Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Tính thống nhất và sắc thái riêng trong ca dao người việt ở ba miền bắc, trung, nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (737.2 KB, 29 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----)(-----

Trần Thị Kim Liên

TÍNH THỐNG NHẤT VÀ SẮC THÁI
RIÊNG TRONG CA DAO NGƢỜI VIỆT Ở
BA MIỀN BẮC, TRUNG, NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2005


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----)(-----

Trần Thị Kim Liên

TÍNH THỐNG NHẤT VÀ SẮC THÁI
RIÊNG TRONG CA DAO NGƢỜI VIỆT
Ở BA MIỀN BẮC, TRUNG, NAM
Chuyên ngành: Văn học dân gian
Mã số: 50407
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:
GS. TS. Nguyễn Xuân Kính



HÀ NỘI - 2005


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do bản thân
tôi thực hiện. Các số liệu và kết quả được nêu trong luận án là
trung thực và chưa từng được các tác giả khác công bố.
Tác giả luận án

Trần Thị Kim Liên


QUY ƢỚC TRÌNH BÀY
Kí hiệu [119, tr. 1307] có nghĩa là: tài liệu tham khảo số 119, trang 1307
[167]

: tài liệu tham khảo số 167

Nxb

: Nhà xuất bản

xb

: xuất bản

Khi dẫn các luận án trước năm 2000, chúng tôi gọi theo quy định hiện
nay
Khi trích dẫn các tác giả, nếu có địa danh cũ chúng tôi giữ nguyên và có

chú thích theo địa danh hiện nay.
Khi trích dẫn các tác giả, nếu gặp tên các tộc người, chúng tôi viết theo
Từ điển tiếng Việt, do Hoàng Phê chủ biên, Nxb Đà Nẵng, năm 2003.


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

5

1. Lí do chọn đề tài

5

2. Lịch sử vấn đề

5

3. Tƣ liệu khảo sát

10

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

11

5. Đóng góp của luận án

11


6. Bố cục của luận án

12

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG

13

1.1. Giới thuyết các khái niệm

13

1.1.1. Ca dao và dân ca

13

1.1.2. Các khái niệm Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ, miền Bắc, miền Trung,
miền Nam

17

1.1.3. Phân vùng văn học dân gian và phân vùng ca dao

20

1.2. Môi trƣờng tự nhiên, xã hội và lịch sử của chủ nhân ca dao Bắc Bộ
(ca dao miền Bắc)

27


1.3. Môi trƣờng tự nhiên, xã hội và lịch sử của chủ nhân ca dao Trung
Bộ (ca dao miền Trung)

30

1.4. Môi trƣờng tự nhiên, xã hội và lịch sử của chủ nhân ca dao Nam Bộ
(ca dao miền Nam)

33

1.5. Về mối quan hệ giữa tính thống nhất và sắc thái riêng trong ca dao
ngƣời Việt ở ba miền Bắc, Trung, Nam

38

1.6. Tiểu kết

46

Chương 2: TÍNH THỐNG NHẤT VÀ SẮC THÁI RIÊNG TRONG
NỘI DUNG CA DAO NGƢỜI VIỆT Ở BA MIỀN BẮC,
TRUNG, NAM

47

2.1. Tính thống nhất và sắc thái riêng trong nội dung mảng ca dao phản
ánh tình cảm yêu nƣớc

48


2.1.1. Yêu quê hương làng xóm

49

2.1.2. Tự hào về truyền thống văn hoá tốt đẹp

54

2.1.3. Ca ngợi truyền thống kiên cường giữ nước

57

2.1.4. Tố cáo tội ác quân giặc

63


2.2. Tính thống nhất và sắc thái riêng trong nội dung mảng ca dao về
quan hệ gia đình, họ hàng

69

2.2.1. Tình cảm của con cháu với ông bà, cha mẹ

70

2.2.2. Tình cảm vợ chồng

81


2.2.3. Tình cảm anh chị em

95

2.2.4. Quan hệ dòng họ

97

2.3. Tính thống nhất và sắc thái riêng trong mảng ca dao tình yêu

98

2.3.1. Những biểu hiện phong phú của tình yêu lứa đôi

99

2.3.2. Tiêu chí chọn bạn tình và quan niệm về tình yêu

111

2.4. Tiểu kết

118

Chương 3: TÍNH THỐNG NHẤT VÀ SẮC THÁI RIÊNG TRONG NGHỆ
THUẬT CỦA CA DAO NGƢỜI VIỆT Ở BA MIỀN BẮC,
TRUNG, NAM
121
3.1. Tính thống nhất và sắc thái riêng trong việc sử dụng thể thơ lục bát 121

3.1.1. Thể thơ lục bát trong ca dao

121

3.1.2. Ca dao ba miền đều sử dụng hình thức lục bát biến thể

129

3.2. Tính thống nhất và sắc thái riêng trong việc sử dụng hai dạng văn
132
bản tạo hình và biểu hiện
3.3. Tính thống nhất và sắc thái riêng trong việc sử dụng ngôn ngữ

135

3.3.1. Sử dụng phương ngữ

135

3.3.2. Sử dụng từ gốc Hán và điển tích

147

3.3.3. Sử dụng các biện pháp tu từ và biểu tượng

161

3.4. Tiểu kết

188


KẾT LUẬN
CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

191

197
198


MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đã từ lâu, ca dao trở thành đối tượng được quan tâm chú ý của các
nhà sưu tầm, nghiên cứu. Những năm gần đây, việc sưu tầm, nghiên cứu,
phổ biến ca dao đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên, chúng ta vẫn
chưa có một công trình nào tìm hiểu về ca dao mang tính chất so sánh – tổng
hợp để có cái nhìn toàn diện về ca dao của từng vùng trong mối quan hệ với
ca dao của cả nước. Chính vì thế chúng tôi chọn đề tài: Tính thống nhất và
sắc thái riêng trong ca dao người Việt ở ba miền Bắc, Trung, Nam .
Nghiên cứu về ca dao sưu tầm ở ba miền Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ, chúng
ta sẽ thấy sức hấp dẫn, sức sống mãnh liệt của ca dao mỗi miền. Đồng thời,
chúng ta cũng sẽ nhận ra tính thống nhất, dấu ấn của truyền thống, của cội
nguồn bên cạnh những sắc thái đa dạng về văn hoá được biểu hiện ở các
miền khác nhau trên đất nước Việt Nam. Từ việc làm rõ tính thống nhất và
sắc thái riêng của ca dao người Việt, luận án góp phần vào việc nhận thức
tính thống nhất trong sự đa dạng của văn hoá Việt Nam nói chung và ca dao
nói riêng, đồng thời góp phần giữ gìn, bảo lưu những giá trị văn hoá truyền
thống của dân tộc.

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Nhiều nhà nghiên cứu đã viết về ca dao từng tỉnh, nhưng họ ít quan
tâm đến ca dao từng miền.
Trong phần tiểu luận (gồm 117 trang) của cuốn Ca dao dân ca Nam Bộ
(1984) có nhiều nhận định liên quan đến tính thống nhất và sắc thái riêng
của ca dao miền đất nước. Phần tiểu luận gồm bốn bài:
1. Vài nét về miền đất Nam Bộ (Trần Tấn Vĩnh viết);
2. Vài nét về nội dung ca dao – dân ca Nam Bộ (Nguyễn Tấn Phát
viết);


3. Một số đặc điểm nghệ thuật của ca dao – dân ca Nam Bộ (Bùi Mạnh
Nhị viết);
4. Ca dao – dân ca Nam Bộ, những biểu hiện sắc thái địa phương (Bảo
Định Giang viết).
Trong bài thứ hai, tác giả Nguyễn Tấn Phát nêu vấn đề có ý nghĩa
phương pháp luận đối với việc nghiên cứu tính thống nhất và sắc thái riêng
của ca dao - dân ca Nam Bộ so với ca dao - dân ca cả nước: “Việc tìm ra
những nét chung và riêng của ca dao – dân ca Nam Bộ sẽ làm giàu thêm
trong sự nhận thức của chúng ta về ca dao dân ca dân tộc, sẽ khẳng định
được tính thống nhất bao trùm của nền văn hoá chung của dân tộc, đồng thời
chỉ ra sự đóng góp riêng của mỗi địa phương vào kho tàng chung ấy, trên cơ
sở đó mà xem xét con đường vận động của các thể loại văn học dân gian
Việt Nam, quy luật nảy sinh và phát triển của chúng” [40, tr. 25].
Về tính thống nhất của ca dao, tác giả đã nhận xét: “Ca dao – dân ca
sưu tầm ở Nam Bộ thống nhất với ca dao – dân ca các miền khác của đất
nước về cội nguồn” [40, tr. 25]. Ông nêu những luận điểm chung về tính
thống nhất của ca dao Nam Bộ: “Ở vùng đất mới Nam Bộ, ta vẫn thấy những
bài ca cũ (tức ca dao truyền thống) còn giữ nguyên vẹn phần lời, phần nghĩa,
chỉ thay đổi về môi trường diễn xướng, điều kiện diễn xướng và ít nhiều

cách diễn xướng… Tính thống nhất của ca dao - dân ca sưu tầm ở Nam Bộ
thể hiện rõ rệt ở chủ đề của thể loại” [40, tr. 26].
Nguyễn Tấn Phát khẳng định: “Tính thống nhất có ý nghĩa bao trùm.
Sự giống nhau của các mảng đề tài ca dao – dân ca sưu tầm được ở Nam Bộ
với các miền khác của đất nước làm thành cái lõi vững chắc của một thân
cây, dòng chảy chính của một con sông. Ca dao – dân ca Nam Bộ do đó
không tạo thành một thể loại nào tách biệt với ca dao – dân ca của cả nước”
[40, tr. 27].
Về tính địa phương (tức là sắc thái riêng), ông viết: “Tính địa phương
của thể loại sáng tác dân gian là một vấn đề thuộc bản chất trong sự vận
động của văn học dân gian. Đó là một vấn đề có tính chất tất yếu vừa là


thuộc tính vừa là phẩm chất của đối tượng. Ca dao – dân ca trữ tình Nam Bộ
nằm trong sự vận động chung có tính quy luật ấy… [40, tr. 33]. Tính địa
phương thể hiện ngay trong nội dung và hình thức của mỗi thể loại. Quan hệ
giữa tính thống nhất chung với tính địa phương (vùng, miền…) của văn học
dân gian là một quan hệ biện chứng, tác động không ngừng lẫn nhau và bồi
bổ cho nhau [40, tr. 34].
Tác giả còn “so sánh, đối chiếu những biểu hiện của sắc thái địa
phương ở các mảng đề tài, các hình thức biểu hiện và phương thức diễn
xướng của nó”.
Ở bài “Một số đặc điểm nghệ thuật của ca dao – dân ca Nam Bộ”, tác
giả Bùi Mạnh Nhị trình bày nét đặc sắc riêng trong sự thống nhất của ca dao
– dân ca Nam Bộ. “Ca dao – dân ca Nam Bộ luôn phát triển theo phương
hướng chung, một xu thế chung luôn lĩnh hội và cảm thụ những truyền
thống chung của ca dao – dân ca toàn dân tộc, đồng thời nó cũng luôn phát
huy những đặc điểm riêng gắn với hoàn cảnh tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử, xã
hội, văn hoá, tâm lí tính cách của con người ở địa phương” [40, tr. 58].
“Như một tồn tại khách quan những phương diện nghệ thuật của ca

dao – dân ca Nam Bộ biểu hiện rất rõ và rất sinh động các mối quan hệ
thống nhất nhưng đa dạng, đa dạng nhưng thống nhất của kho tàng ca dao –
dân ca Việt Nam. Ở đây, tính thống nhất dân tộc và tính địa phương cụ thể
không hề mâu thuẫn, ngược lại đã làm phong phú và đậm đặc cho nhau” [40,
tr. 59]. Tác giả đã nhận thấy ca dao Nam Bộ ít dùng thể lục bát hơn so với ca
dao Bắc Bộ.
Cũng trong phần tiểu luận, nhà thơ Bảo Định Giang trình bày bài viết
về sắc thái địa phương của ca dao – dân ca Nam Bộ. Tác giả chủ yếu mô tả
sắc thái riêng của ca dao nơi đây trong việc sử dụng từ ngữ chỉ địa danh, đặc
sản, tính chất vùng sông nước, tính cách trọng nhân nghĩa… Tuy nhiên, tác
giả chưa có sự so sánh với ca dao các miền khác cũng như chưa đưa ra được
những luận điểm lí giải sâu sắc, phù hợp với bản chất thể loại ca dao.


Nhìn chung, tuy chưa nêu một cách toàn diện và thật đầy đủ về tính
thống nhất và sắc thái riêng của ca dao ba miền, nhưng phần tiểu luận của
cuốn sách Ca dao dân ca Nam Bộ là gợi mở quan trọng cho đề tài luận án.
Ngoài ra, những trang của Nguyễn Chí Bền (một nhà nghiên cứu, sinh
trưởng ở Bắc Bộ, có 13 năm công tác ở Nam Bộ) viết về hình ảnh sông nước
trong ca dao Nam Bộ; luận văn thạc sĩ của Nguyễn Phương Châm khảo sát
ngôn ngữ và thể thơ ca dao Nam Bộ; luận án tiến sĩ của nhà giáo Trần Diễm
Thuý về thiên nhiên trong ca dao trữ tình Nam Bộ; luận án tiến sĩ của Trần
Văn Nam phân tích biểu trưng của ca dao Nam Bộ;... - những tài liệu đó
cũng là những chỉ dẫn quý báu cho nghiên cứu sinh trong việc nhận diện
tính thống nhất và sắc thái riêng của ca dao Nam Bộ.
Trong việc sưu tầm, biên soạn ca dao Trung Bộ, bên cạnh xu hướng
tập hợp thơ ca dân gian theo từng tỉnh, còn có xu hướng thu thập ca dao theo
từng tiểu vùng (lớn hơn tỉnh):
a. Ca dao xứ Nghệ (Nghệ An và Hà Tĩnh)
b. Ca dao Bình Trị Thiên (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế)

c. Ca dao Nam Trung Bộ (Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình
Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận và Bình Thuận).
Năm 1981 tại Hội thảo khoa học về văn học dân gian miền Trung
(được tổ chức tại Đà Nẵng), tác giả Lê Văn Hảo khẳng định có một vùng
văn hoá dân gian miền Trung và có các tiểu vùng dân ca tương ứng với các
tiểu vùng văn hoá của văn hoá miền Trung. (1)
Bàn về nét riêng của ca dao Nghệ Tĩnh còn có các bài viết của Lê Văn
Hảo, Ninh Viết Giao, Nguyễn Phương Châm, luận văn thạc sĩ của Phan Thị
Mai...

(1) Lê Văn Hảo xác định vùng văn hoá dân gian miền Trung là từ Thanh Hoá và o đến Bình
Thuận; với bốn tiểu vùng là : Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên và Nam Trung Bộ. Chúng
tôi xác định vùng văn hoá miền Trung là từ Nghệ Tĩnh và o Bình Thuận với ba tiểu vùng:
Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên và Nam Trung Bộ.


Về ca dao tiểu vùng Bình Trị Thiên, Lê Văn Hảo nhận xét, phong
cách ca dao nơi đây “có phần dịu nhẹ đậm đà, mềm mỏng, uyển chuyển hơn,
ít dứt khoát chắc nịch hơn. Không phải ngẫu nhiên mà sự hiện diện của kinh
đô Phú Xuân xưa đã góp phần đem lại cho mảnh đất Ô Lý, Thuận Hoá cũ
một cái gì thanh lịch, hài hoà, trang nhã như đã từng thấy ở kinh đô Thăng
Long xưa” [167, tr. 24-25].
Ngoài ra, trong các cuốn sách Dân ca Bình Trị Thiên của Trần Việt
Ngữ, Thành Duy; Dân ca Bình Trị Thiên của Tôn Thất Bình; Hò đối đáp
nam nữ Thừa Thiên – Huế của Triều Nguyên,... đó đây cũng có những nhận
xét về sắc thái của ca dao tiểu vùng này.
Về tiểu vùng ca dao Nam Trung Bộ, Xuân Diệu là người viết sớm và
viết kĩ với bài Sống với ca dao, dân ca miền Nam Trung Bộ. Đúng như nhận
xét của Nguyễn Chí Bền, tiểu luận này “được viết bằng một tấm lòng tràn
đầy xúc cảm, một sự cảm thụ rất sâu sắc và tinh tế ca dao miền Nam Trung

Bộ nên rất có giá trị đối với việc nghiên cứu ca dao ở đây” [5, tr. 576]. Xuân
Diệu nhận thấy: “Ca dao Nam Trung Bộ không thích để cho lời nói cứ chảy
êm xuôi, mà thích dùng lời chạy vồng qua đá, nhảy lốc bốc qua sỏi, đây
không phải là một thứ cộc lốc, mà là thứ tinh vi riêng về nhạc điệu” [25, tr.
289].
Nét riêng của ca dao Nam Trung Bộ còn được đề cập đến trong các
bài viết của Lê Văn Hảo (1981), Nguyễn Văn Bổn (1983), Ngô Quang Hiển
và Trịnh Sâm (1986), Thạch Phương (1994), trong luận văn thạc sĩ của
Nguyễn Định: Ngôn ngữ và thể thơ ca dao Nam Trung Bộ (1999), ...
Về sắc thái của ca dao Bắc Bộ, chưa có bài viết nào dành cho vấn đề
này. Chúng ta chỉ có thể tìm thấy một số nhận xét rải rác ở những bài viết có
nhiệm vụ khác. Chẳng hạn, năm 1963, trong khi tập trung viết về ca dao
Nam Trung Bộ, Xuân Diệu đã đề cập đến nét riêng của ca dao Bắc Bộ. Theo
ông, ca dao Bắc Bộ là sản phẩm của “một xã hội mấy nghìn năm cũng trau
chuốt ca dao của mình; hơi thở thoải mái ngọt ngào, như không còn khấp
khểnh chỗ nào nữa, ca dao mà đến như “Đèn tà thấp thoáng bóng trăng, Ai


đem người ngọc thung thăng chốn này”, thì thật là hay đến trình độ cổ điển.
Tuy nhiên, trong cái trau chuốt, nhiều khi xảy ra cái khuôn sáo; ca dao cũng
đã có cái khuôn sáo của ca dao; cái chất sáng tạo và phát hiện của nghệ thuật
dường như mòn dần, và đó là nhược điểm của nhiều bài ca Bắc Bộ – Tôi nói
về ca dao ân tình, còn về xã hội thì theo ý tôi, ca dao Bắc Bộ phong phú
nhất, sắc sảo đến mức điển hình” [25, tr. 286].
Như vậy, đã có không ít công trình, bài viết phân tích các vùng và các
tiểu vùng ca dao, góp phần khẳng định ca dao người Việt thống nhất trong
sự đa dạng.
Có thể nhận xét chung về các bài viết, tiểu luận của các tác giả đi
trước như sau:
+ Về phạm vi không gian: Sự so sánh của các tác giả đi trước mang

tính chất nhỏ lẻ. Các công trình mới chỉ tập trung vào một vùng (hay tiểu
vùng) tiêu biểu mà chưa có sự so sánh tổng hợp, toàn diện về ca dao ba
miền.
+ Về phạm vi vấn đề: Các tác giả chú ý bàn về tính thống nhất hoặc
sắc thái riêng một cách độc lập (có phần nghiêng về sắc thái riêng) mà ít
chú ý đến mối quan hệ giữa hai phương diện này.

3. TƢ LIỆU KHẢO SÁT
Trong khi tiến hành thực hiện đề tài, chủ yếu chúng tôi sử dụng tư liệu
ca dao trong bộ sách Kho tàng ca dao người Việt do Nguyễn Xuân Kính và
Phan Đăng Nhật làm chủ biên cùng các soạn giả Phan Đăng Tài, Nguyễn
Thuý Loan, Đặng Diệu Trang [74]. Đây là công trình tập thể được biên soạn
với sự nỗ lực lớn trong 20 năm, từ 1974 đến 1994. Bản in năm 1995 gồm
bốn tập 2788 trang, tập hợp khối lượng tư liệu tương đương với số tư liệu về
dân ca, ca dao của tất cả 37 cuốn sách (gần 46 tập được biên soạn từ cuối thế
kỉ XVIII đến năm 1975 tất cả có 11.825 đơn vị). Kho tàng ca dao người Việt
được tái bản với sự chỉnh lí và bổ sung năm 2001 gồm có tư liệu của 40
cuốn sách (49 tập) với 12.487 lời ca dao, dân ca được in thành hai tập. Ngoài


việc số lời ca dao được tập hợp với khối lượng đồ sộ, phong phú, các soạn
giả đã đưa ra một số liệu thống kê những kết quả đối chiếu so sánh các văn
bản Việt và văn bản Nôm có nội dung sưu tầm biên soạn ca dao, giúp người
đọc không chỉ biết về nội dung các dị bản ca dao mà còn biết cả nguồn gốc
của dị bản.
Ngoài ra, chúng tôi cũng sử dụng các tài liệu sưu tập ca dao khác
(Xem phần Tài liệu tham khảo).

4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình thực hiện đề tài luận án, bên cạnh các phương pháp

mô tả, tổng hợp, phân tích, nghiên cứu liên ngành, chúng tôi sử dụng ở mức
độ cao phương pháp thống kê và phương pháp so sánh.
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
Từ trước đến nay đã có nhiều công trình viết về nội dung và nghệ
thuật ca dao. Các mảng ca dao tình yêu nam nữ, ca dao trào phúng, ca dao
phản ánh lịch sử đã được không ít tác giả quan tâm. Cái chung và nét riêng
của ca dao một số tiểu vùng văn hoá Trung Bộ, Nam Bộ cũng đã được một
số tác giả đề cập. Trên cơ sở các nguồn tài liệu phong phú của ca dao và các
công trình nghiên cứu về nội dung, nghệ thuật trong ca dao cổ truyền toàn
quốc và ca dao ba miền, chúng tôi tiến hành hệ thống hoá, tập trung nghiên
cứu tính thống nhất và sắc thái riêng trong ca dao người Việt qua ca dao ba
miền. Với luận án này, lần đầu tiên có một công trình phân tích một cách có
hệ thống, chuyên sâu về tính thống nhất và sắc thái riêng của ca dao Bắc Bộ,
Trung Bộ, Nam Bộ. Tính thống nhất và sắc thái riêng đó được phân tích qua
nội dung thể hiện và hình thức nghệ thuật biểu hiện.
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần làm rõ bản sắc văn hoá
Việt Nam thống nhất và đa dạng ở ba miền, trong đó ca dao đã làm cho văn
hoá dân tộc thêm đậm đà, rực rỡ hơn. Kết quả nghiên cứu cũng giúp ta hiểu
sâu sắc hơn văn hoá từng vùng, miền qua lối cảm, lối suy nghĩ, lối làm ăn,
cách sống của con người gắn với lịch sử, địa lí, thiên nhiên... Từ đó, luận án


sẽ góp phần bảo tồn các giá trị văn học nghệ thuật, ngôn ngữ, thuần phong
mĩ tục của dân tộc. Những tinh hoa văn hoá đó góp phần xây dựng làm
phong phú thêm nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc chống lại sự
xâm nhập của văn hoá độc hại và xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc là động lực để phát triển kinh tế, đất nước.
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận án gồm ba
chương:

Chương 1 Một số vấn đề lí luận chung
Chương 2 : Tính thống nhất và sắc thái riêng trong nội dung ca dao
người Việt ở ba miền Bắc, Trung, Nam
Chương 3: Tính thống nhất và sắc thái riêng trong nghệ thuật phản
ánh của ca dao người Việt ở ba miền Bắc, Trung, Nam .


CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Cách sử dụng từ xưng hô trong ca dao tình yêu, Văn hoá dân gian,
Hà Nội, 2003, số 2, tr. 65 - 68.
2. Nhìn lại việc phân vùng đối với văn hoá, văn nghệ dân gian và văn
học dân gian, Nguồn sáng dân gian, Hà Nội, 2003, số 3, tr. 42 - 45.
3. Tính thống nhất và sắc thái riêng của thể thơ lục bát trong ca dao
ba miền Bắc, Trung, Nam, Văn hoá dân gian, Hà Nội, 2004, số 1,
tr. 63 - 67.
4. Một vài biểu hiện của tinh thần yêu nước trong ca dao người Việt,
Nguồn sáng dân gian, Hà Nội, 2004, số 1, tr. 62 - 65.
5. Tính thống nhất và sắc thái riêng của nội dung ca dao người Việt,
Nguồn sáng dân gian, Hà Nội, 2004, số 2, tr. 59 - 63.
6. Tính thống nhất và sắc thái riêng của ca dao người Việt dưới con
mắt các nhà nghiên cứu, Văn hoá dân gian, Hà Nội, 2004, số 4, tr.
69 - 74.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Trần Thị An (1990), Về một phương diện nghệ thuật của ca dao
tình yêu, Văn học, Hà Nội, số 6, tr. 54-59.


2.

Trần Thị An (1997), Cô gái - nhân vật trữ tình trong đối ca nam
nữ hai vùng Nghệ Tĩnh và Bình Trị Thiên, Luận văn Thạc sĩ,
Trường Đại học Sư phạm, Hà Nội.

3.

Trần Thúy Anh (2000), Thế ứng xử xã hội cổ truyền của người Việt
châu thổ Bắc Bộ thể hiện qua ca dao tục ngữ, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội.

4.

Nguyễn Chí Bền (Nguyễn Phương Thảo) (1993), Thiên nhiên và
văn hoá dân gian của người Việt đồng bằng sông Cửu Long, Tạp
chí Dân tộc học, số 1, tr. 27-32.

5.

Nguyễn Chí Bền (2003), Văn hoá dân gian Việt Nam những phác
thảo, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

6.

Nguyễn Hoà Bình (2003), Kho tàng ca dao người Việt và việc
phản ánh thế giới động vật, tiểu luận tốt nghiệp đại học, Trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).


7.

Tôn Thất Bình (1994), Dân ca Bình Trị Thiên, Nxb Thuận Hoá,
Huế.

8.

Tôn Thất Bình (1995), Những đặc trưng của hò Trị Thiên, Luận án
Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.

9.

Tôn Thất Bình (1995), Vùng hò Trị Thiên trong mối tương quan
với dân ca Việt Nam, Văn hoá dân gian, Hà Nội, số 3, tr. 44-48.

10.

Phạm Hưng Bình (1996), Về một đặc điểm nghệ thuật của ca dao
dân ca sưu tầm ở Quảng Nam - Đà Nẵng, Văn hoá dân gian, Hà
Nội, số 2, tr.72-75.


11.

Nguyễn Văn Bổn (1985), Văn nghệ dân gian Quảng Nam - Đà
Nẵng, Sở Văn hoá Thông tin Quảng Nam - Đà Nẵng xb.

12.

Nguyễn Tài Cẩn, Võ Bình (1985), Thử bàn thêm về thể thơ lục

bát, Văn hoá dân gian, Hà Nội, số 3 + 4, tr. 9-18.

13.

Nguyễn Phương Châm (1997), Sự khác nhau giữa ca dao người
Việt ở xứ Nghệ và xứ Bắc, Văn hoá dân gian, Hà Nội, số 3, tr. 9-21.

14.

Nguyễn Phương Châm (1998), Tính chất bác học trong ca dao xứ
Nghệ, Văn hoá dân gian, Hà Nội, số 3, tr. 46-54.

15.

Nguyễn Phương Châm (2000), Ngôn ngữ và thể thơ trong ca dao
người Việt ở Nam Bộ, Luận văn Thạc sĩ, Viện Nghiên cứu văn hoá
dân gian, Hà Nội.

16.

Nguyễn Phương Châm (2001), Biểu tượng hoa đào, Văn hoá dân
gian, Hà Nội, số 5, tr. 16-22.

17.

Nguyễn Phương Châm (2001), Từ gốc Hán, điển tích Hán trong ca
dao người Việt ở Nam Bộ, Văn hoá nghệ thuật, Hà Nội, số 8, tr.
54-57.

18.


Nguyễn Đổng Chi, Ninh Viết Giao biên soạn (1984), Ca dao Nghệ
Tĩnh, Sở Văn hoá Thông tin Nghệ Tĩnh xb.

19.

Mai Ngọc Chừ (1989), Vần, nhịp, thanh và sức mạnh biểu hiện ý
nghĩa của lục bát biến thể, Văn hoá dân gian, Hà Nội, số 2, tr.1618.

20.

Mai Ngọc Chừ (1991), Ngôn ngữ ca dao Việt Nam, Tạp chí Văn
học, Hà Nội, số 2, tr. 24-28.

21.

Bùi Văn Cường, Vũ Quốc Ái, Đỗ Nguyễn Hạnh, Đoàn Tùng
(1974), Ca dao tục ngữ Nam Hà, Ty Văn hoá Nam Hà xb.

22.

Nguyễn Văn Dân (1995), Những vấn đề lí luận của văn học so
sánh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

23.

Chu Xuân Diên (2002), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.



24.

Xuân Diệu giới thiệu (1962), Ca dao kháng chiến, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.

25.

Xuân Diệu (1963), Sống với ca dao dân ca miền Nam Trung Bộ,
trong sách: Trần Việt Ngữ, Trương Đình Quang sưu tầm Dân ca
miền Nam Trung Bộ, tập II, Nxb Văn học, Hà Nội.

26.

Xuân Diệu (1967), Các nhà thơ học những gì ở ca dao, Tạp chí
Văn học, Hà Nội, số 1, tr. 49-59.

27.

Hoàng Dũng (1986), Suy nghĩ về vấn đề xử lí sắc thái địa phương
trong sưu tầm văn học dân gian Bình Trị Thiên, Văn hóa dân gian,
Hà Nội, số 2, tr. 8-12.

28.

Phan Huy Dũng (1991), Hình thức lấp lửng của lời tỏ tình trong
bài ca dao Xin áo, Văn hoá dân gian, Hà Nội, số 3, tr. 53-54.

29.

Lục Đức Dương (2001), Lịch sử lưu dân, bản dịch của Cao Tự

Thanh, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

30.

Triêu Dương (1963), Đi tìm ảnh hưởng Truyện Kiều trong văn học
dân gian, Văn học, Hà Nội, tr. 46-57.

31.

Triêu Dương, Phạm Hoà, Tảo Trang, Chu Hà sưu tầm biên soạn
(1971), Ca dao ngạn ngữ Hà Nội, Hội Văn nghệ Hà Nội xb.

32.

Phan Cự Đệ (1997), Văn học đổi mới và giao lưu văn hoá, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33.

Long Điền, Nguyễn Văn Minh (1999), Từ điển văn liệu, Nxb Hà
Nội.

34.

Cao Huy Đỉnh (1966), Lối đối đáp trong ca dao trữ tình, Văn học,
Hà Nội, số 9, tr.10-14.

35.

Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt

Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

36.

Nguyễn Định (1999), Ngôn ngữ và thể thơ ca dao Nam Trung Bộ,
Luận văn Thạc sĩ, Viện Nghiên cứu văn hoá dân gian, Hà Nội.

37.

Hà Minh Đức (1995), C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và một số vấn


đề lí luận văn nghệ (tái bản), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38.

Nguyễn Xuân Đức (2003), Những vấn đề thi pháp văn học dân
gian, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

39.

Nguyễn Xuân Đức (2004), Đi tìm nguồn gốc thể lục bát Việt Nam,
Nghiên cứu văn học, Hà Nội, số 6, tr. 77 - 98.

40.

Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị
biên soạn (1984), Ca dao dân ca Nam Bộ, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh.

41.


Ninh Viết Giao chủ biên (1996), Nguyễn Đổng Chi, Ninh Viết Giao,
Võ Văn Trực sưu tầm, Kho tàng ca dao xứ Nghệ hai tập), Nxb Nghệ
An.

42.

Chu Hà, Trần Lê Văn, Nguyễn Vinh Phúc biên soạn (1981), Ca
dao ngạn ngữ Hà Nội, tập II, Hội Văn nghệ Hà Nội xb.

43.

Dương Quảng Hàm (1943), Việt Nam văn học sử yếu, Nha học
chính Đông Pháp, Hà Nội.

44.

Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên (1992),
Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

45.

Vũ Tố Hảo (1986), Tìm hiểu một số trường hợp dùng chữ Hán và
điển tích trong ca dao, dân ca, Văn hoá dân gian, Hà Nội, số 2,
tr.13-18.

46.

Vũ Tố Hảo (1997), Những yếu tố truyền thống trong ca dao hiện
đại, Nhân đọc cuốn Ca dao vè kháng chiến chống Pháp, Văn hoá

dân gian, Hà Nội, số 2, tr. 74-78.

47.

Vũ Tố Hảo chủ biên (2002), Tinh thần yêu nước qua các thể loại
văn học dân gian người Việt, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân
văn quốc gia, Viện Nghiên cứu văn hoá dân gian.

48.

Lê Hằng (2000), Dân ca xứ Nghệ và việc xây dựng môi trường hát
dân ca ở Nghệ An, Văn hoá nghệ thuật, Hà Nội, số 5, tr. 72-74.

49.

Lê Huy Hoà chủ biên (2001), Bách khoa tri thức phổ thông, in lần
thứ ba, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội


50.

Ngô Quang Hiển, Trịnh Sâm (1986), Mấy suy nghĩ về ca dao – dân
ca vùng biển Trung Bộ, Văn hoá dân gian, Hà Nội, số 1, tr.16 - 23.

51.

Nguyễn Văn Hoàn (1974), Thể lục bát từ ca dao đến Truyện Kiều,
Văn học, Hà Nội, số 1, tr. 43-58.

52.


Trần Hoàng (1996), Nét đặc sắc trong cấu trúc lời ca của hò mái
nhì mái đẩy xứ Huế, Văn hoá dân gian, Hà Nội, số 3, tr. 65-68.

53.

Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (1997), 50 năm sưu tầm nghiên
cứu phổ biến văn hoá - văn nghệ dân gian, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.

54.

Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (2000), Góp phần nâng cao chất
lượng sưu tầm nghiên cứu văn hoá văn nghệ dân gian Việt Nam,
Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.

55.

Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam và Trường Đại học Cần Thơ
(2004), Tìm hiểu đặc trưng di sản văn hoá văn nghệ dân gian Nam
Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

56.

Trần Sĩ Huệ, Nguyễn Minh Hào (1997), Gương mặt một vùng đất,
Văn hoá dân gian, Hà Nội, số 1, tr. 92 - 100.

57.

Nguyễn Văn Hùng (1997), Xứ Nghệ - một vùng ca dao, Văn hóa

dân gian, Hà Nội, số1, tr. 107-108.

58.

Trần Bảo Hưng (1986), Cách biểu hiện tình cảm trong ca dao, Văn
nghệ Hà Nội, số 26, tr. 2.

59.

Phan Sĩ Hưng (1996), Cái tôi trữ tình trong ca dao tình yêu, Luận
văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Vinh.

60.

Trần Đình Hượu (1986), Vấn đề đặc sắc văn hoá dân tộc, Nghiên
cứu văn hoá nghệ thuật, Hà Nội, số 1.

61.

Kte Hamburgơn (2004), Logic học về các thể loại văn học, Vũ
Hoàng Địch, Trần Ngọc Vương dịch, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.

62.

Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên (1973), Văn học dân gian, tập II,


Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
63.


Đinh Gia Khánh chủ biên (1983), Nguyễn Xuân Kính, Phan Hồng
Sơn biên soạn, Ca dao Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.

64.

Đinh Gia Khánh, Trần Tiến (đồng chủ biên) (1991), Địa chí văn
hoá dân gian Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội , Sở Văn hoá Thông
tin Hà Nội xb.

65.

Đinh Gia Khánh, Cù Huy Cận chủ biên (1995), Các vùng văn hoá
Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.

66.

Vũ Ngọc Khánh giới thiệu, nhóm Lam Sơn sưu tầm (1963), Ca
dao sưu tầm ở Thanh Hóa, Nxb Văn học, Hà Nội.

67.

Vũ Ngọc Khánh (1991), Dẫn luận nghiên cứu folklore Việt Nam,
Sở Giáo dục Thanh Hoá xb.

68.

Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo, Nguyễn Vũ (2002), Từ điển
văn hoá dân gian, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.


69.

Lê Kinh Khiên (1980), Một số vấn đề lí thuyết chung về mối quan
hệ văn học dân gian – văn học viết, Tạp chí Văn học, Hà Nội, số 1.

70.

Nguyễn Bách Khoa (2000), Kinh Thi Việt Nam, Nxb Văn hoá
Thông tin tái bản.

71.

Phạm Tuấn Khoa (1998), Ảnh hưởng của văn hoá dân gian truyền
thống đối với thơ Tố Hữu, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Khoa
học xã hội và nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

72.

Nguyễn Xuân Kính (1984), Ca dao tục ngữ Hà Nội và sự phản ánh
lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm, Văn hoá dân gian, Hà
Nội, số 2, tr. 25 - 28.

73.

Nguyễn Xuân Kính (2004), Thi pháp ca dao, tái bản có bổ sung,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

74.

Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật, Phan Đăng Tài, Nguyễn

Thúy Loan, Đặng Diệu Trang (1995), Kho tàng ca dao người Việt,
bốn tập, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội; Nxb Văn hoá Thông tin


tái bản năm 2001, hai tập.
75.

Nguyễn Xuân Kính (2000), Hai nét giống nhau và khác nhau giữa
ca dao Thăng Long - Hà Nội và ca dao xứ Huế, Tập nghiên cứu
Văn hoá dân gian Thừa Thiên Huế, tháng 12, tr. 66-74.

76.

Nguyễn Xuân Kính (2001), Cái riêng của ca dao tục ngữ Thăng
Long – Hà Nội, trong tập sách nhiều tác giả Hà Nội những vấn đề
ngôn ngữ văn hoá, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, tr.126.

77.

Nguyễn Xuân Lạc, Vũ Anh Tuấn (1993), Giảng văn – Văn học dân
gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

78.

Likhachốp Đ.X., Thời gian nghệ thuật của tác phẩm văn học, La
Khắc Hoà dịch, Văn học, Hà Nội, 1989, số 3, tr. 60 - 65.

79.

Litana (1999), Xứ Đàng Trong. Lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam thế

kỉ XVII và XVIII, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

80.

Phạm Việt Long (2002), Tục ngữ ca dao về quan hệ gia đình, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.

81.

Lotman Iu. M. (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật, Trần Ngọc
Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thuỷ dịch, Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.

82.

Nguyễn Lộc (1997), Văn hoá Trung Hoa và ca dao dân ca Việt
Nam, Tạp chí Văn học, Hà Nội, số 9, tr. 15 - 21.

83.

Ưng Luận (1999), Ca dao xứ Huế bình giải toàn tập (I, II, III), Sở
Văn hoá Thông tin Thừa Thiên - Huế xb.

84.

Đặng Văn Lung (1968), Yếu tố trùng lặp trong ca dao trữ tình,
Văn học, Hà Nội, số 10, tr. 66-67.

85.


Đặng Văn Lung (1979), Về việc nghiên cứu sưu tầm dân ca Nam
Bộ, Tạp chí Văn học, Hà Nội, số 6, tr. 59-63.

86.

Đặng Văn Lung (1980), Về một vùng ca dao dân ca Nghệ Tĩnh,
Tạp chí Văn học, Hà Nội, số 6, tr. 72-79.

87.

Phương Lựu (1996), Văn hoá, văn học Trung Quốc cùng một số


liên hệ ở Việt Nam, Nxb Hà Nội.
88.

Phương Lựu (2002), Từ văn học so sánh đến thi pháp học so sánh,
Nxb Văn học, Hà Nội.

89.

Phan Thị Mai (2000), Nét riêng của ca dao xứ Nghệ, Luận văn
Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Vinh.

90.

Meletinsky E. M. (2004), Thi pháp của huyền thoại, Trần Nho
Thìn, Song Mộc dịch, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

91.


Đoàn Xuân Mĩ (1997), Ca dao Nam Bộ - một cái nhìn gần, Tạp chí
Văn học, Hà Nội, số 4, tr. 43-46.

92.

Trần Văn Nam (1999), Ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ địa danh
trong ca dao Nam Bộ, Văn hoá dân gian, Hà Nội, số 4, tr. 49-53.

93.

Trần Văn Nam (2003), Điển tích trong ca dao Nam Bộ: tiếp nhận
và cách tân, Văn hóa dân gian, Hà Nội, số 6, tr. 23-25.

94.

Trần Văn Nam (2004), Biểu trưng trong ca dao Nam Bộ (khảo sát
dưới góc độ thi pháp học), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Quốc
gia thành phố Hồ Chí Minh.

95.

Hoàng Thị Kim Ngọc (2004), So sánh và ẩn dụ trong ca dao trữ
tình của người Việt, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Ngôn ngữ
học, Hà Nội.

96.

Phan Ngọc (1985), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện
Kiều, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.


97.

Phan Ngọc (1996), Thể thơ lục bát – một vài suy nghĩ, Giáo dục và
thời đại, Hà Nội, số 32, tr. 6-7.

98.

Trần Đức Ngôn (1991), Mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn
học viết qua ca dao vùng mỏ, Thông báo khoa học, Trường Đại
học Sư phạm I Hà Nội, số 6, tr. 64-68.

99.

Triều Nguyên (1996), Những bài ca dao xứ Huế được mở đầu
bằng hai câu theo hình thức Hán văn, Hán Nôm, Hà Nội, số 2, tr.
81-84.

100. Triều Nguyên (1997), Hò đối đáp nam nữ Thừa Thiên Huế, Nxb


Thuận Hoá, Huế.
101. Triều Nguyên (1999), Tiếp cận ca dao bằng phương thức xâu
chuỗi theo mô hình cấu trúc, Nxb Thuận Hoá, Huế.
102. Trần Việt Ngữ, Thành Duy sưu tầm biên soạn (1967), Dân ca Bình
Trị Thiên, Nxb Văn học, Hà Nội.
103. Bùi Mạnh Nhị (1984), Một số đặc điểm ngôn ngữ của ca dao, dân
ca Nam Bộ, Tạp chí Ngôn ngữ, Hà Nội, số 1, tr. 26-32.
104. Bùi Mạnh Nhị (1997), Công thức truyền thống và đặc trưng cấu
trúc của ca dao, dân ca trữ tình, Tạp chí Văn học, Hà Nội, số 1, tr.

51-26, 84.
105. Nôvicôva A. M. (1983), Sáng tác thơ ca dân gian Nga, Đỗ Hồng
Chung, Chu Xuân Diên dịch, Nxb Đại học và trung học chuyên
nghiệp, Hà Nội, hai tập.
106. Vũ Ngọc Phan (1963), Sự khác nhau giữa ca dao và thơ lục bát,
Văn nghệ, Hà Nội, số 29, tr. 9.
107. Vũ Ngọc Phan (1978), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, In lần thứ
tám, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
108. Thuần Phong (1957), Ca dao giảng luận, Á Châu xuất bản, Sài
Gòn.
109. Phan Diễm Phương (1998), Lục bát và song thất lục bát (lịch sử
phát triển, đặc trưng thể loại), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
110. Nguyễn Hằng Phương (2001), Cảm hứng chủ đạo trong ca dao
người Việt, Văn hoá dân gian, Hà Nội, số 3, tr. 44-52.
111. Nguyễn Hằng Phương (2004), Sự chuyển đổi thi pháp ca dao cổ
truyền đến ca dao hiện đại, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
112. Thạch Phương (1966), Đọc dân ca miền Nam Trung Bộ, Tạp chí
Văn học, Hà Nội, số 9, tr .29-36.
113. Thạch Phương, Ngô Quang Hiển sưu tầm, tuyển chọn giới thiệu


(1994), Ca dao Nam Trung Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

114. Lê Chí Quế (1990), Các thể loại trữ tình dân gian, trong sách: Lê
Chí Quế, Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ, Văn học dân gian
Việt Nam, Nxb Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.
115. Vũ Tiến Quỳnh (1997), Tác phẩm ca dao - dân ca - tục ngữ - vè,
Nxb Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.Đại học giáo dục chuyên
nghiệp, Hà Nội, tr. 260-295

116. Rijtin B. L. (2002), Sử thi lịch sử và truyền thống văn học dân gian
Trung Quốc, Phan Ngọc dịch, Nxb Thuận Hoá, Huế.
117. Trần Đình Sử (1993), Những tìm tòi mới về thi pháp ca dao, Văn
hoá dân gian, Hà Nội, số 2, tr. 43-54.
118. Đỗ Văn Tân chủ biên và nhiều tác giả (1984), Ca dao Đồng Tháp
Mười, Sở Văn hoá Thông tin Đồng Tháp xb.
119. Nguyễn Văn Tân (2002), Từ điển địa danh lịch sử, văn hoá du lịch
Việt Nam, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
120. Hoài Thanh (1982), Một vài suy nghĩ về ca dao, Văn nghệ, Hà Nội,
số 1, tháng 2.
121. Đào Thản (1988), Từ ngôn ngữ chung đến ngôn ngữ nghệ thuật,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
122. Đào Thản (1990), Nhịp chẵn lẻ trong thơ lục bát, Ngôn ngữ, Hà
Nội, số 3, tr. 38-41.
123. Lê Bá Thảo (2002), Việt Nam lãnh thổ và các vùng địa lí, tái bản
lần thứ hai, Nxb Thế giới, Hà Nội.
124. Nguyễn Phương Thảo (1991), Tình yêu lứa đôi trong ca dao vùng
sông nước Nam Bộ, Giáo dục và thời đại, Hà Nội, số 10.
125. Nguyễn Phương Thảo (1997), Văn hoá dân gian Nam Bộ - những
phác thảo, Nxb Giáo dục, in lần thứ hai, Hà Nội.


×