Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

bài tập ngiệp vụ sư phạm tin học phổ thông bài 9 cấu trúc rẽ nhánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.76 KB, 33 trang )

MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài.
1. Trong những năm gần đây, giáo dục đại học Việt Nam đã có những
bước chuyển biến rõ rệt, nhiều trường đại học, cao đẳng đã chuyển hẳn sang
đào tạo kiểu từng bước đổi mới nội dung và phương pháp dạy học. Một trong
những mục tiêu của đổi mới phương pháp dạy học là tạo ra sự thay đổi về vị
thế của người học trong quá trình dạy học, làm cho người học thực sự là chủ
thể, là trung tâm của quá trình dạy học. Vấn đề tích cực hóa quá trình nhận
thức và quá trình học tập của người học đang được quan tâm hàng đầu trong
đổi mới giáo dục hiện nay. Để thực hiện mục tiêu này, nhiều phương pháp và
kỹ năng dạy học khác nhau đã được nghiên cứu và vận dụng. Trong đó,
phương pháp truy vấn trong dạy học là một phương pháp quan trọng, có ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả của dạy học.
2. Trong nghiệp vụ của người giáo viên có hai vấn đề quan trọng: thứ
nhất là thực tiễn về tiềm năng - những kiến thức lý thuyết mà họ được học rất
cơ bản. Thứ hai là thực tiễn về nghiệp vụ - giáo viên phải biết cách truyền thụ
kiến thức phù hợp với trình độ của học sinh. Trong đó, thực tiễn thứ hai là điều
quyết định trong nghiệp vụ của người giáo viên, nó đánh giá chất lượng giảng
dạy của giáo viên.
2.1. Trong bối cảnh toàn ngành Giáo dục và Đào tạo đang nỗ lực đổi
mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của học
sinh trong hoạt động học tập. Điều 24.2 của Luật giáo dục đã nêu rõ : “Phương
pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của
học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp
tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm,
đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Như vậy, chúng ta có thể thấy

SV: Nguyễn Văn Việt Đức

Trang 1



định hướng đổi mới phương pháp dạy học đã được khẳng định, không còn là vấn
đề tranh luận. Cốt lõi của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông
là giúp học sinh hướng tới việc học tập chủ động, chống lại thói quen học tập
thụ động.
2.2. Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động
của học sinh là một quá trình lâu dài; không thể ngày một ngày hai mà đông đảo
giáo viên từ bỏ được kiểu dạy học truyền thụ kiến thức, tiếp thu thụ động đã
quen thuộc từ lâu. Việc phát triển các phương pháp tích cực đòi hỏi một số
điều kiện, trong đó quan trọng nhất là bản thân mỗi giáo viên cần có một sự nỗ
lực để tìm tòi, sáng tạo trong công tác giảng dạy của mình. Vì vậy, hoat động
dạy học là quá trình giáo viên điều khiển hoạt động và giao lưu của học sinh nhằm
đạt được các mục tiêu dạy học.
2.3. Đổi mới phương pháp dạy học là một vấn đề hết sức quan trọng,
nhất là với bộ môn Tin học hiện đang được đưa vào giảng dạy ở các trường
phổ thông. Là một giáo viên giảng dạy bộ môn này, theo em không phải cứ tìm
được nhiều bài toán khó, bài toán hay để giảng dạy cho học sinh. Mà vấn đề
đặt ra là chúng ta cần phải tích cực tìm tòi, sáng tạo trong việc đưa ra những bài
toán đó để giúp cho học sinh có sự hứng thú, tìm tòi sáng tạo trong quá trình
giải quyết học tập, từ đó biết vận dụng linh hoạt trong các tình huống cụ thể
ngoài thực tế.
3. Trong quá trình giảng dạy cho học sinh, ngoài việc giúp học sinh lĩnh
hội những kiến thức cơ bản. Người giáo viên còn phải biết kích thích tính tích
cực, sự sáng tạo say mê học hỏi của học sinh trong việc học tập. Bởi vì, việc
học tập tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo đòi hỏi học sinh phải có ý thức
về những mục tiêu đặt ra và tạo được động lực bên trong thúc đẩy bản thân học
sinh hoạt động để đạt các mục tiêu đó. Điều này được thực hiện trong dạy học
không chỉ đơn giản bằng việc nêu rõ mục tiêu mà quan trọng là hướng tới việc
SV: Nguyễn Văn Việt Đức


Trang 2


hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, tức là tập kết
vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập kết vào phát huy
tính tích cực của người dạy
4. Tin học là một môn học mới và tương đối khó đối với học sinh THPT
trong đó môn lập trình pascal trong chương trình lớp 11 lại càng khó. Để viết
được một chương trình hoàn chỉnh thì phải thỏa mãn yêu cầu của bài toán đặt ra
trên máy tính và học sinh phải có tư duy lôgic về thuật toán, khả năng sử dụng
các câu lệnh rã nhánh, lệnh lặp thành thạo, sử dụng máy tính, khai báo một cách
hợp lý.
Turbo Pascal là ngôn ngữ lập trình có cấu trúc, nó được dùng phổ biến ở
nước ta hiện nay trong công tác giảng dạy, lập trình tính toán, đồ họa. Turbo
Pascal được dùng trong chương trình giảng dạy Tin học ở hầu hết các trường đại
học, cao đẳng, trung học phổ thông.
4.1. Trong các vấn đề về Tin học được đưa vào giảng dạy ở chương trình
bậc học phổ thông hiện nay. Khi nói đến vấn đề dạy học lập trình cho học sinh,
vấn đề dạy học cho học sinh về cấu trúc rẽ nhánh một trong những vấn đề chiếm
vai trò quan trọng. Bởi vì, sử dụng cấu trúc rẽ nhánh để hợp lý hóa, tiết kiệm
công sức lập trình, tiền đề cho việc giải quyết các bài toán lập trình. Vấn đề đặt
ra là: dạy cấu trúc rẽ nhánh bằng phương pháp truy vấn là như thế nào? Đó chính
là vấn đề mà bản thân em hết sức quan tâm.
4.2. Để thực hiện được điều đó, theo em chúng ta cần phải tìm tòi,
nghiên cứu tìm ra những giải pháp phù hợp, kích thích được sự độc lập, tích
cực của học sinh trong học tập. Trên cơ sở đó, học sinh có thể tự mình tìm ra
được những ý tưởng sáng tạo vận dụng thiết thực vào cuộc sống thực tế khi
nhu cầu nảy sinh, khi đó các em học sinh có thể tự mình hoàn thành được ý
tưởng đó.


SV: Nguyễn Văn Việt Đức

Trang 3


4.3. Cấu trúc rẽ nhánh là cấu trúc điều kiển hoạt động trong lập trình, đây
là một cấu trúc quan trọng trong chương trình tin học. Dạy bài “cấu trúc rẽ
nhánh” bằng phương pháp truy vấn sẽ giúp cho học sinh hiểu thế nào là cấu trúc
rẽ nhánh, câu lệnh rẽ nhánh dạng thiếu và dạng đủ, câu lệnh ghép và việc sử
dụng cấu trúc rẽ nhánh trong lập trình. Khi học sinh hiểu được và sử dụng thành
thạo cấu trúc rẽ nhánh thì việc lập trình để giải những bài toán không còn khó
khăn nữa. Dạy bài “cấu trúc rẽ nhánh” bằng phương pháp truy vấn học sinh sẽ
phát huy tính tích cực chủ động đặt ra các câu hỏi thắc mắc để bản thân và bạn
bè trả lời, trong quá trình đặt câu hỏi buộc phải tư duy và suy nghĩ logic nhằm
khắc sâu kiến thức hơn, nhớ lâu hơn.
Với tất cả những lý do nêu trên, em quyết định chọn đề tài này.
II. Định hướng nghiên cứu.
1. Mục đích nghiên cứu.
Cho học sinh thực hiện và luyện tập vận dụng phương pháp truy vấn
với nội dung và mục tiêu dạy học, để học sinh có ý thức về ý nghĩa của việc sử
dụng cấu trúc rẽ nhánh trong lập trình để học sinh có thể liên hệ, vận dụng
sáng tạo vào giải quyết các vấn đề cũng như các tình huống thực tế.
Vận dụng phương pháp dạy học truy vấn vào bài cấu trúc rẽ nhánh để học
sinh hiểu được thế nào là cấu trúc rẽ nhánh, câu lệnh rẽ nhánh dạng thiếu và
dạng đủ và việc sử dụng cấu trúc rẽ nhánh trong lập trình. Vận dụng cấu trúc rẽ
nhánh để giải quyết các bài tập trong lập trình.
Sử dụng công nghệ thông tin để xây dựng giáo án điện tử trong giảng dạy.
Tin học lớp 11 - Chương III: Cấu trúc nhánh và lặp
Bài 9: Cấu Trúc Rẽ Nhánh
2. Nhiệm vụ nghiên cứu.

Qua việc nghiên cứu phương pháp day học truy vấn các tài liệu về
phương pháp giảng dạy. Từ đó, đưa ra các biện pháp có thể truy vấn các hoạt
SV: Nguyễn Văn Việt Đức

Trang 4


động cho học sinh thông qua các ví dụ cụ thể về cấu trúc rẽ nhánh.Mỗi nội dung
dạy học đều liên hệ mật thiết với những hoạt động nhất định. Do đó, giáo viên
phải biết phát hiện những hoạt động thành phần tiềm ẩn trong nội dung, chọn lựa
những hoạt động tương thích với nội dung, mục đích dạy học; cho học sinh đặt
câu hỏi và giải quyết các vấn đề thong qua đặt câu hỏi. Từ đó, tạo hứng thú học
tập cho học sinh trong việc sử dụng cấu trúc rẽ nhánh để giải các bài toán lập
trình.
- Dựa vào chương trình, sách kháo khoa giảng dạy Tin học lớp 11 để xây
dựng một giáo án cụ thể.
- Khai thác phần phương pháp truy vấn để thiết kế các Slide và các phần
mềm cần thiết nhằm xây dựng kịch bản cho bài dạy cụ thể.
III. Phương pháp nghiên cứu.
Để hiểu rõ được nội dung tiết dạy, biết được tiết đó nằm ở vị trí nào trong
chương trình, kiến thức cũ cần phải có, cần truyền thụ những nội dung nào và
truyền thụ đến đâu?
1. Nghiên cứu lý luận dạy học
Cụ thể: Tin học lớp 11 – Tiết 11, 12- Bài 9: Cấu trúc rẽ nhánh.
* Nội dung: Học sinh hiểu được ý nghĩa của cấu trúc rẽ nhánh, biết cách
sử dụng câu lệnh if- then dạng thiếu và dạng đủ, câu lệnh ghép vận dụng để giải
các bài toán lập trình.
Trong nghiên cứu lý luận dạy học người ta dựa vào những tài liệu sẵn
có, những lý thuyết đã được khẳng định, những thành tựu của nhân loại trên
những lĩnh vực khác nhau như Tâm lý học, Giáo dục học, Tin học, ... để xem

xét vấn đề, tìm ra giải pháp hợp lý có sức thuyết phục vận dụng vào phương
pháp dạy học Tin học.
Người ta cũng nghiên cứu cả những kết quả của bản thân chuyên ngành
phương pháp dạy học Tin học để kế thừa những cái hay, phê phán và gạt bỏ
SV: Nguyễn Văn Việt Đức

Trang 5


những cái dở, bổ xung và hoàn chỉnh những nhận thức đã đạt được.
Những hình thức thường dùng trong nghiên cứu lý luận là:
- Phân tích tài liệu lý luận : Giúp chúng ta chọn đề tài, đề ra mục đích
nghiên cứu, hình thành giả thuyết khoa học, xác định tư tưởng chủ đạo và đánh
giá sự kiện. Khi nghiên cứu lý luận, ta cần phân tích, tổng hợp, so sánh, khái
quát để tìm ra ý mới. Cái mới ở đây có thể là một lý thuyết hoàn toàn mới, nhưng
cũng có thể là một cái mới đan kết với những cái cũ, có thể là một sự tổng hợp
những nét riêng lẻ đã chứa trong cái cũ, nêu bật cái bản chất từ những cái cũ,
bổ xung, cụ thể hóa lý thuyết cũ.
- So sánh quốc tế : Giúp chúng ta lựa chọn, xây dựng phương án tác động
giáo dục trên cơ sở đánh giá, so sánh tài liệu, cách làm của những bước khác
nhau.
- Phân tích tiên nhiệm : Thường dựa vào những yếu tố lịch sử, những
cách tiếp cận khác nhau của một lý thuyết, những cách định nghĩa khác nhau
của một khái niệm, ... để dự kiến những quan niệm có thể có của học sinh về một
kiến thức Tin học. Nó cũng được dùng để kiểm nghiệm một hiện tượng, một
quá trình có thỏa mãn những tiêu chuẩn, yêu cầu, điều kiện đặt ra hay không.
2. Quan sát - điều tra
Quan sát điều tra được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu giáo dục.
Đó là phương pháp tri giác có mục đích một hiện tượng giáo dục nào đó để thu
lượm những số liệu, tài liệu, sự kiện cụ thể đặc trưng cho quá trình diễn biến

của hiện tượng mà ta dự định khảo sát. Chúng ta quan tâm đến chất lượng của
các mối quan hệ, của các hoạt động, của tình huống. Điều tra giống quan sát ở
chỗ cùng dựa vào và khai thác những hiện tượng có sẵn, không chủ động gây
nên những tác động sư phạm, nhưng quan sát thiên về xuất phát từ những
dấu hiệu bên ngoài, còn điều tra có thể khai thác những thông tin sâu kín từ
bên trong, chẳng hạn cho làm những bài kiểm tra rồi đánh giá.
SV: Nguyễn Văn Việt Đức

Trang 6


Quan sát - điều tra giúp chúng ta theo dõi hiện tượng giáo dục theo
trình tự thời gian, phát hiện những biến đổi số lượng, chất lượng gây ra do tác
động giáo dục. Nó giúp ta thấy được những vấn đề thời sự cấp bách đòi hỏi phải
nghiên cứu hoặc góp phần giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu. Môi trường tự
nhiên là nguồn cung cấp dữ liệu trực tiếp cho ta. Người nghiên cứu đến trực
tiếp một nơi nào đó mà họ quan tâm để quan sát và thu thập dữ liệu, bởi vì các
hoạt động chỉ có thể hiểu tốt nhất là trong môi trường tự nhiên, trong ngữ cảnh
chúng xuất hiện.
Quan sát - điều tra thực tiễn sư phạm, chẳng hạn thăm lớp dự giờ sẽ
giúp chúng ta nhận thức được thực trạng dạy học Tin, phát hiện được những
vấn đề thời sự cấp bách cần nghiên cứu, giúp ta thu được những tài liệu sinh
động và bổ ích cho nhiệm vụ nghiên cứu.
Theo mối quan hệ giữa đối tượng quan sát - điều tra với người nghiên
cứu thì có các dạng quan sát - điều tra trực tiếp, gián tiếp, công khai, kín đáo.
Theo dấu hiệu về thời gian thì có quan sát - điều tra liên tục, gián đoạn.
Quan sát - điều tra cần có mục đích cụ thể (chẳng hạn để thấy được hoạt
động tích cực của học sinh trong giờ học), có nội dung cụ thể (chẳng hạn sự
gây động cơ và hướng đích của giáo viên, số lượng học sinh giơ tay xin phát
biểu, số lượng câu hỏi, chất lượng câu trả lời của học sinh thể hiện sự suy nghĩ

sâu sắc hay hời hợt, sự tập trung chú ý thể hiện qua hướng nhìn, cử chỉ, ... ) và
có tiêu chuẩn đánh giá, đo lường các kết quả quan sát cụ thể (chẳng hạn một giờ
như thế nào được đánh giá là học sinh hoạt động rất tích cực, khá tích cực, kém
tích cực). Các loại dữ liệu thu thập được trong nghiên cứu bao gồm văn bản
ghi chép các cuộc phỏng vấn, các sổ ghi chép, ảnh, băng hình, ghi âm, phiếu
điều tra, nhật ký, ... giúp ta dựng lại một cách đầy đủ những gì mà ta đã quan sát
được, giúp ta lý giải được vì sao họ lại nghĩ như thế, tại sao họ lại làm như vậy?
Trong khi quan sát - điều tra diễn biến thực của những hiện tượng sư
SV: Nguyễn Văn Việt Đức

Trang 7


phạm, có khi người ta tình cờ phát hiện ra những sự kiện, hiện tượng sư phạm
mới ngoài dự kiến ban đầu.
3. Tổng kết kinh nghiệm
Tổng kết kinh nghiệm thực chất là đánh giá và khái quát hóa những
kinh nghiệm đã thu thập được trong hoạt động thực tiễn, từ đó phát hiện ra
những vấn đề cần khẳng định để đưa ra áp dụng rộng rãi hoặc cần tiếp tục
nghiên cứu hay loại bỏ. Nó có nguồn gốc từ kinh nghiệm, mang tính khoa
học, được lĩnh hội, kiểm chứng từ quá trình hoạt động thực tiễn sinh động. Bài
học kinh nghiệm là sự cụ thể hóa một cách sáng tạo tư tưởng, luận điểm, lý luận
giáo dục đã đi vào cuộc sống. Trong quá trình nghiên cứu tổng kết kinh
nghiệm, có khi người ta khám phá ra những mối liên hệ có tính quy luật của
những hiện tượng giáo dục.
Những kinh nghiệm cần được đặc biệt chú ý là kinh nghiệm tiên tiến,
kinh nghiệm thành công và kinh nghiệm lặp lại nhiều lần. Kinh nghiệm giáo
dục ở những đơn vị tiên tiến có thể được coi là dạng lý luận giáo dục đã được
kiểm chứng trong thực tiễn, trong những tình huống, điều kiện cụ thể của môi
trường giáo dục. Những bài học của sự thành công cần được đề cập với tư cách

là cứ liệu đối chiếu, so sánh làm rõ kinh nghiệm thành công. Chúng cần được
xem xét một cách khách quan, khoa học, biện chứng theo tính lịch sử của vấn
đề rút ra những kết luận có tính thuyết phục, có độ tin cậy cao. Qua tổng kết
kinh nghiệm, chúng ta có được những bài học kinh nghiệm hàm chứa những tri
thức, thông tin, kỹ năng, những giải pháp, biện pháp về hướng đi và cách làm
mới có giá trị, đem lại hiệu quả, chất lượng cao hơn trong điều kiện đổi mới
giáo dục của đất nước hiện nay. Tổng kết kinh nghiệm phải có lý luận soi sáng,
giải thích tính chất hợp lý, phù hợp với những quy luật đã được khẳng định thì
mới có thể thoát khỏi những sự kiện lộn xộn, những kinh nghiệm vụn vặt, hời
hợt không có tính phổ biến, mới loại bỏ được những yếu tố ngẫu nhiên, đi sâu
SV: Nguyễn Văn Việt Đức

Trang 8


vào bản chất của sự vật, hiện tượng, đạt tới những kinh nghiệm có giá trị khoa
học đích thực. Chỉ khi đó tổng kết kinh nghiệm mới thật sự là một phương pháp
nghiên cứu khoa học hữu hiệu. Những bài học kinh nghiệm, những kết luận về
lý luận giáo dục góp phần bổ xung, làm cho lý luận giáo dục được hoàn thiện
hơn, mang tính thực tiễn cao hơn, tránh được tình trạng lý luận suông. Bài học
kinh nghiệm giáo dục phải bảo đảm có được một sự khái quát nhất định, mang
tính khoa học với tính lý luận cụ thể và đặc biệt phải mang tính thực tiễn cao.
Bài học kinh nghiệm cần trình bày theo trình tự sau:
- Tên bài học kinh nghiệm
- Nêu bối cảnh xuất hiện vấn đề mà khi giải quyết dẫn đến bài học
kinh nghiệm.
- Những kết quả đạt được gắn với nhiệm vụ nghiên cứu.
- Hệ thống biện pháp đã vận dụng đạt kết quả cao.
- Đánh giá tác dụng, hiệu quả của bài học kinh nghiệm, đưa ra nhận
định có tính khái quát về bài học mang tính lý luận.

Tổng kết kinh nghiệm không chỉ đơn giản là trình bày lại những công
việc đã làm và những kết quả đã đạt được. Là một phương thức nghiên cứu
khoa học, nó phải được tiến hành theo một quy trình nghiêm túc, thường là như
sau:

SV: Nguyễn Văn Việt Đức

Trang 9


Phát hiện cần đảm bảo cả về mặt định tính và phần nào về mặt định
lượng, tức là phải thu thập đủ về dữ liệu, tư liệu về sự kiện, việc làm, các hoạt
động đã tiến hành đạt kết quả cao nhất. Trong đó cần chú trọng đến những dữ
liệu, tư liệu, thông tin mà nội dung của chúng phản ánh mối quan hệ giữa kết
quả với nguyên nhân và biện pháp. Những bước của quá trình phát hiện có thể
là:
- Nêu mục đích yêu cầu phát hiện.
- Triển khai những hình thức phát hiện.
- Thẩm định, bổ sung thông tin.
- Tiến hành xử lý thông tin.
Khi tiến hành xử lý thông tin phải căn cứ vào cái có thực thu được qua
SV: Nguyễn Văn Việt Đức

Trang 10


quá trình khảo sát, phát hiện thu thập được. Dùng lý luận để phân tích các tư
liệu, số liệu rút ra được từ thực tiễn. Rút ra bài học kinh nghiệm dưới dạng
khái quát mang tính lý luận hay khẳng định về mặt lý luận và thực tiễn. Trong
quá trình xử lý, cần áp dụng những thao tác tư duy khoa học, trừu tượng hóa

các yếu tố ngẫu nhiên, tìm ra tính đặc thù, tất yếu mà chúng đã thể hiện trong
bối cảnh, hoàn cảnh cụ thể.
Phần cuối của sơ đồ cho thấy rõ mối liên hệ giữa tổng kết kinh nghiệm
với nghiên cứu lý luận và thực nghiệm giáo dục.
4. Thực nghiệm giáo dục
Thực nghiệm giáo dục cho phép ta tạo nên những tác động sư phạm vào
quá trình dạy học và giáo dục. Những tác động này xảy ra trong những điều
kiện có thể khống chế, điều chỉnh, thay đổi được, ít chịu ảnh hưởng của
những yếu tố ngẫu nhiên khác, từ đó xác định và đánh giá kết quả của những
tác động đó. Đặc trưng của thực nghiệm giáo dục là nó không diễn ra một cách
tự phát mà là dưới sự điều khiển của nhà nghiên cứu. Nhà nghiên cứu tổ chức
quá trình giáo dục một cách có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, tự giác thiết lập
và thay đổi những điều kiện thực nghiệm cho phù hợp với ý đồ nghiên cứu của
mình.
Trong những điều kiện nhất định, thực nghiệm giáo dục cho phép ta
khẳng định hoặc bác bỏ một giả thuyết khoa học đã đề ra.
Trong thực nghiệm giáo dục ta cần giải thích rõ kết quả, làm rõ nguyên
nhân bằng lý luận hoặc bằng sự phân tích quá trình thực nghiệm.
Thực nghiệm giáo dục là một phương pháp nghiên cứu rất có hiệu lực,
song thực hiện nó rất công phu, rất khó khăn. Khó khăn là do chúng ta thực
hiện một tác động lên những con người cụ thể, kết quả thu được phụ thuộc vào
nhiều yếu tố tâm lý. Những kết quả thực nghiệm thường chỉ có ý nghĩa xác
suất, phải xử lý bằng phương pháp thống kê. Để thống kê cho kết quả tin cậy,
SV: Nguyễn Văn Việt Đức

Trang 11


cần phải đo lường, định lượng được các dấu hiệu, đó là việc làm không dễ. Vì
thế ta không nên lạm dụng phương pháp thực nghiệm giáo dục. Khi nghiên cứu

một hiện tượng giáo dục, trước hết có thể dùng những phương pháp không đòi
hỏi quá nhiều công sức, ví dụ như nghiên cứu lý luận, quan sát, tổng kết kinh
nghiệm. Chỉ ở những chỗ các phương pháp này chưa đủ sức thuyết phục, chỉ ở
một số khâu mấu chốt, ta mới dùng thực nghiệm giáo dục.
Thông thường những phương pháp được sử dụng kết hợp với nhau, làm
cho kết quả thu được vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn. Chẳng hạn,
qua nghiên cứu lý luận, quan sát, tổng kết kinh nghiệm, người ta đề xuất một
giả thuyết khoa học rồi đem thực nghiệm giáo dục để kiểm nghiệm. Sau đó, lại
dùng lý luận để phân tích kết quả, xác định nguyên nhân và khái quát hóa lên
một trình độ cao hơn, tổng quát hơn những điều đã đạt được.

SV: Nguyễn Văn Việt Đức

Trang 12


NỘI DUNG ĐỀ TÀI
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC DẠY HỌC DỰA
TRÊN TRUY VẤN
"Truy vấn" là để hỏi về một thứ gì đó, hoặc là tìm kiếm một thứ gì đó, khi
phải đối mặt với “tình huống nhiều lựa chọn”, hay một vấn đề gây cho người hỏi
sự lúng túng. Nó như một sự tìm kiếm tri thức và thông tin bằng việc hỏi. Dưới
cách nhìn của nhiều nhà nghiên cứu giáo dục trên thế giới thì “Inquiry Based
Learning” được hiểu là “Học dựa trên truy vấn”, hoặc đơn giản hơn là “Học dựa
trên đặt câu hỏi”. Từ “Truy vấn” hàm chứa ý nghĩa khám phá, là một quá trình
phức tạp đòi hỏi cá thể phải nỗ lực chuyển đổi thông tin và dữ liệu thành tri thức
có ích.
Học dựa trên truy vấn (IBL) là một cách nói khác của cách tốt nhất mà nó
cho phép người học thực hiện một quá trình sáng tạo tri thức (experience the
processes of knowledge creation). Các thành phần cốt lõi của một cách tiếp cận

học dựa trên khám phá mà phần lớn các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau
đó là:
- Việc học được khuyến khích bởi khám phá, nghĩa là xuất phát từ những
câu hỏi hoặc những vấn đề;
- Việc học được dựa trên một qui trình xây dựng tri thức và hiểu biết mới;
- Đây là một cách tiếp cận tích cực đối việc học, bao gồm học bằng hoạt
động;
- Một cách tiếp cận lấy người học làm trung tâm đối với việc dạy trong đó
qui tắc của người thầy có tác dụng tạo thuận lợi cho hoạt động của người học;
- Là một biện pháp tự học trực tiếp do người học tự chủ việc gia tăng trách
nhiệm đối với việc học của mình.
- Phát triển các kĩ năng tự bộc lộ bản thân.

SV: Nguyễn Văn Việt Đức

Trang 13


IBL là mô hình dạy học hiện đại hướng vào người học, đây là kiểu dạy
học xuất phát từ nhu cầu của học sinh. Học sinh được học tập trong môi trường
vui vẻ, thoải mái, hướng tới phát triển tư duy logic.
Người học được lôi cuốn vào trong IBL có thể phát triển các kĩ năng
nghiên cứu có giá trị và chuẩn bị cho việc học lâu dài của mình. Hơn nữa, việc
học đặc biệt có thể bao gồm sự phê phán, khả năng đảm nhận khám phá độc lập,
có trách nhiệm đối với việc học, phát triển trí tuệ và trưởng thành.
Mô hình dạy học dựa trên truy vấn giúp người học được cuốn hút vào các
chủ đề, nảy sinh ra các câu hỏi để khám phá, quyết định thông tin nào cần được
tìm kiếm, thu thập dữ liệu, tổng hợp sự tìm kiếm, truyền đạt sự tìm kiếm, và sau
đó lượng giá sự thành công.
Dạy học dựa trên truy vấn không phải chỉ là việc làm ngắn ngủi lúc bắt

đầu dạy một tri thức nào đó, mà phải xuyên suốt quá trình dạy học. Trong đề tài
này em xin đưa ra một số giải pháp dạy học dựa trên truy vấn trong việc giảng
dạy bài cấu trúc rẽ nhánh của ngôn ngữ lập trình Pascal.

SV: Nguyễn Văn Việt Đức

Trang 14


Nhận trách
nhiệm đối với
việc học

Cuốn hút vào các
chủ đề và phát
triển các tri thức
cơ sở

Định giá sự
thành công

Nảy sinh các câu
hỏi

Quyết định cái gì
cần phải biết

Chia sẻ những
sự hiểu biết mới


Nhận dạng tài
liệu, thu nhập dữ
liệu

Tổng

Đánh giá dữ liệu

Mô hình truy vấn trong của Justice
Mô hình truy vấn trong của Justice và các cộng sự (2002) đã chỉ ra một
chu kì trong đó người học được cuốn hút vào các chủ đề, nảy sinh ra các câu hỏi
để khám phá, quyết định thông tin nào cần được tìm kiếm, thu thập dữ liệu, tổng
hợp sự tìm kiếm, truyền đạt sự tìm kiếm, và sau đó lượng giá sự thành công.
Dạy học dựa trên truy vấn thì việc đặt câu hỏi vô cùng quan trọng.
Câu hỏi là một dạng cấu trúc ngôn ngữ dùng để diễn đạt một yêu cầu, đòi
hỏi, một mệnh lệnh cần giải quyết. Mục tiêu của câu hỏi trong dạy học là
SV: Nguyễn Văn Việt Đức

Trang 15
Đánh giá dữ liệu


nhằm giúp cho giáo viên thực hiện việc giảng bài, định hướng, dẫn dắt hoạt
động học tập, luyện tập, thực hành, hướng dẫn tổ chức hoạt động, khích lệ,
kích thích suy nghĩ và nhằm đánh giá người học. Ngữ điệu trong câu hỏi
thường cao và sắc, nhấn vào trọng điểm hỏi. Đã có rất nhiều cách phân loại
câu hỏi khác nhau. Tuy nhiên, để tiết học đạt hiệu quả việc đặt câu hỏi cần
dựa trên mục tiêu của bài mà đặt câu hỏi phù hợp.
Câu hỏi mở: là câu hỏi có nhiều hướng trả lời hay nhiều đáp án chấp
nhận được. Là loại câu hỏi thông dụng để đánh giá việc học. Loại câu hỏi này

giúp phát hiện, giải quyết vấn đề, giải quyết tình huống, đồng thời kích thích
sự hồi tưởng để sử dụng các kiến thức, kinh nghiệm đã có trong việc nghiên
cứu và tiếp nhận tri thức mới.
Ví dụ 1: Để cho học sinh hiểu được rẽ nhánh là gì thì giáo viên có thể
thực hiện như sau:
Giáo viên dẫn dắt vấn đề: Trong cuộc sống hàng ngày có nhiều việc chỉ
được thực hiện khi một điều kiện cụ thể nào đó được thỏa mãn.
Giáo viên đưa ra ví dụ thực tiễn:
Ví dụ 1.1: Nếu hôm nay trời mưa thì Nam sẽ ở nhà.
Ví dụ 1.2: Nếu ngày mai trời mưa thì em sẽ nghỉ học thế dục, nếu không
thì em đi ăn kem.
Giáo viên: Cô đã đưa ra hai ví dụ, vậy bạn nào có thể nêu thêm vài ví dụ
trong thực tiễn.
Học sinh trả lời:
- Nếu tối nay có bóng đá thì em sẽ ở nhà.
- Nếu trời mưa thì em sẽ ở nhà nếu không thì em sẽ đi xem ca nhac.
Giáo viên tiếp tục đặt câu hỏi gợi mở cho học sinh.
Giáo viên hỏi: Các em hãy chú ý vào ví dụ 1.1 và nêu cách diễn đạt?

SV: Nguyễn Văn Việt Đức

Trang 16


Học sinh sẽ suy nghĩ và phát hiện cách diễn đạt ở ví dụ 1.1 có dạng
nếu ....thì.
Cách diễn đạt ở ví dụ 1.1 cho ta biết một việc làm cụ thể (em sẽ ở nhà) sẽ
được thực hiện nếu điều kiện cụ thể (trời mưa) được thõa mãn.
Giáo viên đặt câu hỏi dạng so sánh. Câu hỏi so sánh: là câu hỏi yêu cầu
so sánh, đánh giá, bình luận. Loại câu hỏi này khuyến khích tư duy phê

phán, bình luận, đánh giá, thúc đẩy kỹ năng tư duy bậc cao, định hướng suy
nghĩ vào các khái niệm và các vấn đề trọng tâm của bài học.
Giáo viên hỏi: Tiếp tục chú ý vào ví dụ 1.2 xem cách diễn đạt của nó có
gì khác so với ví dụ 1.1?
Học sinh trả lời: Tương tự như ví dụ 1.1, ở ví dụ 1.2 học sinh sẽ phát hiện
ra có thêm nếu không thì ở vị dụ 1.2 thì một trong hai việc làm cụ thể (ở nhà
hoặc xem ca nhạc) chắc chắn diễn ra. Tuy nhiên việc nào trong hai việc việc thực
hiện trước còn tùy thuộc vào điều kiện thỏa mãn ( mưa hay không mưa).
Từ hai ví dụ 1.1 và 1.2 hoc sinh đã hiểu được thế nào là rẽ nhánh. Từ đó
học sinh sẽ thắc mắc như vậy rẽ nhánh trong tin học là như thế nào, trong lập
trình rẽ nhánh như thế nào? Từ đó học được khuyến khích bởi khám phá, nghĩa
là xuất phát từ những câu hỏi hoặc những vấn đề;
Việc phát hiện những hoạt động tương ứng với các câu hỏi tương thích
với nội dung căn cứ một phần quan trọng vào sự hiểu biết về những hoạt động
nhằm lĩnh hội những dạng nội dung khác nhau.
Trong việc phát hiện những hoạt động tương thích với nội dung ta cần
chú ý xem xét những dạng hoạt động khác nhau trên những bình diện khác nhau.
Những dạng hoạt động sau đây cần được đặc biệt chú ý.
+ Nhận dạng và hiểu biết: Từ nội dung của bài học, tiến hành hoạt động
xác định nội dung là gì, mục tiêu là gì? – đó là “nhận dạng”. Từ đó tìm cách tổ
chức, biểu diễn bài học (nội dung là gì – mục tiêu là gì?). Đó là “hiểu biết”.
SV: Nguyễn Văn Việt Đức

Trang 17


+ Những hoạt động tin học phức hợp: Ví dụ trong bài học, có những hoạt
động có tần suất xuất hiện và diễn ra cùng nhau (là những hoạt động phức hợp).
+ Những hoạt động trí tuệ phổ biến trong Tin học: Biểu hiện của hoạt
động trí tuệ trong Tin học bao gồm cả thể hiện tư duy toán học như lật ngược

vấn đề, xét tính giải được, phân chia trường hợp. Hoạt động trí tuệ phổ biến
trong Tin học phải kể đến các hoạt động nắm bắt được nội dung bài học, đánh
giá độ phức tạp của các thao tác, thực hiện được các thao tác đó.
+ Những hoạt động trí tuệ chung: là các hoạt động trí tuệ mà mọi môn
học đều cần đến như phân tích, tổng hợp, so sánh.
+ Những hoạt động ngôn ngữ: Đây là hoạt động phát biểu và diễn đạt của
học sinh, như mô tả bằng lời từ câu hỏi, biểu diễn các thao tác trong bài học.
Giáo viên chốt lại: cách diễn dạt như vậy được gọi là rẽ nhánh, có hai
dạng rẽ nhánh: dạng thiếu và dạng đủ.
Học sinh: sẽ hiểu được dạng thiếu có dạng nếu (điều kiện đúng) thì hoạt
động.
+ Dạng đủ: nếu (điều kiện đúng) thì (hoạt động 1) còn không thì (hoạt
động 2)
Lúc đầu giáo viên đặt câu hỏi gợi mở để học sinh trả lời các câu hỏi. Đến
hoạt động tiếp theo giáo viên cần đặt các câu hỏi ít hơn để học sinh tự đặt các
câu hỏi và trả lời. Để đạt hiểu quả hơn giáo viên cần tổ chức cho học sinh hoạt
động nhóm.
Hoạt động nhóm mang lại kết quả tốt mà từng cá nhân không thể làm
hoặc làm với hiệu quả không cao. Thái độ, cảm xúc hành vi cá nhân có thể thay
đổi theo chiều hướng tốt của nhóm do yêu cầu công việc. Các thành viên trong
nhóm sẽ hỗ trợ giúp đỡ nhau trả lời các câu hỏi, khắc phục những khó khăn. Tuy
nhiên cần xác định rõ mục tiêu yêu cầu mà giáo viên tổ chức nhóm hiệu quả
tránh việc đùng đẩy công việc, ỷ lại chỉ có một số học sinh hoạt động.
SV: Nguyễn Văn Việt Đức

Trang 18


Sau khi học sinh đã hiểu được khái niệm rẽ nhánh ở hoạt động tiếp theo
học sinh biết được cấu trúc câu lệnh rẽ nhánh trong lập trình.

Giáo viên gợi mở: yêu cầu học sinh nêu cách giải phương trình

ax 2 + bx + c = 0 (a<>0)
Học sinh hoạt động nhóm: các thành viên trong nhóm sẽ đặt các câu hỏi
để cùng nhau tìm ra hướng giải phương trình.
+ Học sinh 1 hỏi: giải phương trình ax 2 + bx + c = 0 ta làm như thế nào?
+ Học sinh trả lời: đầu tiên chúng ta tính delta.
Delta <0 phương trình vô nghiệm
Delta >=0 phương trình có nghiệm
+ Học sinh 2 hỏi: Vậy tính delta như thế nào?
+ Học sinh trả lời: delta= d2-4ac
+ Học sinh 3 hỏi: Chúng ta có cần vẽ sơ đồ khối không?
+ Học sinh trả lời: Để hiểu rõ hơn chúng ta cần vẽ sơ đồ khối.

SV: Nguyễn Văn Việt Đức

Trang 19


+ Học sinh 4 hỏi: Để giải phương trình này bằng pascal chúng ta làm
sao?
Giáo viên chốt lại: Để giải phương trình này chúng ta sẽ sử dụng cấu trúc
rẽ nhánh.
Giáo viên giới thiệu cấu trúc rẽ nhánh:
+ Dạng thiếu: IF <điều_kiện> THEN <câu_lệnh>;
+ Dạng đầy đủ:
IF <điều_kiện> THEN <câu_lệnh_1> ELSE <câu_lệnh_2>;
Trong đó:
Điều_kiện: là biểu thức quan hệ hoặc logic;
Câu_lệnh, câu_lệnh_1, câu_lệnh_2 là một câu lệnh của Pascal.

* Ý Nghĩa các câu lệnh:
- Dạng thiếu: Nếu điều kiện đúng thì câu lệnh được thực hiện; nếu điều
kiện sai thì không thực hiện gì.
SV: Nguyễn Văn Việt Đức

Trang 20


- Dạng đủ: Nếu điều kiện đúng thì thực hiện câu lệnh 1; nếu điều kiện
sai thì thực hiện câu lệnh 2
Yếu tố quan trọng khi dạy bài cấu trúc rẽ nhánh là rèn luyện cho học sinh
khả năng sử dụng cấu trúc rẽ nhánh vào các bài tập lập trình. Sau khi học sinh đã
hiểu được cấu trúc if…then thì việc vận dụng vào các bài toán lập trình sẽ không
còn khó khăn.
Để hiểu rõ hơn cấu trúc rẽ nhánh cần đưa ra ví dụ cụ thể. Để tìm max
trong hai số a,b ta làm như thế nào. Bài toán đơn giản nên học sinh dễ dàng thấy
được cốt lỗi của bài toán là câu lệnh if (a>b) then write(‘max= ‘,a) else
write(‘max= ‘,b);
Quá trình phân bậc hoạt động cần xác định những mức độ yêu cầu thể
hiện ở những hoạt động mà học sinh phải đạt được hoặc có thể đạt được.
Ví dụ 2:
- Giáo viên: Sau khi các nhóm đã tìm hiểu cách giải phương trình
ax 2 + bx + c = 0 (a<>0), các em hãy lập trình phương trên máy tính.

- Học sinh: Lập trình trên máy tính.

- Đối với những học sinh gặp lỗi trong quá trình lập trình thì sẽ hỏi bạn kế
bên. Như vậy việc truy vấn sẽ diễn ra ở nhóm.
SV: Nguyễn Văn Việt Đức


Trang 21


* Kết luận chương I:
- Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp truy vấn không chỉ được vận dụng
trong giảng dạy môn Tin học mà còn được vận dụng rộng rãi và phổ biến cho tất
cả các ngành nghề. Việc đặt các câu hỏi giúp người học tiếp cận tích cực đối việc
học, bao gồm học bằng hoạt động, lấy người học làm trung tâm đối với việc dạy
trong đó qui tắc của người thầy có tác dụng tạo thuận lợi cho hoạt động của
người học. Là một biện pháp tự học trực tiếp do người học tự chủ việc gia tăng
trách nhiệm đối với việc học của mình.
* Đối với học sinh:
Đặt câu hỏi tốt giúp tạo hứng thú, khơi dậy và mở rộng được sự đóng
góp, chia sẻ, thảo luận của người học. Đặt câu hỏi cũng có tác dụng định
hướng, dẫn dắt người học tiếp cận với chân lý, giúp người học lĩnh hội tri
thức một cách có logic, hệ thống, tránh tình trạng ghi nhớ máy móc, rập
khuôn. Việc trả lời câu hỏi cũng giúp người học rèn luyện và phát triển tư
duy.
* Đối với giáo viên:
Đặt câu hỏi được sử dụng như một phương tiện để tổ chức dạy học,
hướng dẫn quá trình nhận thức, giúp người dạy đánh giá được năng lực, mức
độ nhận thức của người học, nắm được thông tin phản hồi từ phía người học
đồng thời thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của người học để có những điều
chỉnh phù hợp. Việc đặt câu hỏi cũng giúp nâng cao tầm hiểu biết của giáo
viên.

SV: Nguyễn Văn Việt Đức

Trang 22



CHƯƠNG II
PHƯƠNG PHÁP TRUY VẤN TRONG DẠY HỌC BÀI “CẤU
TRÚC RẼ NHÁNH” Ở TIN HỌC 11 THPT
(Giáo án)
CHƯƠNG 3: CẤU TRÚC NHÁNH VÀ LẶP
BÀI 9: CẤU TRÚC RẼ NHÁNH
I. MỤC TIÊU BÀI DẠY.
1. Kiến thức:
- Biết khái niệm rẽ nhánh.
- Hiểu cú pháp câu lệnh IF dạng thiếu và đủ.
- Hiểu ý nghĩa câu lệnh ghép.
- Vận dụng được câu lệnh IF trong lập trình.
2. Kỹ năng:
- Vận dụng đúng, hợp lý câu lệnh IF dạng thiếu và đủ cho từng bài toán.
- Sử dụng đúng câu lệnh ghép.
- Trình bày cấu trúc chương trình đẹp, hợp lý.
3. Thái độ:
- Tính chính xác, khoa học, thẩm mỹ.
- Nghiêm túc trong giờ học, tập trung cao độ, yêu thích môn học.
- Thấy được tầm quan trọng của cấu trúc rẽ nhánh.
II. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH.
1. Giáo viên: Giáo án lý thuyết, máy chiếu, máy tính, sgk, sgv.
2. Học sinh: - Học bài cũ.
- Sách giáo khoa, vở ghi và xem trước nội dung bài học.
III. HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC.
1. Ổn định trật tự lớp học:
SV: Nguyễn Văn Việt Đức

Trang 23



- Kiểm tra sĩ số lớp học.
2. Kiểm tra bài cũ:
* Câu hỏi 1: Trong Turbo Pascal để lưu chương trình ta nhấn phím nào?
* Trả lời: Trong Turbo Pascal để lưu chương trình ta nhấn phím F2
* Câu hỏi 2: Trong Turbo Pascal để chạy chương trình ta nhấn phím nào?
* Trả lời: Trong Turbo Pascal để lưu chương trình ta nhấn phím F9
3. Giảng bài mới:
Chúng ta đã được làm quen với cấu trúc chương trình, các kiểu dữ
liệu, phép toán, câu lệnh gán, tổ chức vào/ra đơn giản và cách thực hiện
chương trình trong môi trương Pascal. Hôm nay chúng ta sẽ đi nghiên cứu
một cấu trúc chương trình cụ thể, đó là “cấu trúc rẽ nhánh”.

SV: Nguyễn Văn Việt Đức

Trang 24


Hoạt động GV
Hoạt động 1: Rẽ nhánh
- GVA: Trong cuộc sống
hàng ngày có nhiều việc
chỉ được thực hiện khi một
điều kiện cụ thể nào đó
được thỏa mãn. Trong
khoa học cũng vậy.
Ví dụ 1: Chiều mai nếu
trời không mưa thì Châu
sẽ đến nhà Ngọc.

Ví dụ 2: Chiều mai nếu
trời không mưa thì Ngọc
sẽ đến nhà Châu, nếu mưa
thì sẽ gọi điện cho Châu để
trao đổi
- GVQ1: Vừa rồi cô đã
đưa ra 2 ví dụ, các em lấy
thêm ví dụ khác trong thực
tiễn?

Hoạt động HS

Nội dung
- Cấu trúc rẽ nhánh có hai
dạng thiếu và đủ

- HSA1: Nếu tối nay có
bóng đá thì em sẽ ở nhà.

Nếu trời mưa thì em sẽ ở
nhà nếu không thì em sẽ đi
xem ca nhac.
- GVQ2: Cả lớp chú ý vào - HSA2:
ví dụ 1 và nêu cách diễn Ví dụ 1 có dạng: Nếu...thì...
đạt ở ví dụ 1 cho cô?
- GVQ3: Ở ví dụ 1 chiều - HSA3: Trời mưa thì Châu
hôm sau trời mưa thì Châu không đến nhà Ngọc
có đến nhà Ngọc không?
- GVA:Diễn đạt như vậy
gọi là dạng thiếu.

- GVQ4: Tiếp tục chú ý - HSA4: Dạng 1 chỉ xét
vào ví dụ 2 xem cách diễn công việc ứng với điều kiện
đạt của nó có gì khác so đúng; Dạng 2 xét 2 công
việc tương ứng với hai
với ví dụ 1?
trường hợp đúng và sai của
- GVA: Diễn đạt như ví dụ
điều kiện.
2 gọi là dạng đủ. Cấu trúc
- Cấu trúc rẽ nhánh có 2
dùng để mô tả các mệnh
SV: Nguyễn Văn Việt Đức dạng
đề có dạng như vậy gọi là
Điều rẽ nhánh thiếu và
cấu trúc
kiện
- HSA4:
đủ.

T
Điều
kiện

Trang 25F
Câu
Điềulệnh 2
kiện

Câu lệnh
1



×