mà vẫn không thể yêu nổi vợ. Với Hương, anh là

loại người đểu cáng, giả dối trơ trẽn. Sài vĩnh viễn mất đi tình yêu đẹp đẽ với
Hương bởi sai lầm không thể lấy lại được.
Cuộc đời Sài bị nguyên tắc ấu trĩ, cứng nhắc của tập thể chi phối. Với
quan điểm cá nhân phục tùng tập thể, tập thể yêu, ghét hộ cá nhân thì những
chuyện như đọc trộm nhật kí hay giám sát việc “yêu vợ” của người khác là dễ
hiểu. Tập thể nhào nặn cá nhân bằng sự áp đặt của dư luận. Tình trạng đó dần
tác động làm biến đổi tính cách nhân vật. Sống trong sự “bao cấp tinh thần”
của tập thể còn khiến Sài mắc căn bệnh chủ quan, đơn giản khi bước vào cuộc
sống thời bình. Sài say sưa với hào quang của người anh hùng và thỏa mãn


25

với những gì đã có với tâm lí “đi đánh nhau được thì làm gì cũng được”. Sau
khi được giải thoát khỏi cuộc hôn nhân làm anh đau khổ suốt một thời tuổi
trẻ, Sài hăm hở lao vào tìm kiếm tình yêu như để bù đắp thiệt thòi cho mình.
Từ sai lầm này Sài lao vào một lầm lạc khác. Sài không đủ tỉnh táo để nhận ra
giữa anh và Châu có một khoảng cách của hai thứ văn hóa, hai lối sống khác
biệt. Những tập thể lớn, nhỏ dạy anh sự phục tùng nhưng lại không dạy anh
lòng tự trọng cần thiết của một con người cho nên sống với Châu Sài luôn
nhượng bộ, cam chịu, hèn nhát. Sài sẽ còn bị lợi dụng, lừa dối, khinh rẻ khi
chưa có được bản lĩnh cá nhân, cá tính và lòng tự trọng. Từ bi kịch cá nhân,
tác giả muốn đặt vấn đề mang ý nghĩa thời đại. Có một Thời xa vắng, con
người chỉ sống với cộng đồng mà quên mất những bi kịch cá nhân. Khi người
ta sống mài mòn cá tính, thủ tiêu cá nhân đồng thời cũng sẽ đánh mất quyền
được sống là mình và đó là nguyên nhân sâu xa của nhiều bi kịch trong đời
sống.
Thời xa vắng nhìn lịch sử qua số phận cá nhân, sự kiện không còn lấn
át con người. Vấn đề trọng đại như chiến tranh cũng chỉ tồn tại như một biến
cố chi phối cuộc đời nhân vật. Hạnh phúc, khổ đau của con người trong cuộc

sống đời thường trở thành trung tâm vấn đề nhận thức của tác phẩm.
Sau Thời xa vắng, nhà văn Lê Lựu tiếp tục đi sâu vào những vấn đề
từng được đề cập đến như vấn đề chiến tranh ( Đại tá không biết đùa ); vấn đề
nông thôn Việt Nam (Chuyện làng Cuội); vấn đề con người và các giá trị
sống (Sóng ở đáy sông , Hai nhà, Thời loạn). Mặc dù còn nhiều ý kiến đánh
giá về tiểu thuyết Lê Lựu, thậm chí là trái chiều nhưng những tác phẩm này
đã đề cập đến vấn đề nóng hổi của đời sống và nhà văn vẫn kiên định với
hành trình mang lại nhận thức sâu sắc hơn về cuộc sống.
Thời xa vắng là một hướng tiếp cận hiện thực từ số phận cá nhân. Qua
những trải nghiệm, trả giá của cá nhân tiến tới nhận thức lại quan hệ giữa cá
nhân và xã hội, giữa con người và hoàn cảnh, nhận thức lại chính mình và


×