Tải bản đầy đủ (.pdf) (178 trang)

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp chế biến gỗ trên địa bàn thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 178 trang )

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong 5 năm qua, ngành chế biến gỗ ở Việt Nam tăng trưởng với tốc độ bình
quân 30% / năm và sản xuất một lượng lớn các sản phẩm chất lượng cao chủ yếu
dành cho xuất khẩu, với kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên, năm 2007 so
với 2006 tăng 21,1% và năm 2008 so với 2007 tăng 28,2%. Sản phẩm gỗ là một

Ế

trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực đóng vai quan trọng vào sự tăng trưởng

U

xuất khẩu của cả nước. Thị trường sản phẩm gỗ xuất khẩu khá rộng, ngoài các thị

́H

trường chính như Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản, còn có các thị trường khác như là Úc,



Hàn Quốc, Canada.v.v.

Từ cuối năm 2007 và 2008, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn

H

cầu cùng với những khó khăn ở trong nước như thiếu vốn, lãi xuất cao, chi phí đầu

IN


tư tăng.v.v. Ngành công nghiệp gỗ đang gặp phải rất nhiều khó khăn và đối mặt với
nguy cơ giảm mạnh tăng trưởng trong giai đoạn tới. Tác động của suy thoái kinh tế

K

toàn cầu đã làm giảm nhu cầu tiêu thụ sản phẩm gỗ, do đó ngành cũng đối mặt với

̣C

rất nhiều thách thức từ thị trường nội địa và quốc tế.

O

Thừa Thiên Huế là một tỉnh có nhiều tiềm năng lớn về phát triển kinh tế công

̣I H

nghiệp với nhiều lợi thế, có cảng biển nước sâu Chân Mây ( thuận lợi cho việc xuất
nhập hàng hóa), sân bay quốc tế Phú Bài, giao thông thuận lợi với tuyến quốc lộ 1A

Đ
A

chạy suốt chiều dài của tỉnh, hiện nay trên địa bàn tỉnh có 4 khu công nghiệp lớn
được xây dựng, trong đó khu công nghiệp Phú Bài và Chân Mây Lăng Cô đang thu
hút nhiều dự án đầu tư trong nước cũng như nước ngoài. Tuy nhiên, theo nhận định
của chuyên gia thuộc các Sở Công thương, Sở Kế hoạch đầu tư: “các doanh nghiệp
chế biến gỗ Thừa Thiên Huế phát triển chưa phù hợp với tiềm năng của nó”. Phần lớn
sản phẩm chủ yếu vẫn là gia công cho các công ty lớn trong và ngoài nước.
Mặc dù phải đối mặt với nhiều thách thức trong bối cảnh hiện nay nhưng cơ

hội thành công của các doanh nghiệp chế biến gỗ Thừa Thiên Huế trên thị trường
trong nước và xuất khẩu vẫn rộng mở và đầy tiềm năng. Vấn đề đặt ra cho các nhà

1


quản lý, các doanh nghiệp và các nhà nghiên cứu là làm thế nào giúp các doanh
nghiệp nói riêng và ngành gỗ Thừa Thiên Huế nói chung phát triển ngày càng mạnh
mẻ hơn. Từ những lý do trên, tôi chọn thực hiện đề tài: “Giải pháp nâng cao năng
lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp Chế biến gỗ trên địa bàn Thừa Thiên Huế
” nhằm góp phần tìm ra những giải pháp hữu hiệu giải quyết vấn đề nêu trên
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
- Mục tiêu chung

Ế

Dựa vào cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh và chiến lược, từ đó vận dụng

U

lý thuyết này vào nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến cạnh tranh của các doanh

́H

nghiệp chế biến gỗ trên địa bàn Thừa Thiên Huế để đề xuất những giải pháp nâng

- Mục tiêu cụ thể




cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp này.

+ Góp phần hệ thống về mặt lý luận, về năng lực cạnh tranh của các

H

doanh nghiệp Chế biến gỗ Thừa Thiên Huế

IN

+ Đánh giá năng lực cạnh tranh hiện tại và xác định các yếu tố ảnh

K

hưởng đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp.
+ Đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp.

̣C

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

O

Đối tượng nghiên cứu

̣I H

Các doanh nghiệp Chế biến gỗ với sản phẩm chủ yếu dành cho xuất khẩu
trên điạ bàn Thừa Thiên Huế.


Đ
A

Phạm vi nghiên cứu:
Số liệu sử dụng nghiên cứu là nguồn số liệu sơ cấp năm 2009, số liệu thứ cấp từ

năm 2006 đến 2008 về các doanh nghiệp chế biến gỗ trên địa bàn Thừa Thiên Huế.
4.PHƯƠNG PHÁP NGHÊN CỨU
a. Phương pháp điều tra và thu thập số liệu
- Nguồn số liệu thứ cấp
Để đánh giá tổng quát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp chế biến gỗ trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế , đề tài tham khảo số
liệu từ các nguồn:

2


+ Niên giám thống kê năm 2008 của tỉnh Thừa Thiên Huế;
+ Số liệu tổng hợp từ các phòng chức năng của Sở Công Thương, Cục thống
kê tỉnh Thừa Thiên Huế;
+ Từ trang web của các tổ chức, hiệp hội liên quan.
- Nguồn số liệu sơ cấp
Trên địa bàn Thừa Thiên Huế hiện có 36 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực chế biến Lâm sản. Trong đó nhiều doanh nghiệp chỉ tham gia với lĩnh vực cưa

Ế

xẻ gỗ là chính, nên đề tài chỉ chon ra 30 doanh nghiệp năm 2008 để phát phiếu khảo

U


sát, tiến hành điều tra thu thập thông tin liên quan đến khả năng cạnh tranh của

b. Phương pháp tổng hợp và phân tích

́H

doanh nghiệp.



Trên cơ sở các tài liệu đã được tổng hợp, vận dụng các phương pháp phân
tích thống kê mô tả như số tương đối, số tuyệt đối, số bình quân; phương pháp so

H

sánh để phân tích tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành qua các năm.

IN

Ngoài ra các phương pháp nói trên còn được sử dụng để phân tích so sánh các tiêu

đích nghiên cứu đã đặt ra.

K

thức liên quan đến năng lực cạnh tranh so với các đối thủ nhằm đáp ứng được mục

O


̣C

Số liệu tổng hợp được tiến hành phân tổ thống kê căn cứ vào kết quả điều tra

̣I H

phỏng vấn theo các tiêu thức quy mô cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp sử dụng
phần mềm SPSS 10.0. Từ việc phân tổ thống kê này sẽ cho thấy sự khác biệt giữa

Đ
A

các doanh nghiệp trong các nhóm tổ khác nhau, cụ thể hoá bằng những con số và
giải thích nguyên nhân, qua đó đề xuất giải pháp phù hợp cho từng đối tượng.
Ngoài các phương pháp phân tích thống kê đã nêu ở trên, phương pháp kiểm

định phương sai (ANOVA) cũng được áp dụng để kiểm định giả thiết Ho: Sự đồng
nhất ý kiến đánh giá của các doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau.
c. Phương pháp phân tích SWOT: nhằm phối hợp đưa ra các giải pháp
nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp chế biến gỗ Thừa Thiên Huế.
5. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Trừ phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có 3 chương :

3


Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH – NĂNG
LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP

Chương 1 trình bày khái niệm về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh ở các cấp

độ quốc gia, doanh nghiệp, ngành và sản phẩm. Đồng thời tìm hiểu về các yếu tố
cấu thành và nhóm nhân tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Chương này cũng nêu lên một số nghiên cứu thực tiễn liên quan, giới thiệu kinh

Ế

nghiệm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp chế biến gỗ tỉnh Bình

U

Định và rút ra bài học.

́H

Chương 2: PHÂN TÍCH NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN GỖ TRÊN ĐỊA BÀN



TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

H

Phần đầu của chương này giới thiệu về ngành chế biến gỗ, về quá trình phát

IN

triển qua các giai đoạn của ngành chế biến gỗ tỉnh Thừa Thiên Huế, đồng thời sơ

K


lược tình hình sản xuất kinh doanh. Ở chương này cũng xác định các phương pháp
phục vụ cho việc thực hiện đề tài.

O

̣C

Phần tiếp theo, bắt đầu bằng phân tích khái quát về tình hình hoạt động sản

̣I H

xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chế biến gỗ trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên
Huế. Để đánh giá những nhân tố tác động đến năng lực cạnh tranh của đối tượng

Đ
A

nghiên cứu, chương này thực hiện nghiên cứu trên hai nhóm yếu tố: vi mô và vĩ mô.
Về yếu tố vĩ mô, chương 2 đã trình bày các chính sách tác động đến khả

năng cạnh tranh của các doanh nghiệp chế biến gỗ trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế
như chính sách huy động vốn, chính sách hỗ trợ kỹ thuật, chính sách xúc tiến
thương mại.v.v. Đồng thời chương này cũng đi vào đánh giá tác động của hội nhập
ảnh hưởng đến các đối tượng nghiên cứu như thế nào.
Về yếu tố vi mô, ở chương này đã phân tích các chỉ tiêu tác động đến năng
lực cạnh tranh của các doanh nghiệp chế biến gỗ trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế
như: quy mô doanh nghiệp, đất đai, nhà xưởng, nguồn nguyên liệu, trình độ lao

4



động, trình độ công nghệ sản xuất, chi phí, sản phẩm, thị trường đầu ra, xúc tiến
thương mại và nhận thức về cạnh tranh cũng được nêu lên và phân tích kỹ. Từ kết
quả phân tích đó, đề tài đã xác định được những nhân tố mà các doanh nghiệp chế
biến gỗ đang có lợi thế hay bất lợi.
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN GỖ TRÊN ĐỊA BÀN

Ế

TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

U

Chương này đề tài đã đề xuất hai nhóm giải pháp chính: đối với doanh

́H

nghiệp và đối với Nhà nước nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh

Đ
A

̣I H

O

̣C


K

IN

H



nghiệp chế biến gỗ trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

5


NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
1.1. KHÁI NIỆM VỀ CẠNH TRANH, NĂNG LỰC CẠNH TRANH
1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh

Ế

Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là hiện tượng phổ biến và có ý

U

nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế ở các quốc gia. Lý thuyết về cạnh tranh

́H


xuất hiện từ rất sớm với các trường phái nổi tiếng như: lý thuyết cạnh tranh cổ điển,



lý thuyết cạnh tranh tân cổ điển và lý thuyết cạnh tranh hiện đại.
Lý thuyết cạnh tranh cổ điển ra đời gắn với sự hình thành Chủ nghĩa tự do

H

kinh tế cổ điển vào thế kỷ XVII ở Anh, đại biểu đó là các nhà kinh tế cổ điển như

IN

Adam Smith (1723-1790),John Stuart Mill(1806- 1873) và các nhà kinh điển như
C.Mác, Ph.Ăngghen. Trong lý thuyết cạnh tranh của mình, Adam Smith chủ trương

K

tự do cạnh tranh và coi cạnh tranh có vai trò điều tiết cung – cầu, cạnh tranh là động

̣C

lực phát triển kinh tế nói chung [19]. Trong lý luận cạnh tranh của mình, C.Mác chỉ

O

ra rằng cạnh tranh kinh tế có hai mặt: tích cực và tiêu cực. Về mặt tích cực, cạnh

̣I H


tranh có tác dụng điều tiết, phân phối các yếu tố sản xuất, kích thích lực lượng sản
xuất phát triển, đào thải cái lạc hậu; cạnh tranh là sức mạnh thúc đẩy gia tăng giá trị

Đ
A

thặng dư tương đối; cạnh tranh thúc đẩy quá trình lưu thông các yếu tố sản xuất; cạnh
tranh là cơ chế điều tiết, phân phối lợi nhuận. Về mặt tiêu cực, cạnh tranh trong điều
kiện kinh tế tư bản chủ nghĩa tự do vô chính phủ có thể dẫn đến phân phối lao động
và các yếu tố sản xuất bất hợp lý, thậm chí dẫn đến khủng hoảng kinh tế.[19]
Lý thuyết cạnh tranh tân cổ điển gắn với kinh tế học tân cổ điển ở các nước
phương tây cuối thế kỷ XIX. Lý thuyết cạnh tranh này dựa trên cơ sở thị trường tự
do và cạnh tranh hoàn hảo. Trong điều kiện đó sản xuất được điều khiển bởi nhu
cầu và thị hiếu của người tiêu dùng thông qua thị trường, người sản xuất điều chỉnh
quy mô sản xuất tới điểm tối ưu [19].

6


Lý thuyết cạnh tranh hiện đại được hình thành từ giữa thế kỷ XX đến nay
gắn với các tên tuổi nổi tiếng như E.Chamberlin, J.Robinson, J.Shumpeter,
R.Boyer, M.Aglietta, Micheal Porter, Micheal Fairbank.v.v. lý thuyết cạnh tranh
hiện đại gắn với kinh tế thị trường hiện đại từ giữa thế kỷ XX đến nay. Lý thuyết
này không đi sâu vào nghiên cứu lý luận cạnh tranh thuần túy mà chú trọng đến
nghiên cứu năng lực cạnh tranh và việc nâng cao năng lực cạnh tranh. Có thể tóm
lược một số nội dung cơ bản về lý thuyết cạnh tranh hiện đại như sau:

Ế

(1) Cạnh tranh là hiện tượng phổ biến mang tính tất yếu, là một quy luật cơ


U

bản trong kinh tế thị trường.

́H

(2) Cạnh tranh có tính hai mặt: tác động tích cực và tác động tiêu cực. Cạnh
tranh là động lực mạnh mẽ thúc đẩy các chủ thể kinh doanh hoạt động hiệu quả hơn



trên cơ sở nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả vì sự sống còn và phát triển của
mình. Tuy nhiên, cạnh tranh cũng có nguy cơ dẫn đến tranh giành, giành giật,

H

khống chế lẫn nhau.v.v. tạo nguy cơ gây rối loạn và thậm chí đỗ vỡ lớn. Để phát

IN

huy được mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực, cần duy trì được môi trường cạnh

K

tranh lành mạnh, hợp pháp và kiểm soát độc quyền.
(3) Trong điều kiện hiện nay, cạnh tranh chuyển từ quan điểm đối kháng

̣C


sang cạnh tranh trên cơ sở hợp tác, cạnh tranh không phải khi nào cũng đồng nghĩa

O

với việc tiêu diệt lẫn nhau, triệt hạ lẫn nhau [15].

̣I H

Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về cạnh tranh trong các lĩnh vực
kinh tế xã hội. Cạnh tranh ở đây được tiếp cận dưới góc độ kinh tế, chưa có định

Đ
A

nghĩa thống nhất về sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Theo Kinh tế chính trị Mác- Lênin: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh về

kinh tế giữa các chủ thể tham gia sản xuất- kinh doanh với nhau nhằm giành những
điều kiện thuận lợi trong sản xuất kinh doanh, tiêu thụ hàng hóa dịch vụ để thu được
nhiều lợi ích nhất cho mình. Mục tiêu của cạnh tranh là giành lợi ích, lợi nhuận lớn
nhất, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của chủ thể tham gia cạnh tranh”[11]
Cuốn từ điển rút gọn về kinh doanh đã định nghĩa: “Cạnh tranh là sự ganh
đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm giành cùng một loại
tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”[1].

7


Theo từ điển Bách Khoa của Việt Nam thì: “Cạnh tranh trong kinh doanh là
hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa các thương nhân, các

nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, bị chi phối bởi quan hệ cung -cầu,
nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ, thị trường có lợi nhất” [21].
Từ điển kinh doanh Anh -Việt : “ Cạnh tranh là sự đối địch giữa các hãng
kinh doanh trên cùng một thị trường để giành được nhiều khách hàng, do đó nhiều
lợi nhuận hơn cho bản than, thường là bằng cách bán theo giá cả thấp nhất hay cung

Ế

cấp một chất lượng hàng hóa tốt nhất”[20]

U

Từ đó có thể đưa ra quan niệm về cạnh tranh như sau: Cạnh tranh là quan hệ

́H

kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn



thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường,
giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất có lợi nhất. Mục đích cuối

H

cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích. Đối với

IN

người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng

và sự tiện lợi [10].

K

1.1.2 Các loại hình cạnh tranh

̣C

Trong thực tế có nhiều tiêu thức được sử dụng làm căn cứ để phân loại cạnh

O

tranh. Căn cứ vào chủ thể tham gia trên thị trường, mức độ, tính chất cạnh tranh trên

̣I H

thị trường và phạm vi ngành kinh tế.
Theo các chủ thể tham gia trên thị trường, cạnh tranh được chia làm 3 loại

Đ
A

như sau:

(1) Cạnh tranh giữa người mua và người bán: Đây là cuộc cạnh tranh theo

quy luật “mua rẻ, bán đắt”. Người mua muốn mua sản phẩm mình cần với giá thấp,
còn người bán muốn bán sản phẩm của mình với giá cao. Quá trình này diễn ra
thông qua sự mặc cả của hai bên để xác định giá của hàng hóa.
(2) Cạnh tranh giữa những người mua với nhau: Cạnh tranh này diễn ra theo

quy luật cung - cầu. Nếu cung nhỏ hơn cầu thì những người mua phải mua với giá
đắt và ngược lại nếu cung lớn hơn cầu thì những người mua lại có lợi khi mua được
hàng hóa với giá rẻ hơn.

8


(3) Cạnh tranh giữa những bán với nhau: Cạnh tranh này diễn ra trên thị
trường với tính gay go và khốc liệt, cạnh tranh này mang tính sống còn đối với
doanh nghiệp nhằm chiếm lĩnh thị phần và thu hút khách hàng. Cạnh tranh này có
lợi cho người mua và những doanh nghiệp dành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh này
sẽ tăng được thị phần, doanh thu tăng lên tạo ra lợi nhuân lớn hơn.
Căn cứ vào hình thái và tính chất của cạnh tranh trên thị trường, cạnh tranh
được chia làm hai loại sau:

U

sản phẩm đồng nhất; thông tin đầy đủ; không có rào cản.

Ế

(1) Cạnh tranh hoàn hảo: có vô số người mua và người bán độc lập với nhau;

́H

(2) Cạnh tranh không hoàn hảo: gồm có cạnh tranh mang tính độc quyền và
độc quyền tập đoàn.




Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế, cạnh tranh được hiểu: Cạnh tranh trong
nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành[1]

H

1.1.3. Khái niệm về năng lực cạnh tranh

IN

Khái niệm năng lực cạnh tranh được đề cập đầu tiên ở Mỹ vào đầu những

K

năm 1980.Theo Aldington Report (1985): “ Doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh
là doanh nghiệp có thể sản xuất sản phẩm và dịch vụ với chất lượng vượt trội và giá

O

̣C

cả thấp hơn đối thủ cạnh tranh trong nước và quốc tế. Khả năng cạnh tranh đồng

̣I H

nghĩa với việc đạt được lợi ích lâu dài của doanh nghiệp và khả năng đảm bảo thu
nhập cho người lao động và chủ doanh nghiệp.”

Đ
A


Theo OCED thì “năng lực cạnh tranh là sức sản xuất ra thu nhập tương đối
cao trên cơ sở sử dụng các yếu tố sản xuất có hiệu quả làm cho các doanh nghiệp,
các ngành, các địa phương, các quốc gia và khu vực phát triển bền vững trong điều
kiện cạnh tranh quốc tế”[2].
Hội đồng về sức cạnh tranh của Mỹ đưa ra định nghĩa: “Năng lực cạnh tranh
là năng lực kinh tế về hàng hoá và dịch vụ của một nền sản xuất có thể vượt qua thử
thách trên thị trường thế giới trong khi mức sống của dân chúng có thể được nâng
cao một cách vững chắc, lâu dài”.
Theo Michael E. Porter (1990), năng lực cạnh tranh là khả năng duy trì và

9


nâng cao lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu
thụ, thu hút và sử dựng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế cao
và bền vững. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế
của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thỏa mãn tốt nhất các đòi hỏi
của khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn. Như vậy, năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp trước hết phải được tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp, đây là các
yếu tố nội hàm của doanh nghiệp không chỉ được tính bằng các tiêu chí về công

Ế

nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp một cách riêng biệt mà cần

U

đánh giá so sánh với các đối thủ cạnh tranh trong hoạt động trên cùng một lĩnh vực,

́H


cùng một thị trường. Sẽ là vô nghĩa nếu những điểm mạnh và điểm yếu bên trong
doanh nghiệp được đánh giá không thông qua việc so sánh một cách tương ứng với



các đối thủ cạnh tranh. Trên cơ sở các so sánh đó, muốn tạo nên năng lực cạnh tranh
đòi hỏi doanh nghiệp phải tạo lập được lợi thế so sánh với đối tác của mình. Nhờ lợi

H

thế này, doanh nghiệp có thể thỏa mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng mục tiêu

IN

cũng như lôi kéo được khách hàng của đối tác cạnh tranh[8].

K

Theo PGS, TS Nguyễn Thế Nghĩa (2004): “Năng lực cạnh tranh là sức mạnh
của doanh nghiệp được thể hiện trên thị trường. Sự tồn tại và sức sống của một

O

̣C

doanh nghiệp thể hiện trước hết ở năng lực cạnh tranh. Để từng bước vươn lên

̣I H


giành thế chủ động trong quá trình hội nhập. Nâng cao năng lực cạnh tranh chính là
tiêu chí phấn đấu của các doanh nghiệp Việt Nam”[9]

Đ
A

Như vậy, trên cơ sở nghiên cứu các khái niệm khác nhau về năng lực cạnh tranh
thì rõ ràng cần thiết phải nhận biết và phân loại theo từng cấp độ khác nhau, từ đó tạo
ra nhận thức đúng đắn và đầy đủ về khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
a. Cấp độ quốc gia: Theo các chuyên gia kinh tế, để xác định khả năng tăng
trưởng bền vững, thu hút đầu tư trong nước và ngoài nước, đảm bảo ổn định xã hội,
cải thiện đời sống người dân trong nền kinh tế toàn cầu hoá, khái niệm năng lực
cạnh tranh quốc gia đã được hình thành như một khái niệm phức hợp, dựa trên một
chùm các yếu tố khác nhau ở tầm kinh tế vĩ mô và năng lực quản lý của các doanh
nghiệp. Theo định nghĩa của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF – World Economic

10


Forum) thì năng lực cạnh tranh của một quốc gia là khả năng đạt và duy trì được
mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế vững bền tương đối và các
đặc trưng kinh tế khác [23].
Qua khái niệm này ta thấy năng lực cạnh tranh của quốc gia được xác định
trước hết bằng mức độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, các yếu tố tác động
trong dài hạn hay ngắn hạn đến khả năng tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Tuy
nhiên, có thể nhận thấy khái niệm này đã bỏ qua một số yếu tố quan trọng khác tác

Ế

động đến tiềm năng tăng trưởng dài hạn của quốc gia như sự tiến bộ về giáo dục,


U

khoa học công nghệ.v.v.

́H

Một số nhà kinh tế khác lại đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh của quốc



gia dựa trên năng suất lao động, cụ thể là M.Porter cho rằng: “Khái niệm có ý nghĩa
nhất về năng lực cạnh tranh ở cấp quốc gia là năng suất lao động”[12]. Trong lý

H

luận của mình, Porter dành cho chính phủ và công ty vai trò mới có tính chất hợp

IN

tác và khả thi trong tiến trình nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế. Đối với chính
phủ thì nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là tích cực tạo ra môi trường nâng cao năng

K

suất. Có những lĩnh vực chính phủ cần phải tích cực đầu tư như nguồn nhân lực, hạ

̣C

tầng cơ sở.v.v. Nói khác đi, chính phủ cần tạo ra môi trường thuận lợi cho cạnh


O

tranh chứ không phải trực tiếp tham gia vào cạnh tranh. Đối với bên công ty, Porter

̣I H

chỉ ra rằng nhiều lợi thế cạnh tranh nằm ở bên ngoài và nó bắt nguồn từ vị trí địa lý
và sự tụ họp trong một ngành. Khái niệm năng suất do Porter khởi xướng đã biểu

Đ
A

thị cho năng lực cạnh tranh, được giới học thuật chấp nhận một cách rộng rãi.
Còn với Fagerberg thì năng lực cạnh tranh quốc gia như là “khả năng của

một đất nước trong việc nhận thức rõ mục đích của chính sách kinh tế tập trung,
nhất là đối với tăng trưởng thu nhập và việc làm, mà không gặp phải các khó khăn
trong cán cân thanh toán” [22].
Từ việc nghiên cứu tìm hiểu các quan niệm khác nhau về năng lực cạnh
tranh quốc gia, có thể đúc rút và hiểu rằng: năng lực cạnh tranh của quốc gia là năng
lực của một nền kinh tế từ tổng hoà những yếu tố tác động đến khả năng tăng
trưởng trong môi trường kinh tế đầy biến động trên thị trường thế giới.

11


b. Cấp độ Doanh nghiệp:Ở cấp độ doanh nghiệp, phần lớn các tác giả đều
gắn năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với ưu thế sản phẩm mà doanh nghiệp
đưa ra thị trường hoặc gắn với vị trí của doanh nghiệp trên thị trường theo thị phần

mà nó chiếm giữ thông qua khả năng tổ chức, quản lý điều hành nhằm đạt được các
mục tiêu đặt ra như cắt giảm chi phí, duy trì hay gia tăng lợi nhuận.v.v.
Năng lực cạnh tranh theo quan điểm của Fafchamps chính là khả năng doanh
nghiệp có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi bình quân thấp hơn giá của nó

Ế

trên thị trường, điều đó có nghĩa là doanh nghiệp nào có khả năng sản xuất ra sản

U

phẩm có chất lượng tương đương với sản phẩm cùng loại do doanh nghiệp khác sản

́H

xuất, nhưng với chi phí thấp hơn thì được coi là có năng lực cạnh tranh cao [16].
Dunning lại cho rằng năng lực cạnh tranh là khả năng cung ứng sản phẩm của chính



doanh nghiệp trên các thị trường khác nhau mà không phân biệt vị trí bố trí của
doanh nghiệp đó [10]. Còn với Philip Lasser, sức cạnh tranh của một công ty trong

H

một lĩnh vực được xác định bằng những thế mạnh mà công ty có hoặc huy động

IN

được để có thể cạnh tranh thắng lợi. Năm 1992, Markusen đã đưa ra khái niệm:


K

“Một nhà sản xuất cạnh tranh nếu như nó có một mức chi phí đơn vị trung bình
bằng hoặc thấp hơn chi phí đơn vị của các nhà cạnh tranh quốc tế” [6].

O

̣C

Như vậy, ta thấy rằng thực tế tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau về năng

̣I H

lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Có quan niệm gắn sức cạnh tranh với ưu thế sản
phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị trường, có quan niệm gắn sức cạnh tranh của

Đ
A

doanh nghiệp theo thị phần mà nó chiếm giữ, có tác giả lại đồng nghĩa năng lực
cạnh tranh với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.v.v. Từ nhận thức lý luận và
thực tiễn, cần hiểu rằng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ có từ thực
lực và lợi thế của bản thân nó mà còn chịu tác động của rất nhiều nhân tố khác.
Trong thực tế, có nhiều doanh nghiệp thực lực rất nhỏ nhưng vẫn duy trì được vị trí
của mình trên thương trường so với các đối thủ cạnh tranh bằng cách huy động
ngoại lực, vay mượn tạm thời.v.v.
Về mặt khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể dẫn ra đây rất
nhiều quan điểm khác nhau nữa. Song, đúc kết từ lý luận đã nghiên cứu, có thể hiểu


12


năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp theo nghĩa chung là khả năng doanh nghiệp
tạo ra được lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn
đối thủ, chi phí sản xuất thấp, chiếm phần lớn thị trường, tạo ra thu nhập cao cho
người lao động và duy trì khả năng phát triển bền vững. Để đánh giá năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp ta có thể dựa vào nhiều tiêu chí khác nhau: thị phần, doanh
thu, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận, thu nhập bình quân, phương pháp quản lý, uy tín
với thị trường, tài sản, nguồn nhân lực.v.v.

Ế

c. Cấp độ ngành, sản phẩm: Ở cấp độ ngành, năng lực cạnh tranh là khả

U

năng của các công ty cùng hoạt động sản xuất kinh doanh ở một lĩnh vực nhất định

́H

trong nước thành công hơn so với các đối thủ nước ngoài. Nói cách khác, năng lực
cạnh tranh ngành được đánh giá bằng cách so sánh giữa những công ty trong nước



với các công ty nước ngoài hoạt động trong cùng một ngành. Ở đây cần hiểu rằng
những công ty nước ngoài có thể hoạt động trên cùng lãnh thổ với công ty trong

H


nước hoặc là ở quốc gia, vùng lãnh thổ khác.

IN

Năng lực cạnh tranh ngành được đánh giá theo hai phương pháp sau:

K

Thứ nhất, thông qua chi phí và năng suất của những nhân tố đầu vào: một
ngành được xem là có năng lực cạnh tranh khi tổng năng suất các yếu tố đầu vào

O

̣C

bằng hoặc cao hơn các đối thủ nước ngoài cùng ngành, hoặc có chi phí trung bình

̣I H

bằng hoặc thấp hơn các đối thủ nước ngoài.
Thứ hai, thông qua yếu tố thương mại: phương pháp này dựa vào tỷ lệ xuất

Đ
A

nhập khẩu của ngành. Theo phương pháp này, một ngành được xem là có năng lực
cạnh tranh cao hơn đối thủ nước ngoài nếu ngành đó có tỷ lệ xuất khẩu cao hơn
hoặc tỷ lệ nhập khẩu thấp hơn.
Ở cấp độ sản phẩm, cho đến nay các nhà nghiên cứu kinh tế vẫn chưa đưa ra

một định nghĩa thống nhất về năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Một số quan điểm cho rằng năng lực cạnh tranh của sản phẩm là sự vượt trội
ở một số chỉ tiêu nhất định so với sản phẩm cùng loại do các đối thủ cung cấp trên
cùng một thị trường. Định nghĩa rõ ràng hơn, một số tác giả cho rằng: năng lực cạnh
tranh của sản phẩm chính là năng lực nắm giữ và nâng cao thị phần của loại sản

13


phẩm do chủ thể sản xuất và cung ứng nào đó đem ra để tiêu thụ so với sản phẩm
cùng loại của các chủ thể sản xuất, cung ứng khác đem đến tiêu thụ ở cùng một khu
vực thị trường và thời gian nhất định. Nhìn chung, hai khái niệm này cho thấy việc
xác định sản phẩm có năng lực cạnh tranh hay không trên thị trường, là xác định
mức độ tin cậy của người tiêu dùng đối với sản phẩm về các chỉ tiêu như giá cả,
chất lượng, dịch vụ hậu mãi.v.v. So với sản phẩm cùng loại trên cùng một thị
trường chứ không quan tâm đến việc nó có vượt trội hơn so với mọi sản phẩm xuất

Ế

khẩu tại chỗ hay không. Hay một quan niệm khác cho rằng: năng lực cạnh tranh của

U

một sản phẩm được đánh giá qua chất lượng, mức độ đa dạng hoá sản phẩm, giá cả,

́H

khả năng thâm nhập thị trường mới và khả năng lôi kéo khách hàng.
Như vậy, có thể thấy rằng có rất nhiều khái niệm khác nhau về năng lực cạnh




tranh của sản phẩm, mặc dù chưa hoàn toàn thống nhất song ta có thế đúc rút rằng:
năng lực cạnh tranh của sản phẩm được cấu thành bởi nhiều yếu tố, trong đó có

H

những yếu tố nắm vai trò quan trọng như: khả năng sử dụng thay thế cho công dụng

IN

kinh tế của một loại sản phẩm khác biệt tương tự với loại sản phẩm đó, yếu tố về

K

chất lượng, về giá cả, về khả năng thoả mãn nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng, đồng
thời mang lại lợi nhuận có thể chấp nhận cho nhà sản xuất.v.v.

O

̣C

Qua nghiên cứu về khái niệm cạnh tranh ở các cấp độ, chúng ta thấy rằng

̣I H

giữa chúng có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Khi khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp được hoàn thiện phát triển sẽ tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh mạnh trên

Đ

A

thị trường, và ngược lại, một doanh nghiệp có nhiều sản phẩm mang tính cạnh tranh
cao sẽ làm cho thế và lực của doanh nghiệp được củng cố và phát triển. Đến lượt
mình, các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao sẽ góp phần làm cho nền kinh tế
có năng lực cạnh tranh quốc gia cao; để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có sức cạnh
tranh, môi trường kinh doanh của nền kinh tế phải thuận lợi, các chính sách kinh tế
vĩ mô phải rõ ràng, nền kinh tế phải ổn định, bộ máy Nhà nước phải hoạt động có
hiệu quả.v.v. Mặt khác, các yếu tố thuộc về bên trong doanh nghiệp mà đặc biệt là
khâu tổ chức quản lý cũng là yếu tố rất quan trọng cần nghiên cứu xem xét, bởi lẽ
trong cùng môi trường kinh doanh lại có những doanh nghiệp thành công bên cạnh

14


những doanh nghiệp thất bại. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp thể hiện ở
kết quả cuối cùng mà các chiến lược kinh doanh mang lại như doanh thu, lợi nhuận,
thị phần.v.v. Với vai trò tế bào của nền kinh tế, năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp chính là cơ sở cho năng lực cạnh tranh quốc gia.
Từ các cấp độ và những khái niệm khác nhau về năng lực cạnh tranh đã
nghiên cứu ở trên, tác giả sử dụng khái niệm về năng lực cạnh tranh như sau:
“Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và nâng cao lợi thế

Ế

cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút và sử

U

dụng có hiểu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt được lợi ích kinh tế cao và bền vững”.


́H

1.1.4. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một quy luật khách quan ,là một



nội dung trong cơ chế vận động của thị trường. Sản xuất hàng hoá càng phát triển,
hàng hóa bán ra càng nhiều, số lượng người cung cấp càng đông thì cạnh tranh càng

H

gay gắt. Kết quả của cạnh tranh sẽ là một số doanh nghiệp bị thua cuộc và bị gạt ra

IN

khỏi thị trường, trong khi đó một số doanh nghiệp khác vẫn tồn tại và phát triển hơn

K

nữa. Cũng chính nhờ sự cạnh tranh không ngừng mà nền kinh tế thị trường vận
động theo hướng ngày càng nâng cao năng suất lao động xã hội, yếu tố đảm bảo cho

O

̣C

sự thành công của mỗi quốc gia trên con đường phát triển.


̣I H

Bên cạnh đó hội nhập kinh tế quốc tế, hoà mình vào biển lớn là mở cửa nền
kinh tế, thực hiện tự do hoá thương mại, đưa các doanh nghiệp trong nước tham gia

Đ
A

vào cuộc cạnh tranh quốc tế. Bên cạnh mặt tích cực, cạnh tranh quốc tế đặt các
doanh nghiệp của mỗi quốc gia trước những thử thách nghiệt ngã. Hội nhập kinh tế
quốc tế có tác động to lớn đối với sự phát triển kinh tế nói chung của quốc gia. Hội
nhập là để cùng hợp tác phát triển, nhưng cũng là cuộc đấu tranh sinh tồn. Hội nhập
kinh tế đòi hỏi phải từng bước xoá bỏ các rào cản về thương mại và đầu tư giữa các
quốc gia theo hướng tự do hoá kinh tế. Hội nhập kinh tế quốc tế một mặt tạo điều
kiện thuận lợi mới cho doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh, mặt khác buộc các
doanh nghiệp phải có những đổi mới để nâng cao năng lực cạnh tranh trên thương
trường. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo thuận lợi cho việc thực hiện các công cuộc cải

15


cách ở các quốc gia nhưng đồng thời cũng là yêu cầu, sức ép đối với các quốc gia
trong việc đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế, đặc biệt là các chính sách và
phương thức quản lý vĩ mô. Hội nhập kinh tế quốc tế chính là tạo dựng các nhân tố
mới cho sự phát triển của từng quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế trên cơ sở
trình độ phát triển cao và hiện đại hoá lực lượng sản xuất.v.v.
Bên cạnh mặt tích cực, cạnh tranh quốc tế đặt nền kinh tế và các doanh
nghiệp trước những thách thức. Nền sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, tính

Ế


cạnh tranh càng trở nên khốc liệt trên cả thị trường trong nước và xuất khẩu. Tỷ lệ

U

các doanh nghiệp Việt Nam có khả năng cạnh tranh ngay trên sân nhà là rất thấp,

́H

chưa nói đến việc cạnh tranh trên các thị trường khác. Vì thế đòi hỏi đầu tiên đối



với doanh nghiệp trong hội nhập kinh tế quốc tế chính là phải không ngừng lớn lên
cả về lượng lẫn về chất. Cụ thể là không ngừng mở rộng quy mô, tăng vốn, đầu tư

H

công nghệ mới, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực để nâng cao hiệu quả sản xuất,

IN

kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh.

Khi hội nhập, các doanh nghiệp phải đối đầu với những rào cản thương mại

K

quốc tế, mà giải quyết vấn đề này phải xuất phát từ cả Nhà nước và doanh nghiệp.


̣C

Nhà nước đóng vai trò là người cung cấp thông tin, lộ trình thực hiện.v.v., các

O

doanh nghiệp tiếp nhận và xử lý để trang bị kiến thức về thị trường nước ngoài, tập

̣I H

quán tiêu dùng, luật kinh doanh… ở thị trường mới.
Qua những phân tích ở trên cho thấy, sẵn sàng chấp nhận cạnh tranh và không

Đ
A

ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh là vấn đề sống còn đối với mọi doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, trong điều kiện toàn cầu hoá. Các doanh
nghiệp thuộc các ngành, các thành phần kinh tế chỉ có thể tồn tại và phát triển trong tiến
trình hội nhập quốc tế khi năng lực cạnh tranh được nâng cao.

1.2. CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH
NGHIỆP CHẾ BIẾN GỖ.
Với những quan điểm và phân tích ở phần trên về năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp, chúng ta có thể cụ thể hóa thành các thành phần của năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp như sau:

16



1.2.1 Quy mô vốn
Vốn là một nguồn lực doanh nghiệp cần phải có trước tiên vì không có vốn
thì không thể thành lập doanh nghiệp và tiến hành hoạt động. Một doanh nghiệp có
năng lực cạnh tranh là doanh nghiệp có nguồn vốn dồi dào, luôn bảo đảm huy động
được vốn trong những điều kiện cần thiết một cách hợp lý; bên cạnh đó, doanh
nghiệp cần phải có kế hoạch sử dụng đồng vốn một cách hiệu quả để tăng khả năng
sinh lời. Để có được nguồn vốn dồi dào, doanh nghiệp phải đa dạng hoá nguồn cung

Ế

vốn. Nếu không có nguồn vốn dồi dào thì sẽ hạn chế rất lớn đến kết quả hoạt động

U

của doanh nghiệp trong việc tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng cao trình độ nguồn

́H

nhân lực, triển khai nghiên cứu thị trường, tìm kiếm thông tin.v.v.
1.2.2 Diện tích nhà xưởng



Đối với các doanh nghiệp chế biến gỗ, diện tích đất đai nhà xưởng cũng là
một trong những yếu tố đầu tiên cần thiết cho quá trình hoạt động. Vấn đề trước hết

H

cần đề cập là nguyên vật liệu của ngành này chiếm diện tích không gian khá lớn, lại


IN

dễ bị tác động bởi các điều kiện tự nhiên, do đó điều kiện cần thiết giúp cho việc

K

bảo quản tốt nguyên vật liệu ở doanh nghiệp là phải có hệ thống kho tàng đủ tiêu
chuẩn kỹ thuật. Ngoài ra, khu vực sản xuất với hệ thống máy móc thiết bị cồng

O

̣C

kềnh, nhiều công đoạn cũng yêu cầu một diện tích phù hợp mới có thể thao tác. Qua

̣I H

đó có thể thấy được rằng trong các thành phần của năng lực cạnh tranh, đất đai nhà
xưởng là một yếu tố quan trọng tác động đến năng lực cạnh tranh của các doanh

Đ
A

nghiệp chế biến gỗ.

1.2.3 Nguồn nguyên liệu
Nguyên vật liệu là đối tượng lao động – một trong ba yếu tố cơ bản của quá

trình sản xuất. Đối với các doanh nghiệp chế biến gỗ, chi phí nguyên vật liệu
thường chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng chi phí sản xuất kinh doanh.

Nguyên liệu của ngành chế biến gỗ hiện nay được cung cấp từ hai nguồn
chính là trong nước và nhập khẩu. Rừng tự nhiên Việt Nam sau nhiều năm khai
thác, sử dụng cùng với nhiều nguyên nhân khác nhau (du canh du cư, phát nương
làm rẫy, khai hoang trồng lương thực và cây công nghiệp, di dân tự do, khai thác

17


quá mức) đến nay đã suy giảm nhiều về số lượng và chất lượng. Đứng trước tình
hình đó, Nhà nước phải hạn chế khai thác để bảo vệ được vốn rừng hiện có bằng
quyết định đóng cửa rừng tự nhiên. Tuy nhiên về lâu dài, cần có sự điều chỉnh chủ
trương này để phù hợp với thực tế hơn. Bởi vì cây rừng có sinh trưởng phát triển
khi đạt đến mức thành thục cần khai thác sử dụng hợp lý (trên cơ sở lượng tăng
trưởng của rừng) để rừng tiếp tục sinh trưởng, phát triển. Cùng với việc thực hiện
giảm dần lượng khai thác hướng tới đóng cửa rừng tự nhiên là chuyển hướng đẩy

Ế

mạnh trồng rừng và tăng cường sử dụng nguyên liệu rừng trồng vào sản xuất, chế

U

biến các loại sản phẩm.

́H

Do nguồn nguyên liệu trong nước không đủ cung cấp nên Việt Nam phải
nhập khẩu một khối lượng tương đối lớn nguyên liệu gỗ từ các nước trong vùng và




trên thế giới. Việc nhập khẩu gỗ từ một số quốc gia có nền lâm nghiệp chưa phát
triển đang đứng trước những nguy cơ bị các tổ chức phi chính phủ quốc tế lên án và

H

yêu cầu hạn chế. Các nước này cũng đang dần phải hoàn thiện công tác kinh doanh

IN

rừng bền vững để đáp ứng những yêu cầu của các tổ chức quốc tế đề ra, các loại gỗ

K

phải được kiểm tra chứng chỉ rừng trước khi xuất khẩu sang các nước khác. Như
vậy, trong một vài năm tới việc nhập khẩu gỗ từ các nước trên sẽ bị hạn chế rất

O

̣C

nhiều. Do vậy nguồn nguyên liệu cho chế biến sẽ bị ảnh hưởng nếu như Việt Nam

̣I H

không chuẩn bị trước kế hoạch phát triển cho những năm tới. Trong thời gian tới
việc nhập nguyên liệu từ các nước Đông Nam á sẽ gặp nhiều khó khăn, Việt Nam

Đ
A


đang phải chuyển hướng nhập nguyên liệu từ các nước Châu Phi.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh, các doanh nghiệp chế biến gỗ cần chủ

động nguồn nguyên liệu, khai thác các thị trường cung cấp một cách hữu hiệu nhằm
đạt được mục tiêu sản xuất đảm các yêu cầu quản lý chất lượng với chi phí thấp
nhất có thể. Nguồn nguyên liệu thực sự là một yếu tố quan trọng, với đặc trưng của
ngành chế biến gỗ, giải quyết được bài toán nguyên liệu là doanh nghiệp đã có được
lợi thế nhất định trong quá trình cạnh tranh.
1.2.4 Chất lượng đội ngũ lao động, cán bộ quản lý
Nhân lực là nguồn lực rất quan trọng vì nó sáng tạo ra các nguồn lực khác.

18


Xã hội càng phát triển thì vai trò của con người càng được thể hiện rõ hơn. Trong
doanh nghiệp, nguồn nhân lực là vốn quý nhất. Trình độ của nguồn nhân lực thể
hiện ở trình độ quản lý của các cấp lãnh đạo, trình độ lành nghề của nhân viên, công
nhân và của mọi thành viên trong doanh nghiệp. Trình độ nguồn nhân lực cao sẽ tạo
ra các sản phẩm có hàm lượng chất xám cao, sản phẩm vì vậy sẽ bán được nhiều
hơn, với giá cao hơn, lợi nhuận của doanh nghiệp ngày càng tăng, uy tín và danh
tiếng doanh nghiệp ngày càng lớn. Nhờ uy tín và danh tiếng đó mà doanh nghiệp có

Ế

điều kiện phát triển thị trường, mở rộng quy mô, góp phần làm cho nền kinh tế ngày

U

càng phát triển.


́H

Chất lượng đội ngũ lao động, cán bộ quản lý là yếu tố quyết định hiệu quả
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó có ảnh hưởng to lớn đến năng lực cạnh



tranh của doanh nghiệp. Nếu các thành viên có trình độ, kinh nghiệm, khả năng
đánh giá, năng động, có mối quan hệ tốt với bên ngoài thì họ sẽ mang lại những lợi

H

ích dài hạn cho doanh nghiệp. Trình độ tay nghề, chuyên môn nghiệp vụ của người

IN

lao động và cả lòng hăng say làm việc của họ cũng là một yếu tố tác động mạnh mẽ

K

đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Đây là tiền đề để doanh nghiệp có thể
tham gia và đứng vững trong cạnh tranh.

O

̣C

1.2.5 Trình độ công nghệ sản xuất
Để có năng lực cạnh tranh, doanh nghiệp phải được trang bị bằng công nghệ


̣I H

hiện đại. Công nghệ hiện đại là công nghệ sử dụng ít nhân lực (người điều khiển ít),

Đ
A

thời gian tạo ra sản phẩm ngắn, tiêu hao năng lượng và nguyên liệu thấp, năng suất
cao, chất lượng sản phẩm tốt, không gây ô nhiễm môi trường.v.v. Sử dụng công
nghệ hiện đại giúp cho doanh nghiệp tăng năng lực cạnh tranh của mình trên thị
trường. Để sử dụng công nghệ có hiệu quả, doanh nghiệp cần lựa chọn công nghệ
thích hợp, có nghĩa là doanh nghiệp phải dự báo được chu kỳ sống (chu kỳ đổi mới)
công nghệ để thay đổi công nghệ, để tạo ra sản phẩm phù hợp với yêu cầu thị
trường; đồng thời phải đào tạo công nhân đủ trình độ để điều khiển và kiểm soát
công nghệ, nếu không sẽ xảy ra trường hợp công nghệ hiện đại nhưng không được
khai thác hiệu quả. Trong thời đại ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển với tốc độ

19


lớn, các công nghệ rất chóng bị lạc hậu. Vì vậy, các doanh nghiệp cần chú ý sử
dụng các công nghệ hiện đại, có độ linh hoạt cao để dễ dàng cải tiến, đổi mới.
Doanh nghiệp được trang bị công nghệ, máy móc hiện đại, nguyên vật liệu tốt thì
mới có điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất, hạ giá thành, tạo
điều kiện tăng khả năng cạnh tranh.
1.2.6 Chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế quan trọng gắn liền với

Ế


sản xuất và lưu thông hàng hoá. Ðó là những hao phí lao động xã hội được biểu

U

hiện bằng tiền trong quá trình hoạt động kinh doanh. Chi phí của doanh nghiệp là tất

́H

cả những chi phí phát sinh gắn liền với doanh nghiệp trong quá trình hình thành, tồn
tại và hoạt động từ khâu mua nguyên vật liệu, tạo ra sản phẩm đến khâu tiêu thụ nó.



Trong quá trình sản xuất doanh nghiệp phải tiêu hao các chi phí về lao động vật hoá
như nguyên vật liệu, dụng cụ.v.v. Đồng thời doanh nghiệp cũng phải chi ra các

H

khoản về chi phí lao động sống như tiền lương (tiền công của người lao động), các

IN

khoản trích theo lương.v.v. Chi phí sản xuất kinh doanh cũng bao gồm cả chi phí
nghiên cứu phát triển (R&D), các chi phí tiện ích (điện, nước.v.v. ), chi phí vận tải,

K

chi phí thuê mặt bằng sản xuất kinh doanh.v.v. Chi phí nghiên cứu và phát triển sản


̣C

phẩm mới là chi phí quan trọng trong nền kinh tế hiện đại bởi các doanh nghiệp

O

muốn tồn tại, muốn có sức cạnh tranh thì cần phải biết đổi mới mình. Các chi phí

̣I H

điện, nước.v.v. luôn là một yếu tố được xem xét khi có dự án đầu tư, nhất là đầu tư
nước ngoài. Điều này cho thấy chi phí điện, nước.v.v. ảnh hưởng không nhỏ tới giá

Đ
A

thành sản phẩm và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.2.7 Các yếu tố liên quan đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Muốn nói tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp không thể không bàn tới

năng lực cạnh tranh của sản phẩm do doanh nghiệp đó tạo ra. Vì một doanh nghiệp
có năng lực cạnh tranh thì một trong những yếu tố quan trọng là các sản phẩm do
doanh nghiệp tạo ra phải có năng lực cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm
chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố: chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm, thời gian
cung cấp, dịch vụ đi kèm, danh tiếng - uy tín doanh nghiệp.v.v..Dưới đây chúng ta
xem xét 4 yếu tố quan trọng cấu thành năng lực cạnh tranh của sản phẩm.

20



1.2.7.1 Chất lượng, mẫu mã
Chất lượng sản phẩm là mức độ của một tập hợp các đặc tính của sản phẩm
làm thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Một số sản phẩm có nhiều đặc tính, nhiều
chỉ tiêu chất lượng. Nếu tập hợp các đặc tính đó làm thoả mãn được yêu cầu của
khách hàng thì sản phẩm mới gọi là có chất lượng.
Sản xuất sản phẩm đảm bảo chất lượng, thoả mãn yêu cầu khách hàng mang
lại hiệu quả lớn cho nền kinh tế, mang lại giàu có cho doanh nghiệp và quốc gia.

Ế

Thực tiễn thế giới đã cho chúng ta thấy rằng các nước như Hàn Quốc, Singapore,

U

Nhật Bản.v.v. là những nước có nền kinh tế phát triển đã lấy chất lượng làm nền

́H

tảng, đã tạo ra những “chuyện thần kỳ” về kinh tế mà cả thế giới phải khâm phục.



Trước hết, chất lượng sản phẩm tốt mang lại hiệu quả kinh tế cao. Chất
lượng là tiết kiệm. Sở dĩ có thể khẳng định như vậy bởi nếu mọi sản phẩm được sản

H

xuất ra đều đảm bảo chất lượng, không có phế phẩm hoặc tỷ lệ phế phẩm nhỏ thì

IN


những lao động quá khứ nằm trong nguyên vật liệu, trong máy móc thiết bị, trong
nhà xưởng và những lao động hiện tại để làm ra sản phẩm không bị bỏ đi (do lượng

K

phế phẩm) mà còn được gia tăng giá trị (nhờ đảm bảo chất lượng). Sản xuất không

̣C

khuyết tật thì doanh nghiệp không phải bỏ thêm lao động, thời gian, nguyên liệu,

O

hao mòn máy móc để khắc phục những hư hỏng, từ đó mà tiết kiệm chi phí sản

̣I H

xuất. Mặt khác, chất lượng sản phẩm tốt làm cho chi phí sử dụng và chi phí môi
trường giảm. Như vậy, rõ ràng là chất lượng mang lại tiết kiệm cho cả quốc gia và

Đ
A

doanh nghiệp.

Chất lượng sản phẩm là yếu tố quan trọng nhất để nâng cao năng lực cạnh

tranh cho sản phẩm. Trước đây, giá cả thường là yếu tố quan trọng nhất của năng
lực cạnh tranh do đời sống vật chất của con người chưa cao. Nhưng từ những năm

80 của thể kỷ XX đến nay thì xu thế cạnh tranh của sản phẩm đã nghiêng về chất
lượng. Chất lượng cao đồng nghĩa với nhu cầu của người tiêu dùng được thoả mãn
cao, tạo được niềm tin và nhờ vậy mà doanh thu của doanh nghiệp mới tăng, có
điều kiện để mở rộng quy mô sản xuất và ngày càng khẳng định vị trí của mình.

21


1.2.7.2 Quản lý chất lượng sản phẩm
Tổ chức quản lý tốt trước hết tổ chức đó phải áp dụng phương pháp quản lý
hiện đại mà nhiều doanh nghiệp trên thế giới đã áp dụng thành công vào quản trị sản
xuất và kinh doanh từ nửa sau thế kỷ XX. Đó là các phương pháp quản lý theo tình
huống, quản lý theo tiếp cận quá trình và tiếp cận hệ thống, quản lý theo phương pháp
của quản lý chất lượng như ISO 9001, TQM, COC/FSC.v.v. Các doanh nghiệp của
nhiều nước đã áp dụng các phương pháp và biện pháp quản trị mới mang lại năng

Ế

suất và hiệu suất cao, giảm được nhiều chi phí, tạo cơ sở cho nâng cao năng lực cạnh

U

tranh. Việc áp dụng các phương pháp quản trị mới ở nước ta hiện nay vẫn còn rất hạn

́H

chế, nhiều doanh nghiệp chưa nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của việc áp dụng
các tiêu chuẩn quốc tế, chưa áp dụng các biện pháp thống kê trong kiểm soát, kiểm




tra chất lượng dẫn đến chất lượng sản phẩm không ổn định.

Hoạt động quản lý chất lượng là hoạt động bao trùm mọi bộ phận (phòng,

H

ban) của doanh nghiệp. Hệ thống quản lý tốt có nghĩa là hệ thống đó phải có chất

IN

lượng. Các phòng ban của nó hoạt động có chất lượng thì sản phẩm cuối cùng mới

K

đảm bảo chất lượng.
1.2.7.3 Giá cả

O

̣C

Giá cả là yếu tố quan trọng thứ hai đối với năng lực cạnh tranh của sản phẩm

̣I H

sau yếu tố chất lượng. Ngày nay, khoa học kỹ thuật đã phát triển với trình độ cao,
chất lượng sản phẩm của các công ty gần như tương đương nhau thì giá cả là yếu tố

Đ

A

trở nên hấp dẫn. Để có giá cả thấp, doanh nghiệp phải tìm mọi cách cắt giảm chi
phí. Ở đây cần hiểu cắt giảm chi phí nhưng vẫn phải đảm bảo về chất lượng, có
nghĩa là doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, quản lý theo phương
pháp hiện đại, nâng cao trình độ nhân viên, áp dụng công nghệ hiện đại, đẩy mạnh
công tác nghiên cứu, quản lý tốt các chi phí phát sinh.v.v. Giảm chi phí là điều kiện
rất quan trọng để doanh nghiệp có thể giảm được giá bán mà vẫn đảm bảo lợi nhuận
khi chất lượng tương đương với chất lượng của đối thủ cạnh tranh.
1.2.7.4 Uy tín thương hiệu
Thương hiệu cho sản phẩm là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến năng lực cạnh

22


tranh của doanh nghiệp. Khi thâm nhập thị trường mới, nếu không có nhãn hiệu,
thương hiệu thì người tiêu dùng sẽ không biết sản phẩm đó của ai, sản xuất từ
đâu.v.v., và như vậy đồng nghĩa với việc không được thị trường chấp nhận. Bởi
vậy, việc quảng bá cho sản phẩm, xây dựng thương hiệu, củng cố và phát triển nó là
vấn đề rất quan trọng góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Đây là yếu tố mang tính tổng hợp các yếu tố đã trình bày ở trên. Uy tín, danh
tiếng trước hết được xây dựng nên bằng con đường chất lượng: chất lượng của hệ

Ế

thống quản lý doanh nghiệp, chất lượng của ban lãnh đạo, chất lượng của từng con

U

người trong doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm mà doanh nghiệp tạo ra.v.v. Uy tín


́H

cũng được xây đắp bằng sự đóng góp của doanh nghiệp vào sự phát triển bền vững
nền kinh tế - xã hội.v.v. Uy tín còn được tạo nên từ các dịch vụ đi kèm trước và sau



khi bán sản phẩm. Cuối cùng, hoạt động marketing và quảng cáo là phương tiện để
khách hàng biết đến doanh nghiệp, đem thông tin về sản phẩm đến khách hàng và từ

H

đó mới có cơ hội xây dựng uy tín cho mình.

IN

1.2.8 Thị trường đầu ra

K

Sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều, càng phong phú, đa dạng và chất
lượng ngày một cao, giá cả càng hạ do công nghệ càng tiên tiến cho năng suất cao

O

̣C

và chi phí thấp. Trước tình hình đó, sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam rất


̣I H

khó bán không những ở thị trường nước khác mà ngay cả trên thị trường nước
mình, vì sản phẩm của chúng ta nói chung chất lượng còn thấp, chi phí sản xuất

Đ
A

cũng như chi phí đầu vào lại cao, thêm vào đó công tác xúc tiến thương mại còn
yếu, thông tin thị trường và nghiên cứu thị trường còn hạn chế.v.v. làm cho hàng
hoá tiêu thụ chậm với khối lượng ít. Sự cạnh tranh tiêu thụ sản phẩm ngày càng gay
gắt thì những điểm yếu đó lại càng rõ ràng và ngày một lớn thêm do sự gia tăng
khoảng cách. Do đó, các doanh nghiệp phải nỗ lực vươn lên cải thiện vị thế của
mình trên thị trường quốc tế.
Thị trường đầu ra của ngành chế biến gỗ không chỉ trong nước mà còn xuất
khẩu sang nhiều nước trên thế giới. Trong tương lai xuất khẩu các mặt hàng đồ gỗ
vẫn còn có nhu cầu lớn trên thị trường trọng điểm, điều này mở ra hướng phát triển

23


tích cực cho ngành sản xuất, chế biến sản phẩm gỗ xuất khẩu. Một số thị trường
trọng điểm của ngành chế biến gỗ nước ta hiện nay bao gồm: thị trường Mỹ có tốc
độ phát triển cao nhất thế giới; thị trường EU hàng năm nhập một khối lượng lớn gỗ
và sản phẩm gỗ đang có xu hướng ngày càng tăng; thị trường Nhật Bản vẫn còn đầy
tiềm năng và hứa hẹn, đặc biệt là tiềm năng sản xuất, nhập khẩu nguyên liệu cho
chế biến dăm và bột giấy, đồ nội thất mà Việt Nam chưa có nhiều cơ hội để tiếp cận
thị trường này.

Ế


1.2.9 Xúc tiến thương mại

U

Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm xúc tiến thương mại. Theo

́H

giáo trình ''Lý luận và nghệ thuật ứng xử trong kinh doanh'' của trường Đại học Kinh
tế quốc dân thì: xúc tiến thương mại là các biện pháp và nghệ thuật mà các nhà kinh



doanh dùng để thông tin về hàng hoá, tác động tới người mua, lôi kéo họ về phía
mình và các biện pháp hỗ trợ cho bán hàng. Cách hiểu này cho rằng xúc tiến thương

H

mại gồm 3 nội dung chính là: quảng cáo, các hoạt động yểm trợ và xúc tiến bán hàng.

IN

Theo quan niệm của Trung tâm thương mại quốc tế (ITC) thì xúc tiến thương

K

mại là tất cả các biện pháp có thể tác động hỗ trợ, khuyến khích phát triển thương
mại. Các biện pháp có thể tác động hỗ trợ gián tiếp hay trực tiếp đến quá trình sản


O

̣C

xuất, phân phối lưu thông hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ nhằm thúc đẩy, tìm kiếm

̣I H

cơ hội mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ để tăng hiệu quả hoạt động thương
mại, đáp ứng nhu cầu giao thương ngày càng cao của xã hội như: hỗ trợ cho hoạt

Đ
A

động nghiên cứu triển khai, hỗ trợ việc tăng khối lượng sản phẩm sản xuất ra, hỗ trợ
về mặt tài chính, kích thích nhu cầu tiêu dùng tăng lên thông qua việc ký kết các
Hiệp định thương mại, thông qua hội chợ triển lãm, thông qua mở rộng hệ thống
phân phối, thiết lập văn phòng đại diện ở nước ngoài.
Với mục tiêu tạo sự quan tâm của khách hàng, làm cho họ thích thú muốn
được sở hữu, sử dụng món hàng hay loại hình dịch vụ mà nhà kinh doanh cung cấp,
để từ đó thôi thúc khách hàng phải trả tiền mua hàng hoặc trả tiền sử dụng dịch vụ đó,
hoạt động xúc tiến thương mại rất đa dạng. Có thể kể ra đây những hoạt động chính
như: quảng cáo; khuyến mại; hội chợ; triển lãm thương mại; trưng bày, giới thiệu

24


hàng hoá sản phẩm; hội thảo và hội nghị khách hàng; tham quan khảo sát, phân tích
và tìm kiếm thị trường; cung cấp thông tin, tư vấn cho doanh nghiệp… Nhận thức
được tầm quan trọng của xúc tiến thương mại và coi đó là một hoạt động không thể

thiếu được trong nền kinh tế thị trường để nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả
sản xuất kinh doanh của mình, trong những năm gần đây các doanh nghiệp đã chú ý
đầu tư nhiều cho hoạt động xúc tiến thương mại. Tham gia với hoạt động xúc tiến
thương mại có nhiều thành phần: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, các

Ế

tổ chức phi Chính phủ, Hiệp hội doanh nghiệp… Sự đa dạng của các thành phần

U

tham gia và sự phong phú, nhiều vẻ của hoạt động xúc tiến thương mại đã làm cho

́H

hoạt động này trở nên sôi động và phát triển với tốc độ khá nhanh.

1.2.10 Nhận thức về cạnh tranh, đánh giá đối thủ và xác định lợi thế



Đây là yếu tố đặc biệt quan trọng làm nên sự khác nhau giữa các doanh
nghiệp. Thực tế cho thấy hai doanh nghiệp có thể có cùng điều kiện về đất đai, tài

H

chính, v.v. nhưng với những nhận thức khác nhau về vấn đề cạnh tranh của người

IN


chủ doanh nghiệp và đội ngũ cán bộ chắc chắn sẽ có những kết quả khác nhau.

K

Đánh giá đối thủ và xác định lợi thế của mình cũng là một trong những chỉ tiêu hết
sức quan trọng trong phân tích năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Một doanh

O

̣C

nghiệp có nhận thức đúng đắn về cạnh tranh, xác định được đối thủ, nhìn nhận được

̣I H

lợi thế sẽ có định hướng đúng đắn và phù hợp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh.
Việc đánh giá đối thủ, xác định lợi thế là một chỉ tiêu định lượng tổng hợp rất khó

Đ
A

có thể tích hợp được tất cả các yếu tố liên quan, do vậy trong quá trình thực hiện
phải cố gắng lựa chọn những yếu tố có tác động quan trọng theo từng ngành cụ thể.
1.3 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
DOANH NGHIỆP
1.3.1 Các nhân tố bên trong doanh nghiệp:
1.3.1.1 Trình độ và năng lực tổ chức, quản lý doanh nghiệp
Năng lực tổ chức, quản lý doanh nghiệp được coi là yếu tố quyết định sự tồn
tại phát triển của doanh nghiệp nói chung cũng như năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp nói riêng. Nó được thể hiện trên các mặt:


25


×