Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Hoàn thiện hoạt động marketing của công ty tnhh thương mại may Tiên An Phú

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.27 KB, 61 trang )

Chuyên đề thực tập

MỤC LỤC

SV: Đặng Thị Thùy

MSV: 14A4030106


Chuyên đề thực tập

1

LỜI NÓI ĐẦU

Việt nam hội nhập WTO đã mở ra nhiều cơ hội cũng như thách thức cho các
doanh nghiệp việt nam. Trước tình hình đó, các doanh nghiệp gặp không ít khó
khăn khi thị trường có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, sự cạnh tranh gay
gắt của các công ty đối thủ, và thị hiếu ngày càng cao của khách hàng. Vì vậy bài
toán đặt ra cho các doanh nghiệp là làm sao có thể đứng vững trên thị trường khốc
liệt đó. Và một công cụ hữu hiệu có thể giúp các doanh nghiêp thành công đó là
marketing hiệu quả.
Từ khi thành lập đến nay công ty TNHH TM may Tiên An Phú đã nhận thức
được tầm quan trọng của hoạt động marketing với sự phát triển của mình. Trong
thời gian thực tập tại Công Ty TNHH TM may Tiên An Phú, em đã quan sát và tìm
hiểu được những vấn đề tổng quan về công ty, thấy được tình hình thực hiện hoạt
động của công ty nói chung và tình hình hoạt động marketing nói riêng. Qua quá
trình quan sát và tham gia làm việc tại công ty em nhận thấy được những điểm
mạnh và những mặt tồn đọng trong hoạt động và công tác marketing và đề xuất một
số giải pháp nhằm marketing nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh của công ty ngày
càng hiệu quả hơn. Do đó, em đã chọn chuyên đề tốt nghiệp “hoàn thiện hoạt động


marketing của công ty tnhh thương mại may Tiên An Phú”.

SV: Đặng Thị Thùy

MSV: 14A4030106


Chuyên đề thực tập

2

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA HOÀN THIỆN
HOẠT ĐỘNG MARKETING CỦA DOANH NGHIỆP

1.1.Khái niệm, vai trò của marketing.
1.1.1. Khái niệm.
Dưới góc độ quản lý: marketing là một hệ thống đồng bộ các hoạt động về
hoạch định sản phẩm, định giá, phân phối, chiêu thị nhằm thỏa mãn nhu câu của
khách hàng qua đó đạt được mục tiêu của doanh nghiệp.
Dưới góc độ xã hội: marketing là một quá trình xã hội và quản lý trong đó
các cá nhân hoặc tổ chức thỏa mãn nhu cầu của họ thông qua việc tạo ra và trao đổi
sản phẩm với người khác.
1.1.2. Vai trò của marketing.
Với nền kinh tế: marketing làm giảm cách biệt khoảng cách giữa người sản
xuất và người tiêu dung, cách biệt về không gian, khác biệt về thời gian, về giá trị,
khác biệt về quyền sở hữu, cách biệt về chủng loại số lượng, cách biệt nhau về
thông tin.
Với doanh nghiệp: marketing giúp doanh nghiệp đánh giá tiềm năng, định
hướng hoạt động cho từng sản phẩm dịch vụ, cung cấp cơ sở thông tin để hoạch
định chiến lược cho toàn bộ doanh nghiệp.

1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến marketing.
Môi trường marketing của công ty là tập hợp những chủ đề tích cực và
những lực lượng hoạt động bên ngoài công ty và có ảnh hưởng đến khả năng chỉ
đạo của một phận marketing , thiết lập và duy trì mối quan hệ hợp tác với khách
hang mục tiêu.
Do tính chất luôn biến động, khống chế và hoàn toàn bất định, môi trường
marketing động chạm sâu sắc đến đời sống của công ty. Những biến đổi diễn ra
trong môi trường này không thể gọi là chậm và có thể dự đoán trước được. Nó thể

SV: Đặng Thị Thùy

MSV: 14A4030106


Chuyên đề thực tập

3

gây ra những điều bất ngờ lớn và những hậu quả nặng nề. Vì vậy công ty cần chú ý
theo dõi tất cả những diễn biến của môi trường bằng cách sử dụng vào mục đích
nàyviệc nghiên cứu marketing và những khả năng thu thập thông tin markeing
thường ngày bên ngoài công ty hiện có.
Môi trường marketing bao gồm môi trường vi mô và vĩ mô. Môi trường vi
mô là những lực lượng có quan hệ trực tiếp với bản thân công ty và những khả năng
phục vụ khách hang của nó, tức là những người cung ứng, những người môi giới
marketing, các khách hang, các đối thủ cạnh tranh và công chúng trực tiếp. Môi
trường vĩ mô là những lực lượng trên bình diện xã hội rộng lớn hơn, có ảnh hưởng
đến môi trường vi mô, như các yếu tố nhân khẩu, kinh tế. tự nhiên, kỹ thuật, chính
trị văn hóa.
1.2.1. Yếu tố môi trường vĩ mô.

1.2.1.1. Dân số học.
Yếu tố môi trường đầu tiên mà các nhà quản tri marketing cần quan tâm đầu
tiên là dân số, vì dân số tạo nên thị trường. Người làm marketing cần chú ý khi
nghiên cứu phân bố dân cư theo khu vực địa lý và mật độ dân cư, xu hướng di dân,
phân bố dân cư theo độ tuổi, tình trạng hôn nhân, tỷ lệ sinh đẻ, tỷ lệ tử vong, chủng
tộc, cấu trúc tôn giáo.
Có những xu hướng biến đổi trong môi trường dân số học có tác động đặc
biệt quan trọng đối với doanh nghiệp, do tác động đến lượng cầu về sản phẩm và
làm thay đổi hành vi của người mua như: sự thay đổi về cơ cấu độ tuổi dân cư, sự
thay đổi về đặc điểm gia đình, những thay đổi trong phân bố dân cư về địa lý, cơ
cấu về trình độ học vấn của dân cư…
1.2.1.2. Kinh tế
Môi trường kinh tế bao gồm các nhân tố ảnh hưởng đến sức mua của khách
hàng và cách thức tiêu dùng. Thị trường cần có sức mua cũng như ngươi mua. Tổng
sức mua phụ thuộc vào thị trường hiện tại, giá cả, tiền tiết kiệm và tín dụng. Những
người làm marketing cần lưu ý các xu hướng chính trong thay đối thu nhập và các

SV: Đặng Thị Thùy

MSV: 14A4030106


Chuyên đề thực tập

4

động thái thay đổi tiêu dùng của khách hang. Các thay đổi trong những biến số kinh tế
chủ yếu như thu nhập, tỷ trọng thu nhập dành riêng cho tiêu dùng, cơ cấu chi tiêu, tiền
tiết kiệm hay vay mượn có một tác động rất lớn trên thị trường. Các doanh nghiệp có
các sản phẩm giá trị lớn hoặc mức sinh lời cao cần nghiên cứu kỹ lưỡng những xu

hướng biến động của môi trường kinh tế để chủ động có những điều chỉnh thích ứng.
Trong trường hợp nền kinh tế khủng hoảng, các nhà quản trị marketing cần tiến hành
các bước cần thiết để thay thế sản phẩm, giảm chi phí và vượt qua những trở ngại.
1.2.1.3. Tự nhiên
Môi trường tự nhiên bao gồm môi trường sinh thái, thời tiết, khí hậu, tài
nguyên, năng lượng. Các nhà quản trị marketing cần xem xét các cơ hội và đe dọa
có liên quan đến xu hướng chính trong sự biến đổi của môi trường tự nhiên: sự khan
hiếm các nguồn nguyên liệu, mức độ ô nhiễm ngày càng gia tang, chi phí năng
lượng ngày càng gia tang, sự can thiệp của chính quyền mạnh mẽ trong việc quản lý
tài nguyên thiên nhiên. Về phương diện marketing, các vấn đề trên đặt ra cho các
nhà quản trị marketing nhiều thách thức, đòi hỏi phải tư duy và tìm ra những định
hướng phù hợp cho hoạt động marketing của mình
1.2.1.4. Công nghệ
Môi trường công nghệ tác động đến quản trị marketing rất đa dạng, tùy thuộc
vào khả năng của doanh nghiệp mà các tác động này có thể đem lại các cơ hội hoặc
gây ra các đe dọa đối với việc đổi mới, thay thế sản phẩm, chu kỳ sống của sản
phẩm, chi phí sản xuất …của doanh nghiêp. Người làm marketing cần hiểu rõ
những thay đổi trong môi trường công nghệ, phối hợp chặt chẽ với các chuyên gia
nghiên cứu và phát triển để khuyến khích việc nghiên cứu có tính chất định hướng
vào thị trường nhiều hơn, đồng thời cảnh báo bất kỳ sự đổi mới nào làm hại đến lợi
ích chính đáng của người tiêu dùng.
1.2.1.5. Chính trị- pháp luật.
Các quyết định marketing chịu tác động mạnh mẽ của những biến đổi trong
môi trường chính trị và pháp luật. Môi trường này được tạo ra từ hệ thống pháp luật,

SV: Đặng Thị Thùy

MSV: 14A4030106



Chuyên đề thực tập

5

các tổ chức chính quyền và gây ảnh hưởng cũng như ràng buộc các hành vi tổ chức
lẫn cá nhân trong xã hội. khi phân tích môi trường chính trị nhà quản trị marketing
cần quan quan tâm đến hệ thống pháp luật tác động đến doanh nghiệp ngày càng gia
tang, sự phát triển của các nhóm bảo vệ lợi ích cộng đồng vì sự ổn định chính trị đã
được xác định là một trong những điều kiện tiền đề quan trọng cho hoạt động của
doanh nghiệp.
1.2.1.6. Văn hóa- xã hội.
Con người lớn lên trong một xã hội cụ thể và chính xã hội đó đã trau dồi
quan điểm cơ bản của họ tạo nên những giá trị và chuẩn mực đạo đức. Việc thông
qua những quyết định marketing có thể ảnh hưởng bởi những đặc điểm sau đây của
nếp sống văn hóa: sự trung thành sắt son với những giá trị văn hóa truyền thống cơ
bản, những nhánh văn hóa trong khuôn khổ một nền văn hóa thống nhất, những
thay đổi tạm thời của nền văn hóa thứ phát. Những giá trị văn hóa cơ bản của xã hội
được thể hiện qua thái độ của con người đối với bản thân mình, đối với người khác,
đối với các thể chế tồn tại trong xã hội, đối với toàn xã hội, tự nhiên và giá trị.
1.2.2. Yếu tố môi trường vi mô.
1.2.2.1. Doanh nghiệp.
Phân tích doanh nghiệp với tư cách là một tác nhân thuộc môi trường vi mô,
nhà quản trị marketing sẽ xem xét vai trò của bộ phận marketing trong doanh
nghiệp, mối quan hệ và tác động hỗ trợ của bộ phận sản xuất, tài chính, nhân sự với
bộ phận marketing
Bộ phận marketing của doanh nghiệp có trách nhiệm hoạch định, triển khai
thực hiện chiến lược, các kế hoạch, chính sách và chương trình marketing thông qua
các hoạt động quản trị như nghiên cứu marketing, quản trị nhãn hiệu, quản trị lực
lượng bán hàng …
Các nhà quản trị marketing cũng cần phối hợp hoạt động với các bộ phận

chức năng khác như bộ phận tài chính để đảm bảo ngân sách cho việc thực thi các
kế hoạch marketing, phân bố ngân sách cho sản phẩm, nhãn hiệu khác nhau, các

SV: Đặng Thị Thùy

MSV: 14A4030106


Chuyên đề thực tập

6

hoạt động marketing khác, bộ phận nghiên cứu và phát triển để nghiên cứu cải tiến
hay thiết kế sản phẩm mới thành công… ngoài ra cần phải có đánh giá khả năng
marketing, những điểm mạnh điểm yếu của hoạt động marketing của doanh nghiệp
so với đối thủ cạnh tranh để lựa chọn chiến lược marketing cạnh tranh và thiết kế
các chính sách marketing phù hợp.
1.2.2.2. Nhà cung cấp.
Nhà cung cấp là tổ chức hoặc cá nhân kinh doanh cung cấp nguyên liệu cần
thiết cho việc sản xuất của doanh nghiệp và đối thủ cạnh tranh.
Để quyết định mua các yếu tố đầu vào, doanh nghiệp cần phải xác định rõ
chúng, tìm kiếm nguồn cung cấp chất lượng, và lựa chọn nhà cung cấp tốt nhất, uy
tín giao hang, và đảm bảo hạ giá.
Những biến đổi trong môi trường cung câp có thể tác động quan trọng đến
hoạt động marketing của doanh nghiệp. Các nhà quản trị marketing cần theo dõi về
giá cả của những cơ sở cung cấp chính yếu của mình. Việc tăng giá phí cung cấp có
thể buộc phải tăng giá cả, làm giảm sút doanh số của doanh nghiệp. Các nhà quản
trị marketing cần phải quan tâm đến mức độ có thể đáp ứng của các nhà cung cấp
về nhu cầu các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp. Sự khan hiếm nguồn cung cấp sẽ
ảnh hưởng đến tính đều đặn trong kinh doanh, và do vậy ảnh hưởng đến khả năng

phục vụ khách hàng của doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp cần xây dựng mối
quan hệ lâu dài với các nhà cung cấp chủ yếu.
1.2.2.3. Những nhà môi giới marketing.
Những nhà môi giới marketing là những công ty hỗ trợ cho công ty đi lên,
tiêu thụ và phổ biến hàng hóa của công ty cho giới khách hàng. Gồm có những
người môi giới thương mại, các công ty chuyên tổ chức lưu thông hàng hóa, các tổ
chức dịch vụ marketing và các tổ chức tín dụng. Doanh nghiệp cần phân tích đặc
điểm và tình hình hoạt động của các trung gian để có chính sách thích hợp nhằm
thiết lập và duy trì các quan hệ tích cực, đồng thời doanh nghiệp cũng có thể có
những phản ứng cần thiết nhằm điều chỉnh, thay đổi chính sách phân phối sản phẩm
thích hợp với các thay đổi trong hoạt động của giới trung gian.

SV: Đặng Thị Thùy

MSV: 14A4030106


Chuyên đề thực tập

7

1.2.2.4. Khách hàng.
Khách hàng là đối tượng phục vụ cảu doanh nghiệp và là nhân tố chính tạo
nên thị trường. Khách hàng có vai trò rất quan trọng vì từ nhu cầu của khách hàng
mà doanh nghiệp mới hoạch định chiến lược marketing của mình để thỏa mãn nhu
cầu của khách hàng và tìm kiếm lợi nhuận. Doanh nghiệp cần phải nghiên cứu thị
trường khách hàng của mình một cách kỹ lưỡng. Doanh nghiệp có thể hoạt động
trong năm loại thị trường khách hàng:
Thị trường tiêu dùng: mua sản phẩm để sử dụng cho mục đích cá nhân và
gia đình.

Thị trường nhà sản xuất: bao gồm những tổ chức mua hàng hóa và dịch vụ cho
công việc sản xuất để kiếm lời, hoặc để hoàn thành các mục tiêu khác.
Thị trường buôn bán trung gian: là các tổ chức và cá nhân mua hàng hóa và
dịch vụ cho mục đích bán lại để kiếm lời.
Thị trường các cơ quan nhà nước: mua hàng hóa và dịch vụ cho mục đích sử
dụng trong lĩnh vực quản lý và hoạt động công cộng hoặc để chuyển giao tới các tổ
chức, cá nhân khác đang có nhu cầu sử dụng.
Thị trường quốc tế: khách hàng nước ngoài bao gồm người tiêu dùng, người
sản xuất, người trung gian và chính phủ quốc gia khác.
1.2.2.5. Đối thủ cạnh tranh.
Nhìn chung mọi công ty đều phải đối đầu với các đối thủ cạnh tranh khác
nhau. Đối thủ cạnh tranh nằm ở nhiều dạng khác nhau, hiện hữu và tiềm ẩn, trực
tiếp và gián tiếp. Tùy theo mức độ thay thế của sản phẩm, các đối thủ cạnh tranh có
chia làm 4 dạng:
Cạnh tranh nhãn hiệu.
Cạnh tranh ngành.
Cạnh tranh nhu cầu.
Cạnh tranh ngân sách.

SV: Đặng Thị Thùy

MSV: 14A4030106


Chuyên đề thực tập

8

1.2.2.6. Công chúng.
Là một nhóm bất kỳ tỏ ra quan tâm thực sự hay có thể sẽ quan tâm đến doanh

nghiệp, có ảnh hưởng đến khả năng đạt tới mục tiêu đề ra của doanh nghiệp
Doanh nghiệp cần chuẩn bị các kế hoạch marketing đối với giới công chúng
cũng như đối với thị trường tiêu dùng. Mỗi doanh nghiệp thường có các giới công
chúng sau:
Công chúng tài chính: các tổ chức tài chính, ngân hàng, nhà đầu tư, công ty
chứng khoán, công ty bảo hiểm ảnh hưởng đến khả năng vay vốn của doanh nghiệp.
Công luận: doanh nghiệp phải gieo được lòng tin của các tổ chức công luận,
đặc biệt là báo chí, tạp chí, truyền thanh, truyền hình.
Công chúng chính quyền: các doanh nghiệp cần chú ý đến những ý kiến của
chính quyền khi hình thành kế hoạch marketing như quảng cáo đúng sự thật, sản
xuất an toàn, các luật lệ chống cạnh tranh.
Giới hoạt động xã hội: các hoạt động marketing cảu doanh nghiệp có thể bị
các tổ chức người tiêu dùng, tổ chức môi trường và các tổ chức khác chất vấn.
Công chúng địa phương: mọi doanh nghiệp đều phải giao tiếp với địa phương
như các tổ chức ở địa phương, những người láng giềng địa phương.
Công chúng tổng quát: các doanh nghiệp cần phải quan tâm đến thái độ của
công chúng đối với các hoạt động và sản phẩm của mình. Mặc dù công chúng
không tác động đến doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng đến khách hàng của doanh nghiệp.
Công chúng nội bộ: bao gồm số công nhân lao động và làm việc trí óc, các
nhà quản trị và hội động quản trị. Khi người nhân viên cảm thấy thoải mái với
doanh nghiệp của họ, thì thái độ tích cực này sẽ lan sang cả giới bên ngoài doanh
nghiệp.
1.3. Nội dung của hoàn thiện hoạt động marketing.
1.3.1. Hoạt động lựa chọn thị trường mục tiêu.
1.3.1.1. Phân khúc thị trường.
Thị trường không phải một đám đông hỗn độn, người ta có thể phân tích

SV: Đặng Thị Thùy

MSV: 14A4030106



Chuyên đề thực tập

9

thành từng mảng, từng nhóm mang một số đặc tính riêng. Mỗi nhóm, mỗi mảng thị
trường được gọi là một phân khúc gồm những phần tử có chung một đặc tính. Việc
phân khúc thị trường đem lại những lợi ích sau:
Để tìm hiểu rõ một cách tường tận nhu cầu khách hàng và những nhu cầu ước
muốn riêng biệt của từng nhóm.
Để sản xuất, đáp ứng thỏa mãn cho khách hàng và không bỏ qua một mảng thị
trường nào.
Để khách hàng cảm thấy được tôn trọng hơn, không ai bị bỏ rơi
Giúp việc quản lý kinh doanh một cách khoa học hơn, hiệu quả hơn. Nhà quản
trị marketing phải quyết định phân khúc thị trường theo tiêu thức nào và quyết định
các thị trường mục tiêu. Cơ sở để phân khúc thị trường người tiêu dùng:
Phân khúc thị trưởng theo yếu tố địa lý: phân khúc này đòi hỏi phân chia thị
trường thành những địa lý khác nhau như quốc gia, vùng, tỉnh, thành phố. Công ty
có thể quyết định hoạt động trong một hay một vài vùng địa lý hay hoạt động trong
tất cả các vùng, nhưng chú ý đến những khác biệt về nhu cầu và sở thích của từng
vùng địa lý.
Phân khúc theo yếu tố nhân khẩu học: là phân chia thị trường thành những
nhóm trên cơ sở những biến nhân khẩu học như tuổi tác, giới tính, quy mô gia đình,
chu kỳ sống của gia đình, thu nhập, nghề nghiệp, học vấn, tôn giáo, chủng tộc và
dân tộc.
Phân khúc theo yếu tố tâm lý: là người mua được chia thành những nhóm khác
nhau căn cứ vào tầng lớp xã hội, lối sống hay nhân cách. Những người trong cùng
một nhóm nhân khẩu học có thể có những đặc điểm địa lý rất khác nhau.
Phân khúc thị trường theo hành vi: người mua được chia thành nhiều căn cứ

và trình độ hiểu biết, thái độ, cách sử dụng và phản ứng đối phó với sản phẩm.
nhiều người làm marketing tin chắc rằng các biến hành vi là điểm xuất phát tốt nhất

SV: Đặng Thị Thùy

MSV: 14A4030106


Chuyên đề thực tập

10

để tạo dựng các khúc thị trường.
1.3.1.2. Lựa chọn thị trường mục tiêu.
Thị trường mục tiêu là thị trường bao gồm các khách hàng có nhu cầu hoặc
ước muốn mà doanh nghiệp quyết định đáp ứng. sau khi đã phân khúc thị trường
công ty phải biết đánh giá những phân khúc khác nhau và quyết định là bao nhiêu
thị trường mục tiêu. Đánh giá các khúc thị trường trên các yếu tố:
Quy mô và mức tăng trưởng của khúc thị trường: qui mô thể hiện ở doanh số
tại thị trường đó và mức tăng trưởng thể hiện ở tốc độ tăng của khách hàng.
Mức độ hấp dẫn của khúc thị trường: một khúc thị trường có thể có quy mô và
mức tăng trưởng mong muốn, nhưng lại thiếu tiềm năng sinh lời. Công ty phải đánh
giá những ảnh hưởng của năm nhóm đến khả năng sinh lời lâu dài: các đối thủ cạnh
tranh trong ngành, những kẻ xâm nhập tiềm ẩn, những sản phẩm thay thế, người
mua và người cung ứng.
Mục tiêu và nguồn lực của công ty: phải xem xét kinh doanh sản phẩm đó có
phù hợp với mục tiêu và nguồn lực của công ty hay không.
Sau khi đánh giá những phân khúc khác nhau, công ty cần xem xét ba chiến
lược trong việc lựa chọn thị trường mục tiêu:
Marketing không phân biệt: tập trung vào những gì mà người mua thường hay

có nhu cầu chứ không phải là vào những gì khác nhau. Công ty thiết kế một sản
phẩm và một chương trình marketing nào thu hút được đông đảo người mua nhất.
công ty dựa vào phân phối đại trà và quảng cáo đại trà. Mục đích là nhằm tại cho
sản phẩm một hình ảnh tuyệt hảo trong tâm trí mọi người. Cơ sở để chọn marketing
không phân biệt là tiết kiệm chi phí.
Marketing có phân biệt: công ty hoạt động ở một số khúc thị trường, thiết kế
những chương trình khác nhau cho từng khúc thị trường và tung ra ở mỗi khúc
nhứng sản phẩm khác nhau. Marketing có phân biệt thường tạo ra được tổng mức
tiêu thụ lớn hơn so với marketing không đẹp. Điều đó nói lên một lẽ đơn giản là có
thể tăng tổng mức tiêu thụ bằng cách bán chủng loại sản phẩm đa dạng hơn thông

SV: Đặng Thị Thùy

MSV: 14A4030106


Chuyên đề thực tập

11

qua những kênh đa dạng hơn, tuy nhiên nó làm them nhiều loại chi phí.
Marketing tập trung: công ty thay vì theo đuổi một phần nhỏ chiếm được trong
một thị trường lớn thì nên theo đuổi chiếm lấy một phần lớn của một hay vài tiêur
thị trường. Marketing tập trung có thể gặp bất trắc hơn hai trường hợp trên, chẳng
hạn thị trường đó có thể bị mất trắng.
1.3.2. Các chính sách sản phẩm.
1.3.2.1. Chính sách sản phẩm.
Sản phẩm là những hàng hóa và dịch vụ với những thuộc tính nhất định, với
những ích dụng cụ thể nhằm thỏa mãn những nhu cầu đòi hỏi của khách hàng. Sản
phẩm có giá trị sử dụng và giá trị, nó có thể hữu hình hay vô hình.

Một doanh nghiệp xây dựng nên một sản phẩm dựa trên khả năng công nghệ
sang tạo, tạo ra các điểm nổi bật cho sản phẩm, rồi xay dựng chiến lược truyền
thông để đưa sản phẩm vào thị trường qua một định vị thích hợp với tính năng, đặc
điểm, lợi ích của sản phẩm so với sản phẩm cạnh tranh.
Sự phát triển sản phẩm mới là cần thiết trong một công ty và tổ chức. Những
sản phẩm đã ở giai đoạn trưởng thành và suy thoái cần thay thế bằng những sản
phẩm mới, tuy nhiên sản phẩm mới có thể thất bại. Rủi ro của việc đổi mới cũng
ngang với sự đền bù mà nó đem lại. Chìa khóa để đổi mới thành công là việc xây
dựng tổ chức tốt hơn để quản trị những ý tưởng sản phẩm mới và triển khai nghiên
cứu có cơ sở và thông qua quyết định trong từng giai đoạn của quá trình phát triển
sản phẩm mới.
Mục đích của chính sách sản phẩm là cải tiến thay đổi chất lượng bao bì, mẫu
mã sản phẩm nhằm giúp cho sản phẩm luôn luôn thỏa mãn nhu cầu của khách hàng
hay nói cách khác chính sách sản phẩm sẽ giúp kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm.
Một trong những yếu tố quan trọng trong chính sách sản phẩm là cần phải
nhận biết được sản phẩm chúng ta đang nằm ở giai đoạn nào của chu kỳ sống sản
phẩm để có những biện pháp thích hợp nhằm giúp sản phẩm luôn tồn tại và phát
triển từ đó giúp doanh nghiệp đứng vững trên thị trường. Như vậy để xây dựng

SV: Đặng Thị Thùy

MSV: 14A4030106


Chuyên đề thực tập

12

được một chính sách sản phẩm chúng ta phải trả lời các câu hỏi:
1.chu kỳ sống của sản phẩm là gì?

2.Những chiến lược marketing nào phù hợp với từng giai đoạn của chu kỳ
sống sản phẩm?
3.Các thị trường phát triển như thế nào và chiến lược marketing nào là phù hợp.
Lịch sử tiêu thụ của một sản phẩm được chia làm bốn giai đoạn:
Giai đoạn hình thành: là giai đoạn bắt đầu một sản phẩm mới được bán ra trên
thị trường. Cần phải có thời gian để trải sản phẩm ra một thị trường và đảm bảo vận
chuyển cho các đại lý, nên nhịp độ tăng trưởng mức tiêu thụ có thể là chậm. Trong
giai đoạn này lợi nhuận âm hay thấp bởi vì mức tiêu thụ thấp, các chi phí phân phối
khuyến mãi lớn.
Giai đoạn phát triển: là giai đoạn được đánh dấu bằng mức tiêu thụ nhanh.
Những người tiên phong thích sản phẩm và những người tiêu dùng đến sớm bắt đầu
mua sản phẩm đó. Đối thủ cạnh tranh xâm nhập thị trường vì hấp dẫn bởi những cơ
hội sản xuất và lợi nhuận cao. Giá cả vẫn giữ nguyên hay có giảm đôi chút vì nhu
cầu tăng nhanh. Trong giai đoạn này lợi nhuận tăng nhanh vì chi phí khuyến mãi
được phân bổ cho một khối lượng hàng lớn và chi phí sản xuất trên đơn vị sản phẩm
nhanh hơn so với nhịp độ giảm giá nhờ hiệu quả của đường cong kinh nghiệm.
Giai đoạn trưởng thành: là giai đoạn mà tại thời điểm đó, nhịp độ tiêu thụ sản
phẩm sẽ chững lại và sản phẩm bước vào giai đoạn sung mãn tương đối. Giai đoạn
tăng trưởng kéo dài hơn so với các giai đoạn trước và toàn bộ công việc quản trị
marketing đều nhằm giải quyết sản phẩm sung mãn đó.
Giai đoạn suy thoái: mức tiêu thụ giảm nhanh và lợi nhuận giảm. Trong giai
đoạn này công ty phải giải quyết một số nhiệm vụ và quyết định để xử lý những sản
phẩm già cỗi qua các bước sau:
Phát hiện những sản phẩm yếu kém.
Xác định chiến lược marketing.

SV: Đặng Thị Thùy

MSV: 14A4030106



Chuyên đề thực tập

13

Quyết định loại bỏ.
1.3.2.2. Chính sách giá.
Trong cơ chế thị trường, giá cả hàng hóa lên xuống xoay quanh giá trị. Đôi khi
hàng hóa được bán với giá trị lớn hơn giá trị thực của nó rất nhiều và ngược lại. Cái
gì đã dẫn đến điều đó? Các nhà kinh tế đã giải thích do quan hệ cung cầu trên thị
trường. nhưng cũng có khi, cùng một chủng loại hàng hóa với giá trị và giá trị sử
dụng khác nhau, khách hàng lại chấp nhận mua sản phẩm này với giá cao hơn sản
phẩm kia, bởi lẽ sản phẩm mà khách hàng lựa chọn có giá trị thương hiệu. Người
tiêu dùng đã không chi trả cho giá trị sản phẩm, mà còn trả tiền cho sự hài lòng của
mình khi mua sản phẩm có thương hiệu nổi tiếng và hiểu được nguồn gốc xuất xứ
của sản phẩm.
Giá là một thành phần quan trọng trong giải pháp tổng hợp và cần phải được
quản trị một cách thông minh như là cách mà ta quản trị những thành phần khác.
Nhìn chung giá là một phần đi kèm với kế hoạch sản phẩm/thị trường và không phải
là một thực thể riêng lẻ.
Yếu tố giá quan trọng như thế nào trong công việc marketing? Có lẽ điều này
đã quá rõ khi người ta định nghĩa marketing “ marketing là khai thác mọi nguồn
nguyên vật lực và năng lực của một doanh nghiệp để đưa ra giải pháp ưu việt nhằm
làm thỏa mãn nhu cầu cảu khách hàng mục tiêu và qua đó thu lợi nhuận. giá là yếu
tố “P” duy nhất trong chiến lược hỗn hợp mà bạn có thể thu lại giá trị cho mình từ
những giá trị đã tạo ra cho khách hàng.
Là giá trị ( thường dưới hình thức tiền bạc) mà khách hàng sẵn sàng trả để
được thỏa mãn nhu cầu ( thường là một sản phẩm hoặc dịch vụ).
Giá bán là một yếu tố quyết định giá trị của sản phẩm. Việc định giá bán một sản
phẩm là một việc làm rất khó khăn, chúng ta không thể quyết định giá bằng những con

số mà chúng ta nghĩ đến nó mà giá cả sẽ liên quan đến một số yếu tố sau đây:
Doanh nghiệp xác định mục tiêu chiến lược marketing của mình là duy trì sự
sống sót của doanh nghiệp, tối đa hóa lợi nhuận, tối đa hóa doanh số bán hay thỏa

SV: Đặng Thị Thùy

MSV: 14A4030106


Chuyên đề thực tập

14

mãn nhu cầu khách hàng.
Chúng ta phải xác định hiện trạng kinh doanh có được xã hội chấp nhận
không, có thỏa mãn nhu cầu khách hàng không? Nghĩa là chúng ta thiết lập đồ thị
nhu cầu của sản phẩm, nhu cầu sản phẩm càng co giãn thì mức giá bán có thể định
ở mức cao.
Giá bán của đối thủ cạnh tranh nằm ở mức cao, thâp hay trung bình.
Chúng ta có thể lựa chọn các phương pháp định giá khác nhau: định giá theo
phụ giá, định giá theo lợi nhuận mục tiêu, định giá theo nhận thức khách hàng, định
giá theo giá trị sản phẩm.
Việc đánh giá phải đòi hỏi có sự ổn định, tránh trường hợp tăng giá hoặc giảm
giá đặc biệt trừ sản phẩm của bạn là sản phẩm độc quyền. Tuy nhiên cũng có trường
hợp chúng ta điều chỉnh giá bán ưu tiên cho khách hàng ở vùng sâu, vùng xa, hoặc
đợt khuyến mãi hoặc sản phẩm của bạn không có thương hiệu rõ rệt.
1.3.2.3. Chính sách phân phối.
Kênh phân phối là một phần rất quan trọng trong nỗ lực tiếp cận thị trường
của doanh nghiệp. Loại kênh phân phối mà bạn chọn có thể là trực tiếp hoặc gián
tiếp hoặc chuyên ngành. Doanh nghiệp của bạn cần bao nhiêu kênh phân phối? loại

kênh nào có thể đưa sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp bạn đến người tiêu
dùng một cách hiệu quả và kinh tế nhất? Đây là một quyết định tương đối khó khan
của các nhà marketing.
Quyết định về kênh là phức tạp và thách thức các công ty phải thông qua. Mỗi
hệ thống kênh khác nhau sẽ tạo ra một mức tiêu thụ và chi phí khác nhau. Khi đã
lựa chọn được kênh thì việc duy trì nó trong lâu dài là điều quan trọng. kênh được
lựa chọn sẽ chịu ảnh hưởng của các yếu tố trong marketing mix. Những chức năng
quan trọng nhất của kênh là thông tin, khuyến mãi, thương lượng, đặt hàng, tài trợ,
gánh chịu rủi ro, quyền chiếm hữu vật chất, thanh toán, quyền sở hữu.
Nhà sản xuất có nhiều kênh để vươn tới thị trường, họ có thể bán trực tiếp hay
sử dụng kênh một, hai, ba… hay qua nhiều cấp trung gian. Thiết kế kênh đòi hỏi

SV: Đặng Thị Thùy

MSV: 14A4030106


Chuyên đề thực tập

15

phải xác định kết quả của dịch vụ, xác định được những mục tiêu, hạn chế của kênh,
xây dựng những phương án kênh chủ yếu, điều kiện và trách nhiệm của kênh. Mỗi
phương án phải được đánh giá theo các tiêu chuẩn kinh tế, khả năng kiểm soát, và
khả năng thích ứng.
Quản lý kênh đòi hỏi phải tuyển chọn được những trung gian cụ thể, đôn đốc,
động viên họ. mục đích là xây dựng quan hệ cộng tác và lập kế hoạch phân phối.
từng cá nhân thành viên của kênh cần được định kỳ thông qua so sánh mức tiêu thụ
của riêng họ với các thành viên kênh. Chính sách phân phối sẽ đem lại hiệu quả cao
khi chúng ta biết lựa chọn phân tích và đánh giá từng loại kênh phân phối phù hợp

với từng sản phẩm. Một khi công ty đã lựa chọ kênh phân phối nào thì họ phải duy
trì trong một thời gian dài vì bất cứ một kênh phân phối nào cũng cần có một thời
gian đủ để khách hàng chấp nhận.
Vì môi trường marketing không ngừng thay đổi, nên định kỳ phải tiến hành
cải biến kênh cho phù hợp. Kênh phân phối có đặc điểm thay đổi liên tục và đôi khi
đột biến. Ba trong số những xu hướng quan trọng nhất là sự phát triển các hệ thống
marketing ngang dọc và đa kênh.
Khi tiến hành chọn kênh phân phối, ta cần khảo sát và phân tích các yếu tố sau:
Sản phẩm phù hợp với kênh phân phối nào?
Tiến hành phân tích và lựa chọn kênh phân phối thích hợp nhất trong số những
kênh phân phối đã sử dụng.
Khi sử dụng những kênh phân phối doanh nghiệp phải chịu những chi phí căn
bản và chi phí phát sinh nào?
1.3.2.4. Chính sách xúc tiến.
Hoạt động xúc tiến là truyền tin về sản phẩm của doanh nghiệp tới khách
hàng để thuyết phục mua. Vì vậy đây có thể gọi là hoạt động truyền thông
marketing. Trong mỗi loại trên lại bao gồm một tập hợp các công cụ chuyên biệt để
thực hiện chương trình truyền thông marketing thích hợp trong những thị trường cụ

SV: Đặng Thị Thùy

MSV: 14A4030106


Chuyên đề thực tập

16

thể với hàng hóa cụ thể.
Các công cụ cơ bản được sử dụng để đạt được các mục tiêu truyền thông được

gọi là phối thức truyền thông, đó là quảng cáo, khuyến mãi, PR, bán hàng cá nhân,
marketing trực tiếp.
Quảng cáo là một kiểu truyền thông có tính đại chúng, mang tính xã hội cao.
Là một phương tiện có tính thuyết phục cao, tạo cơ hội cho người nhận tin so sánh
với đối thủ cạnh tranh làm tăng thêm sức thuyết phục với khách hàng mục tiêu.
Quảng cáo không phải là sự giao tiếp trực tiếp với doanh nghiệp với khách
hàng nó chỉ là hình thức thông tin một chiều: truyền tin về doanh nghiệp, sản phẩm
doanh nghiệp tới khách hàng mà thôi. Do vậy quảng cáo có thể tạo ra hình ảnh cho
hàng hóa, định vị nó trong người tiêu dùng. Song cũng có thể sử dụng quảng cáo để
kích thích tiêu thụ nhanh, đồng thời thu hút thêm khách hàng phân tán về không
gian với chi phí hiệu quả cho một lần xúc tiến quảng cáo.
Doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều phương tiện quảng cáo như báo, tạp chí, ti
vi, catalog, qua thư, qua truyền miệng, bao bì…. Mỗi phương tiện đều có những lợi
ích và hạn chế nhất định vì vậy doanh nghiệp cần xem xét kỹ lưỡng khi quyết định
phương tiện sử dụng trong quảng cáo của mình, như các mục tiêu quảng cáo: thông
tin, thuyết phục hay nhắc nhở.
Quảng cáo thông tin: là hình thức quảng cáo sử dụng hình thức công cụ truyền
thanh, truyền hình, báo chí nhằm giới thiệu thông tin về sảm phẩm đến khách hàng.
Quảng cáo nhắc nhở: là loại quảng cáo không cần xử dụng nhiều thông tin về
sản phẩm nhưng có thể dùng những hình ảnh, biểu tượng, màu sắc của sản phẩm để
nhắc nhở và ghi nhớ vào trong tâm trí khách hàng.
Quảng cáo thuyết phục: doanh nghiệp dùng những câu khẩu hiệu, lời nói ngắn
gọn nhằm thay đổi nhận thức của người mua về chất lượng của sản phẩm hoặc hình
thức sự ưa thích về nhãn hiệu của sản phẩm hay làm khách hàng thay đối sản phẩm
mà họ đã chọn trước.
Khuyến mãi có tác động trực tiếp và tích cực đến việc tăng nhanh doanh

SV: Đặng Thị Thùy

MSV: 14A4030106



Chuyên đề thực tập

17

số bằng những lợi ích vật chất bổ sung cho người mua, thực chất đây là công cụ
kích thích, thúc đẩy các khâu: cung ứng phân phối với một số nhóm hàng hóa
của doanh nghiệp
Trong các phương thức khuyến mãi của doanh nghiệp, phải kể đến hai phương
thức là khuyến mãi trực tiếp người tiêu dung và khuyến mãi cho đại lý bán hàng. Cả
hai phương thức này được thực hiện song song, hoặc đôi khi nhấn mạnh các nhóm
khác nhau tùy thuộc vào chiến lược của từng giai đoạn. Nhiệm vụ của khuyến mãi
đối với người tiêu dùng là khuyến khích họ tiêu dùng nhiều hơn, mua với số lượng
lớn và mở ra khách hàng mới. Đối với thành viên trung gian khuyến khích các
thành viên này tăng cường hoạt động phân phối hơn, đẩy mạnh hoạt động mua bán,
củng cố và mở kênh phân phối liên tục, nhằm mở rộng tiêu dùng cho sản phẩm. Có
thể phân chia khuyến mãi thành những nhóm tùy thuộc vào nôi dung và hoạt động
khuyến mãi khác nhau, các nhóm công cụ:
Nhóm công cụ tạo nên lợi ích trực tiếp thúc đẩy người tiêu dùng bao gồm
hàng mẫu, phiếu thử, quà tặng.
Nhóm công cụ thúc đẩy hoạt động trung gian trong kênh phân phối bao gồm
tài trợ về mặt tài chính khi mua hàng, hàng miễn phí, cũng có thể dùng tiền mặt hay
quà tặng cho các nhà phân phối hoặc lực lượng bán hàng của doanh nghiệp để họ
đẩy mạnh tiêu dùng.
PR là một chức năng quản lý nhằm đánh giá thái độ của công chúng, xác định
các đường lối và quy trình của cá nhân hay tổ chức với lợi ích cộng đồng, và hoạch
định cũng như thực hiện chương trình hành động với mục đích đạt được sự hiểu biết
và chấp nhận của công chúng đối với sản phẩm, dịch vụ của công ty. Theo định
nghĩa của PR news.

Quan hệ công chúng bao hàm cà những việc như quan hệ cộng đồng, quan hệ
với nhà đầu tư, tổ chức họp báo, tổ chức các sự kiện truyền thông, thông tin nội bộ,
giải quyết khủng hoảng. đó là những hoạt động công khai. Ngoài ra còn có những

SV: Đặng Thị Thùy

MSV: 14A4030106


Chuyên đề thực tập

18

hoạt động không công khai như: viết sẵn các thông cáo bảo chí, vận động báo chí
đăng bài. PR có tác động sâu sắc đến mức độ hiểu biết của xã hội, có khả năng
thuyết phục người mua lớn, và ít tốn kém nhiều hơn so với hoạt động quảng cáo.
Bán hàng cá nhân là công cụ hiệu quả nhất ở giai đoạn hình thành sự ưa thích
và niềm tin của khách hàng và giai đoạn quyết định mua trong quá trình mua
của khách hàng. Bán hàng cá nhân đòi hỏi hai hay nhiều người. Hai bên có thể
nghiên cứu trực tiếp nhu cầu và đặc điểm của nhau, đồng thời có sự linh hoạt
trong giao tiếp cho phù hợp. việc bán hàng trực tiếp khuyến khích người mua
đáp ứng lại, thể hiện thông tin phản hồi cho người bán trực tiếp giao dịch, đã
hình thành nên cơ chế thuận lợi, riêng biệt để người mua cung cấp thông tin
ngược chiều và có phản ứng lại.
Marketing trực tiếp cố gắng kết hợp cả ba yếu tố quảng cáo, khuyến mãi, bán
hàng cá nhân để đi đến bán hàng trực tiếp mà không qua trung gian. Nó là một hệ
thống các tương tác marketing có sử dụng một hay nhiều phương tiện quảng cáo để
tác động đến một phản ứng của khách hàng hay một giao dịch tại một thời điểm bất
kỳ nào. Những công cụ của marketing trực tiếp là: marketing bằng catalog, bằng thư
trực tiếp, qua điện thoại, trên truyền hình, tạp chí, báo…

1.4. Tổng quan về thị trường gia công hàng may mặc.
1.4.1. Khái niệm.
Gia công hàng may mặc xuất khẩu là phương thức sản xuất hàng xuất khẩu.
Trong đó, người đặt hàng gia công ở nước ngoài cung cấp: máy móc, thiết bị,
nguyên liệu hoặc bán thành phẩm theo mẫu và định mức cho trước. Người nhận gia
công trong nước tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm theo yêu cầu của khách. Toàn
bộ sản phẩm làm ra người nhận gia công sẽ giao lại cho người đặt gia công để nhận
tiền công.
Sự xuất hiện của loại hình gia công hàng hóa cho nước ngoài trên thị trường
quốc tế chính là hệ quả của chênh lệch về trình độ khoa học kỹ thuật giữa các quốc
gia và một phần nữa là do lợi thế các nguồn lực về tài nguyên, nhân công khác của

SV: Đặng Thị Thùy

MSV: 14A4030106


Chuyên đề thực tập

19

các nước. Thực tế cho thấy rằng: hầu hết các hợp đồng gia công quốc tế được ký kết
giữa một bên là các doanh nghiệp trong nước có nền khoa học phát triển với một
bên là các doanh nghiệp thuộc một quốc gia có kinh tế kém phát triển nhưng lại có
nguồn lực dồi dào, giá rẻ.
Trong quan hệ gia công cho nước ngoài nói chung, bên gia công dựa vào cơ sở
vật chất kỹ thuật và lao động có sẵn để tiến hành công việc gia công, đôi khi còn
nhận được cả sự giúp đỡ về máy móc, thiết bị, công nghệ sản xuất hoặc sự hướng
dẫn đào tạo của các chuyên gia kỹ thuật… do phía đặt gia công cung cấp. Nội dung
gia công gồm: việc sản xuất, chế biến, sửa chữa, tái chế, lắp ráp, phân loại, đóng gói

hàng hóa… theo yêu cầu và bằng nguyên vật liệu của bên đặt gia công.
1.4.2. Phân loại.
Căn cứ theo quyền sở hữu nguyên liệu trong quá trình sản xuất sản phẩm, hoạt
động gia công có các hình thức:
+ Hình thức nhận nguyên liệu, giao sản phẩm: bên nhận gia công sản xuất sản
phẩm từ nguyên liệu và bán thành phẩm thuộc quyền sở hữu của bên đặt gia công,
sau đó giao sản phẩm và nhận tiền công. Phương thức này còn gọi là phương thức
gia công xuất khẩu đơn thuần, là phương thức sơ khai của gia công xuất khẩu. theo
phương thực này, bên nhận gia công có lợi thế là không phải bỏ vốn ra mua nguyên
phụ liệu, không những thế nếu thực hiện tiết kiệm nguyên phụ liệu so với định mức
thì bên nhận gia công còn có thể hưởng tiền công gia công. Bên cạnh đó, bên nhận
gia công còn phụ thuộc vào tiến độ giao nguyên phụ liệu của bên đặt gia công. Bên
đặt gia công thường gặp rủi ro trong phương thức này, nếu bên nhận gia công làm
sai thì sẽ mất số nguyên phụ liệu đó mà không thu được hàng hóa.
+ Hình thức mua nguyên liệu, bán thành phẩm: theo hình thức này, bên đặt gia
công sẽ cung cấp các mẫu mã, tài liệu kỹ thuật cho bên nhận gia công theo hợp
đồng để tiến hành sản xuất và sau đó mua lại thành phẩm. Bên nhận gia công có thể
mua nguyên phụ liệu theo hai cách: mua theo sự chỉ định của bên đặt gia công hoặc
tự tìm nhà cung cấp nguyên phụ liệu. đây là hình thức phát triển cao của gia công

SV: Đặng Thị Thùy

MSV: 14A4030106


Chuyên đề thực tập

20

xuất khẩu, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho bên nhận gia công.

Căn cứ theo giá gia công có các hình thức.
+ Hợp đồng khoán: trong hợp đồng gia công người ta xác định định mức cho
sản phẩm gồm: chi phí định mức và thù lao định mức. Hai bên sẽ thanh toán với
nhau theo mức đó cho dù chi phí thực tế của bên nhận gia công là bao nhiêu đi
chăng nữa.
+ Hợp đồng chi thực thanh: bên nhận gia công thanh toán với bên đặt gia công
toàn bộ chi phí thực tế của công ty cộng với tiền thù lao gia công.
Căn cứ theo mức độ cung cấp nguyên liệu.
+ Bên đặt gia công cung cấp 100% nguyên phụ liệu và bên gia công sản xuất
theo định mức đã thỏa thuận trong hợp đồng, sau đó sẽ trả lại thành phẩm cho bên
đặt gia công hoặc sẽ giao cho bên thứ 3 theo chỉ định.
+ Bên nhận gia công chỉ nhận nguyên liệu theo định mức còn nguyên liệu phụ
thì tự khai thác theo đúng yêu cầu của khách hàng.
+ Bên nhận gia công không nhận bất cứ nguyên liệu phụ nào của khách hàng
mà chỉ nhận ngoại tệ để mua nguyên liệu theo đúng yêu cầu.
Căn cứ vào nghĩa vụ của bên nhận gia công.
+ CM ( cutting and making): Người nhận gia công chỉ tiến hành pha cắt và chế
tạo sản phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công.
+ CMP ( cutting, making and packaging): Người nhận gia công phải nhận pha
cắt, chế tạo và đóng gói sản phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công.
+ CMPQ (cutting, making, packaging and quota fee): Người nhận gia công
ngoài việc cắt may, đóng gói sản phẩm còn phải trả phí hạn ngạch theo quy định
những mặt hàng được quản lý bằng hạn ngạch.
1.4.3. Đặc điểm của hoạt động gia công xuất khẩu.
Xuất phát từ khái niệm gia công thì hoạt động gia công hàng xuất khẩu bao
gồm hai nội dung: thứ nhất, bên nhận gia công sẽ nhận gia công cho thương nhân

SV: Đặng Thị Thùy

MSV: 14A4030106



Chuyên đề thực tập

21

nước ngoài để hưởng tiền gia công, thứ hai, bên đặt gia công thuê bên nhận gia
công hàng hóa để kinh doanh thương mại. Hoạt động gia công theo hình thức thứ
nhất có những đặc điểm sau:
+ Hoạt động gia công là phương thức sản xuất hàng hóa theo đơn đặt hàng.
Bên đặt gia công sẽ đặt hàng cho bên gia công để sản xuất sản phẩm nhằm phục vụ
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Văn bản để chứng tỏ tính pháp lý của đơn
đặt hàng là hợp đồng gia công.
+Nội dung gia công bao gồm:sản xuất, chế biến, chế tác, sửa chữa, tái chế, lắp
ráp, phân loại, đóng gói hàng hóa theo yêu cầu và bằng nguyên phụ liệu của bên đặt
gia công. Khi bên đặt gia công đặt hàng, doanh nghiệp nhận gia công sẽ phải thực
hiện toàn bộ các công đoạn để sản xuất ra hàng hóa bằng nguyên phụ liệu mà bên
đặt gia công đã cung cấp hoặc yêu cầu. Các khâu trong quá trình sản xuất từ khi đưa
nguyên phụ liệu vào cho đến khi hoàn thành sản phẩm để đóng gói giao cho bên đặt
đều phải do bên nhận gia công chịu trách nhiệm
+ Để thực hiện việc gia công, các doanh nghiệp nước ngoài có thể tiến hành
chuyển giao công nghệ. Do trình độ khoa học công nghệ kém phát triển của nước
nhận gia công mà các doanh nghiệp nước ngoài có thể chuyển giao công nghệ cũng
như kinh nghiệm quản lý để bên nhận gia công có thể hoàn thành được hợp đồng.
Tuy nhiên việc gia công hàng hóa cũng như việc chuyển giao công nghệ phải được
thực hiện đúng theo hợp đồng gia công và theo quy định của pháp luật của nước
nhận gia công và nước đặt gia công.
+ Bên đặt gia công phải chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của quyền sở hữu
công nghiệp đối với hàng hóa gia công. Khi đặt gia công, các mẫu mã mà bên đặt
gia công giao cho bên nhận gia công để sản xuất hàng hóa phải là những mẫu mã

thuộc quyền sở hữu của bên đặt gia công. Các mãu mã này phải được bên đặt gia
công đăng kí bản quyền tác giả và bên đặt gia công phải chịu mọi trách nhiệm nếu
phát hiện những mẫu mã đó là vi phạm quyền tác giả.
+Bên đặt gia công có quyền cử thanh tra để kiểm tra, giám sát việc gia công
tại nơi nhận gia công theo thỏa thuận giữa các bên nhằm tránh tình trạng sai sót

SV: Đặng Thị Thùy

MSV: 14A4030106


Chuyên đề thực tập

22

trong khi sản xuất hàng gia công.
+Bên nhận gia công giao sản phẩm hoàn thiện đáp ứng yêu cầu đề ra và nhận
tiền công.
1.4.4. Ưu điểm, nhược điểm của hỉnh thức gia công xuất khẩu.
Thị trường tiêu thụ có sẵn, không phải bỏ chi phí cho hoạt động bán sản phẩm
xuất khẩu.
Vốn đầu tư ít.
Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.
Trong điều kiện kinh nghiệm kinh doanh quốc tế của các doanh nghiệp ngành
may thấp, chưa có mẫu mã, nhãn hiệu có uy tín riêng thì hình thức gi công xuất
khẩu giúp ngành may mặc việt nam đưa ngay ra thế giới, mang lại kim ngạch ngoại
tệ cho đất nước.
Nhược điểm:
Tính bị động cao: vì toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp nhận gia công phụ
thuộc vapf bên phía đặt gia công: phụ thuộc vào thị trường, giá bán sản phẩm, giá

đặt gia công, nguyên phụ liệu, mẫu mã, nhãn hiệu sản phẩm… nên với những doanh
nghiệp sản xuất lớn, chất lượng sản phẩm tốt với hình thức gia công, doanh nghiệp
khó có điều kiện phát triển mạnh mẽ ra thị trường thế giới.
Nhiều trường hợp bên phía nước ngoài lợi dụng hình thức gia công để bán
máy móc cho bên phía Việt Nam, sau một thời gian không có thị trường đặt gia
công nữa, máy móc phải “đắp chiếu”, gây lãng phí.
Nhiều trường hợp bến đặt gia công đưa máy móc, trang thiết bị cũ, lạc hậu
về công nghệ sang Việt Nam dẫn tới công nhân làm việc nặng nhọc, môi trường
bị ô nhiễm.
Năng lực tiếp thị kém, nhiều doanh nghiệp bị bên phía đặt gia công lợi dụng
quota phân bổ để đưa hàng vào thị trường ưu đãi.
Có những trường hợp bên phía nước ngoài lợi dụng hình thức gia công để đưa

SV: Đặng Thị Thùy

MSV: 14A4030106


Chuyên đề thực tập

23

nhãn hiệu hàng hóa chưa đăng ký hoặc nhãn hiệu giả vào Việt Nam.
Quản lý định mức gia công và thanh lý các hợp đồng gia công không tốt sẽ là
chỗ hở để đưa hàng hóa trốn thuế vào Việt Nam, gây khó khăn cho sản xuất và kinh
doanh nội địa.
Tình hình cạnh tranh trong gia công ở khu vực và nội địa ngày càng gay gắt
làm cho giá gia công ngày càng sụt giảm, hậu quả: hiệu quả kinh doanh gia công
thấp, thu nhập của công nhân gia công ngày càng giảm sút.
1.4.5. Vai trò của hoạt động gia công hàng hóa xuất khẩu.

+ Đối với nền kinh tế quốc dân
Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế mở cửa thì ngoại thương đang ngày có
vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Hoạt động ngoại thương một mặt giúp cho đất
nước có được nguồn ngoại tệ để nhập khẩu, qua đó góp phần công nghiệp hóa- hiện
đại hóa đất nước, mặt khác giúp cho nền kinh tế và các doanh nghiệp học tập được
các kinh nghiệm tiên tiến về quản lý và các tiến bộ khoa học công nghệ nhằm hiện
đại hóa sản xuất. Bên cạnh các hoạt động xuất nhập khẩu thì hoạt động gia công
hàng hóa có một vai trò quan trọng, nhất là đối với nền kinh tế còn đang phát triển
như nước ta.
Hoạt động gia công thu hút một lực lượng lao động phổ thông, do đó nó có vai
trò tích cực trong việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, góp phần
giảm tỉ lệ thất nghiệp cho xã hội, tăng thu nhập cho người dân. Thông qua hoạt
động gia công, nước ta tận dụng được nguồn lao động dồi dào với giá nhân công rẻ
để nâng cao hiệu quả sản xuất, giảm được giá thành. Đây cũng là một thế mạnh của
gia công tại Việt Nam.
Thu hút vốn, kỹ thuật, công nghệ nước ngoài, tăng nguồn thu ngoại tệ cho
quốc gia đồng thời có điều kiện học tập kinh nghiệm quản lí tiên tiến của nước
ngoài, tiếp cận với thị trường thế giới. Gia công chủ yếu là trong các lĩnh vực công
nghiệp nhẹ, khu vực công nghiệp cần nhiều lao động và là khu vực kinh tế hiện đại

SV: Đặng Thị Thùy

MSV: 14A4030106


Chuyên đề thực tập

24

hóa trước tiên nếu muốn hiện đại hóa nền kinh tế.

Nâng cao trình độ sản xuất trong nước, kích thích hoạt động xuất khẩu phát
triển. Tiếp xúc với các doanh nghiệp nước ngoài, với các trang thiết bị hiện đại và
sự quản lý khoa học của họ, ngành công nghiệp Việt Nam sẽ nâng cao trình độ quản
lí và hiện đại được các trang thiết bị, từ đó sẽ góp phần nâng cao trình độ sản xuất
trong nước. Mặt khác, khi tiến hành gia công cho nước ngoài, chúng ta sẽ tận dụng
được cơ sở nhà xưởng, máy móc, sử dụng nguyên phụ liệu, vật tư có sẵn trong nước
hoặc nhập khẩu từ các nước khác nhau, sử dụng thương hiệu, kênh phân phối hàng
hóa của bên đặt gia công ở nước ngoài. Từ các lợi thế trên, sau này chúng ta rút ra
kinh nghiệm để nâng dần tỷ trọng hàng hóa tự sản xuất trực tiếp xuất khẩu.
+ Đối với doanh nghiệp gia công.
Gia công xuất khẩu bên cạnh việc có những vai trò với nền kinh tế thì còn có
vai trò rất lớn đối với doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực này.
Khi tiến hành gia công hàng hóa cho các doanh nghiệp nước ngoài, các doanh
nghiệp Việt Nam được tiếp xúc với các trang thiết bị hiện đại, tiên tiến của các nước phát
triển, từ đó hiện đại hóa ngành công nghiệp nhẹ, góp phần hiện đại hóa nền kinh tế.
Gia công hàng xuất khẩu còn giúp các doanh nghiệp học hỏi được kinh
nghiệm quản lý tiên tiến của các nước phát triển. việc này còn giúp cho các doanh
nghiệp của ta tăng cường khả năng quản lý doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp hoạt
động hiệu quả.
Gia công hàng xuất khẩu cho các nước phát triển, được họ cung cấp cho các
mẫu hàng, các trang thiết bị để hoàn thành công việc. Chính sự cung cấp đó sẽ
đưa các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với thị trường thiế giới. Thông qua các
mẫu mã họ cung cấp, các doanh nghiệp của ta có thể phân tích để từng bước định
hình được phong cách tiêu dùng của thế giới, từ đó có thể tiến tới tự cung cấp
mẫu mã cho thị trường.
Hoạt động gia công xuất khẩu giúp doanh nghiệp tiếp cận với thị trường thế
giới một cách dễ dàng hơn. Thị trường tiêu thụ có sẵn, doanh nghiệp không phải bỏ

SV: Đặng Thị Thùy


MSV: 14A4030106


×