Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Mahathir mohamad với vấn đề dân tộc và tôn giáo của malaysia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.35 KB, 13 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LÊ THỊ HUYỀN

MAHATHIR MOHAMAD VỚI VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO
CỦA MALAYSIA

LUẬN VĂN THẠC SỸ
Người hướng dẫn: PGS.TS. Mai Ngọc Chừ

HÀ NỘI - 2005


Mahathir Mohamad với vấn đề dân tộc và tôn giáo của Malaysia

MỞ ĐẦU
*****
1. Lý do chọn đề tài
Năm 1981, Francois Mitterand - một người dân chủ xã hội đã trúng cử
Tổng thống Pháp, chấm dứt 23 năm thống trị của đảng bảo thủ De Gaule.
Mitterand và những người ủng hộ ông đã thực hiện hàng loạt các chính sách
cải cách cấp tiến như: mở rộng hệ thống dịch vụ xã hội, quốc hữu hoá hầu hết
các ngành công nghiệp chủ chốt, phân chia lại thu nhập và của cải từ thiểu số
người giàu cho đa số người nghèo. Các chính sách này đã được thực hiện liên
tục trong hai năm liền. Tuy nhiên, đến năm 1983, Chính phủ của Mitterand đã
buộc phải thay đổi căn bản đường lối chính trị vì các chính sác h nói trên
không thực hiện được. Câu hỏi đặt ra là: dựa trên những cơ sở nào mà chính
phủ Mitterand đưa ra các chính sách cải cách nói trên? Và vì sao họ phải
thay đổi?
Năm 1994, sau 27 năm bị cầm tù và sau một cuộc vận động tranh cử


đầy hỗn loạn và bạo động, Nelson Mandela đã được bầu làm Tổng thống Nam
Phi. Để có được giờ phút lịch sử đầy kịch tính này, Nam Phi đã phải trải qua
một quá trình đấu tranh lâu dài nhằm xoá bỏ hệ thống ba nghị viện mang tính
phân biệt chủng tộc sâu sắc và thay vào đó là nghị viện duy nhất cho mọi
người Nam Phi. Câu hỏi đặt ra là: Quá trình hoạch định chính sách (sửa đổi
Hiến pháp) đã xảy ra như thế nào để cho phép Nam Phi thực hiện được sự
dân chủ hoá đời sống chính trị?
Mô hình tổng thể của hệ thống chính trị và quá trình thực hiện chức
năng cơ bản của nó là hoạch định chính sách là một vấn đề nhận được sự quan
tâm rộng rãi của các học giả trên toàn thế giới. Tri thức về khoa học chính

2


sách này luôn gắn liền với tên tuổi của những nhà lãnh đạo nổi tiếng trong
việc thay đổi thân phận của một dân tộc.
Phương Tây vẫn không hết bàng hoàng về sự vươn lên của một số quốc
gia Đông Nam Á trong những năm cuối của thế kỉ 20. Họ gọi đó là “Sự phát
triền thần kì” như một sự thừa nhận sức mạnh châu Á mà trước đó họ chưa hề
nghĩ đến cũng như không thể nào lý giải nổi. Malaysia là một minh chứng
hùng hồn cho sức mạnh đó. Giành độc lập năm 1957 từ tay thực dân Anh,
nhưng niềm vui tự do chưa được trọn vẹn thì Malaysia đã phải trải qua cuộc
đại phẫu lớn vào năm 1965 khi họ buộc phải cắt bỏ Singapore ra khỏi cơ thể
mình và luôn nằm trong trạng thái đe doạ bị tách biệt tiếp với Sabah và
Sarawak. Sự thống nhất của quốc gia này càng trở nên mỏng manh sau cuộc
xung đột và bạo loạn sắc tộc năm 1969 khi mà người Malay và những người
không phải Malay trở nên đối đầu và thù nghịch hơn là hoà hợp và cùng phát
triển. Đạo Hồi bị tộc người hoá, chính trị hoá chồng chéo. Nền kinh tế què
quặt với cơ cấu công nghiệp biến dạng theo toan tính của thực dân Anh những
năm trước đó và nền nông nghiệp lạc hậu lỗi thời là toàn bộ gia sản Malaysia

có khi bắt đầu công cuộc tái thiết đất nước. Không ai tin Malaysia chỉ mấy
chục năm sau đã trở thành quốc gia phát triển nhất trong những nước đang
phát triển ở Đông Nam Á, là thành trì của Hồi giáo thế giới, là biểu tượng của
hợp tác dân tộc cùng chung sống hoà bình. Hơn 20 năm lãnh đạo Malaysia,
Mahathir Mohamad đã viết nên câu chuyện huyền thoại về sự phát triển của
đất nước này. Sự kính trọng của nhân dân thế giới đối với Malaysia không chỉ
bắt nguồn từ sự ngưỡng mộ những thành quả Malaysia đã đạt được mà còn là
sự ngưỡng mộ những kì tích mà với tiềm năng hiện có Malaysia sẽ còn đạt
được trong tương lai. Chưa bao giờ Hồi giáo lại có vai trò tích cực trong xã
hội Malaysia như những năm vừa qua và chưa bao giờ có một thế hệ công dân
Malaysia biết đặt lòng trung thành với tổ quốc cao hơn lòng trung thành với


Mahathir Mohamad với vấn đề dân tộc và tôn giáo của Malaysia

dân tộc. Đó chính là những thành tựu to lớn hơn cả mà Thủ tướng Mahathir
đã giành được trong những năm cầm quyền. Việc nghiên cứu, đặt ra câu hỏi
cho những nguyên tắc làm nên sự thành công của chính quyền Mahathir là
một việc làm có ý nghĩa hơn bao giờ hết.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong quá trình thực hiện đề tài, người viết đã tiếp cận với khá nhiều
nguồn tư liệu khác nhau và nhận thấy rằng đây là một lĩnh vực còn nhiều mới
mẻ trong nghiên cứu Đông Nam Á ở Việt Nam. Trong khi đó, bản thân con
người Mahathir và những chính sách dân tộc tôn giáo của Malaysia được
nhiều học giả trên thế giới quan tâm và gây ra không ít những tranh cãi có
tính học thuật cũng như đại chúng. Báo giới phương Tây một thời gian dài
luôn định hướng sự nghiên cứu của phương Tây đến việc chỉ trích con người
“độc tài” của Mahathir cũng như lên án sự mạnh tay trong một số chính sách
của chính quyền Malaysia dưới thời Mahathir. Tuy nhiên cùng với thời gian,
nhân dân trên toàn thế giới đã được cung cấp nhiều tư liệu nghiên cứu chính

xác và công tâm về con người Mahathir cũng như việc hoạch định chính sách
dân tộc và tôn giáo của Malaysia.
Đông Nam Á học Việt nam đã thực hiện nhiều công trình nghiên cứu
về dân tộc và tôn giáo ở Malaysia mà đáng kể nhất phải là những nghiên cứu
của Tiến sĩ Trần Khánh [15], Tiến sĩ Châu Thị Hải [12]; [39]; [40], Nguyễn
Văn Hà [43] về người Hoa ở Đông Nam Á, về phương thức tồn tại, mối quan
hệ và tương lai của họ khi sinh sống trong một cộng đồng dân tộc khác mình.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Thiệu tác giả của cuốn sách Các dân tộc ở Đông
Nam Á [25] cũng có những nghiên cứu có tính khái quát về vấn đề dân tộc
của Malaysia. Về đạo Hồi và những ảnh hưởng của đạo Hồi tới đời sống văn
hoá chính trị xã hội của Malaysia đã được Tiến sĩ Phạm Thị Vinh nghiên cứu

4


rất xuất sắc trong Luận án Tiến sĩ lịch sử năm 2001 [28] và gần đây đáng kể
đến phải là Công trình nghiên cứu cấp Nhà nước của Tiến sĩ Ngô Văn Doanh
về đạo Hồi trong đời sống chính trị Đông Nam Á [30]. Những thông tin ít ỏi
về Mahathir đăng tải bằng tiếng Việt mới chỉ chưa đầy một trang ngắn ngủi
trên Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á [41] chứng tỏ đây vẫn còn là một nhân
vật quen thuộc trong đời sống chính trị hàng ngày những chưa được nghiên
cứu một cách khái quát và quy chuẩn ở Việt Nam. Đó thực sự là một điều
đáng tiếc mà người viết mong muốn được khắc phục phần nào.
Các học giả nước ngoài đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực để
nghiên cứu về Mahathir. Từ năm 1975, những cuốn sách đầu tiên về Mahathir
được xuất bản thể hiện sự quan tâm của các học giả đến cuộc đời và sự nghiệp
chính trị của ông từ rất sớm. Khó có thể thống kê hết được những công trình
nghiên cứu của Tây phương cũng như của người dân châu Á về những vấn đề
có tính nghị sự dưới thời ông nắm quyền. Tiểu sử của ông được cung cấp chi
tiết trong các cuốn sách của Anthony S. K. Shome [51]; Aziz Zariza Ahmad

[55]; J. Victor Morais [66]; Hasan Hji Hamzat [67]; Zainuddin Maidin [90]…
Nhiều cuốn sách tìm hiểu về chu trình chính sách dân tộc và tôn giáo như một
hệ thống hoàn chỉnh như của Chung Kek Yoong [56]; Gullick [58]; In Won
Hwang [60]; Jan Stark [63] nhưng các công trình này dựa vào cách tiếp cận
truyền thống của khoa học chính trị, chủ yếu chú trọng đến việc đánh giá các
chương trình nghị sự một cách khô cứng. Một số tác phẩm có đề cập đến ảnh
hưởng của nhân cách cá nhân Mahathir (tư tưởng, tình cảm, trí tuệ, bản lĩnh)
tới việc quyết định chính sách như của John Funston [64]; Ho Khai Loeng,
James Chin [68]; M.Rajendran [79]; Yao Souchou [91]… tuy nhiên những
nghiên cứu này lại bỏ qua việc thực thi chính sách mà điều này cực kì quan
trọng vì với một người có thâm niên lãnh đạo lâu đời như Mahathir thì việc
thực thi chính sách sẽ góp phần khẳng định sự nhất quán trong việc ra quyết


Mahathir Mohamad với vấn đề dân tộc và tôn giáo của Malaysia

định và thực thi quyết định, trong quyết định trước và quyết định sau của ông
bởi vì lịch sử diễn tiến của chính sách luôn thay đổi một cách nhanh chóng
theo các bối cảnh khác nhau.
Các đảng phái chính trị ở Malaysia (UMNO, PAS, BN) cũng như
những vấn đề của hai bang mà người viết quan tâm nhất là Sabah và Kelantan
cũng đã được nhiều học giả bỏ công nghiên cứu. J. De Vere Alien, Hashim
Makaruddin là người đã nghiên cứu rất sâu sắc về sự lựa chọn hệ tư tưởng của
Kelantan, vấn đề xây dựng liên bang Hồi giáo [62]; [69] trong khi những học
giả như Mohd Aris Hj Othman, R.S.Mline, Govin Alagasari lại tập trung vào
xem xét các vấn đề tiềm ẩn nguy cơ tách biệt Sabah với Liên bang và những
nỗ lực của chính quyền Malaysia để xoá đi khoảng cách đó [59]; [80]; [85].
Những công trình nghiên cứu này đã giúp cho người viết nắm được lịch sử
phát triển, những nguyên tắc hành động của các đảng phái chính trị ở
Malaysia cũng như có một cái nhìn tổng quan về hai bang Sabah và Kelantan,

nhận thức được những thách thức trong việc hội nhập hai bang này vào không
khí một dân tộc, đa tôn giáo nhưng không có phân biệt đối xử mà nhà nước
Malaysia theo đuổi. Tuy nhiên những tư liệu viết về vai trò của Mahathir
trong hoạch định chính sách dân tộc và tôn giáo cũng như việc dân tộc hoá,
tôn giáo hoá chính sách ở liên bang nói chung, Kelantan và Sabah nói riêng
còn chưa được cập nhật nhiều.
Như vậy có thể thấy những vấn đề người viết muốn đề cập đến đã có
một lịch sử nghiên cứu tương đối phong phú ở nước ngoài nhưng nó được
tiếp cận theo những nghiên cứu riêng rẽ và không nhằm mục đích nêu rõ con
người Mahathir và việc hoạch định chính sách dân tộc tôn giáo của ông trong
suốt hai mươi hai năm nắm quyền lãnh đạo Malaysia. Người viết có được một
cơ sở thuận lợi nhất định để đi sâu vào hướng nghiên cứu của mình nhưng
đưa ra một cái nhìn toàn diện trên những cơ sở ấy không phải là một việc dễ

6


dàng. Mục đích của luận văn không phải là dựng lại chân dung tiểu sử con
người Mahathir cũng như không đi vào phân tích đánh giá sự thành công hay
thất bại của các chính sách dân tộc và tôn giáo mà người viết muốn gắn kết
vai trò của Mahathir trong hoạch định các chính sách ấy và sự áp dụng chính
sách vào trong từng bối cảnh cụ thể của Malaysia.
3. Các nguồn tư liệu
Đề tài của luận văn được người viết xác định trong quá trình tiếp cận
với hệ thống tư liệu chung về Mahathir và các chính sách dân tộc, tôn giáo
của Malaysia được bắt đầu ngay từ những nghiên cứu nhỏ trong thời gian sau
đại học. Vì vậy, vấn đề có điểm tựa là một nền tảng bao gồm những thành quả
nghiên cứu cơ bản hết sức đồ sộ của giới học thuật phương Tây và các nhà
nghiên cứu Đông Nam Á. Nguồn tư liệu người viết khảo sát có thể được phân
loại thành hai hình thức sau:

-

Nguồn tư liệu sơ cấp: Các chương trình nghị sự về các chính
sách dân tộc và tôn giáo của Malaysia từ khi giành độc lập đến
nay; các bài diễn văn quan trọng của Mahathir từ năm 1981,
những số liệu bảng biểu thống kê có liên quan đến vấn đề dân
tộc và tôn giáo của Malaysia… Hầu hết nguồn tư liệu này do
trang web của Chính phủ Malaysia cung cấp tại địa chỉ
website .

-

Nguồn tư liệu thứ cấp: Các công trình nghiên cứu của các học
giả trên toàn thế giới do người viết thu thập được trong chuyến
đi thực tế của mình tại Malaysia cũng như việc tìm kiếm các
nguồn tài liệu tại Thư viện Viện nghiên cứu Châu Á ARI, Viện
nghiên cứu Đông Nam Á ISEAS của Đại học Quốc gia
Singapore, Thư viện Quốc gia Hà Nội, Thư viện Quân đội,


Mahathir Mohamad với vấn đề dân tộc và tôn giáo của Malaysia

Thư viện Khoa học xã hội, Thư viện Viện nghiên cứu Đông
Nam Á, các website trao đổi nghiên cứu nội bộ giữa những
người quan tâm đến nghiên cứu Đông Nam Á của Đại học
Michigan, Trung tâm nghiên cứu Đông Tây Hawaii, Mạng Hnet của NUS…
Các nguồn tư liệu được tiếp cận qua ba ngôn ngữ là tiếng Việt, tiếng
Anh và Bahasa Malaysia đã tạo nên những cơ sở và thuận lợi cơ bản cho việc
nghiên cứu của người viết.
4. Phương pháp nghiên cứu

Trong toàn bộ quá trình thực hiện đề tài này, ngay từ những bước đầu
tiên tập hợp tư liệu và xác định đề tài, người viết đã luôn ý thức về việc áp
dụng hiệu quả những phương pháp nghiên cứu của khoa học xã hội như
phương pháp nghiên cứu khu vực học, phương pháp tiếp cận văn hoá, phương
pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp nghiên cứu liên ngành. Các phương
pháp thống kê và so sánh được sử dụng ở mức độ nhất định để hỗ trợ cho việc
nghiên cứu của luận văn. Do tính đặc thù của đề tài nên người viết vận dụng
một số phương pháp nghiên cứu của khoa học chính sách nhằm cố gắng nắm
bắt và mô hình hoá về chu trình hoạch định chính sách cũng như tìm hiểu yếu
tố ảnh hưởng cá nhân tới việc hoạch định chính sách để có thể tìm hiểu được
một cách đúng đắn nhất sự tham gia của Mahathir đối với chính sách dân tộc
tôn giáo của Malaysia. Việc đánh giá sự thành công hay thất bại của chính
sách, tác giả cũng phải hoàn toàn thực hiện dựa trên những hiểu biết về khoa
học chính trị để có thể trả lời câu hỏi về ảnh hưởng của các chính sách tới đời
sống xã hội.
5. Nội dung nghiên cứu và đóng góp của luận văn

8


Đề tài được thực hiện với mong muốn đem lại một cái nhìn tương đối
sâu sắc, cơ bản và có hệ thống về cá nhân con người Mahathir và những ảnh
hưởng to lớn của ông đến chính sách dân tộc và tôn giáo của Malaysia. Đi sâu
nghiên cứu diễn tiến lịch sử của vấn đề dân tộc và tôn giáo của Malaysia,
người viết muốn lý giải những quyết định của Mahathir về việc hoạch định
chính sách cho sự phát triển của Malaysia những năm vừa qua và chắc chắn
sẽ còn thể nghiệm trong nhiều năm tới.
Nếu thực hiện thành công và đạt được mục đích nghiên cứu, về mặt
khoa học và thực tiễn đề tài sẽ có những đóng góp như sau:
-


Xây dựng chân dung Mahathir – con người của sự quả cảm và
quyết đoán, nhà lãnh đạo lâu đời nhất của Châu Á.

-

Đưa ra những nghiên cứu có hệ thống về chính sách dân tộc và
tôn giáo của Malaysia dưới thời Mahathir và kiểm nghiệm sự
áp dụng chính sách trong trường hợp của Sabah và Kelantan.

-

Rút ra những bài học kinh nghiệm cho việc hoạch định chính
sách quản lý dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam vì những kinh
nghiệm Malaysia đạt được cũng thích hợp và có thể áp dụng
vào trường hợp Việt nam và ngược lại những sai lầm mà
Malaysia gặp phải nếu không được phát hiện sớm cũng rất dễ
lặp lại ở Việt Nam.

-

Những lập luận rút ra trong quá trình thực hiện đề tài có thể sử
dụng như những thông tin bổ trợ, tham khảo cho việc nghiên
cứu và giảng dạy về Đông Nam Á nói chung và Malaysia nói
riêng.

6. Bố cục của luận văn


Mahathir Mohamad với vấn đề dân tộc và tôn giáo của Malaysia


Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được bố cục thành ba chương:
Chương 1: Mahathir chân dung nhà lãnh đạo kiệt xuất của Malaysia
Trong chương này, người viết tập trung xây dựng chân dung Mahathir
với tư cách là nhà lãnh đạo kiệt xuất của Malaysia thông qua việc khảo lược
các tác phẩm chính luận, các bài phát biểu của ông cũng như tìm hiểu sự nhìn
nhận và đánh giá của nhân dân thế giới, cộng đồng Hồi giáo và các học giả.
Chương 2: Mahathir với vấn đề dân tộc của Malaysia
Những nghiên cứu trong chương 2 nhằm đưa ra cái nhìn xác thực về
vấn đề dân tộc của Malaysia, cuộc khủng hoảng tư tưởng tộc người, những
thách thức đặt ra cho thống nhất dân tộc, quan điểm của Mahathir về vấn đề
dân tộc, những chính sách dân tộc lớn dưới thời lãnh đạo của ông cũng như
việc áp dụng chính sách dân tộc tại Sabah
Chương 3: Mahathir với vấn đề tôn giáo của Malaysia
Bên cạnh việc khái quát những vấn đề tôn giáo của Malaysia, người
viết cũng đi sâu vào phân tích quá trình Hồi giáo hoá chính phủ trong những
thập kỉ gần đây cũng như đưa ra những quan niệm tích cực về Hồi giáo hiện
đại, về cộng đồng Hồi giáo không biên giới của Mahathir và việc áp dụng cụ
thể vào trường hợp của Kelantan.

10


Mahathir Mohamad và những sự kiện:
1925: Sinh ngày 10 tháng 12 (có tài liệu cho là ngày 25/7), là con út trong 10
người con của một gia đình nhập cư mà người cha mang hai dòng máu Ấn Độ
– Malay và người mẹ Malay.
1953: Tốt nghiệp Y khoa trường King Edward VII tại Singapore và trở về
Malaysia lúc này đang dưới thời thuộc địa Anh, làm việc trong một cơ sở y tế
công cộng và không lâu sau đó đã tạo lập được một cơ sở của riêng mình.

1964: Tham gia chính trị, trở thành thành viên của tổ chức Mặt trận dân tộc
thống nhất Malaysia UMNO.
1969: Bị trục xuất khỏi tổ chức này khi phê phán những thất bại của Thủ
tướng đương nhiệm Tunku Abdul Rahman trong cuộc đương đầu với thiểu số
người Hoa thống trị nền kinh tế Malaysia dẫn đến sự kiện bạo loạn 1969.
1970: Viết tác phẩm “Cuộc khủng hoảng Malay” phê phán những cản trở
của người Malay để vươn tới sự tiến bộ. Tác phẩm là một sự mở màn đối với
những cố gắng của Mahathir trong nỗ lực của người bác sĩ muốn bắt mạch,
kê đơn và chữa những căn bệnh cỗ hữu của người Malay.
1972: Phục hồi lại tư cách thành viên của UMNO sau khi Tunku từ chức.
1974: Được lựa chọn là thành viên quốc hội và nhanh chóng nhận được sự
tín nhiệm của công chúng, tham gia đảm nhiệm rất nhiều vị trí bộ trưởng của
các ban ngành khác nhau.
1978: Trở thành Phó chủ tịch UMNO.
1981: Đảm nhiệm chức vụ Thủ tướng thứ tư của Malaysia.
1982: Giới thiệu chính sách “Nhìn về phương Tây”, coi Nhật Bản là một mẫu
hình về phát triển kinh tế.
1985: Malaysia rơi vào cuộc suy thoái. Mahathir thiết lập các biện pháp thắt
lưng buộc bụng và giảm bớt các chính sách, điều luật ưu đãi người Malay.


Mahathir Mohamad với vấn đề dân tộc và tôn giáo của Malaysia

1986: Phó thủ tướng của Mahathir từ chức vì những xung đột cá nhân.
1987: Mahathir từng bước sát sao đẩy lùi những thách thức đe doạ đến việc
nắm quyền lãnh đạo của ông từ bộ trưởng thương mại Razaleigh Hamzah
1987: Chính phủ tấn công vào các lực lượng đối lập tháng 10/1987, bắt giữ
hơn 100 người, đình bản ba tờ báo và ngăn chặn những căng thẳng dân tộc
đang ngày một cao trào xung quanh các vấn đề giáo dục của người Hoa.
1988: Mahathir phải tiến hành một cuộc phẫu thuật vì bệnh tim.

1991: Đưa ra những phác hoạ cho Tầm nhìn 2020 với tham vọng đưa
Malaysia thành một nước phát triển.
1993: Ra lệnh bỏ quyền truy tố trước pháp luật của giới hoàng tộc sau sự
kiện một tiểu vương hành hạ huấn luyện viên hockey trong lâu đài của ông ta.
1994: Ra lệnh cấm 07 tháng đối với các hãng phim của Anh để phản kháng
lại việc báo giới Anh cho rằng chính quyền của Mahathir đang sụp đổ.
1997: Chủ trì hội nghị gặp gỡ giữa giới lãnh đạo các nước Asean. Bất chấp
phương Tây lên án vấn đề nhân quyền ở Myanmar, ông vẫn bỏ phiếu tán
thành việc nước này gia nhập Asean nhân dịp kỉ niệm 30 năm thành lập tổ
chức này.
1998: Thiết lập kiểm soát tài chính và quản thúc đồng Ringgit ở tỷ giá hối
đoái 3.8 so với đồng đô la sau khi nền kinh tế Malaysia rơi vào cuộc suy thoái
vì khủng hoảng tài chính trong khu vực.
1998: Sa thải Phó chủ tịch đảng kiêm Bộ trưởng Bộ tài chính Anwar Ibrahim
người không lâu trước đó vẫn được coi sẽ là người kế nhiệm với lý do phóng
đãng trong cuộc sống tình dục. Anwar sau đó đã bị đưa ra xét xử và bị tuyên
án 15 năm giam giữ vì có hành vi lợi dụng chức vụ và kê gian.
2002: Công bố việc từ chức một cách bất ngờ trong Phiên họp của Uỷ ban
điều hành UMNO hồi tháng 6. Sau đó ông đưa ra kế hoạch trì hoãn đến

12


tháng 10/2003 và tán thành Phó chủ tịch UMNO Abdullah Ahmad Badawi lên
làm người kế nhiệm.
2003: Tổ chức hội nghị thường kì của Phong trào không liên kết NAM tháng
2/2003 và tổ chức hội nghị Hồi giáo OIC tháng 10/2003 ngay trước khi ông
nghỉ hưu.




×