Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (661.55 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN CẨM THANH

TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC
GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH

Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐẶNG QUANG PHƢƠNG

HÀ NỘI, năm 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn “Tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình
sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình” là hồn tồn trung thực và không trùng
lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tơi hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn



Trần Cẩm Thanh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC ................................................................7
1.1. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác ..........................................................................7
1.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác ........................................................................22
CHƢƠNG 2. THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC
GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC TẠI TỈNH QUẢNG
BÌNH .........................................................................................................................32
2.1. Những yêu cầu chung đảm bảo áp dụng pháp luật tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác .................................................................32
2.2. Tổng quan kết quả thực tiễn xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác tại Quảng Bình ...........................................................41
2.3. Những vi phạm sai lầm trong thực tiễn xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn t nh Quảng Bình và nguyên nhân ...........46
CHƢƠNG 3. CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM XÉT XỬ ĐÚNG
TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE
CỦA NGƢỜI KHÁC ..............................................................................................58
3.1. Các yêu cầu bảo đảm xét xử đúng tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác ...........................................................................................58
3.2. Các giải pháp bảo đảm xét xử đúng tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác ....................................................................................63
KẾT LUẬN ..............................................................................................................78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

HĐTP

: Hội đồng thẩm phán

HĐXX

: Hội đồng xét xử

NXB

: Nhà xuất bản

TA

: Tòa án

TANDTC


: Tòa án nhân dân tối cao

TP. HCM

: Thành phố Hồ Chí Minh

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

VKS

: Viện kiểm sát

VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

bảng
2.1.

2.2.

Số vụ bị cáo đã xét xử về tội cố ý gây thương tích trên địa

bàn t nh Quảng Bình giai đoạn 2011 – 2015
Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích trên địa bàn
t nh Quảng Bình giai đoạn 2011 – 2015 theo loại tội phạm

Trang

41

41

Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích trên địa bàn
2.3.

t nh Quảng Bình giai đoạn 2011 – 2015 theo hình thức

42

phạm tội
Số vụ và số bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích so với số
2.4.

vụ và số bị cáo phạm vào nhóm tội xâm phạm tính mạng
sức khỏe nhân phẩm danh dự của con người bị xét xử trên
địa bàn t nh Quảng Bình từ năm 2011 – 2015

44


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Thời gian vừa qua tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trên địa bàn t nh Quảng Bình diễn biến phức tạp và chiếu hướng ngày
càng gia tăng tính chất ngày càng nghiêm trọng hơn với những phương thức và thủ
đoạn ngày càng tinh vi công cụ phạm tội hết sức đa dạng nguy hiểm đặc biệt là các
tên tội phạm luôn thể hiện tính chất táo bạo cơn đồ trắng trợn với thái độ hung hăn coi
thường sức khỏe tính mạng của người khác gây tâm lý bức xúc hoang mang lo lắng
trong quần chúng nhân dân. Đặc biệt là một số vụ phạm tội với số đơng người hoặc
dưới hình thức đồng phạm số vụ gây thương tích thuê số vụ dùng a xít sunfuric để gây
thương tích với tính chất trắng trợn dã man ngang ngược coi thường pháp luật.
Trước tình hình trên các cơ quan bảo vệ pháp luật ở t nh Quảng Bình đã áp dụng
các biện pháp có hiệu quả trong đấu tranh phịng chống tội phạm nói chung tội phạm
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng xử lý kịp
thời nghiêm minh mọi hành vi phạm tội và người phạm tội. Tòa án các cấp đã xử phạt
nghiêm khắc đối với tội này đặc biệt nghiêm trọng của nhiều kẻ phạm tội có tác dụng
răn đe phịng ngừa tội phạm góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị xã hội phục
vụ yêu cầu chính trị chung. Tuy nhiên, do thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm
nói chung và tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác nói riêng đang diễn ra hàng ngày với sự biến động thay đổi dưới sự tác động của
nhiều yếu tố kinh tế - xã hội và pháp lý khác nhau dẫn đến việc định tội danh về tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác gặp nhiều lúng túng
có những vụ chưa đúng với hành vi của tội phạm gây ra việc quyết định hình phạt cịn
nhiều bất cập cịn tùy nghi chưa thống nhất do đó để truy cứu trách nhiệm hình sự
đúng với quy định của pháp luật cần nghiên cứu một cách đầy đủ tồn diện có hệ
thống những vấn đề lý luận và thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác để từ đó đề ra các biện pháp
ngăn chặn làm giảm bớt loại tội phạm này nhằm bảo vệ sức khỏe con người bảo vệ

1



cuộc sống bình yên trong nhân dân là điều hết sức cần thiết. Từ kết quả nghiên cứu đó
đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả trong đấu tranh phòng chống loại tội phạm
này là một yêu cầu cấp thiết. Tất cả những vấn đề trên đây là lý do để tác giả chọn đề
tài của đề tài và cũng là lý do chọn đề tài: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn t nh Quảng
Bình” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
“Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” theo
pháp luật hình sự Việt Nam đã được nhiều nhà khoa học Luật gia nghiên cứu ở
nhiều góc độ khác nhau. Trên các sách báo chí cũng đã đề cập và có nhiều quan
điểm tiếp cận với loại tội này trên nhiều khía cạnh khác nhau.
Tội phạm này xâm phạm đến một trong những quyền cơ bản của cơng dân đó
là “Quyền bất khả xâm phạm về thân thể được pháp luật bảo hộ về tính mạng sức
khỏe danh dự nhân phẩm” Điều 71 Hiến pháp năm 1992 ghi nhận: “Người nào có
hành vi xâm phạm đến tính mạng sức khỏe danh dự nhân phẩm của người khác
đều bị xử lý theo pháp luật”. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định đây là quyền
cơ bản của cơng dân ghi nhận tại Điều 20 đó là: “mọi người có quyền bất khả xâm
phạm về thân thể được pháp luật bảo hộ về sức khỏe danh dự nhân phẩm”. Có
nhiều tác giả quan tâm tới trách nhiệm hình sự (TNHS) của tội phạm này như
Nguyễn Ngọc Hàn Trần Văn Độ tác giả Nguyễn Cường đã quan tâm đến lỗi cố ý
vấn đề khách thể trực tiếp; các tác giả Vũ Lập Thành Nguyễn Văn Sơn Nguyễn
Quốc Hội tiến hành nghiên cứu những tình tiết tăng nặng giảm nhẹ TNHS… có tác
giả lại quan tâm dưới góc độ tội phạm học trong đó phải kể đến cơng trình nghiên
cứu của tác giả Nguyễn Hữu Cầu “đặc điểm tội phạm học của tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác ở Việt Nam hiện nay và giải pháp
nâng cao hiệu quả phòng ngừa” (Luận án Tiến sĩ Luật học viện cảnh sát nhân dân
Hà Nội 2002). Ngoài ra các tác giả như TS. Phùng Thế Vắc và TS. Trần Văn
Luyện có cơng trình bình luận khoa học BLHS năm 1999 (phần các tội phạm) do
NXB Chính trị Quốc gia xuất bản trong đó có đề cập đến tội cố ý gây thương tích


2


hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. TS Phạm Văn Beo với “Luật hình sự
Việt Nam” phân tích rất rõ các dấu hiệu pháp lý và hình phạt của loại tội này. TS
Đinh Văn Quế có cơng trình nghiên cứu là cuốn Bình luận khoa học BLHS (bình
luận chuyên sâu) phân các tội phạm tập I do NXB thành phố Hồ Chí Minh xuất bản
năm 2002 đã đề cập đến tội phạm này… Ngồi ra cịn rất nhiều bài viết trên các tạp
chí chuyên ngành của TAND Viện kiểm sát nhân dân trên rất nhiều số đã đề cập
nhiều về loại tội này trên nhiều góc độ nhiều khía cạnh khác nhau. Nhìn chung các
cơng trình các bài viết đều đã đề cập đến những vấn đề lý luận cơ bản của tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở các khía cạnh pháp
luật Hình sự tội phạm học Luật tố tụng hình sự. Về thực tiễn áp dụng có BLHS
1999 được Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 6 thơng qua ngày 21 tháng 12 năm 1999
có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2000 được sửa đổi bổ dung 2009/QH12 ngày
19/6/2009 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của HĐTP TAND tối
cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS; Nghị quyết số 02/2003/NQHĐTP của HĐTP TANDTC quy định về hành vi “gây cố tật nhẹ cho nạn nhân”.
Tuy nhiên, do thực tiễn đấu tranh phịng chống tội phạm nói chung và tội phạm
cố ý gây thương tích nói riêng đang diễn ra hàng ngày với sự biến động thay đổi dưới
sự tác động của nhiều yếu tố kinh tế xã hội và pháp lý khác nhau do đó việc tiếp tục
sửa đổi bổ sung và hồn thiện BLHS năm 1999 là một q trình nghiên cứu khoa học
lâu dài vừa rút kinh nghiệm từ thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam vừa tiếp
thu những tinh hoa pháp luật tiên tiến trên thế giới để vận dụng cho phù hợp với tình
hình kinh tế - xã hội của đất nước đồng thời phù hợp với xu thế phát triển chung của
pháp luật quốc tế. Đặc biệt việc nghiên cứu tội phạm này từ thực tiễn một trong các
t nh miền trung của nước ta chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài có mục đích làm rõ vấn đề về lý luận và thực tiễn xét xử tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở t nh Quảng Bình trong

những năm gần đây; nghiên cứu những kết quả đạt được trong hoạt động xét xử tội

3


cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Từ đó làm rõ
những hạn chế thiếu sót vướng mắc trong xét xử và nguyên nhân của những hạn
chế thiếu sót vướng mắc trong xét xử loại tội phạm này. Trên kết quả nghiên cứu
đó đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và việc áp dụng pháp luật trong lĩnh vực
xét xử loại tội phạm này của các Tòa án Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là: Về mặt lý luận, phân tích loại tội phạm cố ý gây thương tích các yếu
tố thuộc dấu hiệu pháp lý đặc trưng theo pháp luật hình sự Việt Nam so sánh với
quy định của BLHS của một số nước trên thế giới về loại tội này.
Hai là: Về mặt thực tiễn nghiên cứu đánh giá thực tiễn xét xử tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở t nh Quảng Bình trong
những năm gần đây; đi sâu phân tích đánh giá một số vụ án điển hình trên địa bàn
t nh Quảng Bình để từ đó rút ra những ưu điểm tồn tại trong hoạt động xét xử loại
tội này tìm ra ngun nhân và các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng xét xử
tội phạm này.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong BLHS 1999 được
Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 6 thơng qua ngày 21 tháng 12 năm 1999 có hiệu lực từ
ngày 01 tháng 7 năm 2000 (sửa đổi bổ sung 2009/QH12 ngày 19/6/2009) và thực
tiễn xét xử về loại tội này tại Tịa án hai cấp ở t nh quảng Bình từ đó đưa ra những
giải pháp và nâng cao chất lượng xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung đề tài đề tài thực hiện trong phạm vi của chuyên ngành luật hình sự
và tố tụng hình sự.
Đề tài tập trung nghiên cứu các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

4


cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn của t nh Quảng Bình trong năm năm
(2011 -2015); nghiên cứu những kết quả đạt được trong hoạt động xét xử tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước
ta về đấu tranh phòng chống tội phạm; lý luận về tội phạm học Luật hình sự và tố
tụng hình sự.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Về các phương pháp nghiên cứu bao gồm phương pháp khảo sát thống kê
thực tế số liệu xét xử phương pháp so sánh tổng hợp hỏi ý kiến chuyên gia để rút
ra các kết luận khoa học của mình.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Hồn thiện pháp luật hình sự và qua đó góp phần nâng cao hiệu quả phịng
ngừa và đấu tranh phịng chống tội phạm nói chung và tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng ở Việt Nam; giữ gìn an
ninh chính trị và trật tự an tồn xã hội. Nâng cao chất lượng xét xử loại tội này nói
chung và ở t nh Quảng Bình nói riêng.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng để tham khảo và vận
dụng xây dựng các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phịng

chống tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
hoạt động xét xử của hệ thống TAND Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở nghiên cứu về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác ở Việt Nam theo BLHS năm 1999 (sửa đổi 2009) phát hiện
những điểm mới về chính sách hình sự hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác. Từ đó phân tích đánh giá những quy định về tội

5


cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong pháp luật
Hình sự Việt Nam.
Luận văn nêu ra thực tiễn xét xử và những hạn chế thiếu sót vướng mắc trong
xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thực
tiễn tại t nh Quảng Bình từ năm 2011-2015 ch ra những nguyên nhân và đề xuất
các giải pháp khắc phục nhằm hạn chế việc xét xử oan sai bỏ lọt tội phạm góp
phần hồn thiện lý luận quy định pháp luật Hình sự Việt Nam.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu kết luận và danh mục tài liệu tham khảo nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Chương 2: Thực tiễn xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác tại t nh Quảng Bình.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm xét xử đúng tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

6



CHƢƠNG 1
THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY
TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC
1.1. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về tội cố ý gây thƣơng tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác
1.1.1. Khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác
Hiện nay BLHS Việt Nam không định nghĩa như thế nào là tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tuy nhiên trong khoa học pháp lý
hình sự có nhiều quan điểm cùng với các định nghĩa khác nhau về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Cách định nghĩa thứ nhất
cho rằng: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là
hành vi cố ý gây tổn hại sức khỏe cho người khác dưới dạng thương tích hoặc tổn
thương khác”, [1] cách định nghĩa thứ hai cho rằng: “Cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi của một người cố ý làm cho người
khác bị thương hoặc tổn hại đến sức khỏe”. [8, tr.137]
Theo quan điểm của chúng tơi các cách định nghĩa trên vẫn cịn những điểm
chưa phù hợp bởi lẽ nó khơng đề cập đến năng lực TNHS dấu hiệu của độ tuổi
chịu TNHS cũng như tính trái pháp luật của hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe người khác. Bởi lẽ trên cơ sở khoa học và sơ sở pháp lý quy
định tại khoản 1 Điều 8 BLHS đã cho ra khái niệm về tội phạm: “Tội phạm là hành
vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS do người có năng lực TNHS
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm độc lập chủ quyền thống nhất toàn
vẹn lãnh thổ Tổ quốc xâm phạm chế độ chính trị chế độ kinh tế nền văn hóa quốc
phịng an ninh trật tự an tồn xã hội quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức xâm
phạm tính mạng sức khỏe danh dự nhân phẩm tự do tài sản các quyền lợi ích
hợp pháp khác của cơng dân xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật
7



xã hội chủ nghĩa” trên cơ sở phân tích đánh giá các định nghĩa khác nhau về tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và khái niệm về tội
phạm chúng tôi đưa ra khái niệm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác của người khác như sau: “Tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội do người
có năng lực trách nhiệm hình sự (bao gồm cả đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự)
thực hiện một cách cố ý gây thương tích hoặc xâm phạm sức khỏe của người khác”.
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thực
chất là hai tội được ghi trong cùng một điều luật tuy nhiên do hành vi và hậu quả của
chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau cho nên hai loại tội này được các nhà làm luật
xếp vào cùng một điều luật – đó là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác. Như vậy có thể hiểu “tội cố ý gây thương tích” có dấu hiệu bắt
buộc là phải có hậu quả thương tích là vết thương để lại trên cơ thể con người; tội
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác phải có hậu quả xảy ra làm tổn hại các chức
năng bộ phận trên cơ thể của con người (ví dụ: làm rối loạn hệ tuần hồn rối loạn hệ
tiêu hóa…) mà khơng để lại thương tích trên cơ thể của họ. [1, tr.128]
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác
Việc nghiên cứu các dấu hiện pháp lý của tội phạm cụ thể đóng vai trị quan
trọng nó giúp chúng ta phân biệt giữa tội phạm này với tội phạm khác để từ đó
chúng ta mới đưa ra được những kết luận chính xác về tội phạm như tội đó thuộc
loại tội nào? Tính chất nguy hiểm của tội đó ra sao? Người thực hiện hành vi tội
phạm đó có phải chịu trách nhiệm hình sự hay khơng? ... Tất cả những điều đó sẽ
giúp chúng ta trong việc định tội danh đối với tội phạm cụ thể.
Dấu hiệu pháp lý của tội phạm được thể hiện qua 4 yếu tố cấu thành tội phạm
đó là:
- Khách thể của tội phạm;
- Mặt khách quan của tội phạm;

- Mặt chủ quan của tội phạm;

8


- Chủ thể của tội phạm.
Do vậy việc xác định dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm nói chung và
“tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” nói riêng
chính là việc xác định cụ thể 4 yếu tố nói trên.
1.1.2.1. Khách thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác
Trong khoa học pháp lý cũng như trong thực tiễn các ý kiến đều thống nhất khách
thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là
những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại hoặc đe dọa gây
thiệt hại ở một mức nhất định. Trong tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác thì khách thể trực tiếp chính là sức khỏe con người. Bởi vì con
người là chủ thể của hầu hết mọi quan hệ xã hội khi quyền được tôn trọng và bảo vệ về
sức khỏe của con người bị xâm phạm nó làm phá vỡ sự ổn định của các quan hệ xã hội
đó. Trong Luật hình sự Việt Nam khách thể được bảo vệ là “độc lập, chủ quyền thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn
hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm tự do, tài sản, các quyền, lợi ích
hợp pháp của các công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa” khoản 1 Điều 8 BLHS. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 104 BLHS có quy định hình phạt
nghiêm khắc nhất là chung thân. Điều này khẳng định quyền bảo vệ về sức khỏe của
con người là thiêng liêng cao quý và cần được bảo vệ tuyệt đối. Đồng thời cũng thể
hiện thái độ của nhà nước với tội phạm này một cách kiên quyết bất kỳ ai xâm phạm
quyền được bảo vệ sức khỏe của con người đều bị trừng trị thích đáng.
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xâm

phạm quyền được bảo vệ sức khỏe của con người thông qua sự tác động làm biến
đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động. Đối tượng tác động là sức khỏe
của trẻ em người già phụ nữ có thai người khơng có khả năng tự vệ thì TNHS đối
với người phạm tội sẽ nặng hơn. Việc xác định đúng đối tượng tác động của tội cố ý

9


gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là vô cùng quan
trọng. Bởi lẽ nếu hành vi tác động vào đối tượng không phải con người khơng phải
người cịn sống thì khơng xâm phạm quyền được bảo vệ về sức khỏe nên không
phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; hoặc
có những trường hợp một cá nhân nào đó tự gây thương tích cho mình vì một lý do
nào đó thì khơng thuộc đối tượng điều ch nh của Điều 104 BLHS.
1.1.2.2. Mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác
Mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác là mặt bên ngoài của tội phạm bao gồm những biểu hiện của tội
phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan.
Mặt khách quan của tội phạm là một trong 4 yếu tố của tội phạm. Khơng có
mặt khách quan thì cũng khơng có các yếu tố khác của tội phạm và cũng không có
tội phạm nói chung cũng như tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác nói riêng.
Dấu hiệu của mặt khách quan cùa tội phạm là những biểu hiện ra bên ngoài
bằng giác quan mà con người có thể nhận biết được bao gồm:
Hành vi nguy hiểm cho xã hội;
Hậu quả nguy hiểm cho xã hội;
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
Trong mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác hành vi khách quan là dấu hiệu cơ bản và quan trọng nhất.

Các dấu hiệu khác thuộc mặt khách quan như: hậu quả mối quan hệ nhân quả công
cụ phương tiện phạm tội… ch có ý nghĩa khi có hành vi khách quan. Hay nói cách
khơng thể truy cứu TNHS đối với người không thực hiện hành vi khách quan. Hành
vi khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người
khác là những biểu hiện của con người ra bên ngoài thế giới khách quan dưới hình
thức cụ thể có sự kiểm sốt và điều khiển bởi ý chí. Những hành vi tuy được biểu
hiện ra bên ngoài thế giới quan nhưng khơng được ý thức kiểm sốt những khơng

10


được ý chí điều khiển thì cũng khơng phải là hành vi khách quan của tội phạm.
Hành vi khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác có thể được thực hiện thông qua hành động hoặc không hành động.
Hành động phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác
là hình thức của hành vi khách quan làn biến đổi tình trạng bình thường đối tượng
tác động của tội phạm xâm phạm đến quyền được bảo vệ về sức khỏe của con
người qua việc chủ thể của tội phạm làm một việc mà pháp luật cấm. Không hành
động phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bất bình thường đối
tượng tác động của tội phạm xâm phạm quyền được bảo vệ về sức khỏe của con
người qua việc chủ thể tôi phạm không làm một việc mà pháp luật yêu cầu làm
mặc dù có đủ điều kiện để làm.
Hành vi khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác là những biểu hiện của con người ra người thế giới khách quan
có sự kiểm sốt của ý thức và điều khiển của ý chí. Đây là điều kiện cần điều kiện
đủ là hành vi đó phải có khả năng gây ra thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho
người khác một cách trái pháp luật. Những hành vi này có khả năng gây ra những
thương tích nhất định hoặc làm tổn hại đến sức khỏe của con người. Những hành vi
này có thể được thể hiện bằng các công cụ phương tiện phạm tội như đấm đá hoặc

có thể thơng qua các loại súc vật như thả chó cắn bị đá. Đây là những hành vi hành
động hoặc không hành động.
Hậu quả do hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác chính là thiết hại do hành vi khách quan gây ra cho quan hệ nhân thân
cho quyền được bảo vệ về sức khỏe của con người. Thiệt hại này được thể hiện
dưới dạng thiệt hại về vật chất hậu quả gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác. Việc xác định có hậu quả xảy ra trên thực tế hay khơng, tính
chất mức độ của hậu quả xảy ra trên thực tế có ý nghĩa quan trọng trong việc xác
định có đủ yếu tố cấu thành tội phạm hay khơng đảm bảo xét xử đúng người đúng
tội và có vai trị quan trọng trong việc quyết định hình phạt.

11


1.1.2.3. Chủ thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác
Chủ thể của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam hiện hành ch có thể là con
người cụ thể. Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự đạt độ
tuổi nhất định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể. Và khi thực hiện hành vi
phạm tội người ấy có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội về
hành vi của mình và có khả năng điều ch nh được hành vi ấy.
Theo Điều 12 BLHS năm 1999 quy định: Người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự:
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do lỗi cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng.
Điều 13 BLHS 1999: Tình trạng khơng có năng lực trách nhiệm hình sự tại
khoản 1 quy định: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang
mắc các bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi của mình thì khơng phải chịu trách nhiệm hình sự. Đối với

những người này phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh…
Chủ thể của tội “Cố ý gây thương tích” là một người có đủ năng lực chịu trách
nhiệm hình sự và phải đạt độ tuổi nhất định mà xâm hại đến sức khỏe của người
khác một cách trái pháp luật người phạm tội phải từ 16 tuổi trở lên gây thương tích
cho người khác trên 11% hoặc dưới 11% mà có một trong các tình tiết đã nêu tại
khoản 1 Điều 104 của BLHS thì phải chịu trách nhiệm hình sự.
Về cách tính tuổi chịu TNHS theo quy định của BLHS thì độ tuổi ở đây là tuổi
trịn “đủ 14 tuổi” hoặc “đủ 16 tuổi”. Trong thực tiễn cũng như trong lý luận việc xác
định độ tuổi không phải bao giờ cũng dễ dàng thông thường việc xác định độ tuổi
căn cứ theo giấy đăng ký khai sinh. Tuy nhiên khơng phải trong mọi trường hợp đều
cịn Giấy khai sinh hoặc Giấy khai sinh khơng chính xác… Để khắc phục vướng
mắc trên TANDTC có hướng dẫn tại mục 11 phần II cơng văn số
81/2002/TANDTC ngày 10/6/2002 về cách tính tuổi chịu TNHS của người phạm

12


tội nói chung và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác nói riêng. Theo chúng tôi quy định này là phù hợp và khoa học đảm bảo
nguyên tắc có lợi cho người phạm tội cũng như trừng trị thích đáng người phạm tội.
1.1.2.4. Mặt chủ quan của tộicố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe
của người khác
Tội phạm là một thể thống nhất của hai mặt khách quan và chủ quan. Mặt chủ
quan là những biểu hiện bên ngoài của phạm tội mặt chủ quan là hoạt động tâm lý
bên ngoài của người phạm tội.
Mặt chủ quan của tội cố ý gây thương tích là diễn biến bên trong phản ánh
trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi cố ý gây thương tích và hậu quả phát
sinh từ hành vi gây thương tích gây ra.
Mặt chủ quan của tội cố ý gây thương tích bao gồm: Lỗi động cơ và mục đích
phạm tội.

Lỗi được hiểu là lỗi cá nhân tức là lỗi của con người cụ thể khi họ thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội. Lỗi thực hiện dưới hành vi cố ý hoặc vô ý.
Người phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác một cách trái pháp luật ch bị coi là có lỗi nếu hành vi đó
là kết quả của sự tự lựa chọn của chính họ họ tự ý thức và kiểm sốt hành vi của
mình trong khi họ có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn và thực
hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Tức người thực hiện hành vi cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có thể lựa chọn và
thực hiện xử sự khác không gây ra hậu quả thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe
của người khác nhưng chủ thể đã lựa chọn quyết định và thực hiện hành vi gây ra
thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho người khác.
Như vậy lỗi của người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác ch đặt ra cho những trường hợp trong đó chủ thể có khả
năng xử sự khơng gây ra thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác
nhưng chủ thể đã không lựa chọn khả năng này.
Muốn xác định đúng lỗi của người phạm tội đối với thương tích hoặc tổn hại

13


sức khỏe của nạn nhân là cố ý hay vô ý thì cần làm sáng tỏ hai vấn đề: 1) Người
phạm tội có thấy trước hậu quả nguy hiểm; 2) Nếu thấy trước họ mong muốn chấp
nhận hay loại trừ khả năng hậu quả xảy ra. Nếu vấn đề thứ nhất được xác định là
khơng thì có thể loại trừ ngay khả năng cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác.
Để xác định người phạm tội có thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội có
xảy ra hay khơng phải xuất phát từ năng lực nhận thức của họ cũng như những điều
kiện nhận thức cụ thể hoàn cảnh khách quan những dấu hiệu thuộc mặt khách quan
như: tính chất cơng cụ phạm tội phương tiện cũng như cách sử dụng; tình trạng sức
khỏe cũng như khả năng chống đỡ của nạn nhân..

Để xác định người phạm tội mong muốn chấp nhận hay loại trừ hậu quả gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cần xem xét đánh giá
những tình tiết như: sự lựa chọn cơng cụ phương tiện phạm tội cách thức sử dụng;
diến biến tâm lý của người phạm tội trong quá trình thực hiện tội phạm; tính chất
nguy hiểm của hành vi phạm tội; động cơ mục đích phạm tội; vị trí tác động…
Trong trường hợp mong muốn hậu quả gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe
cho người khác xảy ra người phạm tội thường sử dụng các cơng cụ phạm tội mang
tính chất “sát thương” cao như dao kiếm mã tấu côn… Bên cạnh đó người phạm
tội cịn lựa chọn vị trí tác động cách thức sử dụng công cụ phương tiện có khả
năng gây ra thương tích hoặc tổn hại sức khỏe lớn cho đối tượng tác động.
Ngược lại nếu ch có ý thức chấp nhận hậu quả gây thương tích hoặc tổn hại
cho người khác xảy ra người phạm tội không quan tâm đến công cụ phương tiện
phương pháp phạm tội vị trí tác động đến nạn nhân có nguy hiểm có khả năng gây
thương tích hay tổn hại sức khỏe hay không mà ch quan tâm đến việc đạt được
mục đích của mình. Cho nên người phạm tội trong trường hợp này có thể dùng bất
cứ cơng cụ phương tiện phạm tội nào khơng phụ thuộc vào tính chất nguy hiểm
của nó đồng thời chấp nhận mọi cách thức sử dụng công cụ phương tiện phạm tội.
Trường hợp người phạm tội có ý thức loại trừ khả năng hậu quả gây thương
tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác người phạm tội sẽ lựa chọn công cụ

14


phương tiện phương pháp cũng như cách thức sử dụng để làm sao vừa có thể đạt
được mục đích lại vừa tránh được ở mức độ cao nhất hậu quả gây thương tích hoặc
gây tổn hại sức khỏe cho người khác. Trong số các công cụ phương tiện phương
pháp phạm tội có khả năng giúp người thực hiện tội phạm đạt được mục đích người
phạm tội thường sử dụng cơng cụ phương tiện phương pháp ít nguy hiểm nhất.
Khi sử dụng người phạm tội tác động vào những vị trí nguy hiểm trên cơ thể lực
tác động thường nhẹ không hết khả năng. Trong các trường hợp này mục đính của

người phạm tội chủ yếu là đe dọa chứ không có ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
sức khỏe cho người khác.
Ngoài dấu hiệu lỗi trong mặt chủ quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại sức khỏe của người khác động cơ mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu
bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Tuy nhiên ở một số cấu thành tội phạm mà mặt
khách quan cũng quy định hành vi gây ra thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho
người khác nhưng dấu hiệu động cơ và mục đích phạm tội được quy định là dấu
hiệu bắt buộc thì việc xác định đúng động cơ mục đích phạm tội sẽ giúp định đúng
tội danh và phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người
khác với một số tội khác.
Động cơ phạm tội được hiểu là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội
thực hiện hành vi phạm tội cố ý. Động cơ phạm tội cịn có thể được xem là tình tiết
tăng nặng hay giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra
để đạt được khi họ thực hiện hành vi phạm tội.
Người phạm tội khi thực hiện phạm tội đều hướng đến những mục đích nhất
định. Nhưng có thể nói ở những lỗi cố ý trực tiếp người phạm tội mới có sự mong
muốn gây ra tội phạm để đạt được mục đích nhất định.
Dấu hiệu động cơ và dấu hiệu mục đích có mối quan hệ chặt chẽ với nhau vì
có động cơ thúc đẩy thì người phạm tội mới thực hiện tội phạm để thỏa mãn động
cơ. Đối với tội cố ý gây thương tích thì thơng thường động cơ chủ yếu thúc đẩy
người phạm tội gây thương tích cho người khác.

15


Hậu quả của tội phạm là hiện tượng thuộc về thế giới khách quan có quan hệ
với mục đích. Hậu quả là kết quả thực tế mà người phạm tội khi họ thực hiện hành
vi để đạt được mục đích.
Mục đích đặt ra trước thời điểm khi người phạm tội thực hiện tội phạm cho

nên trong bất kỳ trường hợp phạm tội cố ý trực tiếp nào cũng đều có mục đích phạm
tội dù hậu quả có phát sinh hay không như Tội khủng bố (Điều 84 BLHS); Tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác do vượt q giới hạn
phịng vệ chính đáng (Điều 106 BLHS); Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
sức khỏe cho người khác trong khi thi hành cơng vụ (Điều 107 BLHS).
Bên cạnh đó việc xác định động cơ mục đích của người phạm tội có ý nghĩa
quan trọng trong việc xác định khung hình phạt quyết định hình phạt.
1.1.3. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác với một số tội phạm khác
Căn cứ theo cách phân loại tội phạm trong BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung
2009) tổng số có tất cả 267 tội phạm được chia thành 14 chương trong đó tội cố ý
gây thương tích và gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều
104 thuộc Chương XII các tội xâm phạm tính mạng sức khỏe danh dự nhân phẩm
của con người.
Dưới góc độ so sánh điều khác biệt rõ nét nhất giữa tội cố ý gây thương tích
và gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đối với các tội thuộc nhóm tội phạm
được quy định ở các chương khác chính là khách thể của tội phạm. Nếu tội cố ý gây
thương tích và gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thuộc nhóm tội có khách
thể loại là quyền được tơn trọng và bảo vệ tính mạng sức khỏe danh dự nhân
phẩm của con người thì đối với các tội phạm thuộc các chương khác khách thể được
xác định trong nội dung của chương mà tội phạm đó được xếp vào. Ví dụ: khách thể
của tội cướp tài sản trộm cắp tài sản là quyền sở hữu khách thể của tội chống
người thi hành cơng vụ là trật tự quản lý hành chính… Do đó căn cứ vào cách phân
chia dựa theo khách thể loại của tội phạm dễ dàng có thể phân biệt được tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với các tội phạm

16


được quy định ở các chương.

Nằm trong nhóm tội phạm thuộc chương XII “các tội xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, của con người” tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác có những điểm chung nhất định với 30 tội
danh khác được quy định trong Bộ luật hình sự. Cụ thể: Các nhóm tội ở chương
này xác định những hành vi bị coi là hành vi phạm tội khi xâm phạm đến đối
tượng là con người – đối tượng hàng đầu được pháp luật hình sự nói riêng cũng
như pháp luật nói chung bảo vệ về tính mạng sức khỏe danh dự nhân phẩm và tự
do của họ. Về khách thể của tội phạm các tội phạm thuộc nhóm tội này xâm phạm
đến khách thể quan trọng được luật hình sự bảo vệ là quyền được tơn trọng về tính
mạng sức khỏe danh dự nhân phẩm của con người. Trong 30 tội danh được quy
định thuộc nhóm tội này căn cứ vào nhóm khách thể của tội phạm có thể chia
thành 03 nhóm: Nhóm các tội xâm phạm tính mạng; nhóm các tội xâm phạm sức
khỏe; nhóm các tội xâm phạm nhân phẩm danh dự. Trong đó tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thuộc nhóm tội xâm phạm về
sức khỏe. Nhìn chung căn cứ vào khách thể của tội phạm chủ thể mặt khách
quan và chủ quan lỗi của tội phạm dễ dàng phân biệt các tội phạm trong nhóm tội
này với nhau. Ví dụ giữa tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự và tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh quy định tại Điều 105 Bộ luật hình sự căn cứ vào cấu thành tội phạm
có thể dễ dàng nhận thấy sự khác nhau rõ rệt giữa hai tội danh này là chủ thể thực
hiện hành vi phạm tội và hậu quả của tội phạm. Theo đó tội danh quy định tại
Điều 104 BLHS được xác định thay vì cấu thành tội danh quy định tại Điều 105
Bộ luật này khi chủ thể thực hiện hành vi phạm tội trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh do hành vi trái pháp luật của nạn nhân đối với người đó hoặc đối
với người thân thích của người đó và về hậu quả người phạm tội ch chịu trách
nhiệm hình sự khi mức tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên.
Mặc dù nhìn chung các cấu thành tội phạm quy định trong BLHS tương đối

17



rõ ràng tạo cơ sở pháp lý cần thiết để việc định tội danh được thực hiện chính xác
tuy nhiên giữa tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác và tội giết người vẫn tồn tại những điểm “giao thoa” nhất định trong một số
trường hợp dẫn đến việc xác định tội danh không phải bao giờ cũng dễ dàng. Trong
thực tế quá trình điều tra truy tố xét xử vẫn cịn những nhầm lẫn đáng tiếc giữa hai
tội danh này. Do đó để hiểu sâu sắc và rõ nét hơn tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác cần đặt trong góc nhìn so sánh với tội danh
giết người được quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi bổ sung 2009).
Cụ thể:
Về mặt nguyên tắc tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác và tội giết người có những điểm khác biệt rõ ràng về khách thể hậu quả
của tội phạm lỗi cả người phạm tội. Theo đó tội giết người là hành vi cố ý tước
đoạt trái pháp luật tính mạng người khác khách thể của tội giết người là quyền
sống quyền được tơn trọng và bảo vệ về tính mạng trong khi đó tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi cố ý gây tổn
hại cho sức khỏe người khác dưới dạng thương tích hoặc tổn thương khác khách
thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại về sức khỏe của người khác là
quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khỏe của con người. Về hậu quả tội giết
người được coi là hồn thành khi có hậu quả chết người xảy ra; đối với tội cố ý gây
thương tích hậu quả của tội phạm được thể hiện dưới dạng thiệt hại về thể chất là
thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe. Đối với yếu tố lỗi trong cấu thành tội phạm
của hai tội danh này mặc dù đều là lỗi cố ý tuy nhiên trong cấu thành tội giết người
người phạm tội mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả chết người xảy ra
cịn tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mức độ
mong muốn hay để mặc của người phạm tội dừng lại ở hậu quả gây thương tích
hoặc tổn hại cho sức khỏe của người bị hại. Tuy nhiên trên thực tế giữa hành vi
giết người và hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác vẫn tồn tại những “lấn cấn” nhất định về tội danh trong đó có 2 trường hợp rất

dễ gây nhầm lẫn là: Giết người chưa đạt với cố ý gây thương tích và giết người với

18


cố ý gây thương tích dẫn đến chết người. Cụ thể:
Phân biệt trường hợp giết người chưa đạt với cố ý gây thương tích: Trong thực
tế nếu ch căn cứ vào hành vi và hậu quả của hành vi để xác định thì trường hợp
giết người chưa đạt và cố ý gây thương tích “gần như hịa lẫn vào nhau” do sự
tương đồng về mặt hành vi cũng như hậu quả chết người đều chưa xảy ra đối với
người bị hại. Đơn cử cho trường hợp này là vụ án Dương Văn Tâm (1983 thành
phố Hồ Chí Minh) xét xử ngày 16/8/2013 tại TAND thành phố Hồ Chí Minh với
mức án 14 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” do có hành vi sử dụng súng hoa cải
bắn thẳng vào người bị hại gây nên thương tật 39%. Viện kiểm sát truy tố Tâm về
tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 3 Điều 104 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung
2009. Ngày 27-3-2013, TAND TP.HCM đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Sau phần xét
hỏi HĐXX đã hỗn phiên tịa trả hồ sơ điều tra bổ sung vì nhận thấy hành vi của
Tâm có dấu hiệu của tội “Giết người” thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt nạn
nhân khơng chết là ngồi ý muốn. Việc Tâm nổ súng ở cự ly khoảng 16 m khả
năng sát thương rất cao. Vì vậy Viện kiểm sát truy tố về tội “Cố ý gây thương tích”
là chưa đúng. Tuy nhiên Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm cho rằng nạn
nhân ch bị bắn vào các phần mềm trên cơ thể khơng nguy hiểm đến tính mạng nên
khơng thể quy kết bị cáo phạm tội “Giết người”. Do giới hạn xét xử hội đồng xét
xử phải xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” đồng thời kiến nghị TAND Tối
cao xem xét lại việc truy tố của Viện kiểm sát. [34] Từ ví dụ trên có thể thấy trong
thực tế vẫn tồn tại nhiều quan điểm đối lập nhau về trường hợp phạm tội chưa đạt
đối với tội danh giết người và tội cố ý gây thương tích khi đánh giá cùng một hành
vi. Tuy nhiên việc xác định rõ một hành vi là giết người chưa đạt hay cố ý gây
thương tích có thể phân định được thơng qua q trình xác minh đúng mặt chủ quan
của tội phạm mà đặc biệt là yếu tố lỗi. Trong tội giết người lỗi của người phạm tội

là lỗi cố ý bao gồm cả cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Trường hợp lỗi cố ý trực
tiếp người phạm tội thấy trước hậu quả chết người có thể hoặc tất yếu sẽ xảy ra
nhưng vì mong muốn hậu quả đó nên đã thực hiện hành vi phạm tội. Trường hợp lỗi
cố ý gián tiếp người phạm tội nhận thức được hành vi của mình có khả năng nguy

19


hiểm đến tính mạng người khác thấy trước được hậu quả chết người có thể xảy ra
nhưng người phạm tội có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra hay nói cách khác họ
có ý thức chấp nhận hậu quả đó nếu nó xảy ra. Đối với hành vi giết người chưa đạt
việc xác định yếu tố lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp hay cố ý gián tiếp có
ý nghĩ rất quan trọng. Bởi lẽ trong trường hợp người phạm tội có lỗi cố ý trực tiếp
nhưng vì lý do ngồi ý muốn mà hậu quả chết người khơng xảy ra thì hành vi này
được xác định là tội giết người ở giai đoạn chưa đạt chứ không phải là tội cố ý gây
thương tích. Ngược lại nếu hậu quả chết người chưa xảy ra và lỗi của người phạm
tội là lỗi cố ý gián tiếp thì người phạm tội ch phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
cố ý gây thương tích (nếu thương tích xảy ra thỏa mãn địi hỏi của cấu thành tội
phạm này) mà khơng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người chưa đạt.
Bên cạnh trường hợp trên trong thực tế giữa cấu thành tội phạm của tội giết
người và tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người cũng có những ý kiến xác
định khơng hoàn toàn thống nhất khi đánh giá trong cùng một hành vi. Đơn cử như
vụ án năm 2011: Nguyễn Văn Sang cùng đồng bọn có hành vi đánh anh Cao Thanh
Sơn dẫn đến hậu quả anh Sơn tử vong. Do có mâu thuẫn từ trước nên Nguyễn Văn
Sang Huỳnh Thanh Tâm Bùi Quang Khải Nguyễn Văn Đạt đã đánh anh Sơn bằng
tay không Sang đập đầu anh Sơn xuống đường mấy lần khi thấy anh Sơn bất t nh
thì cả bọn chở về để trước cửa nhà. Kết quả giám định xác định anh Sơn chết do bị
nứt xương sọ xuất huyết dưới màng cứng vùng thái dương dập não và xuất huyết
trong phù não nặng. VKSND TP.HCM truy tố Sang cùng đồng bọn về tội “Giết
người” theo điểm n khoản 1 điều 93 BLHS. Tháng 4 năm 2013 TAND TP HCM

xử sơ thẩm nhận định các bị cáo không có ý định giết người vì đánh nạn nhân bằng
tay chân nên ch phạm tội “Cố ý gây thương tích” dẫn đến hậu quả chết người
(khoản 3 điều 104 BLHS). Viện kiểm sát không đồng ý nên đã kháng nghị và Tòa
Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP HCM xử phúc thẩm đã chấp nhận kháng nghị của
VKSND chuyển tội danh từ “Cố ý gây thương tích” sang “Giết người”. Như vậy
cùng hành vi của bốn bị cáo nhưng tồn tại hai quan điểm định tội danh không giống
nhau. Để phân biệt hai tội này cần xem xét các dấu hiệu sau:

20


×