Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Hoàn thiện môi trường chính sách khuyến khích đầu tư vốn ở tỉnh phú yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (731.73 KB, 114 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, nền kinh tế thế giới phát triển mạnh
mẽ, quan hệ giữa các quốc gia ngày càng kết chặt hơn trên tất cả các lĩnh vực, hoạt
động thương mại đã lan rộng trên phạm vi toàn thế giới với mức độ cạnh tranh ngày
càng gay gắt, quyết liệt. Chính vì thế, tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, tìm ra
những bước đi cụ thể, tạo môi trường chính sách khuyến khích đầu tư theo hướng
cạnh tranh thu hút các nguồn vốn, tạo điều kiện thuận lợi phát huy “nội lực” trên cơ
sở kết hợp với “ngoại lực”, nhanh chóng vượt qua những thách thức của nền kinh
tế, tạo đà tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH).
Phú Yên là một tỉnh thuộc khu vực duyên hải Nam trung bộ, có tiềm năng lợi
thế về lao động và tài nguyên. Cùng với sự phát triển kinh tế mở của cả nước, Phú
Yên tạo mọi điều kiện thuận lợi để đón chào các nhà đầu tư. Đặc biệt, Quyết định số
122/2008/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH tỉnh Phú Yên
đến năm 2020. Trong đó, dự kiến nhu cầu vốn đầu tư thời kỳ 2006 - 2020 khoảng
238 nghìn tỷ đồng; Xây dựng và ban hành danh mục các dự án kêu gọi đầu tư đến
năm 2020; Mở rộng các dự án đầu tư, đa dạng hóa các hình thức tạo vốn, đẩy mạnh
cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư, hỗ trợ các nhà đầu tư triển khai kịp thời
các chính sách của Nhà nước một cách cụ thể và phù hợp với đặc điểm của tỉnh.
Để tạo môi trường thuận lợi thu hút các nhà đầu tư, với những chính sách ưu
đãi chung của cả nước, tỉnh Phú Yên đã ban hành một số chính sách khuyến khích
thu hút đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, du lịch và đầu tư
vào các khu công nghiệp. Song bên cạnh đó, việc khai thác nguồn vốn của các
thành phần kinh tế, tranh thủ vốn đầu tư của các bộ, ngành trung ương, vốn tín dụng
và các Chương trình mục tiêu để đầu tư vào các lĩnh vực then chốt, quyết định và
cần thiết, còn những hạn chế, tồn tại cần phải được tháo gỡ. Đây chính là vấn đề đòi
hỏi cần được giải quyết.

1



Tuy vậy, từ trước đến nay chung quanh vấn đề hoàn thiện môi trường chính
sách khuyến khích đầu tư vốn đã có một số sách, đề tài nghiên cứu liên quan như:
- Trần Thị Minh Châu (2007), Về chính sách khuyến khích đầu tư ở Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Mai Ngọc Cường (2000), Hoàn thiện chính sách và tổ chức thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
- Nguyễn Hoàng Giáp. Tạo lập môi trường đầu tư thuận lợi để thu hút đầu tư
nước ngoài cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta, thực trạng và giải pháp.
Tạp chí Châu Á – Thái Bình Dương, 6/2000.
- Đỗ Hải Hồ (2008), “Cải thiện môi trường để thu hút đầu tư”, Tạp chí kinh
tế và dự báo, (số 3/2008).
- Nguyễn Đình Hương (2003), Hoàn thiện môi trường thể chế phát triển
đồng bộ các loại thị trường trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Lê Chí Mai (2001), Những vấn đề cơ bản về chính sách và chính sách
công, Nxb Đại học Quốc gia thành phố HCM.
- Trần Thị Cẩm Trang. So sánh môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
của Việt Nam với các nước ASEAN – 5 và Trung Quốc. Giải pháp cải thiện môi
trường FDI của Việt Nam. Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 11/2004
- Trần Nguyên Tuyên. Hoàn thiện môi trường và chính sách khuyến khích
đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam. Tạp chí Cộng sản số 14 (7/2004)
- Hà Xuân Vấn (2007), Hoàn thiện môi trường chính sách khuyến khích đầu
tư vốn ở tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay, Đề tài cấp bộ nghiệm thu 2008 ở trường
Đại học Kinh tế - Đại học Huế.
Riêng ở tỉnh Phú Yên, chưa có đề tài nào nghiên cứu đến vấn đề hoàn thiện
môi trường chính sách khuyến khích đầu tư vốn. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Hoàn
thiện môi trường chính sách khuyến khích đầu tư vốn ở tỉnh Phú Yên” làm nội
dung nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.


2


2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu: Chính sách thu hút đầu tư ngày càng hấp dẫn nhằm tạo môi
trường thuận lợi để tăng cường thu hút vốn đầu tư vào tỉnh Phú Yên.
- Nhiệm vụ:
+ Hệ thống hóa lý luận và thực tiễn về vốn đầu tư, chính sách khuyến khích
vốn đầu tư.
+ Đánh giá toàn diện thực trạng chính sách thu hút và khuyến khích vốn đầu
tư, chỉ ra nguyên nhân hạn chế của chính sách trong việc thu hút vốn đầu tư ở tỉnh
Phú Yên.
+ Đề xuất những giải pháp phù hợp để tiếp tục hoàn thiện chính sách, nâng
cao khả năng thu hút vốn đầu tư vào tỉnh Phú Yên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu chính sách khuyến khích đầu tư vốn.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về thời gian: Giai đoạn từ năm 2001-2010, định hướng sử dụng các giải
pháp tăng cường huy động các nguồn vốn đầu tư từ năm 2011 đến năm 2020.
+ Về không gian: tại địa bàn tỉnh Phú Yên
+ Nội dung nghiên cứu: các chính sách ưu đãi đầu tư, hỗ trợ đầu tư, xúc tiến
đầu tư, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ, cải cách hành chính.
4. Phương pháp nghiên cứu và cách thức tiến hành
- Ngoài phương pháp chung là duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đề tài
sử dụng các phương pháp cụ thể sau:
+ Phương pháp phân tích tổng hợp, lôgích-lịch sử.
+ Phương pháp diễn giải – quy nạp
+ Phương pháp thống kê.
+ Phương pháp tổng kết thực tiễn.
+ Phương pháp thu thập thông tin: Sử dụng phương pháp thăm dò ý kiến

thông qua phiếu thăm dò đối với 30 cá nhân đại diện các DN: Tổng giám đốc, giám
đốc, trưởng phòng và chuyên viên công tác trong các DN và chuyên ngành đầu tư,

3


công tác ban hành chính sách...từ đó rút ra những ý kiến chung về các nội dung mà
đề tài nghiên cứu.
5. Kết quả nghiên cứu dự kiến và những đóng góp mới của luận văn
- Kết quả nghiên cứu luận văn sẽ góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận của vấn
đề môi trường chính sách khuyến khích đầu tư vốn, làm cơ sở cho các nhà đầu tư, các
đối tác liên doanh, các nhà quản lí, các nhà quản trị đầu tư tham khảo ý kiến để xây
dựng nên những chính sách đầu từ phù hợp với tình hình thực tế ở tỉnh Phú Yên.
- Góp phần tìm ra các giải pháp có tính khả thi trong việc thực hiện chính
sách khuyến khích đầu tư vốn ở tỉnh Phú Yên trong thời gian tới, đến năm 2015,
tầm nhìn đến năm 2020.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận và thực tiễn về môi trường chính sách khuyến khích đầu
tư vốn.
Chương 2: Thực trạng môi trường chính sách khuyến khích đầu tư vốn ở
tỉnh Phú Yên.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách khuyến khích
đầu tư vốn ở tỉnh Phú Yên.

4


Chương 1: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ MÔI TRƯỜNG

CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ VỐN
1.1. Những vấn đề chung về chính sách và môi trường chính sách
1.1.1. Khái niệm
Chính sách:
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), chính sách được hiểu là “những
chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối nhiệm vụ; chính sách được thực hiện trong
một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực nào đó. Bản chất, nội dung và phương
hướng của chính sách tùy thuộc tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội... muốn định ra chính sách đúng phải vừa căn cứ vào tình hình thực
tiễn trong từng lĩnh vực, từng giai đoạn, phải vừa giữ vững mục tiêu chung, phương
hướng được xác định trong đường lối nhiệm vụ chung, vừa linh hoạt vận dụng vào
điều kiện cụ thể” [37, 475]
Giáo trình Chính sách trong quản lý KT-XH của Khoa Khoa học quản lý,
Trường đại học Kinh tế quốc dân cho rằng, “Chính sách quản lý nói chung, chính
sách KT-XH nói riêng là tổng thể các quan điểm, các chuẩn mực, các biện pháp, các
thủ thuật mà các chủ thể quản lý sử dụng nhằm tác động lên đối tượng và khách thể
quản lý để đạt đến những mục tiêu trong số các mục tiêu chiến lược chung của đất
nước một cách tốt nhất sau một thời gian đã định” [14, 21]
Tiến sĩ Lê Chí Mai cho rằng, chính sách là chương trình hành động do các
nhà lãnh đạo hay các nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm
vi thẩm quyền của họ… [27, 475]
Thống nhất một số điểm chung của các định nghĩa trên, có thể hiểu: Chính
sách là tổng thể các chương trình hành động, các quan điểm với các công cụ,
phương tiện, biện pháp kỹ thuật mà chủ thể ban hành để sử dụng nhằm theo đuổi
các mục tiêu đã định trong một khoảng thời gian xác định. Nói cách khác, một
chính sách bao giờ cũng bao hàm năm yếu tố cấu thành, đó là chủ thể chính sách
với hệ quan điểm chỉ đạo, mục tiêu của chính sách, các nguồn lực thực thi chính
sách, môi trường của chính sách và các đối tượng liên quan đến chính sách. Mặt
khác, với tư cách một hệ thống hành động thực tiễn, chu trình của một chính sách


5


bao giờ cũng bao hàm hai công đoạn: hoạch định và triển khai thực hiện. Có thể
phân loại chính sách như sau:
- Chính sách gắn liền với lĩnh vực nhất định như: Chính sách kinh tế, Chính
sách xã hội, Chính sách đối ngoại; Gắn với ngành: Chính sách nông nghiệp, Chính
sách công nghiệp, Chính sách phát triển kinh tế biển, Chính sách phát triển du lich,
dịch vụ....; Gắn với cơ cấu kinh tế: Chính sách phát triển kinh tế vùng, Chính sách
phát triển các thành phần kinh tế, Chính sách giải quyết một vấn đề thuộc một lĩnh
vực hoặc một ngành, cụ thể:
+ Chính sách kinh tế là những chủ trương biện pháp kinh tế mà nhà nước áp
dụng trong một giai đoạn, một thời kỳ lịch sử nhằm đạt được những yêu cầu và
những mục tiêu kinh tế, chính trị nhất định. Chính sách kinh tế được xây dựng trên
cơ sở phân tích, dự báo về các nguồn lực, các tiềm năng đất nước và xu hướng phát
triển xã hội.
+ Chính sách xã hội là bộ phận cấu thành chính sách chung của một chính
quyền Nhà nước hướng tới lĩnh vực xã hội nhằm giải quyết vấn đề liên quan đến
cuộc sống con người, đến lợi ích của các nhóm người, các giai cấp … trong xã hội.
nó góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội cho phù hợp với mục tiêu của giai cấp,
chính đảng cầm quyền.
+ Chính sách đối ngoại là một bộ phận quan trọng trong đường lối chính trị
của mọi quốc gia. Mọi quốc gia tất yếu phải thực hiện chính sách đối ngoại để tập
hợp lực lượng quốc tế, tranh thủ những điều kiện thuận lợi và sự giúp đỡ của bên
ngoài nhằm xây dựng thực lực của mình và góp phần giải quyết những vấn đề
chung trong quan hệ quốc tế.
+ Chính sách đối với các ngành sản xuất như chính sách nông nghiệp hoặc
công nghiệp là tổng thể các biện pháp có liên quan đến nông nghiệp hoặc công
nghiệp và các ngành có liên quan đến nông nghiệp, công nghiệp nhằm điều tiết hoặc
đảm bảo những cân bằng nhất định theo những mục tiêu đã đề ra.

+ Chính sách xây dựng về cơ cấu kinh tế là mục tiêu dài hạn trong chiến
lược phát triển KT-XH, là tổng thể các quan hệ kinh tế giữa các ngành, các lĩnh
vực, các vùng kinh tế, trong đó luôn đảm bảo sự phát triển bền vững giữa các vùng
kinh tế trọng điểm và sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, nhằm khai thác và

6


sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước cũng như những tiềm năng vốn có
của địa phương.
- Chính sách xác định các mục tiêu cần đạt được:
+ Mục tiêu trước mắt gắn với chính sách ngắn hạn (thường từ 1-2 năm), đây
là chính sách mang tính sách lược bao gồm những biện pháp nhằm điều tiết theo
yêu cầu giải quyết ngắn hạn.
+ Chính sách mang tính trung hạn (thường từ 5 - 10 năm), đây là những hoạt
động trong thời gian dài của kế hoạch hóa nhằm đạt được những cân đối của nền
kinh tế như cung cầu, việc làm, đầu tư....
+ Chính sách mang tính dài hạn (thường từ 10 năm trở lên), đây là những
chính sách mang tính đường lối, chiến lược vạch phương hướng nhằm đạt được
những mục tiêu lâu dài. Những chiến lược phát triển có tầm vĩ mô, xác định những
cân đối lớn trong nền kinh tế như cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành sản xuất, cơ cấu lao
động, bảo vệ môi trường, bảo vệ các giá trị văn hoá, đạo đức truyền thống, bảo vệ
sức khoẻ cho nhân dân...
Chính sách xuất phát từ điều kiện cụ thể của quốc gia hoặc địa phương và
được bổ sung, hoàn thiện theo thời gian nhằm đạt mục tiêu với hiệu quả cao nhất.
Hiệu quả KT-XH chính là tiêu chuẩn, thước đo chính sách đó đi vào cuộc sống và
được thực tiễn kiểm nghiệm.
Chính sách khuyến khích đầu tư (KKĐT)
Căn cứ vào tình hình thực tiễn, từng lĩnh vực, từng giai đoạn để thực hiện
mục tiêu, phương hướng phát triển KT-XH, có thể khái quát về chính sách KKĐT

như sau: Chính sách KKĐT là tổng thể các quan điểm, biện pháp, phương tiện mà
Nhà nước sử dụng để tác động vào lĩnh vực đầu tư nhằm định hướng hoạt động của
các chủ thể đầu tư đến các mục tiêu mà nhà nước mong muốn.
Do là một chính sách tổng hợp, nên chính sách KKĐT của Nhà nước cũng có
những đặc điểm riêng:
- Chính sách KKĐT mang đặc trưng của chính sách công trong lĩnh vực kinh
tế, có nghĩa là nó chịu sự chế định của các thể chế chính trị trong hoạch định và
thực thi chính sách.

7


- Đối tượng tác động của chính sách KKĐT chủ yếu là đầu tư tư nhân. Để
khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân bỏ vốn đầu tư, chính sách KKĐT phải hoạt
động cùng chiều với lợi ích của các nhà đầu tư tư nhân. Vì vậy, Nhà nước phải tạo
ra môi trường đầu tư vừa có lợi cho nhà đầu tư, vừa có lợi cho xã hội.
- Chính sách KKĐT liên quan đến rất nhiều chính sách công khác như chính
sách thương mại, chính sách tiền tệ, chính sách tài chính, chính sách xã hội... của
Nhà nước.
- Chủ thể trực tiếp hoạch định và thực thi chính sách KKĐT là một hệ thống
cơ quan nhà nước với cơ chế phân công phức tạp.
- Chính sách KKĐT phải tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường như
cạnh tranh, giá cả hình thành thông qua tác động cung cầu…
- Chính sách KKĐT có thể tác động theo cả hai hướng: khuyến khích và hạn
chế đầu tư.
- Chính sách KKĐT được áp dụng các biện pháp ưu đãi, nâng đỡ cho đối
tượng chính sách.
- Về mặt cấu trúc, chính sách KKĐT có thể được xem xét theo ba giác độ:
+ Cấu trúc theo nguyên lý tác động, có thể thấy chính sách KKĐT trong nền
kinh tế thị trường được chi thành 2 bộ phận: đảm bảo đầu tư và KKĐT.

+ Cấu trúc theo động lực cơ chế tác động, chính sách KKĐT bao gồm ba
nhóm biện pháp: biện pháp kinh tế, biện pháp hành chính và các biện pháp giáo dục
tuyên truyền
+ Cấu trúc theo sự phân biệt đối xử của chính sách, xu hướng chung của các
nước là áp dụng ba tiêu chí để xét ưu đãi: theo ngành, nghề, lĩnh vực khuyến khích
những lĩnh vực nào mà Nhà nước thấy cần đẩy mạnh đầu tư; theo địa bàn khuyến
khích tùy vào những địa bàn khó khăn khác nhau; theo quy mô áp dụng các biện
pháp ưu đãi, khuyến khích cả hai đầu của tiêu chí quy mô đó là quy mô lớn và quy
mô nhỏ.
- Chính sách KKĐT nhằm tới các mục tiêu kinh tế vĩ mô ngắn hạn và dài hạn.
Môi trường chính sách
Là tổng hoà các yếu tố chủ quan và khách quan tác động đến các hành động,
các quan điểm với các công cụ, phương tiện, biện pháp kỹ thuật mà chủ thể ban

8


hành chính sách sử dụng để theo đuổi các mục tiêu, phương hướng đã định trong
một khoảng thời gian xác định. Nếu nhận thức đúng, đưa ra chính sách phù hợp, tạo
điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển KT-XH. Ngược lại, nhận thức không đúng
những chính sách đó sẽ là môi trường không phù hợp cản trở sự phát triển, làm
chậm sự phát triển hoặc phát triển kém hiệu quả.
Môi trường đầu tư được thể hiện thông qua việc ban hành chính sách đầu tư
của Chính phủ. Các chính sách này chi phối hành vi đầu tư của các nhà đầu tư, DN,
được các nhà đầu tư, DN ủng hộ, đánh giá cao hoặc giảm khả năng đầu tư.
Môi trường chính sách khuyến khích đầu tư vốn
Là tổng hoà các yếu tố chủ quan và khách quan tác động đến các quan điểm,
biện pháp, phương tiện mà Nhà nước sử dụng để khuyến khích vào lĩnh vực đầu tư
vốn nhằm định hướng hoạt động của các chủ thể đầu tư đến các mục tiêu, phương
hướng mà Nhà nước mong muốn và nó ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu

quả đầu tư vốn của nhà đầu tư.
Điều này có nghĩa là việc tạo ra một môi trường đầu tư ổn định, tin cậy để
tạo niềm tin cho nhà đầu tư và trên cơ sở đó họ đi đến quyết định có nên đầu tư hay
không, đồng thời nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhà nước thực hiện các
chính sách khuyến khích thu hút vốn đầu tư, cho việc tạo nguồn lực để phát triển
KT-XH. Đó chính là việc cam kết và tôn trọng quyền sở hữu tư nhân, quyền hưởng
các kết quả đầu tư, hệ thống luật pháp ổn định, môi trường chính trị ổn định, môi
trường văn hoá an ninh lành mạnh, hệ thống thủ tục hành chính minh bạch…
Vốn đầu tư
Tại điều 2, Nghị định Chính phủ số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư, cho rằng: Vốn đầu
tư là đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi và các tài sản hợp pháp khác để
thực hiện hoạt động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp.
Tài sản hợp pháp gồm: Cổ phần, cổ phiếu hoặc các giấy tờ có giá khác; Trái
phiếu, khoản nợ và các hình thức vay nợ khác; Các quyền theo hợp đồng, bao gồm cả
hợp đồng chìa khóa trao tay, hợp đồng xây dựng, hợp đồng quản lý, hợp đồng phân chia
sản phẩm hoặc doanh thu; Các quyền đòi nợ và quyền có giá trị kinh tế theo hợp
đồng; Công nghệ và quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm cả nhãn hiệu thương mại, kiểu

9


dáng công nghiệp, sáng chế, tên thương mại, nguồn gốc hoặc tên gọi xuất xứ; Các
quyền chuyển nhượng, bao gồm cả các quyền đối với thăm dò và khai thác tài
nguyên; Bất động sản; quyền đối với bất động sản, bao gồm cả quyền cho thuê,
chuyển nhượng, góp vốn, thế chấp hoặc bảo lãnh; Các khoản lợi tức phát sinh từ hoạt
động đầu tư, bao gồm cả lợi nhuận, lãi cổ phần, cổ tức, tiền bản quyền và các loại
phí; Các tài sản và quyền có giá trị kinh tế khác theo quy định của pháp luật và điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.[6, 2]
1.1.2. Đặc điểm môi trường chính sách

Môi trường chính sách có những đặc điểm sau:
- Các chính sách được ban hành theo hệ thống các cấp:
+ Đường lối nói chung, đường lối phát triển kinh tế nói riêng tác động đến
chính sách KKĐT trên các phương diện:
Một là, định hướng ưu đãi của chính sách tài khoá. Điều này, ảnh hưởng đến
quy mô nguồn lực mà Nhà nước có thể sử dụng để hỗ trợ các hoạt động đầu tư,
cũng như ảnh hưởng đến thuế của Nhà nước và đến đầu tư.
Hai là, định hướng khuyến khích chuyển dịch hoặc tái cấu trúc nền kinh tế,
từ đó ảnh hưởng đến thứ hạng ưu tiên trong chính sách KKĐT của Nhà nước.
Ba là, định hướng chính sách đối ngoại, sẽ ảnh hưởng đến việc thu hút vốn
nước ngoài cũng như KKĐT ra nước ngoài.
Bốn là, định hướng chính sách xã hội, có thể tăng hoặc giảm chi phí đầu tư…
+ Chính phủ: ban hành những chính sách lớn mang tầm vĩ mô, những cân đối
lớn của nền kinh tế, những chủ trương thực hiện trong từng thời kỳ, hướng chiến lược
của nền kinh tế mang tính cơ cấu đối với các lĩnh vực, vùng, ngành. Chính phủ qui
định trách nhiệm cho từng ngành, từng địa phương ban hành những chính sách và
hướng dẫn thực hiện chính sách nhằm đạt được mục tiêu lớn mà chính phủ đã đề ra.
+ Các Bộ, Ngành có liên quan: Trên cơ sở các hướng chiến lược, mục tiêu,
mang tầm vĩ mô mà các Bộ, ngành ban hành những chính sách, văn bản hướng dẫn
cụ thể trong ngành mình phụ trách về một lĩnh vực nào đó. Có những chính sách,
những văn bản chỉ có một bộ, ngành, song cũng có những chính sách mang tính
liên Bộ, liên ngành đòi hỏi có sự phối hợp đồng bộ để hoạt động.

10


+ Các tỉnh và các địa phương: Ban hành những văn bản, những chính sách
riêng cho tỉnh, địa phương mình trên cơ sở các văn bản chính sách của Chính phủ
hoặc của Bộ, ngành. Dựa trên những nguyên tắc qui định chung của chính sách của
Chính phủ, bộ, ngành, mỗi địa phương có thể ban hành chính sách phù hợp điều

kiện đặc thù, riêng biệt của địa phương mình. Sự chủ động sáng tạo của mỗi địa
phương là tạo ra môi trường chính sách hấp dẫn trong mọi lĩnh vực hoạt động nhằm
đạt được hiệu quả KT-XH cao nhất.
- Các cấp ban hành chính sách bao giờ cũng xác định mục tiêu nhất định, đối
tượng của chính sách trong khoảng thời gian nhất định. Các cấp ban hành chính sách
càng thấp, đối tượng của chính sách càng hẹp thì hiệu lực về thời gian của chính sách
càng ngắn. Khi tình hình thay đổi, chính sách phải thay đổi cho phù hợp. Mặt khác,
do tính đa dạng của đối tượng chính sách và điều kiện cụ thể của vùng, miền mà các
chính sách thường xác định tính thời gian (có hiệu lực đến thời điểm nhất định, qui
định tạm thời...), lĩnh vực được khuyến khích phát triển có thời hạn hoặc chính sách
đối với ngành nghề được ưu tiên phát triển trong thời gian nhất định.
- Để thực hiện mục tiêu cần có nhiều chính sách khác nhau, tùy theo mục
tiêu mà xác định các văn bản và điều kiện kinh tế, chính trị xã hội ở mỗi thời kỳ mà
hệ thống chính sách ban hành khác nhau. Các chính sách phải là một thể thống nhất,
chính sách này là tiền đề, điều kiện, kết quả của chính sách khác. Thực tế, khi thực
hiện mục tiêu các chính sách có khi mâu thuẫn nhau, ràng buộc lẫn nhau, thiếu sự
hỗ trợ cho nhau. Vì vậy, đòi hỏi môi trường chính sách phải có tính hệ thống mới
phát huy hiệu lực của chính sách thực sự tạo môi trường đầu tư hấp dẫn.
- Môi trường chính sách được bổ sung, điều chỉnh. Việc ban hành chính sách
bao giờ cũng xác định tại một thời điểm nhất định, ở thời điểm đó đối tượng của
chính sách chưa thực sự chịu tác động của chính sách. Song, trong quá trình thực
hiện, chính sách bộc lộ nhiều mặt như chỉ phù hợp đối tượng này, không phù hợp
đối tượng khác; thời điểm này phát huy hiệu quả nhưng đến thời điểm khác có thể
trở thành lực cản sự phát triển. Vì vậy, vấn đề đặt ra, để chính sách thật sự là môi
trường đầu tư hấp dẫn cần phải được bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện dần dần chính
sách đã ban hành.

11



1.1.3. Các loại môi trường khuyến khích đầu tư vốn
Nội dung của môi trường KKĐT bao gồm: Môi trường pháp lý, Môi trường
kinh tế, kết cấu hạ tầng, thủ tục hành chính và môi trường chính trị xã hội. Cụ thể
như sau:
- Môi trường pháp lý: Để thu hút được đầu tư, pháp luật phải đảm bảo thực sự
rõ ràng, nhất quán, minh bạch, ổn định. Hệ thống pháp luật phải tạo một mặt bằng
chung về pháp lý cho mọi nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế, xoá bỏ sự phân
biệt giữa nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, phù hợp với luật pháp quốc
tế. Việc xây dựng, ban hành Luật đầu tư cần có sự kết hợp với các luật liên quan
khác như: Luật doanh nghiệp, Luật thương mại, Luật thuế, Luật môi trường… và
ban hành các văn bản dưới luật đảm bảo kịp thời, nhất quán, mang tính khả thi cao.
Đồng thời, phải hoàn chỉnh hệ thống pháp luật có liên quan đến chính sách đầu tư
để tạo lập môi trường kinh doanh (KD) ổn định, bình đẳng giữa các thành phần kinh
tế, các doanh nghiệp (DN) và các nhà đầu tư. Đối với các địa phương, ngoài những
chính sách chung của Chính phủ, các địa phương có những chính sách, văn bản cụ
thể hóa, chi tiết hoá đối với hoạt động đầu tư trên địa bàn địa phương mình như
chính sách ưu đãi đầu tư, lĩnh vực ưu đãi đầu tư, các ngành nghề ưu đãi đầu tư, địa
bàn ưu đãi, danh mục các dự án kêu gọi đầu tư…
- Môi trường kinh tế: Tốc độ và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế liên
quan trực tiếp tới nhu cầu, khả năng hấp thụ vốn đầu tư cũng như sự phát triển của
thị trường trong nước. Một nền kinh tế năng động, tốc độ tăng trưởng cao và ổn
định sẽ có nhu cầu và khả năng hấp thụ một lượng vốn đầu tư lớn và ngược lại. Bên
cạnh đó, tăng trưởng cao sẽ tạo được nguồn tích lũy vốn là điều kiện để tiếp tục tái
đầu tư với quy mô ngày càng lớn; mở rộng được thị trường trong nước do sức mua
của DN và cả người dân tăng lên, từ đó thu hút đầu tư sẽ mạnh mẽ hơn.
- Kết cấu hạ tầng: Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, nơi nào có kết cấu hạ tầng
tốt thì nơi đó có sức hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư và ngược lại. Vì vậy, xây
dựng kết cấu hạ tầng là điều kiện tiên quyết, bắt buộc không chỉ với đòi hỏi trước
mắt mà cả lâu dài; không chỉ tạo điều kiện để thu hút đầu tư mà còn cho sự phát
triển bền vững của nền kinh tế. Hệ thống giao thông vận tải được đảm bảo an toàn,

tiện lợi sẽ góp phần giảm thiểu mức tối đa chi phí lưu thông cho DN. Kho tàng, bến

12


bãi, điện nước, thông tin liên lạc, xử lý chất thải, phòng chống cháy nổ ở các KCN
được xây dựng tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho DN tổ chức SXKD. Ngoài ra hạ
tầng xã hội như: các hoạt động thương mại, dịch vụ kinh tế, bệnh viện, trường học,
khu vui chơi giải trí, nhà ở cho người lao động được chuẩn bị chu đáo cũng làm
tăng sức thu hút đối với các nhà đầu tư.
- Thủ tục hành chính: Trong hoạt động đầu tư, thủ tục hành chính ảnh hưởng
đến thời gian, chi phí và cơ hội đầu tư. Thủ tục hành chính rườm rà sẽ tốn nhiều thời
gian, tăng chi phí, mất cơ hội của nhà đầu tư khiến cho nhà đầu tư nản lòng. Cải cách
hành chính, đặc biệt là thủ tục hành chính đang là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách mà
các địa phương đang tập trung giải quyết hiện nay nhằm tăng sức hấp dẫn đối với nhà
đầu tư. Nếu đơn giản hoá các hình thức và thủ tục cấp phép đầu tư, rút ngắn thời gian
cấp phép đầu tư, mở rộng việc cho phép áp dụng hình thức đăng ký đầu tư đối với các
danh mục dự án cần KKĐT, loại bỏ những quy định không cần thiết cản trở đến hoạt
động đầu tư sẽ thu hút được đầu tư. Nếu không quy định rõ ràng, công khai thủ tục
hành chính trên cơ sở đơn giản hoá, không xử lý nghiêm khắc những trường hợp sách
nhiễu, cửa quyền, tiêu cực của những người có liên quan đến hoạt động cấp phép,
quản lý đầu tư sẽ làm hạn chế rất lớn đến kết quả thu hút đầu tư.
- Môi trường chính trị - xã hội: Giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo trật tự an
toàn xã hội có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động đầu tư. Giữ vững ổn định
chính trị xã hội sẽ tạo được tâm lý yên tâm, tin tưởng cho các nhà đầu tư khi đầu tư
vào địa bàn. Yếu tố quyết định vấn đề này là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai
trò của Nhà nước pháp quyền trong việc xử lý kiên quyết, kịp thời và phù hợp với
pháp luật những hành vi vi phạm pháp luật, kịp thời ngăn chặn mọi âm mưu của các
thế lực phản động đảm bảo quốc phòng an ninh. Đặc biệt trong xu thế hội nhập kinh
tế quốc tế, các luồng vốn đầu tư từ nước ngoài vào ngày càng nhiều, tuy nhiên có

những luồng đầu tư vào không phải mục đích kinh tế mà còn lợi dụng việc đầu tư
để thực hiện những âm mưu dùng kinh tế để kích động, lôi cuốn những phần tử
chống phá chế độ, chống phá nhà nước, bên cạnh đó còn có những thủ đoạn làm
khủng hoảng nền kinh tế của nước nhận đầu tư như: đầu tư vào nhằm mục đích rửa
tiền, đầu cơ. Vì vậy khi nhận đầu tư phải luôn đánh giá, lựa chọn những tổ chức
kinh tế, DN, các nhà đầu tư thực sự chân chính vì mục tiêu phát triển KT-XH.

13


Môi trường đầu tư là yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ nhất tới kết quả thu hút đầu
tư. Chính sách khuyến khích tốt sẽ có môi trường đầu tư hấp dẫn, tạo động lực để
nhà đầu tư mạnh dạn đầu tư với chi phí và rủi ro thấp, lợi nhuận cao và góp phần
mang lại hiệu quả hoạt động trên phạm vi toàn xã hội. Mỗi quốc gia hay vùng lãnh
thổ nào chủ trương đẩy mạnh thu hút đầu tư cũng đều hướng tới việc tạo lập một
môi trường đầu tư hấp dẫn với các yếu tố: Hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, phát
triển; Các thủ tục hành chính về đầu tư phải nhất quán, minh bạch, thuận lợi và
nhanh gọn; Chất lượng các dịch vụ hỗ trợ đầu tư được nâng cao; Các chỉ số đánh
giá năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) được cải thiện tích cực gồm: Chi phí gia
nhập thị trường thấp, nâng cao khả năng tiếp cận đất đai, chi phí về thời gian và chi
phí không chính thức mà DN phải bỏ ra không đáng kể, ưu đãi đối với DNNN,
chính sách phát triển kinh tế tư nhân được thực hiện tốt, lao động được quan tâm
đào tạo và thực hiện có hiệu quả.
1.1.4. Vai trò của môi trường chính sách khuyến khích đầu tư vốn
Môi trường chính sách KKĐT vốn có vai trò quan trọng với tất cả các nước,
nhất là nước đang phát triển như Việt Nam, việc tạo môi trường chính sách KKĐT
vốn có vai trò hết sức to lớn cho quá trình đẩy nhanh CNH, HĐH đất nước và phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò đó được thể hiện
qua một số tác động chính của đầu tư vốn vào sự phát triển KT-XH của đất nước.
Cụ thể như sau:

Thứ nhất, Môi trường chính sách KKĐT vốn giải quyết tình trạng thiếu vốn
cho đầu tư phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Tất cả các nước đang và kém phát triển do tích luỹ nội bộ thấp, muốn phát
triển kinh tế của quốc gia mình đều phải tạo lập môi trường chính sách khuyến
khích thu hút, huy động vốn đầu tư ở trong và ngoài nước. Khi nền kinh tế tăng
trưởng và phát triển, thì nhu cầu về vốn đầu tư càng không ngừng tăng lên. Thực tế
cho thấy, khi tăng trưởng kinh tế càng cao thường gắn với tỷ lệ đầu tư càng lớn. nhờ
có vốn đầu tư mà nhà nước cũng như các DN có điều kiện đầu tư xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế và đổi mới kỹ thuật trong điều kiện khoa học, kỹ thuật thế giới phát
triển ngày càng mạnh mẽ với tốc độ ngày càng cao.

14


Để phá vỡ vòng luẩn quẩn đó, các nước đang phát triển phải tạo ra một bước
đột phá để phá vỡ một mắt xích của nó, để rồi phá vỡ các mắt xích còn lại. Một
trong những khâu của vòng luẩn quẩn đó chính là vốn dành cho đầu tư phát triển.
Biện pháp hữu hiệu nhất có thể coi là bước đột phá để phá vỡ vòng luẩn quẩn là
phải có những chính sách khuyến khích tăng đầu tư vốn cho nền kinh tế; thu hút và
huy động tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển kinh tế, tạo ra tăng
trưởng kinh tế làm cho thu nhập của người dân ngày càng tăng lên.
Thứ hai, Môi trường chính sách KKĐT vốn góp phần quan trọng thúc đẩy
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
Một thực tế cho thấy hầu hết các dự án đầu tư đều chủ yếu đầu tư vào các lĩnh
vực công nghiệp và dịch vụ. Chỉ có một số ít dự án đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp.
Chính vì vậy, ở nước ta đầu tư vốn phát triển là một trong những yếu tố góp phần
quan trọng thúc đẩy quá trình chyển dịch cơ cấu kinh tế theo đúng đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước đề ra. Trước đây, nền kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất
nông nghiệp, năng suất lao động thấp, giá trị thặng dư ít, nên đời sống của người lao
động gặp nhiều khó khăn. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng trong công cuộc đổi

mới tư duy về kinh tế, với mục tiêu chuyển đổi cơ cấu kinh tế nước ta từ một nước
nông nghiệp là chủ yếu để trở thành một nước công nghiệp phát triển theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Với cơ cấu kinh tế là công nghiệp-nông nghiệp-dịch
vụ, trong đó công nghiệp xây dựng giữ vị trí quan trong trong nền kinh tế.
Trong từng ngành kinh tế, nhờ chính sách KKĐT vốn mà đã có những
chuyển dịch tích cực về cơ cấu sản xuất, cơ cấu công nghệ theo hướng tiến bộ, hiệu
quả và gắn sản xuất với thị trường. Cơ cấu kinh tế vùng cũng đã có có những bước
điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế so sánh của từng vùng, các vùng kinh tế
trọng điểm, các khu công nghiệp (KCN), khu kinh tế và vùng sản xuất chuyên môn
hoá cây trồng, vật nuôi đang phát triển khá nhanh, đóng góp quan trọng vào sự tăng
trưởng của nền kinh tế.
Thứ ba, Môi trường chính sách KKĐT vốn thúc đẩy đầu tư đổi mới máy móc,
thiết bị, công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng và hiện đại hoá DN.
Nếu đứng trên góc độ của một DN, thì vốn đầu tư là cực kỳ quan trong và
cần thiết giúp cho DN trong việc đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ sản

15


xuất. Nhờ có vốn đầu tư mà DN có thể nghiên cứu sản xuất ra hoặc mua được máy
móc thiết bị, dây chuyền công nghệ sản xuất tiến tiến, hiện đại ở trong nước và trên
thế giới. Từ đó, giúp DN có đủ điều kiện để dần dần từng bước hoàn thiện và hiện
đại hoá DN. Trong nền kinh tế thị trường, chỉ những DN nào biết ứng dụng những
tiến bộ của khoa học và công nghệ, luôn đón nhận những thành tựu nghiên cứu
khoa học mới thì DN đó sẽ thành công trong KD.
Mặt khác, nhờ có máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất hiện đại mà DN tăng
năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, đặc biệt là các chi phí gián tiếp và hạ giá
thành sản phẩm. Đồng thời giúp DN nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng dần hàm
lượng chất xám trong mỗi sản phẩm thay cho hàm lượng vật chất trước đây, làm
cho sản phẩm của DN sản xuất ra có chất lượng cao hơn, giá bán thấp hơn, từ đó

nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm của DN trên thị trường trong nước và quốc tế.
Chính nhờ có vốn đầu tư phát triển mà DN nâng được vị thế và uy tín của DN trên
thương trường.
Thứ tư, Môi trường chính sách KKĐT vốn góp phần phát triển nguồn nhân
lực, tạo thêm nhiều việc làm mới cho nền kinh tế và nâng cao thu nhập cho người
lao động.
Trình độ, năng lực và kỹ năng của người lao động có tác động không nhỏ
đến tốc độ tăng trưởng của một quốc gia. Vì vậy, nhu cầu nâng cao chất lượng lao
động hiện nay là một vấn đề được nhiều nước quan tâm. Do tình hình thực tế cần
thiết phải tuyển dụng lao động ở các địa phương, đồng thời chi phí thuê lao động
nước ngoài thường cao hơn so với lao động trong nước, các DN phải tổ chức đào
tạo cho các lao động địa phương để họ có thể sử dụng thành thạo những máy móc
thiết bị. Việc đào tạo lao động không chỉ dừng lại đối với những người sản xuất trực
tiếp, mà còn đào tạo cả kỹ năng, trình độ cho các cán bộ làm công tác quản lý hay
quản trị DN.
Có chính sách KKĐT vốn hợp lý sẽ góp phần thúc đẩy các hoạt động đầu tư
trong nước phát triển. Thực tế cho thấy, với sự xuất hiện của các DN có vốn đầu tư
nước ngoài đã tạo ra áp lực cạnh tranh mạnh mẽ đối với các DN trong nước, buộc
các DN này phải đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất KD, để tìm
kiếm lợi nhuận và giữ vững được thị phần của mình. Điều này không chỉ có lợi đối

16


với người tiêu dùng mà còn tạo điều kiện để khai thác có hiệu quả các nguồn lực
của đất nước trong đó có các yếu tố như tài nguyên, lao động…
Vốn đầu tư giúp giải quyết những vấn đề khó khăn về KT-XH như: thất
nghiệp, lạm phát, cải thiện môi trường sống của xã hội. Vốn đầu tư phát triển đã tạo
ra nhiều cơ sở SXKD mới, trực tiếp thu hút được một số lượng lao động tham gia.
Bên cạnh đó, nó còn gián tiếp tạo ra việc làm cho người lao động thông qua việc

hình thành các đại lý, dịch vụ cung cấp hàng hoá và tiêu thụ sản phẩm cho DN. Như
vậy, vốn đầu tư góp phần tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, đặc biệt là
những lao động ở các địa phương và giảm tỷ lệ thất nghiệp, đồng thời nâng cao đời
sống cho nhân dân.
1.1.5. Môi trường chính sách là nội dung nâng cao năng lực cạnh tranh
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là hiện tượng phổ biến và có ý nghĩa
quan trọng đối với sự phát triển KT-XH. Nên việc tạo ra được môi trường chính
sách hấp dẫn, thông thoáng sẽ nâng cao được năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia
nói chung và của từng địa phương nói riêng.
Năng lực cạnh tranh ở đây được hiểu là khả năng giành được thị phần lớn
trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng giành lại một phần hay
toàn bộ thị phần của đồng nghiệp. Theo tổ chức hợp tác và phát triển (OECD) cho
rằng năng lực cạnh tranh là khả năng của các công ty, các ngành, các địa phương,
các quốc gia hoặc khu vực siêu quốc gia việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn
trong điều kiện cạnh tranh quốc tế trên cơ sở bền vững. Năng lực cạnh tranh có 3
cấp độ phản ánh khác nhau: năng lực cạnh tranh sản phẩm, năng lực cạnh tranh của
DN và năng lực cạnh tranh quốc gia.
Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) được đo lường và xếp hạng công
tác điều hành kinh tế của các tỉnh dựa trên môi trường KD để thúc đẩy sự phát triển
của khu vực kinh tế tư nhân thông qua cảm nhận của các DNTN.
Chỉ số PCI là thước đo mức độ cạnh tranh của tỉnh đối với khu vực kinh tế tư
nhân, được xây dựng khách quan trên cơ sở điều tra của tổ chức phi Chính phủ, là kết
quả hợp tác, nghiên cứu giữa dự án nâng năng lực cạnh tranh Việt Nam (VNCI) và
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI). Chỉ số PCI được xây dựng
với mục tiêu giúp lí giải nguyên nhân tại sao một số tỉnh thành của đất nước lại tốt

17


hơn các tỉnh thành khác về sự phát triển năng động của khu vực kinh tế tư nhân, tạo

việc làm và tăng trưởng kinh tế. Sử dụng dữ liệu điều tra mới DN, đánh giá và cảm
nhận của DN đối với môi trường KD ở địa phương, kết hợp với dữ liệu điều tra với
các số liệu so sánh thu nhập từ các nguồn chính thức về điều kiện ở địa phương.
Chỉ số PCI xếp hạng năng lực cạnh tranh các tỉnh trên thang điểm 100.
Nghiên cứu đã được xây dựng trên một số yếu tố quan trọng để các kết quả thu
được có thể dễ dàng chuyển thành những cải cách về điều hành kinh tế. PCI được
tính toán trên cơ sở tổng hợp của 9 chỉ số thành phần: Chỉ số gia nhập thị trường;
Tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử dụng đất; Tính minh bạch và tiếp cận thông
tin; Chi phí thời gian thực hiện các quy định của Nhà nước; Chi phí không chính
thức; Tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh; Đào tạo lao động; Dịch vụ hỗ
trợ DN; Thiết chế pháp lý.
Cải thiện môi trường KD, mở rộng và thu hút đầu tư vào tỉnh để nâng cao
năng lực cạnh tranh của tỉnh, là mục tiêu cao nhất. Do đó, việc tạo môi trường chính
sách là nội dung nhằm nâng cao chỉ số PCI, thể hiện ở các điểm cơ bản sau:
- Môi trường chính sách tốt là điều kiện để cải thiện và nâng cao chỉ số PCI
của tỉnh trong thời gian tới, đồng thời nó nêu ra được các chỉ số thành phần mà tỉnh
đang có vị trí thấp hoặc có xu hướng bị tụt hậu như: Về thiết chế pháp lý, gia nhập
thị trường, tính minh bạch và trách nhiệm, tiếp cận đất đai, chi phí thời gian…
- Môi trường chính sách thông thoáng, minh bạch sẽ khẳng định được các
giải pháp cụ thể tích cực nhất để tăng cường thiết chế pháp lý, đảm bảo thực hiện
quyền khiếu nại, tố cáo; giải quyết các tranh chấp của DN; cải cách tư pháp, đẩy
mạnh công tác trợ giúp pháp lý cho DN.
- Cải thiện môi trường chính sách của tỉnh, để xây dựng một chương trình
hành động chung của tỉnh trong thời gian đến và tiếp tục tạo môi trường đầu tư-KD
thuận lợi nhất theo quy định của pháp luật.
- Môi trường chính sách là điều kiện để tăng cường hơn nữa công tác thanh
tra công vụ, kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh các đơn vị có thiếu sót, kéo dài thời gian
giải quyết các thủ tục hồ sơ cho DN, làm sao để tạo thuận lợi tốt nhất cho người
dân, DN sớm gia nhập thị trường.


18


- Môi trường chính sách tốt là động lực cho các chủ quy hoạch nghiêm túc
thực hiện công bố, công khai các quy hoạch, kế hoạch, các cơ chế, chính sách của
tỉnh cho DN và nhân dân biết, tạo sự đồng thuận trong việc tổ chức thực hiện.
- Cải thiện môi trường chính sách trong quá trình thực hiện XTĐT phải chú
trọng công tác quảng bá, nâng cao cảm nhận của cộng đồng DN và nhà đầu tư với
môi trường KD của tỉnh, hoàn thiện và đưa vào sử dụng Trang thông tin điện tử DN
và đầu tư của Tỉnh để các DN, nhà đầu tư kịp thời phản ánh các khó khăn vướng
mắc trên địa chỉ này, qua đó tổng hợp chuyển đến các cơ quan chức năng của tỉnh
giải quyết, nghiên cứu cơ chế phát triển dịch vụ hỗ trợ DN.
- Tạo lập môi trường chính sách thuận lợi cũng là việc nâng cao được chỉ số
PCI. Cho nên, phải thường xuyên chủ trì, phối hợp với các ngành, địa phương tổ
chức học tập kinh nghiệm tại các tỉnh bạn có điều kiện KT-XH tương đồng với tỉnh
và các tỉnh có chỉ số PCI nằm ở tốp cao nhất.
- Một môi trường chính sách hấp dẫn, sẽ có một chính quyền thân thiện với
DN nhằm tập trung nâng cao điểm của các chỉ số thành phần, ưu tiên cho chỉ số
thiết chế pháp lý để tiếp tục cải thiện vị trí trong bảng xếp hạng về chỉ số PCI.
- Cơ chế chính sách tạo môi trường chính sách hấp dẫn đó là niềm tin để nêu
cao tinh thần trách nhiệm, từng bước tổ chức sắp xếp lại bộ máy giúp việc tại cơ
quan, đơn vị mình, kiên quyết loại trừ ra khỏi bộ máy các cán bộ, công chức có
hành vi gây nhũng nhiễu, phiền hà đối với DN và người dân, không để một vài cá
nhân tiêu cực làm ảnh hưởng chung đến sự phát triển của tỉnh. Người đứng đầu các
cơ quan, đơn vị phải chịu tránh nhiệm trước Chủ tịch UBND tỉnh nếu để cán bộ
công chức của mình vi phạm làm ô nhiễm đến môi trường đầu tư.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến môi trường chính sách khuyến khích đầu tư vốn
Môi trường đầu tư tốt là một môi trường có đủ cả hai yếu tố đảm bảo đầu tư
và ưu đãi đầu tư. Tuy nhiên, một khi yếu tố bảo đảm đầu tư đã là nền tảng quyết
định sự lựa chọn đầu tư thì yếu tố thứ hai, ưu đãi đầu tư lại trở nên quan trọng hơn

hết trong quá trình cạnh tranh để thu hút vốn đầu tư vào các địa bàn có môi trường
đầu tư khác nhau. Trong đó, môi trường chính sách KKĐT vốn chịu sự tác động bởi
các nhân ảnh hưởng trực tiếp đến việc ban hành chính sách tạo môi trường hấp dẫn
thu hút vốn như sau:

19


- Điều kiện tự nhiên: Vị trí địa lý, xa hoặc gần với thị trường lớn, nguồn
nguyên vật liệu, diện tích tự nhiên, điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng, các nguồn tài
nguyên, khoáng sản và khả năng khai thác, mức độ ô nhiễm môi trường.
- Cơ sở hạ tầng kỹ thuật: Hệ thống đường sá, cầu cống, sân bay, hệ thống
thông tin liên lạc, viễn thông, các dịch vụ thiết yếu cho sản xuất như điện, nước…,
khả năng thuê đất và sở hữu nhà của người nước ngoài.
- Dân số và nguồn lao động: Khả năng cung ứng lao động tại chỗ, chất lượng
nguồn nhân lực, tính tự giác, kỷ luật của người lao động, giá thuê nhân công… Dân
số và nguồn lao động là nhân tố quan trọng hàng đầu cho sự phát triển KT-XH nói
chung và hoạt động thu hút đầu tư nói riêng. Trong dân số vừa có nguồn nhân lực
cần thiết cho hoạt động sản xuất vật chất, vừa là thị trường tiêu thụ các sản phẩm
các dịch vụ và xã hội. Quy mô số dân càng đông, thu nhập cao sẽ góp phần tạo ra
thị trường tiêu thụ càng lớn.
- Đặc điểm văn hoá xã hội: Truyền thống lịch sử văn hoá, trình độ dân trí,
phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng của người dân, tình hình an ninh trật tự,
tình trạng tội phạm và các tệ nạn xã hội khác.
- Năng lực lãnh đạo địa phương trong việc ban hành chính sách. Để có chính
sách phù hợp, hấp dẫn tạo môi trường thu hút vốn, đòi hỏi lãnh đạo địa phương bám
sát tình hình thực tiễn địa phương, có năng lực khái quát, tổng kết thực tiễn. Trên cơ
sở văn bản của chính phủ, người lãnh đạo địa phương cần có năng lực vận dụng
sáng tạo có hiệu quả.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác chính sách tạo môi trường đầu tư. Đây là nhân

tố quan trọng, đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu cho lãnh đạo ban hành chính
sách có vai trò to lớn; chính sách sát thực tế mới góp phần phát huy kịp thời, có hiệu
quả. Vì vậy, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ, chính trị đạo đức
nghề nghiệp cho cán bộ là yêu cầu thường xuyên và cấp thiết.
- Sự cạnh tranh của các địa phương trong việc thu hút vốn, đặc biệt là các địa
phương lân cận. Việc ban hành chính sách tạo môi trường thông thoáng, hấp dẫn
hay không, không chỉ tùy thuộc địa phương đó mà còn đặt địa phương đó trong mối
quan hệ các địa phương lân cận. Thực tế, địa phương nào cũng muốn các chính sách

20


của địa phương mình ban hành những điều khoản ưu đãi thì có lợi thế hơn địa
phương khác trong việc tạo môi trường hấp dẫn thu hút đầu tư.
- Việc ban hành chính sách của địa phương chịu sự chi phối chính sách và
qui định chung của quốc gia, chính sách của địa phương chỉ có thể cụ thể hóa chính
sách quốc gia trên cơ sở đảm bảo những nguyên tắc chung.
- Tổng kết, đánh giá kịp thời, có định kỳ rút ra bài học kinh nghiệm nhằm
hoàn thiện chính sách.
Tìm hiểu các nhân tố tác động đến môi trường chính sách KKĐT vốn, nhà
đầu tư sẽ phân tích, đánh giá môi trường đầu tư. Trên cơ sở đó so sánh với môi
trường đầu tư của các nước, các vùng lãnh thổ và các địa phương ở trong mỗi quốc
gia khác, nhằm xác định xem đó có phải là môi trường đầu tư tốt hay không. Môi
trường đầu tư tốt là môi trường hội đủ các thuận lợi về chính trị, kinh tế, xã hội và
pháp lý, hứa hẹn mức sinh lời cao và mức độ rủi ro thấp nhất.
1.3. Thực tiễn môi trường chính sách và những kinh nghiệm trong việc tạo môi
trường chính sách trong nước và ngoài nước
1.3.1. Thực tiễn môi trường chính sách KKĐT vốn ở Việt Nam
Việt Nam, về cơ bản đã chuyển sang nền kinh tế thị trường và đang trong
giai đoạn đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế ngày

càng sâu rộng và mạnh mẽ, nên việc tạo môi trường chính sách KKĐT vốn của Nhà
nước ngày càng có vai trò quan trọng đặc biệt.
Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ “Các DN
có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế Việt Nam,
được đối xử bình đẳng như DN Việt Nam trong KD. Tạo điều kiện cho đầu tư nước
ngoài tham gia nhiều hơn vào phát triển các ngành, các vùng lãnh thổ phù hợp với
các cam kết quốc tế của nước ta” và: “Bảo đảm tính thống nhất, ổn định minh bạch
và ngày càng hấp dẫn trong chính sách đầu tư nước ngoài”. “Đổi mới chính sách và
cải thiện môi trường đầu tư, xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử trong tiếp cận
các cơ hội đầu tư để khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn từ các thành
phần kinh tế trong nước và thu hút vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài”.
[11, 238 - 239]

21


Trước năm 2005, khung chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư, thu hút vốn
đầu tư được điều chỉnh bởi luật đầu tư nước ngoài, Luật KKĐT trong nước và các
luật thuế thu nhập DN cùng một số văn bản pháp quy khác.
Thời kỳ 1991-2005 là giai đoạn còn phân biệt giữa chính sách đầu tư trong
nước với đầu tư nước ngoài. Luật KKĐT trong nước năm 1994 chỉ có giá trị áp
dụng cho khu vực trong nước. Đây là thời kỳ khởi đầu chính sách KKĐT tư nhân.
Để thực hiện chính sách này, Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia được thành lập (Quyết
định số 808/TTg ngày 09-12-1995). Các biện pháp khuyến khích bao gồm miễn
giảm thuế (Thông tư số 94/TT/TCT ngày 22-12-1995); tín dụng hỗ trợ xuất khẩu
ngắn, trung và dài hạn; hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư (Quyết
định số 133/20/QĐ-TTg). Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp
phát triển DN vừa và nhỏ đã nhấn mạnh vai trò của các hiệp hội DN trong sự trợ
giúp DN phát triển, là cầu nối giữa DN và nhà nước trong việc tham gia soạn thảo
các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động KD và đầu tư của DN.

Cũng trong thời gian này Chính phủ đã ban hành các văn bản pháp lý liên quan
nhằm tạo môi trường chính sách KKĐT.
Nghị định số 51/1999/NĐ-CP ngày 08 tháng 7 năm 1999 quy định chi tiết thi
hành Luật KKĐT trong nước (sửa đổi).
Nghị định số 35/2002/NĐ-CP ngày 29 tháng 3 năm 2002 về việc sửa đổi, bổ
sung Danh mục A, B và C ban hành tại Phụ lục kèm theo Nghị định số
51/1999/NĐ-CP ngày 08 tháng 7 năm 1999 quy định chi tiết thi hành Luật KKĐT
trong nước (sửa đổi).
Danh mục lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư quy định tại Nghị định số
149/2005/NĐ-CP ngày 08 tháng 12 năm 2005 quy định chi tiết thi hành Luật Thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Từ việc Chính phủ đã ban hành các văn bản pháp lý liên quan nhằm tạo môi
trường chính sách KKĐT, đặc biệt từ năm 2000, môi trường đầu tư ở nước ta đã có
bước cải thiện đáng kể, được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Theo đánh giá thường
niên của Diễn đàn kinh tế thế giới, năm 2003 môi trường đầu tư của nước ta đã
được cải thiện so với năm 2002 lên 10 bậc. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới,

22


năm 2003, chi phí gia nhập thị trường ở nước ta đã giảm từ 134% xuống còn 30%
GDP bình quân đầu người.
Theo điều tra của Diễn đàn DN Việt Nam cuối năm 2005 tại hai thành phố
Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, đa phần các DNTN trong nước hài lòng về môi trường
KD. Với thang điểm từ 3-4 điểm là rất hài lòng, từ 2-2,9 điểm là hài lòng, từ 1-1,9
điểm là không hài lòng và từ 0- 0,9 điểm là rất không hài lòng.
Bảng 1.1: Đánh giá môi trường đầu tư của DNTN Việt Nam năm 2005
Các yếu tố
của môi trường đầu tư


Điểm

Các yếu tố
của môi trường đầu tư

Điểm

Ví trí địa lý

3,4

Khả năng cạnh tranh khu vực

2,4

Cơ sở hạ tầng

1,9

Nhân lực chất lượng cao

2,0

Thông tin liên lạc

2,3

Năng lực ngoại ngữ

2,2


Chi phí kinh doanh

2,3

Ổn định chính trị

3,4

Chi phí nhà ở

1,9

Hệ thống luật pháp

2,1

Hệ thống thuế

2,1

Hệ thống hành chính

1,7

Lạm phát

1,9

Lân chuyển thông tin


2,2

Quản lý giá

2,5

Hệ thống toà án

1,9

Tiếp cận ngoại tệ

2,2

Các yếu tố khác

1,3

Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ

1,5

Nguồn: Một số kết quả trong điều tra cảm nhận về môi trường KD của Việt
Nam năm 2005, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số I-2006, tr.69.
Đóng góp to lớn trong cải thiện môi trường đầu tư của nước ta trong thời
gian qua là hoạt động đổi mới chính sách đầu tư tích cực và phù hợp với kinh tế thị
trường, hội nhập của nhà nước.
Từ năm 2005, chính sách đầu tư nói chung và ưu đãi đầu tư nói riêng đã
được thống nhất về mục tiêu, hình thức và công cụ theo hướng không phân biệt đối

xử. Trong khuôn khổ những nỗ lực của Việt Nam nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn gia
nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và nguyên tắc không phân biệt đối xử theo
thông lệ quốc tế, Luật đầu tư chung ra đời năm 2005 đã cố gắng thống nhất các luật
về đầu tư ở Việt Nam theo hướng áp dụng chung cho các nhà đầu tư trong nước và
ngoài nước.
23


Luật đầu tư năm 2005 cùng với Quyết định số 1387/QĐ-TTg ngày 29-122005 của Thủ tướng Chính phủ đã chấm dứt tình trạng xé rào ưu đãi đầu tư của các
địa phương cũng như xoá bỏ việc phân biệt đối xử ưu đãi đầu tư giữa DN trong
nước và DN có vốn đầu tư nước ngoài... về điều kiện hưởng ưu đãi, dự án đầu tư chỉ
cần thuộc một trong các trường hợp sau là được xem xét để hưởng ưu đãi đầu tư.
Đặc biệt từ năm 2005 đến nay đã có nhiều văn bản pháp lý quy định về vấn đề đầu
tư trong và ngoài nước, cụ thể:
- Nghị định 108/2006/NĐ-CP, 22/9/2006 của chính phủ về qui định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của luật đầu tư. Trong đó thủ tướng chính phủ đã
đề cập đến quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư, bảo đảm quyền lợi, lợi ích hợp pháp
của nhà đầu tư, chính sách khuyến khích và ưu đãi đầu tư, quản lí nhà nước về đầu
tư tại Việt Nam, (Chương IV của Nghị định này qui định về lĩnh vực địa bàn ưu đãi
và hỗ trợ đầu tư.Dự án đầu tư thực hiện tại địa bàn có điều kiện KT-XH khó khăn
hoặc Dự án đầu tư thuộc một trong số các lĩnh vực).
- Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của chính phủ về qui định bổ
sung việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử
dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và
giải quyết khiếu nại về đất đai.
- Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22 tháng 6 năm 2007 của Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông
tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
- Quyết định số 88/2009/QĐ-TTg ngày 18/6/2009 ban hành Quy chế góp
vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các DN Việt Nam.

- Quyết định số: 71/2010/QĐ-TTg, Về việc ban hành Quy chế thí điểm đầu
tư theo hình thức đối tác công-tư
- Nghị định số: 102/2010/NĐ-CP, Hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều
của Luật Doanh nghiệp
Ngoài các chính sách ưu đãi về thuế và hỗ trợ đầu tư nêu trên, nhà đầu tư còn
được hưởng thêm các ưu đãi chính sách thông qua cải cách thủ tục hành chính của
các cơ quan quản lý nhà nước như việc việc minh bạch hoá các thủ tục xin, cấp giấy
phép đầu tư, chính sách “một cửa, một dấu”, quy hoạch danh mục kêu gọi các dự án

24


đầu tư, thành lập các tổ công tác thi hành luật DN và đầu tư, bãi bỏ hàng loạt giấy
phép đầu tư... (Phụ lục 1)
Như vậy, về chính sách KKĐT, Luật đầu tư chung và các văn bản pháp quy
liên quan đã có nhiều điểm mới tích cực hơn. Điều này cũng tạo được một môi
trường chính sách KKĐT vốn trong nhưng năm vừa qua ở Việt Nam đã đạt được
những kết quả nhất định:
Trong giai đoạn 2000-2010, vốn đầu tư phát triển tăng trung bình trên 20%
hàng năm. Trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước
chiếm tỷ trọng cao và có vai trò quan trọng trong việc thu hút thêm các nguồn vốn
khác của các thành phần kinh tế, góp phần tăng cường kết cấu hạ tầng KT-XH, bảo
đảm phát triển bền vững. Nhìn chung, tỷ trọng vốn đầu tư nhà nước trong tổng đầu
tư xã hội tuy có giảm nhưng vẫn còn ở mức khá cao.
Bảng 1.2: Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 2000 – 2010
Tổng số
Năm

Kinh tế


Kinh tế ngoài

Khu vực có

Nhà nước

nhà nước

vốn ĐTNN

Tỷ

Cơ cấu

Tỷ

Cơ cấu

Tỷ

Cơ cấu

Tỷ

Cơ cấu

đồng

%


đồng

%

đồng

%

đồng

%

2000

151183

100.0

89417

59.1

34594

22.9

27172

18.0


2001

170496

100.0

101973

59.8

38512

22.6

30011

17.6

2002

200145

100.0

114738

57.3

50612


25.3

34795

17.4

2003

239246

100.0

126558

52.9

74388

31.1

38300

16.0

2004

290927

100.0


139831

48.1

109754

37.7

41342

14.2

2005

343135

100.0

161635

47.1

130398

38.0

51102

14.9


2006

404712

100.0

185102

45.7

154006

38.1

65604

16.2

2007

532093

100.0

197989

37.2

204705


38.5

129399

24.3

2008

616735

100.0

209031

33.9

217034

35.2

190670

30.9

2009

708826

100.0


287534

40.6

240109

33.9

181183

25.5

2010

830300

100.0

316300

38.1

299500

36.1

214500

25.8


Nguồn: Tổng cục thống kê, 2010.
Cơ cấu đầu tư cũng có chuyển biến nhất định, trong đó đầu tư nhà nước ưu
tiên nhiều hơn cho các lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH, lĩnh vực nông25


×