Tải bản đầy đủ (.pdf) (147 trang)

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả thanh tra trách nhiệm của các cơ quan hành chính Nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại tố cáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (918.35 KB, 147 trang )

Thanh tra chính phủ

Báo cáo tổng kết đề tài cấp bộ

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả thanh tra
trách nhiệm của các cơ quan hành chính
nhà nớc trong việc giải quyết
khiếu nại tố cáo

Chủ nhiệm đề tài: bùi nguyên suý

6599
08/10/2007
hà nội - 2007


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của Đề tài.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo là một trong những nhiệm vụ hết sức
quan trọng được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Ngay từ khi mới
được thành lập đến nay cùng với việc Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn
bản pháp luật, Đảng cũng có nhiều chỉ thị, nghị quyết để chỉ đạo, hướng
dẫn các cơ quan trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Luật Khiếu nại, tố
cáo năm 1998 và các lần sửa đổi bổ sung qua các năm 2004, năm 2005
cùng các văn bản pháp luật về các ngành, lĩnh vực đã quy định đầy đủ, chi
tiết hơn về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo; trách nhiệm,
nghĩa vụ của các cơ quan hành chính Nhà nước; việc thanh tra trách nhiệm
của các cơ quan, tổ chức nói chung và của cơ quan hành chính Nhà nước
nói riêng trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Tuy nhiên các ngành các cấp còn có nhận thức khác nhau về công tác


thanh tra trách nhiệm, đồng thời trong chỉ đạo tổ chức thực hiện cũng còn
chưa thống nhất. Chúng ta phải thấy rằng thanh tra trách nhiệm trong giải
quyết khiếu nại, tố cáo là nhiệm vụ rất quan trọng của các cơ quan hành
chính Nhà nước, nó có liên quan mật thiết đến hiệu quả công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo. Trong khi đó, các vấn đề như: nội dung thanh tra, phương
pháp thanh tra, cách thức tiến hành thanh tra cũng như bảo đảm hiệu quả
của việc thanh tra trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa được hiểu
và áp dụng một cách đầy đủ, thống nhất ở các Bộ, ngành, địa phương.
Chính vì vậy chúng ta cần phải nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và
1


thực tiễn của công tác này, từ đó có các biện pháp nhằm nâng cao hiệu lực,
hiệu quả công tác thanh tra trách nhiệm trong giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Bởi vậy, việc nghiên cứu đề tài “ Nâng cao hiệu lực, hiệu quả thanh
tra trách nhiệm của các cơ quan hành chính Nhà nước trong việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo” là công việc hết sức cần thiết. Kết quả nghiên cứu của đề
tài, một mặt sẽ đáp ứng yêu cầu giải quyết những vấn đề lý luận chung về
thanh tra, kiểm tra trách nhịêm giải quyết khiếu nại, tố cáo; mặt khác nó sẽ
góp phần tích cực, quan trọng vào nâng cao hiệu lực, hiệu quả giải quyết
khiếu nại, tố cáo, đáp ứng những vấn đề đặt ra từ thực tiễn công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay.
2. Mục đích và nội dung nghiên cứu.
2.1. Mục đích nghiên cứu.
Làm rõ những vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng về thanh tra trách
nhiệm của các cơ quan hành chính Nhà nước trong giải quyết khiếu nại, tố
cáo. Trên cơ sở đó nêu lên phương hướng và giải pháp nhằm nâng nâng cao
hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra trách nhiệm của các cơ quan hành
chính Nhà nước về giải quyết khiếu nại, tố cáo.


2.2. Nội dung nghiên cứu.
- Làm rõ các khái niệm thanh tra, kiểm tra trách nhiệm giải quyết
khiếu nại, tố cáo; làm rõ vai trò, vị trí và nội dung thanh tra trách nhiệm của
các cơ quan hành chính Nhà nước về giải quyết khiếu nại, tố cáo .
- Đánh giá những kết quả đạt được và những hạn chế trong công tác
thanh tra trách nhiệm của các cơ quan hành chính Nhà nước về giải quyết
khiếu nại, tố cáo và rút ra những nguyên nhân của hạn chế.

2


- Nêu lên phương hướng và đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm nâng
cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra trách nhiệm của các cơ quan hành
chính Nhà nước về giải quyết khiếu nại, tố cáo.

3- Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
3.1. Cơ sở lý luận:
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, Tư tưởng Hồ chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản
Việt nam về Nhà nước pháp quyền, về bảo đảm quyền dân chủ của nhân
dân nói chung và trong lĩnh vực khiếu nại, tố cáo nói riêng.

3.2. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài được thực hiện bởi các phương pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh, diễn dịch và quy nạp.

4. Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu về thanh tra trách nhịêm giải quyết khiếu nại, tố
cáo thuộc lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước. Trong đó tập trung chủ
yếu là công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan Bộ, ngang Bộ
và Uỷ ban nhân dân các cấp và một số cơ quan hành chính nhà nước khác.


5. Tiến độ thực hiện.
Trên cơ sở Quyết định số 245/QĐ - TTCP ngày 24 tháng 01 năm
2006 của Thanh tra Chính phủ, nhóm nghiên cứu đã triển khai theo các giai

3


đoạn từ tháng 2/2006 đến tháng 2/2007. Đến nay Đề tài đã có sự cộng tác
tích cực của các nhà nghiên cứu và nhà quản lý, Ban chủ nhệm đề tài đã tổ
chức hai Hội thảo về định hướng nghiên cứu thông qua Đề cương nghiên
cứu, Hội báo cáo tổng thuật của đề tài;
- Các nhà khoa học, nhà quản lý, Thanh tra viên cao cấp, Thanh tra
viên chính và các tham gia nghiên cứu viết bài với số lướng bài tuơng đối
phong phú, toàn diện.
Dưới đây là báo cáo Tổng quan kết quả nghiên cứu của đề tài.

4


CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THANH TRA, KIỂM TRA
TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
TRONG CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO

1.1- Cơ quan hành chính Nhà nước.
1.1.1- Khái niệm cơ quan hành chính Nhà nước trong bộ máy
Nhà nước.
Theo Hiến pháp hiện hành, Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,

vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Cũng theo qui định của Hiến pháp, bộ máy nhà nước bao gồm hệ
thống các cơ quan: Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Chủ tịch nước, Chính phủ
và Uỷ ban nhân dân các cấp, hệ thống Toà án nhân dân và Viện kiểm sát
nhân dân.
Như vậy, cơ quan hành chính nhà nước là một bộ phận cấu thành của
bộ máy nhà nước. Hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước gồm: Ở trung
ương có Chính phủ (gồm cả các Bộ và Cơ quan ngang Bộ, Cơ quan thuộc
chính phủ); ở địa phương có Uỷ ban nhân dân theo ba cấp là tỉnh (thành
phố trực thuộc trung ương), huyện (quận), xã (phường, thị trấn). Đối với
từng cấp chính quyền ở địa phương đều có các cơ quan chuyên môn được tổ
chức và hoạt động theo luật định.

5


Nếu như nội dung toàn diện của quản lý nhà nước bao gồm cả quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp thì nền hành chính chỉ là quyền hành pháp
trong hành động, là hoạt động quản lý cụ thể của bộ máy hành pháp. Nền
hành chính Nhà nước bao hàm toàn bộ các cơ quan thuộc chính quyền của
bộ máy hành pháp từ Trung ương tới các địa phương, toàn bộ các thể chế và
hoạt động của bộ máy ấy với tất cả những người làm việc, những cơ sở vật
chất, phương tiện cho hoạt động của bộ máy đó.
Với tư cách là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là cơ quan hành
chính Nhà nước cao nhất, Chính phủ nắm quyền thống nhất quản lý các
nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và các
hoạt động đối ngoại của Nhà nước; quản lý hệ thống thống nhất của bộ máy

hành chính Nhà nước từ Trung ưong đến cơ sở trong khuôn khổ hệ thống
chính trị hiện hành.
Cần nhấn mạnh rằng, nền hành chính Nhà nước thực thi chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước, tức là nhiệm vụ chính trị. Một mặt, Nhà nước là tổ
chức công quyền, nắm pháp quyền và là công cụ cai trị, quản lý của giai cấp
thống trị. Mặt khác, Nhà nước còn là tổ chức đại diện cho lợi ích chung của
toàn xã hội, quản lý toàn xã hội, bảo vệ quyền con người và quyền công
dân. Hai mặt gắn bó với nhau và là thống nhất. Hành chính gắn với chính
trị, phục vụ chính trị một cách chủ động; tự giác tham gia chính trị và bản
thân cũng vừa mang tính chính trị, vừa mang tính nghiệp vụ, kỹ thuật tương
đối độc lập.

1.1.2- Đặc điểm của cơ quan hành chính Nhà nước.
Cơ quan hành chính nhà nước do Nhà nước thành lập, chịu sự kiểm
tra của cơ quan Nhà nước thành lập ra mình và cơ quan hành chính cấp trên

6


nhằm thực hiện chức năng quản lý Nhà nước bằng hoạt động chấp hành và
điều hành.
Vị trí pháp lý của các cơ quan hành chính Nhà nước do Hiến pháp,
các luật quy định. Cơ quan hành chính Nhà nước ở mỗi cấp, có vị trí, chức
năng, nhiệm vụ và thẩm quyền khác nhau và hoàn toàn chịu trách nhiệm
trước cơ quan cấp trên và trước nhân dân thuộc lãnh thổ hoạt động của
mình.
Cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền pháp lý, xuất phát từ
quyền lực Nhà nước.
Thẩm quyền pháp lý của cơ quan hành chính Nhà nước được thể hiện
trên những điểm cụ thể sau đây:

- Cơ quan hành chính nhân danh Nhà nước ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật hành chính có tính chất bắt buộc thực hiện đối với các cơ
quan, cá nhân thuộc quyền và đối với toàn xã hội trong phạm vi thẩm quyền
được pháp luật quy định.
- Sau khi ra các văn bản, các cơ quan hành chính Nhà nước tổ chức
thực hiện và tự mình kiểm tra việc thực hiện các văn bản đó đối với các đối
tượng thuộc phạm vi điều chỉnh. Mặt khác, công tác kiểm tra, giám sát thực
hiện các văn bản yêu cầu được tiến hành bởi các cơ quan bảo vệ pháp luật
do cơ quan Nhà nước được huy động, sử dụng.
Tất cả các cơ quan hành chính Nhà nước có mối liên quan chặt chẽ
với nhau (quan hệ trực thuộc trên dưới, trực thuộc ngang, quan hệ chéo) tạo
thành một hệ thống thống nhất, theo thứ bậc có trung tâm chỉ đạo là Chính
phủ nhằm bảo đảm thực hiện nhiệm vụ chấp hành và điều hành một cách
mau lẹ, nhất quán và hiệu quả. Đó là một hệ thống bộ máy quản lý phức

7


tạp, nhiều đầu mối và biên chế lớn. Hạt nhân của các cơ quan hành chính
Nhà nước là công chức.
Các cơ quan hành chính Nhà nước là cơ quan Nhà nước thực hiện
chức năng quản lý Nhà nước bằng phương pháp đơn phương quyết định –
phương pháp quyết định một chiều.
Cơ quan hành chính Nhà nước được tổ chức thành nhiều cấp theo
đơn vị hành chính. Quan hệ giữa các cơ quan hành chính cấp trên, cấp dưới,
là quan hệ chỉ huy, chỉ đạo, cơ quan hành chính cấp dưới phải tuân thủ tuyệt
đối sự chỉ đạo của cơ quan hành chính cấp trên.
Cơ quan hành chính Nhà nước là một hệ thống cơ quan có nhiều đặc
điểm khác nhau và được tổ chức khác nhau.
- Cơ quan hành chính Nhà nước thực hiện chức năng quản lý Nhà

nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, do đó cơ quan hành chính
Nhà nước được tổ chức thành các hệ thống cơ quan để thực hiện chức năng
quản lý Nhà nước trong từng lĩnh vực.
- Mỗi cơ quan quản lý trên các lĩnh vực khác nhau có những đặc
điểm riêng biệt về cơ cấu tổ chức, về sắp xếp bố trí nhân sự, về tiêu chuẩn
và chế độ, trách nhiệm cụ thể của viên chức v.v..
- Sự phát triển của hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước gắn liền
với sự phát triển của xã hội nói chung và khoa học kỹ thuật nói riêng.
Hoạt động của cơ quan hành chính Nhà nước được duy trì một cách
khẩn trương, thường xuyên, liên tục.
Hoạt động của cơ quan hành chính Nhà nước được gắn liền với cuộc
sống hàng ngày của mỗi công dân – khác với hoạt động của Quốc hội, Hội
đồng nhân dân và cơ quan tư pháp – do dó, cơ quan hành chính Nhà nước

8


phải hoạt động liên tục, khẩn trương để giải quyết một cách kịp thời những
vấn đề do đời sống xã hội đặt ra. Từ đặc điểm này, đòi hỏi phải thường
xuyên đổi mới cơ quan hành chính Nhà nước - về hình thức và về biện pháp
quản lý - mới đáp ứng được yêu cầu của đời sống xã hội.
Hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước có nghĩa vụ tổ chức nhằm
đảm bảo quyền, tự do, lợi ích hợp pháp của công dân bằng các chương trình
kinh tế - xã hội, phân phối một cách đồng đều mọi cơ hội cho mọi công
dân. Để thực hiện nghĩa vụ hành chính cần có các phương tiện; các phương
tiện hành chính gồm: công sở, công chức, công sản và phương tiện đặc
quyền. Khi sử dụng các phương tiện đặc quyền (ra quyết định hành chính,
cưỡng chế thi hành các quyết định hành chính, trưng thu, trưng dụng) phải
bảo đảm các yêu cầu: mục đích duy nhất sử dụng đặc quyền là phục vụ
nhân dân, giải quyết công việc của nhân dân, thực hiện đặc quyền phải tuân

theo các điều kiện luật định, sử dụng đặc quyền ngoài mục đích công vụ
hoặc không tuân theo pháp luật thì bị chế tài.

1.2- Quan niệm về trách nhiệm và thanh tra, kiểm tra trách
nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo
1.2.1- Quan niệm về trách nhiệm trong quản lý nhà nước.
Trách nhịêm có thể được tiếp cận từ những góc độ khác nhau. Từ
khía cạnh xã hội, đạo đức thì trách nhiệm là thuộc về bổn phận, thái độ tích
cực, chủ động của mỗi cá nhân đối với công việc. Khi này, trách nhịêm
được hiểu thuộc về phạm trù ý thức của con người. Chúng ta thường nhắc
đến người có trách nhịêm đối với công việc, có trách nhiệm đối với gia
đình. Điều đó có nghĩa là họ đã thực hiện tốt bổn phận của mình. Nói đến
người thiếu trách nhiệm tức là không làm trọn bổn phận, không thực hiện

9


nhiệm vụ đầy đủ, khi đó họ sẽ bị lên án, sẽ bị mất uy tín trong cộng đồng, bị
xử lý theo quy định.
Trách nhiệm được hiểu trong hoạt động quản lý nhà nước thuộc về
chức trách, nhịêm vụ được giao trong đó bao gồm cả các yếu tố về quyền và
nghĩa vụ đã được pháp luật quy định. Khi nào nói đến trách nhiệm tức là sự
đòi hỏi thái độ, tích cực, chủ động của chủ thể quản lý, của chủ thể hành vi:
- Có tinh thần trách nhiệm hoặc có ý thức trách nhịêm là điều kiện
của sự thành công trong công việc. Không có nhà lãnh đạo nào thành công
mà thiếu trách nhiệm với công việc. Những người có trách nhiệm sẽ nhận ra
được những điểm yếu của cá nhân mình trong quản lý. Những người đổ lỗi
cho người khác hoặc quên đi mất vai trò của mình trong đó, sẽ trở nên trì trệ
và chẳng đạt được gì, đó là những người không dám chịu trách nhiệm. Kết
quả nghiên cứu đều khẳng định quyền phải đi liền trách nhiệm trong thực

thi quyền lực quản lý, quyền lực càng cao thì trách nhiệm càng lớn.
- Trách nhiệm được hiểu là phần việc, phận sự phải thực hiện, nếu
không sẽ phải gánh chịu hậu quả nhất định. Nói như vậy có nghĩa là Bộ
trưởng phải chịu trách nhiệm trước Chính phủ, trước Quốc hội về ngành,
lĩnh vực quản lý. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp phải chịu trách nhiệm
trước cơ quan nhà nước cấp trên và trước Hội đồng nhân dân cùng cấp về
những vấn đề thuộc thẩm quyền quản lý của mình. Nhà nước và pháp luật
có những quy định cụ thể về chế độ trách nhiệm đối với mỗi chủ thể quản lý
được Nhà nước trao quyền.
Như vậy, nói đến trách nhiệm sẽ bao gồm: nghĩa vụ mà cơ quan, tổ
chức, cá nhân phải thực hiện. Do vậy ta thường nói đến trách nhiệm thực
hiện, trách nhịêm giải quyết công việc, chịu trách nhiệm trước cơ quan cấp
trên. Trách nhịêm còn hiểu là hậu quả phải gánh chịu. Như vậy có trách

10


nhiệm của cá nhân, có trách nhiệm của tổ chức, trách nhiệm của cơ quan.
Do vậy, người ta đề cập đến trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hành chính,
trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm hình sự. Đó là việc tiếp cận trách nhịêm từ
phương diện pháp lý.
Trách nhiệm pháp lý là nghĩa vụ phải gánh chịu những tước đoạt
mang tính chất nhân thân hay tài sản tương ứng với hành vi trái pháp luật
của chủ thể. Các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác định nghĩa vụ phải
gánh chịu mang tính tước đoạt đó gọi là truy cứu trách nhiệm pháp lý.
Trách nhiệm hành chính là nghĩa vụ mà cá nhân hay tổ chức phải
gánh chịu những hậu quả do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng
cho cá nhân hay tổ chức có hành vi vi phạm hành chính. Những hình phạt
này được biểu hiện dưới dạng phạt vi phạm pháp luật hành chính như phạt
tiền, thu hồi giấy phép hành nghề, tịch thu, trưng thu tài sản...

Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm mà người phạm tội phải gánh
chịu các biện pháp xử lý về hình sự đối với tội phạm mà mình gây ra. Đây
là trách nhiệm phải gánh chịu hậu quả pháp lý đối với hành vi phạm tội.
Người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm mà mình gây ra
nếu người đó nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi của mình và
có khả năng điều khiển hành vi đó.
Trách nhiệm của cơ quan hành chính Nhà nước là những nghĩa vụ mà
cơ quan hành chính Nhà nước phải thực hiện trong quá trình thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình. Trách nhiệm của các cơ quan hành chính Nhà
nước được xác định từ những quy định của các văn bản pháp luật. Như vậy
các cơ quan hành chính Nhà nước có rất nhiều trách nhiệm, bao gồm: tổ
chức các hoạt động để phát triển kinh tế xã hội; tổ chức các hoạt động để

11


giữ gìn trật tự an ninh, an toàn xã hội; xây dựng những dự án, chương trình,
kế hoạch phát triển kinh tế văn hoá xã hội; giải quyết khiếu nại, tố cáo...
Các văn bản pháp luật quy định về trách nhiệm cho các cơ quan hành
chính Nhà nước rất nhiều bao gồm: Hiến pháp, các Đạo luật, văn bản dưới
luật... Trong đó đặc biệt là những văn bản pháp luật về quản lý hành chính
Nhà nước như Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và
Uỷ ban nhân dân, Luật khiếu nại, tố cáo...
Trách nhiệm của các cơ quan hành chính Nhà nước trong công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo là những nhiệm vụ mà cơ quan hành chính Nhà
nước phải thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo năm
1998, được sửa đổi một số điều năm 2004, năm 2005 và Nghị định
136/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ.

1.2.2- Quan niệm về thanh tra, kiểm tra trách nhiệm giải quyết

khiếu nại, tố cáo.
Thanh tra, kiểm tra là chức năng thiết yếu của các cơ quan quản lý
nhà nước. Hoạt động thanh tra, kiểm tra nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử
lý các hành vi vi phạm pháp luật; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản
lý, chính sách pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước; bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Thanh tra trách nhiệm nói chung được hiểu là việc cơ quan có thẩm
quyền xem xét, đánh giá quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao
của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có trách nhiệm, từ đó có các kết luận về
ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân của việc thực hiện nhiệm vụ đó, đồng

12


thời đưa ra các kiến nghị, giải pháp xử lý, khắc phục. Hay nói khác đi, đó là
việc tiến hành xem xét, đánh giá quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ
đối với những đối tượng được cơ quan quan quản lý trao cho quyền hạn và
nghĩa vụ nhất định.
Dưới góc độ pháp lý, trách nhiệm ở đây chỉ được hình thành trong
mối quan hệ trong hệ thống, cơ quan, tổ chức hoặc giữa cơ quan, tổ chức
với cá nhân có trách nhiệm trong nội bộ cơ quan, tổ chức đó. Tất nhiên
trong các quan hệ dân sự, quan hệ xã hội, người ta cũng đưa ra những khái
niệm về trách nhiệm, song trong những trường hợp này đó chỉ là trách
nhiệm giữa cá nhân này với cá nhân khác hoặc cũng có thể phát sinh trách
nhiệm giữa cá nhân đối với Nhà nước, tổ chức nhưng nó phải được phát
sinh từ một sự kiện pháp lý.
Do vậy, khi đề cập đến hoạt động thanh tra, kiểm tra là gắn với
những nội dung quản lý cụ thể, với lĩnh vực cụ thể của các cơ quan quản lý.

Chẳng hạn thanh tra, kiểm tra về việc quản lý, sử dụng đất đai; thanh tra,
kiểm tra về việc thực hiện chính sách xã hội; thanh tra, kiểm tra về việc
quản lý, sử dụng văn bằng, chứng chỉ. Với mỗi nội dung đều xác định theo
thẩm quyền, trách nhịêm của từng cấp, từng cơ quan cụ thể. Khi tiếp cận
vấn đề như trên cho thấy, giải quyết khiếu nại, tố cáo và quản lý nhà nước
về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng là một nội dung công tác như
những nhiệm vụ khác. Từ đó xuất hiện vấn đề là cần làm rõ quan niệm về
giải quyết khiếu nại, tố cáo và quan niệm về thanh tra, kiểm tra trách nhiệm
giải quyết khiếu nại, tố cáo như thế nào cho chính xác và đầy đủ. Thanh tra
trách nhiệm các cơ quan hành chính Nhà nước trong giải quyết khiếu nại, tố
cáo là việc xem xét, đánh giá, kết luận việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan
hành chính Nhà nước trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, từ đó có các kiến

13


nghị xử lý, khắc phục, góp phần nâng cao hiệu quả công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo.
Kết quả nghiên cứu của đề tài cho thấy, về phương diện lý luận cũng
như thực tiễn thì giải quyết khiếu nại, tố cáo là một nội dung trong công tác
quản lý của thủ trưởng các cấp, các ngành. Trong các văn bản pháp luật quy
định chức năng, nhịêm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước luôn ghi nhận
về nội dung công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm
quyền:
- Theo Nghị định 86/2002/NĐ-CP, ngày 05/11/2002 quy định chức
năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Bộ và cơ quan ngang Bộ tại Điều 13,
khoản 6 quy định, Bộ, cơ quan ngang bộ có trách nhiệm giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân và tổ chức tiếp công dân.
- Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 quy
định thẩm quyền, trách nhiệm của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp trong

việc tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Luật khiếu nại, tố cáo quy định trách nhiệm, thẩm quyền của Chủ
tịch UBND các cấp trong việc tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo
theo thẩm quyền.
Việc xử lý, giải quyết các tranh chấp, xung đột, khiếu kiện ở mỗi cơ
quan, đơn vị trước hết xuất phát từ đòi hỏi của nội tại bản thân cơ quan, đơn
vị. Nhu cầu ổn định để tồn tại và phát triển đòi hỏi cơ quan, đơn vị phải giải
quyết các khiếu nại, tố cáo vì quyền, lợi ích của bản thân mình. Hai là, xuất
phát từ đòi hỏi của pháp luật, của việc bảo vệ, quyền lợi ích hợp pháp của
công dân, cơ quan, tổ chức. Do đó, giải quyết khiếu nại, tố cáo được pháp
luật quy định là trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị. Cụ thể hơn là thuộc về
trách nhiệm của người đứng đầu của các cơ quan, đơn vị.

14


Trở lại mối liên hệ giữa thanh tra và quản lý cho thấy ở đâu có quản
lý thì ở đó phải có kiểm tra, thanh tra. Cho nên, việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo là một nội dung của quản lý thì đương nhiên cần phải có thanh tra, kiểm
tra việc thực hiện mặt công tác này. Nhưng việc thanh tra, kiểm tra giải
quyết khiếu nại, tố cáo là gắn với việc cụ thể, nội dung cụ thể để đánh giá,
xem xét việc thực hiện trách nhịêm, thẩm quyền của thủ trưởng cơ quan
trong giải quyết vụ việc.
Cũng trở lại quan niệm về giải quyết khiếu nại, tố cáo là trách nhiệm
của cơ quan, đơn vị thì cũng cần thanh tra, kiểm tra việc thực hịên trách
nhịêm đó đến đâu. Do đó, thanh tra, kiểm tra trách nhiệm cần phải được
hiểu theo nghĩa đầy đủ hơn, chính xác hơn là xem xét, đánh giá việc thực
hịên trách nhịêm của cơ quan, đơn vị trong công tác tiếp dân và công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Trách nhịêm về tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ

quan quản lý nhà nước được pháp luật quy định là rất rộng. Bao gồm: việc
tổ chức tiếp công dân; giải quyết khiếu nại, tố cáo với quy trình cụ thể; tổ
chức thi hành quyết định; thực hiện quản lý nhà nước về công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo. Bởi vậy, nội dung thanh tra, kiểm tra trách nhiệm cũng
được xác định phù hợp với từng nội dung cụ thể.

1.3- Vai trò, tầm quan trọng của thanh tra, kiểm tra trách nhiệm
giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Thanh tra là một giai đoạn quan trọng trong chu trình quản lý nước,
là phương thức bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, tăng cường kỷ luật và
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Nhằm cụ thể hoá quy định
của Hiến pháp và tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh tra, Nhà nước đã

15


ban hành hệ thống quy phạm pháp luật quy định tổ chức và hoạt động của
các cơ quan Thanh tra Nhà nước. Thanh tra trách nhiệm của các cơ quan
hành chính nhà nước trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo là một hoạt
động của thanh tra hành chính, có mối quan hệ chặt chẽ với các hoạt động
thanh tra hành chính khác. Trong quản lý nhà nước, hoạt động chấp hành và
điều hành và hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo có mối quan hệ hữu cơ,
gắn bó mật thiết với nhau. Hoạt động thanh tra, kiểm tra trách nhiệm giải
quyết khiếu nại, tố là giải quyết những tranh chấp phát sinh giữa cơ quan
hành chính nhà nước với công dân, cơ quan, tổ chức và giải quyết những
vấn đề khác phát sinh trong hoạt động chấp hành và điều hành. Do đó, hoạt
động giải quyết khiếu nại, tố cáo có vai trò hỗ trợ, thúc đẩy, nâng cao hiệu
quả hoạt động chấp hành và điều hành. Ngược lại, hoạt động chấp hành và
điều hành có tác động trở lại đến tình hình và hoạt động giải quyết khiếu
nại, tố cáo.


1.3.1- Thanh tra, kiểm tra trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố
cáo là đòi hỏi mang tính khách quan của công tác quản lý; là một khâu
quan trọng của quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về
khiếu nại, tố cáo nói riêng.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo là một nội dung quan trọng luôn dành
được sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Đặc biệt ở
nhiều cơ quan, địa phương công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo đã chi phối
thời gian nhân lực, vật lực lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động bình
thường của đơn vị và tác động trực tiếp đến đầu tư phát triển và ổn định đời
sống chính trị, xã hội.

16


Thanh tra, kiểm tra là một khâu quan trọng trong công tác quản lý.
Thông qua thanh tra, kiểm tra chủ thể quản lý nắm được tình hình thực hiện
chủ trương, chính sách, pháp luật, quyết định, chỉ thị, mệnh lệnh của cơ
quan cấp trên đối với cơ quan cấp dưới và với đối tượng quản lý.
Sau khi Luật Khiếu nại, tố cáo được ban hành có nhiều quy định về
thẩm quyền, trách nhiệm của thủ trưởng các cơ quan nhà nước trong việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Tuy nhiên việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo còn chậm trễ, không ít vụ việc giải quyết không đúng theo quy
định của pháp luật, nhiều quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý
tố cáo không được thi hành nghiêm chỉnh.
Sở dĩ có tình trạng trên vì các cấp, các ngành chưa nhận thức đầy đủ
và chưa làm hết trách nhiệm của mình trong giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Công tác thanh tra trách nhiệm đối với các cơ quan hành chính Nhà nước
trong việc thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo chưa được đẩy mạnh. Do
đó những sơ hở, yếu kém, sai phạm, khuyết điểm của cơ quan hành chính

Nhà nước không được phát hiện và chấn chỉnh kịp thời. Vì vậy làm cho
hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa đáp ứng yêu cầu, làm
giảm sút lòng tin của nhân dân vào các cơ quan Đảng và Nhà nước. Vì vậy
các cơ quan hành chính Nhà nước, các tổ chức Thanh tra Nhà nước phải
tiến hành thanh tra trách nhiệm đối với các cơ quan, đơn vị trong việc thực
hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
Thanh tra trách nhiệm trong giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm đánh
giá được thực trạng việc chấp hành những quy định pháp luật của các cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Khoa học quản lý phân tích một chu trình quản lý thành các khâu cơ
bản và xem xét chúng trong mối liên hệ quan lại với nhau, đó là các khâu:

17


Ban hành quyết định quản lý; tổ chức thực hiện quyết định quản lý; kiểm
tra, đánh giá chuyển tiếp sang chu trình mới.
Như vậy, thanh tra, kiểm tra là một khâu tạo nên tính hoàn chỉnh của
chu trình quản lý và là khâu bảo đảm cho mỗi chu trình đạt được yêu cầu
đặt ra và thực hiện mục đích, yêu cầu của quá trình quản lý.
Thanh tra, kiểm tra nhằm phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý
các hành vi vi phạm pháp luật và phát huy nhân tố tích cực, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý, bảo vệ quyền lợi ích của công dân, lợi ích của Nhà
nước. Do đó, cần nhấn mạnh rằng, thanh tra, kiểm tra phải được tiếp cận
biện chứng, song song với mỗi khâu của chu trình quản lý và trong suốt quá
trình quản lý. Điều đó có nghĩa là thanh tra, kiểm tra phải được thực hiện
ngay trong quá trình ban hành, thực hiện quyết định, mà không nên rời rạc,
tách rời thanh tra, kiểm tra với các khâu của mỗi chu trình và toàn bộ quá
trình quản lý.
Luật Khiếu nại, tố cáo và Nghị định 136/2006 quy định nội dung

quản lý Nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo bao gồm:
- Ban hành các văn bản pháp luật, quy chế, điều lệ giải quyết các
khiếu nại, tố cáo;
- Tuyên truyền, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định về
khiếu nại, tố cáo;
- Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định về khiếu nại, tố
cáo;
- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác giải quyết khiếu
nại tố cáo, công tác tiếp công dân;

18


- Tổng hợp tình hình khiếu nại, tố cáo và việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo;
- Tổng kết rút kinh nghiệm về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Như vậy, trong các nội dung trên, việc thanh tra, kiểm tra chấp hành
pháp luật về khiếu nại, tố cáo là nội dung có ý nghĩa quan trọng trong quản
lý Nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Qua kiểm tra đôn đốc
việc thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo nâng cao trách nhiệm quản lý
của các ngành, các cấp, luật pháp được thực hiện một cách nghiêm minh.
Đồng thời qua kiểm tra, thanh tra nắm bắt được tình hình khiếu nại, tố cáo
và kết quả giải quyết ở các cơ quan, đơn vị thuộc thẩm quyền. Qua đó, thấy
được những thiếu sót cũng như những vướng mắc trong việc thực hiện các
chính sách pháp luật để kịp thời chỉ đạo, hướng dẫn hoặc đề xuất sửa đổi,
bổ sung, hoàn thiện chính sách pháp luật.
Thực tiễn về công tác thanh tra, xét khiếu tố những năm qua ở các bộ,
ngành và các địa phương cho thấy nơi nào được sự quan tâm chỉ đạo của
cấp uỷ và chính quyền, việc kiểm tra đôn đốc các cấp thuộc quyền giải
quyết kịp thời các vụ việc ở cấp mình, ngành mình thì nơi đó công tác giải

quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện có hiệu quả.

1.3.2- Thanh tra, kiểm tra trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố
cáo là yêu cầu thường xuyên và đòi hỏi mang tính cấp bách; là điều
kiện bảo đảm nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong điều
kiện hiện nay
Trong những năm gần đây, thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế
nước ta đã từng bước phát triển, đời sống của nhân dân ngày càng được cải

19


thiện và nâng lên rõ rệt. Quyền dân chủ, của nhân dân trong đó có quyền
khiếu nại, tố cáo ngày càng được tôn trọng.
Cùng với những thành tựu đạt được trong nhiều lĩnh vực đời sống
kinh tế, xã hội, tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân cũng có những diễn
biến rất phức tạp. Khiếu nại, tố cáo diễn ra trên diện rộng với nhiều tỉnh,
thành phố, nhiều khu vực khác nhau.
Theo số liệu thống kê từ năm 1999 đến nay, hàng năm số đơn thư gửi
đến cơ quan hành chính và lượt công dân đến khiếu kiện vẫn không giảm.
Đặc biệt hơn nội dung đơn thư đề cập liên quan nhiều đến cơ chế chính
sách về quản lý, sử dụng đất đai, về những vấn đề tồn đọng trong lịch sử.
Trong số đó, nhiều đơn thư khiếu nại, tố cáo đề cập đến sự suy thoái của
một bộ phận không nhỏ đội ngũ cán bộ, công chức. Tính hình khiếu nại, tố
cáo những năm qua cũng phản ánh thực trạng về quản lý nhà nước của các
cấp, các ngành về những bất cập của cơ chế, chính sách. Nó cũng phản ánh
những tác động mạnh mẽ của quá trình dân chủ hoá và nền kinh tế thị
trường đang trong giai đoạn hình thành.
Một trong những nguyên nhân cơ bản, phổ biến là công tác tiếp dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa được coi trọng, quá trình giải quyết còn

mắc nhiều sai phạm. Nhiều nơi, việc quản lý công tác giải quyết khiếu nại,
tố cáo còn lỏng lẻo; các cơ quan có thẩm quyền còn thiếu quan tâm, thường
khoán trắng cho cơ quan chức năng tham mưu, nhiều thủ tục còn làm phiền
hà cho dân, tình trạng đùn đẩy, né tránh chưa được khắc phục, thiếu tinh
thần trách nhiệm trong việc tiếp dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của
công dân chưa được kịp thời, cụ thể:
Thứ nhất, nhiều vụ, việc không được giải quyết hoặc việc giải quyết
không đúng pháp luật vi phạm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và các

20


tổ chức. Còn nhiều quyết định giải quyết thiếu tính khả thi, không phù hợp
với thực tiễn, phải sửa đổi nhiều lần. Trong các năm 2002 -2004, mặc dù đã
được các cơ quan hành chính Nhà nước ban hành các văn bản giải quyết
theo thẩm quyền nhưng vẫn có 4.666 đơn đề nghị Thủ tướng Chính phủ và
Thanh tra Chính phủ giải quyết lại vụ, việc. Trong đó thành phố Hồ Chí
Minh có 632 đơn, Đồng Tháp có 331 đơn, Đồng Nai có 224 đơn, Bắc Giang
có 347 đơn, Long An có 250 đơn, An Giang có 195 đơn. Sau khi kiểm tra
đánh giá cho thấy có 34/64 quyết định phải sửa (chiếm tỷ lệ 53%). Năm
2005 kiểm tra tại An Giang và Vĩnh Long với những khiếu nại, tố cáo phức
tạp cho thấy có 30/68 vụ, việc phải giải quyết lại
Thứ hai, tình trạng giải quyết không kịp thời, không đúng trong thời
hạn Luật định. Qua kiểm tra cho thấy một số địa phương, bộ, ngành giải
quyết khiếu nại của cơ quan có thẩm quyền thường chậm so với thời gian
Luật định. Vụ, việc thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp tỉnh hoặc Bộ còn
tồn đọng nhiều như Lạng Sơn còn 120 vụ, Bắc Giang 52 vụ, Quảng Ngãi 93
vụ, Thành phố Hồ Chí Minh 737 vụ, Bộ xây dựng 46 vụ, Bộ Giáo dục và
Đào tạo 17 vụ (đến năm 2001); Long An còn 592 vụ, An Giang còn 1159
vụ (đến năm 2005). Việc thiếu kiểm tra thường xuyên, chặt chẽ cấp dưới để

đôn đốc, nhắc nhở giải quyết hoặc xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật
về khiếu nại, tố cáo còn khá phổ biến.
Thứ ba, quá trình xử lý, giải quyết chưa thực hiện đúng quy trình
nghiệp vụ dẫn đến giải quyết chưa công tâm, không nghiêm, không kịp
thời, dứt điểm. Còn nhiều địa phương không tổ chức đối thoại theo quy
định khi giải quyết. Các quyết định giải quyết chưa được chấp hành nghiêm
túc. Theo thống kế tại 18 tỉnh, thành phố trung ương năm 2004 có
5.347/7.276 quyết định có hiệu lực pháp luật được thi hành (đạt 73, 5%).

21


Thứ tư, công tác tiếp dân tại nhiều địa phương chưa được coi trọng.
Việc tiếp dân mang năng tính hình thức, kém hiệu quả không gắn với quá
trình giải quyết. Nhiều nơi việc tiếp dân còn khoán trắng cho bộ phận tiếp
dân hoặc cơ quan Thanh tra, Tài nguyên – Môi trường. Chưa có cơ chế phối
hợp tốt giữa các cơ quan có thẩm quyền, giữa Trung ương và địa phương
đưa đến tình trạng né tránh đùn đẩy gây mất lòng tin của nhân dân. Mô hình
tổ chức tiếp dân không được thống nhất: Có nơi do cơ quan Thanh tra quản
lý, có nơi do văn phòng Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý; có nơi chỉ làm
việc hướng dẫn, chuyển đơn trong khi đó có nơi có chức năng tham mưu,
đôn đốc. Thậm chí một số nơi có thẩm quyền giải quyết.
Để khắc phục những thiếu sót trong việc thực hiện pháp luật khiếu
nại, tố cáo hiện nay các cơ quan có thẩm quyền phải tăng cường công tác
kiểm tra, thanh tra về trách nhiệm của thủ trưởng các cơ quan, đơn vị thuộc
quyền, trong việc chấp hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo hiện hành. Đó là
một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm và yêu cầu cấp bách của các
cấp, các ngành hiện nay.
Như vậy, thanh tra, kiểm tra trách nhiệm có vai trò, vị trí quan trọng
trong việc thực thi các quay định của pháp luật khiếu nại, tố cáo; trong việc

nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay. Hơn thế
nữa, đó cũng là việc tuân theo vấn đề mang tính nguyên tắc trong quản lý là
: Hoạt động quản lý diễn ra ở đâu thì phải có thanh tra, kiểm tra đến đó.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo là một lĩnh vực của quản lý, do vậy nó cũng
phải được kiểm soát bằng chính hệ thống đó thông qua thanh tra, kiểm tra
trách nhiệm của các cấp, các ngành.

22


1.4- Hiệu lực và những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu lực thanh tra
trách nhiệm của cơ quan hành chính Nhà nước trong việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo.
Theo Đại từ điển tiếng Việt: hiệu lực là “tác dụng đích thực: hiệu lực
của lời nói, thuốc có hiệu lực”; hiệu lực là “giá trị thi hành: các văn bản
trước đây không còn hiệu lực ”.
Hiệu lực thanh tra trách nhiệm đối với các cơ quan hành chính Nhà
nước trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo là những tác động tích cực tới
đối tượng thanh tra theo mục đích của thanh tra cũng như mục đích của việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với các cơ quan hành chính Nhà nước. Với ý
nghĩa đó, hiệu lực thanh tra nói trên được thể hiện cụ thể gồm: Phát hiện
những sai phạm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan
hành chính Nhà nước; Chấn chỉnh quản lí và xử lí nghiêm những thiếu sót,
sai phạm phát hiện qua thanh tra; phát hiện và kiến nghị sửa đổi, bổ sung
những bất cập, sơ hở về cơ chế, chính sách, pháp luật về giải quyết khiếu
nại, tố cáo đối với các cơ quan hành chính Nhà nước. Cũng cần phải nhấn
mạnh rằng, hiệu lực cuối cùng của phát hiện, xử lí những sai phạm và của
chấn chỉnh công tác quản lí xử lí chính là tính hiệu quả trong việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo ở các cơ quan hành chính Nhà nước.
Từ những vấn đề nêu trên, hiệu lực thanh tra, kiểm tra trách nhiệm

của các cơ quan hành chính nhà nước chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố cơ
bản dưới đây:
- Những yếu tố về thể chế: các qui định của pháp luật về tổ chức bộ
máy, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể thanh tra.
Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các chủ thể thực hiện quyền
thanh tra chính là những cơ sở gốc gác đầu tiên của hiệu lực thanh tra. Chỉ

23


có khi nào chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các chủ thể thực hiện
quyền thanh tra được xác định, được qui định một các khoa học, phù hợp
với yêu cầu, nhiệm vụ quản lí nhà nước trong từng giai đoạn thì mới tạo ra
căn cứ cho hiệu lực thanh tra trong thực tế.
- Những vấn đề về nghiệp vụ, trang bị cho hoạt động thanh tra.
Thanh tra là một hoạt động có tính nghiệp vụ đặc thù mang tính tổng
hợp: đó là nghiệp vụ tiến hành kiểm tra các loại hoạt động mang tính nghiệp
vụ chuyên ngành theo qui định của pháp luật; yêu cầu báo cáo; chất vấn và
yêu cầu trả lời chất vấn; tiến hành các nghiệp vụ về xác minh thu thập
chứng cứ; tiến hành các nghiệp vụ về niêm phong tài liệu, tạm giữ tài sản,
tiền bạc; tiến hành trưng cầu giám định về kinh tế - kỹ thuật để đánh giá, kết
luận; kiến nghị xử lí về sai phạm, kiến nghị sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính
sách phát hiện qua thanh tra; xử lí kết quả thanh tra...
Tất cả những loại công việc mà thanh tra phải làm nêu trên đều cần
phải có những nguyên tắc, những yêu cầu, những phương pháp nghiệp vụ
phù hợp. Chỉ trên cơ sở các qui tắc, qui định về nghiệp vụ đạt được yêu cầu
khoa học, sát với thực tiễn và đảm bảo thực thi trên thực tế thì hiệu lực
thanh tra mới có điều kiện để phát huy.
Các qui tắc và qui trình nghiệp vụ thanh tra luôn đòi hỏi những trang
thiết bị phục vụ cho hoạt động của nó. Chính vì vậy, những trang thiết bị

phục vụ cho thanh tra phải không ngừng được đổi mới cho kịp với yêu cầu
của thực tế. Các loại trang thiêt bị trực tiếp ảnh hưởng đến hiệu lực của
thanh tra gồm: nhóm các thiết bị khai thác, lưu giữ thông tin và các thiết bị
thông tin liên lạc; nhóm các thiết bị nghe, nhìn; nhóm các phương tiện vận
tải.......
- Những vấn đề về đội ngũ cán bộ công chức làm công tác thanh tra.

24


×