Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

bài 3 tìm hiểu vấn đề dân tộc và tôn giáo ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.67 KB, 16 trang )

Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
LỜI MỞ ĐẦU
Dân tộc là sản phẩm của của 1 quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài
người. trước khi dân tộc xuất hiện thì loài người đã traỉ qua những hình thức cộng
đồng người từ thấp đến cao như : thị tộc, bộ lạc, bộ tộc…Theo Mac-Lênin thì dân
tộc là 1 nội dung có ý nghĩa chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa, là vấn đề
thực tiễn nóng bóng và thận trọng đòi hỏi phải được giải quyết 1 cách đúng đắn
và thận trọng.
Tôn giáo là một vấn đề được giới nghiên cứu về tôn giáo bàn cãi rất nhiêu.
Trong lịch sử đã từng tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về tôn giáo:
- Các nhà thần học cho rằng “Tôn giáo là mối liên hệ giữa thần thánh và con
người”.
- Khái niệm mang dấu hiệu đặc trưng của tôn giáo: “Tôn giáo là niềm tin vào
cái siêu nhiên”.
- Một số nhà tâm lý học lại cho rằng “Tôn giáo là sự sáng tạo của mỗi cá nhân
trong nỗi cô đơn của mình, tôn giáo là sự cô đơn, nếu anh chưa từng cô đơn thì
anh chưa bao giờ có tôn giáo”.
- Khái niệm mang khía cạnh bản chất xã hội của tôn giáo của C.Mác: “Tôn
giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có
trái tim, nó là tinh thần của trật tự không có tinh thần”.
- Khái niệm mang khía cạnh nguồn gốc của tôn giáo của Ph.Ăngghen: “Tôn
giáo là sự phản ánh hoang đường vào trong đầu óc con người những lực lượng
bên ngoài, cái mà thống trị họ trong đời sống hàng ngày …”
NỘI DUNG
PHẦN I: DÂN TỘC
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13ATH
SVTT: Nguyễn Thị Quỳnh
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
I. DÂN TỘC VÀ HAI XU HƯỚNG KHÁCH QUAN CỦA DÂN TỘC
1. Khái niệm dân tộc
Dân tộc được hiểu theo hai nghĩa:


- Nghĩa hẹp: Dân tộc chỉ một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền
vững, có chung sinh họat kinh tế, có ngôn ngữ riêng, có những nét đặc thù về văn
hóa; xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa và phát triển cao hơn những nhân tố tộc
người ở bộ lạc và thể hiện thành ý thức tự gic tộc ngườicủa dân cư cộng đồng đó.
Theo nghĩa này dân tộc là một bộ phận của quốc gia, là dân tộc – tộc người
(Ethnie).
- Nghĩa rộng: Dân tộc chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân
một nước, có lãnh thổ quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung với ý
thức về sự thống nhất văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá
trình lịch sử lâu đời dựng nước và giữ nước. Theo nghĩa dân tộc là dân cư của
một quốc gia nhất định, là quốc gia – dân tộc (Nation).
2. Hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc
Nghiên cứu vấn đề dân tộc và phong trào dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa
tư bản V.I.Lênin đã phát hiện 2 xu hướng khách quan:
a. Xu hướng thức tỉnh ý thức dân tộc hình thành các quốc gia dân tộc độc lập.
Xu hướng này thể hiện nổi bật trong giai đoạn đầu của CNTB đưa đến sự ra
đời của các dân tộc. Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, xu hướng này biểu hiện
thành phong trào đấu tranh gỉai phóng dân tộc của các dân tộc bị áp bức.
b. Xu hướng xích lại gần nhau giữa các dân tộc (Liên hiệp giữa các dân tộc).
Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học công nghệ, của giao lưu
kinh tế và văn hóa trong xã hội tư bản làm xuất hiện nhu cầu xóa bỏ hàng rào
ngăn cách giữa các dân tộc, tạo nên mối liên hệ quốc gia, quốc tế giữa các dân tộc
làm cho các dân tộc xích lại gần nhau tạo nên sự thống nhất của thị trường tư bản.
Trong thời đại ngày nay hai xu hường này biểu hiện khác nhau trong từng nước
và trên thế giới:
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13ATH
SVTT: Nguyễn Thị Quỳnh
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
Trong điều kiện của CNXH, hai xu hướng tác dụng cùng chiểu, bổ sung, hỗ trợ
cho nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong cả quốc gia và đụng chạm đến tất cả

các quan hện dân tộc ( về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…)
Trên phạm vi thế giới, sự thức tỉnh ý thức dân tộc đã làm bùng lên phong trào
đấu tranh đòi giải phóng dân tôc của các dân tộc bị áp bức chống chủ nghĩa đế
quốc và chủ nghĩa thực dân dưới mọi hình thức, đấu tranh chống kỳ thị dân tộc,
phân biệt chủng tộc. Trong thời đại ngày nay, các dân tộc còn bị cuốn hút vào xu
hướng liên minh, liên kết quốc tế và khu vực vì các lợi ích kinh tế, chính trị, văn
hóa, khoa học kỹ thuật… mở cửa, hòa nhập cũng là một xu thế chủ yếu trong mối
quan hệ giữa các dân tộc trong giai đoạn hiện nay.
Đảng lập, tự chủ đi đôi với mở Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Giữ vững độc
rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại” là nguyên
tắc thống nhất lối ngoại của Đảng và Nhà nước ta ( Văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ VII, Nxb CTQG, HN 1996, tr 84).
II. ĐẶC ĐIỂM DÂN TỘC
VN ta có hơn 60 dân tộc anh em,mỗi dân tộc đều có những nét đặc trưng riêng
tạo nên sự khác biệt với các dân tộc khác. Có 4 tiêu chí của tộc người.:
1.Ngôn ngữ dân tộc là 1 giá trị văn hoá đặc biệt
Ngôn ngữ là công cụ cơ bản cho sự cộng đồng các cá nhân bao gồm vào 1 tộc
người phù hợp, phân định họ với đại bộ phận các tộc người khác.Hay nói 1 cách
dể hiểu thì ngôn ngữ là dấu hiệu cơ bản để người ta phân biệt các dân tộc khác
nhau. Thật vậy, nếu ta lắng nghe ngưởi khác nói tiếng việt đúng,hay thì ta cho
người đó là người Việt. Hoặc khi những người không quen biết nhưng cùng
chung 1 tộc người gặp nhau đâu đó ngoài biên giới quốc gia thì người ta dễ nhận
biết nhau qua ngôn ngữ.
Như 1 quy tắc, tất cả các thành viên gắn bó với nhau trong 1 tộc người thì cùng
nói 1 thứ tiếng. Đó được gọi là tiếng mẹ đẻ. Nhưng đều đó không có nghĩa trên
thế giới có bao nhiêu tộc người thì có bay nhiêu ngôn ngữ.
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13ATH
SVTT: Nguyễn Thị Quỳnh
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
Thực tế cho thấy, có nhiều ngôn ngữ của tộc người khác lại được sữ dụng với

tư cách là ngôn ngữ tộc người.có 1 số ngôn ngữ (chủ yếu là ngôn ngữ châu
âu)được nhiều bộ phận cư dân sự dụng với tư cách là ngôn ngữ tộc người mặc dù
họ là những tộc người riêng biệt và sống ở các quốc gia khác nhau.
Bên cạnh đó còn có 1dân tộc mà các nhóm riêng biệt của nó lại nói những thứ
tiếng khác nhau. Chẳng hạn, ngày nay đại bộ phận người Scotlen sử dụng tiếng
anh là ngôn ngữ hội thoại song ở các vùng miền núi Scotlen vẫn còn tồn tại 1
nhóm nhỏ cư dân trong sinh hoạt họ sử dụng tiếng nói riêng của nhóm ngôn ngữ
Kentơ.
Ở Vn, dân tộc sán chay gồm 2 bộ phận là cao lan và sán chỉ. Tiếng cao
lan_thuộc ngôn ngữ thái-tày, tiếng sán chỉ thuộc ngôn ngữ hán.
Người tày sử dụng tiếng việt trong giao tiếp gia đình, cứ 5 gia đình thì 1 gia
đình sử dụng tiếng phổ thông trong sinh hoạt.
2. Lãnh thổ dân tộc
Theo logic bình thường, sự cấu thành 1 tập thể người nói 1 thứ tiếng thì lẽ
đương nhiên là tất cả các thành viên của họ phải sống với nhau trong 1 thời gian
dài trong các mối liên hệ nhất định. Có thể nói, mỗi dân tộc đều có lãnh thổ dân
tộc riêng ban đầu của mình. Như vậy, lãnh thổ là điều kiện bắt buộc cho sự xuất
hiện của bất kì tộc người nào.
Mỗi dân tộc luôn luôn có sự thăng trầm trong lịch sử. Các dân tộc mạnh thì khi
niệm cần phải mở rộng lạnh thổ để nâng cao sức mạnh, các dân tộc yếu và nhỏ thì
luôn cố gằng bảo vệ lãnh thổ của mình.
Trong quá trình mở rộng lãnh thổ cũng dẫn đến sự phân chia tộc người. Hiện
tượng này gắn liền với các cuộc chuyển cư bằng đường biển dẫn đến khách quan
là những bộ phận cư dân cơ sở và những bộ phận thiên di hình thành những tộc
người khác nhau. Các trường hợp này diễn ra với người Anh, người Pháp, nguời
Tây Ban Nha, người Bồ Đào Nha và một số dân tộc khác ở Tây Âu trong sự cách
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13ATH
SVTT: Nguyễn Thị Quỳnh
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
li của họ vào thời kỳ thực dân ( thế kỷ XVI —> XIV), trong các nước xâm lược

đất đai của các cư dân bản đại Bắc và Nam Mĩ, châu Phi, châu Đại Dương.
Có nước mở rộng lãnh thổ thì sẽ cĩ nước bị thu hẹp lãnh thổ vì theo quy luật.
Lãnh thổ bị suy giảm do nguyên nhân chiến tranh hủy diệt, dịch bệnh… hoặc l bị
tiêu vong của đại bộ các dân tộc ở các nước châu Mỹ, châu Phi và châu Đại
Dương.
Trong lịch sử có tình trạng một dân tộc đã hình thành trên một lãnh thổ xác
định, rồi trong bước tiếp theo, một bộ phận và có khi là bộ dân tộc phải rời bỏ
lãnh thổ cư trú ở những nước khác.
3. Cơ sở kinh tế của dân tộc
Để hình thành một tập thể lớn những con người nói một ngôn ngữ, điều cần
thiết không chỉ có một lãnh thổ chung m giữa họ cịn cĩ sự cộng đồng kinh tế rộng
lớn.
Mỗi dân tộc trong cơ cấu tập thể của nhân lọai có mối liên hệ với nhau về mặt
kinh tế.
Vd: Người Tasman có khỏang 30 – 40 người, có nhiều ở chu Đại Dương là 50
– 60 người. Các nhóm này du cư trong một lãnh thổ xác định. Chỉ có trên lãnh
thổ địa phương mới có thể săn bắn, đánh cá và hái lượm.
Ngày nay, không có một tộc người nào và không có ngay cả một nhóm địa
phương nào lại chỉ điểu chỉnh về mặt kinh tế từ phía những láng giềng của mình.
Song, trong quan hệ kinh tế với tộc người đã xuất hiện sự đứt gẫy do tác động của
những điều kiện khách quan và chủ quan. Ngay cả những cư dân giữ gìn và mở
rộng vng cư trú của mình thì những nhĩm riêng biệt của họ, đặc biệt là những
nhóm sống ngòai đất nước thường mất đi những mối liên hệ kinh tế trực tiếp.
Chẳng hạn, những người Nga sống ngòai lãnh thổ Nga, người Anh sống ngòai
lãnh thổ Anh từ có mối liên hệ vế mặt kinh tế nhiều với cư dân láng giềng khác
hơn là giữa họ với nhau.
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13ATH
SVTT: Nguyễn Thị Quỳnh
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
Vậy: Sự hiện diên của các mối liên hệ kinh tế mặc dù là điều kiện bắt buộc của

sự ra đời mỗi dân tộc song không thể coi là dấu hiệu đặc biệt. Mà chỉ là nhân tố
cố kết của tộc người.
4. Các đặc trưng sinh họat văn hóa và ý thức tự giác dân tộc
Biểu hiện ở lối sống, phong tục tập quán, tín ngưỡng… Lối sống: dân tộc Êđê
ở Việt Nam lại có thói quen ở nhà sàn, mặc khố.
Trong khi người Kinh lại ở nhà gạch, mặc quần áo. Cho dù dân tộc Êđê được
sự thay đổi nhiềi về cách ăn mặc và suy nghĩ nhưng đó vẫn là nét riêng để nhận ra
họ. Đất nước có hơn 60 dân tộc anh em. Nhiều dân tộc có tục ném còn, đi chợ
tình,…
Tín ngưỡng: dân tộc Êđê tin vào ma quỷ, dân tộc tin vào già làng.
Nhưng ta không chỉ nói ở phạm vi hẹp là nét văn hóa của từng dân tộc mà là của
cả một quốc gia. IV. Vấn đề dân tộc ở Việt Nam có vị trí chiến lược
" Có thể khẳng định rằng chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới là người đem
đến cho các dân tộc thiểu số ở Việt Nam quyền bình đẳng như ngày nay. Các dân
tộc trong cộng đồng đại gia đình các dân tộc Việt Nam từ chỗ bị áp bức, bóc lột
dưới sự đô hộ của thực dân đế quốc đã trở thành những thành viên làm chủ đất
nước Việt Nam độc lập thống nhất. Khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố và
tăng cường mạnh mẽ hơn bất cứ lúc nào. Đồng bào các dân tộc đời đời ghi nhớ
công lao to lớn của Bác Hồ và Đảng Cộng sản Việt Nam, mãi mãi theo lời dạy
của Bác Hồ là "dân tộc Việt Nam là một, đất nước Việt Nam là một, sông có thể
cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi", " Đồng bào Kinh
hay Tày, Mường hay Dao, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc
thiểu số khác đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt, chúng ta sống
chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau", không kẻ thù nào có thể
chia rẽ, phá vỡ khối đoàn kết mà Bác Hồ và Đảng ta đã xây dựng nên. Sự thất bại
nhục nhã của bọn phản động gây rối ở Tây Nguyên tháng 2/2001 đã chứng minh
điều đó. Đồng bào các dân tộc đều đã cực lực lên án và chống lại bọn phản động
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13ATH
SVTT: Nguyễn Thị Quỳnh
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM

lợi dụng vấn đề dân tộc để hoạt động trái với Chính sách và Pháp luật của Đảng
và Nhà nước ta, hòng kích động chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh
quốc gia.
Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi rõ "nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc
cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam". Các dân tộc thực hiện quyền làm chủ
của mình bằng hai hình thức, trực tiếp và đại diện. Dân chủ đại diện qua hệ thống
cơ quan dân cử cho thấy: Đại biểu Quốc hội khóa X là người dân tộc thiểu số
chiếm 17,3%, đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh chiếm 18,2%, huyện chiếm
18,7%, xã chiếm 22,7% so với tổng số đại biểu dân cử cấp đó. Điều đó đã thể
hiện được sự bình đẳng giữa các dân tộc trong việc tham gia quản lý nhà nước.
Tuy nhiên, so với đồng bằng và vùng đã phát triển tương đối thì miền núi và
vùng dân tộc thiểu số còn là vùng khó khăn nhất, hãy còn nhiều kẽ hở để bọn
phản động dễ lợi dụng, khoảng cách còn khá xa, tỷ lệ đói nghèo trong đồng bào
dân tộc thiểu số còn cao; đã xuất hiện những hiện tượng chệch hướng, nếu trong
thời gian tới không có những giải pháp hữu hiệu có thể khoảng cách đó còn xa
hơn nữa sẽ không có lợicho sự ổn định phát triển bền vững của đất nước.
Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết đại hội IX ở vùng dân tộc thiểu số, chúng tôi
hoàn toàn tán thành với những nội dụng đã được trình bày trong bản báo cáo
Chính trị của Ban chấp hành Trung ương. Xin kiến nghị và nhấn mạnh một số
vấn đề sau:
1. Phát triển kinh tế-xã hội ở vùng dân tộc thiểu số phải tăng trưởng với tốc độ
cao hơn mức bình quân chung của cả nước mới có thể từng bước thu hẹp khoảng
cách giữa các dân tộc và các vùng, quan tâm đến từng vùng và từng dân tộc, tiến
tới sự bình đẳng thực sự trên bình diện kinh tế-chính trị, xã hội…
2. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc. Văn hóa dân
tộc có được bảo tồn và phát huy thì dân tộc mới phát triển. Giữ gìn và làm giầu
tiếng nói của mỗi dân tộc là cốt lõi của văn hóa, phát triển văn học nghệ thuật của
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13ATH
SVTT: Nguyễn Thị Quỳnh

Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
các dân tộc . đóng góp vào nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc.
3. Muốn thực hiện có hiệu quả hai điểm trên:
Cần phải có quy hoạch bồi dưỡng, đào tạo, hình thành đội ngũ cán bộ ở vùng
dân tộc thiểu số, sao cho đội ngũ này có phẩm chất đạo đức, năng lực công tác, có
số lượng tỷ lệ thuận với dân số của các dân tộc.
Phải phát huy dân chủ, công khai, minh bạch trong việc thực hiện các ch ương
trình phát triển kinh tế-xã hội ở vùng dân tộc thiểu số để nhân dân biết, giám sát
chặt chẽ việc thực hiện các chủ trương chính sách đó thì chắc chắn sẽ phát huy
được hiệu quả đầu tư của các chương trình dự án.
Phát huy tinh thần tự lực, tự cường của các dân tộc, củng cố tăng cường đoàn
kết các dân tộc xung quanh Đảng Cộng sản Việt Nam, thi đua giúp đỡ nhau cùng
phát triển, chống tư tưởng ỷ lại, nơi nào, bộ phận nào, dân tộc nào trong cộng
đồng mà ỷ lại thì sẽ tụt hậu vì không thể sử dụng có hiệu quả sự đầu tưu hỗ trợ
của Nhà nước và sự giúp đỡ của các dân tộc anh em.
Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự
nghiệp cách mạng. "thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ, giúp nhau cùng phát triển", là sức mạnh để đảm bảo sự phát triển bền
vững, đạt tới mục tiêu chung là : Độc lập, dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội,
dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13ATH
SVTT: Nguyễn Thị Quỳnh
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
PHẦN II. TÔN GIÁO
1. Khái niệm
Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, ra đời và phát triển từ hàng ngàn năm nay.
Quá trình tồn tại và phát triển của tôn giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống
chính trị, văn hoá, xã hội, đến tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục, tập quán của
nhiều dân tộc, quốc gia.

Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Với vị trí địa lý
nằm ở khu vực Đông Nam Á có ba mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận lợi trong
mối giao lưu với các nước trên thế giới và cũng là nơi rất dễ cho việc thâm nhập
các luồng văn hoá, các tôn giáo trên thế giới.
2. Bản chất tôn giáo
- Tôn giáo xuất hiện từ rất lâu và con người mặc nhiên chấp nhận nó. Việc đặt
ra câu hỏi: “Tôn giáo là gì” mới chỉ được giới khoa học đặt ra trong thời gian gần
đây, khi mà vấn đề tôn giáo trở thành bức xúc và phức tạp. Khi câu hỏi này được
đặt ra cũng là lúc mà tôn giáo trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành
khoa học riêng biệt. Đối tượng nghiên cứu của tôn giáo xuất phát từ châu Âu khá
sớm nhưng bộ môn khoa học về tôn giáo chỉ ra đời vào cuối thế kỷ XIX Tôn
giáo là một sản phẩm của lịch sử. Trong các tác phẩm của mình C. Mác đã khẳng
định: “Con người sáng tạo ra tôn giáo chứ tôn giáo không sáng tạo ra con người”.
Tôn giáo là một thực thể khách quan của loài người nhưng lại là một thực thể có
nhiều quan niệm phức tạp về cả nội dung cũng như hình thức biểu hiện. Về mặt
nội dung, nội dung cơ bản của tôn giáo là niềm tin (hay tín ngưỡng) tác động lên
các cá nhân, các cộng đồng. Tôn giáo thường đưa ra các giá trị có tính tuyệt đối
làm mục đích cho con người vươn tới cuộc sống tốt đẹp và nội dung ấy được thể
hiện bằng những nghi thức, những sự kiêng kỵ…- Rất khó có thể đưa ra được
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13ATH
SVTT: Nguyễn Thị Quỳnh
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
một định nghĩa về tôn giáo có thể bao hàm mọi quan niệm của con người về tôn
giáo nhưng có thể thấy rõ rằng khi nói đến tôn giáo là nói đến mối quan hệ giữa
hai thế giới thực và hư, của hai tính thiêng và tục và giữa chúng không có sự tách
bạch. Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”, Ph. Ăng nghen đã có một nhận xét làm
cho chúng ta thấy rõ bản chất của tôn giáo như sau: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng
qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào trong đầu óc của con người – của những lực
lượng bên ngoài chi phối cuộc sống của họ, chỉ là sự phản ánh trong đó những
lực lượng trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế.”.

3. Nguồn gốc tôn giáo
3.1. Nguồn gốc xã hội
Nguồn gốc xã hội của tôn giáo là toàn bộ những nguyên nhân và điều kiện
khách quan của đời sống xã hội tất yếu làm nảy sinh và tái hiện những niềm tin
tôn giáo. Trong đó một số nguyên nhân và điều kiện gắn với mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên, một số khác gắn với mối quan hệ giữa con người với con
người
- Mối quan hệ giữa con người với tự nhiênTôn giáo học mácxít cho rằng sự bất
lực của con người trong cuộc đấu tranh với tự nhiên là một nguồn gốc xã hội của
tôn giáo. Như chúng ta đã biết, mối quan hệ của con người với tự nhiên thực hiện
thông qua những phương tiện và công cụ lao động mà con người có. Những công
cụ và phương tiện càng kém phát triển bao nhiêu thì con người càng yếu đuối
trước giới tự nhiên bấy nhiêu và những lực lượng tự nhiên càng thống trị con
người mạnh bấy nhiêu. Sự bất lực của con người nguyên thủy trong cuộc đấu
tranh với giới tự nhiên là do sự hạn chế, sự yếu kém của các phương tiện tác động
thực tế của họ vào thế giới xung quanh
- Mối quan hệ giữa người và người Nguồn gốc xã hội của tôn giáo còn bao
gồm cả phạm vi các mối quan hệ giữa con người với nhau, nghĩa là bao gồm các
mối quan hệ xã hội, trong đó có hai yếu tố giữ vai trò quyết định là tính tự phát
của sự phát triển xã hội và ách áp bức giai cấp cùng chế độ người bóc lột người.
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13ATH
SVTT: Nguyễn Thị Quỳnh
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
3.2. Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo
Để giải thích nguồn gốc nhận thức của tôn giáo cần phải làm rõ lịch sử nhận
thức và các đặc điểm của quá trình nhận thức dẫn đến việc hình thành quan niệm
tôn giáo.
Trước hết, lịch sử nhận thức của con người là một quá trình từ thấp đến cao,
trong đó giai đoạn thấp là giai đoạn nhận thức tự nhiên cảm tính. Ở giai đoạn
nhận thức này (nhất là đối với cảm giác và tri giác), con người chưa thể sáng tạo

ra tôn giáo, bởi vì tôn giáo với tư cách là ý thức, là niềm tin bao giờ cũng gắn với
cái siêu nhiên, thần thánh, mà nhận thức trực quan cảm tính thì chưa thể tạo ra cái
siêu nhiên thần thánh được. Như vậy, tôn giáo chỉ có thể ra đời khi con người đã
đạt tới một trình độ nhận thức nhất định. Thần thánh, cái siêu nhiên, thế giới bên
kia… là sản phẩm của những biểu tượng, sự trừu tượng hoá, sự khái quát dưới
dạng hư ảo. Nói như vậy có nghĩa là tôn giáo chỉ có thể ra đời ở một trình độ
nhận thức nhất định, đồng thời nó phải gắn với sự tự ý thức của con người về bản
thân mình trong mối quan hệ với thế giới bên ngoài. Nhưng mỗi một hình thức
mới của sự phản ánh không những tạo ra những khả năng mới để nhận thức thế
giới sâu sắc hơn mà còn tạo ra khả năng “xa rời” hiện thực, phản ánh sai lầm nó.
Thực chất nguồn gốc nhận thức của tôn giáo cũng như của mọi ý thức sai lầm
chính là sự tuyệt đối hoá, sự cường điệu mặt chủ thể của nhận thức con người,
biến nó thành cái không còn nội dung khách quan, không còn cơ sở “thế gian”,
nghĩa là cái siêu nhiên thần thánh
3.3. Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo
Ngay từ thời cổ đại, các nhà duy vật đã nghiên cứu đến ảnh hưởng của yếu tố
tâm lý (tâm trạng, xúc cảm) đến sự ra đời của tôn giáo. Họ đã đưa ra luận điểm”
“Sự sợ hãi sinh ra thần thánh”.Các nhà duy vật cận đại đã phát triển tư tưởng của
các nhà duy vật cổ đại - đặc biệt là L.Phơbách – và cho rằng nguồn gốc đó không
chỉ bao gồm những tình cảm tiêu cực (sự lệ thuộc, sợ hãi, không thoả mãn, đau
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13ATH
SVTT: Nguyễn Thị Quỳnh
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
khổ, cô đơn ) mà cả những tình cảm tích cực (niềm vui, sự thoả mãn, tình yêu,
sự kính trọng ), không chỉ tình cảm, mà cả những điều mong muốn, ước vọng,
nhu cầu khắc phục những tình cảm tiêu cực, muốn được đền bù hư ảo.Các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã giải quyết vấn đề nguồn gốc tâm lý của
tôn giáo khác về nguyên tắc so với các nhà duy vật trước đó. Nếu như các nhà
duy vật trước Mác gắn nguyên nhân xuất hiện tôn giáo với sự sợ hãi trước lực
lượng tự nhiên thì chủ nghĩa Mác lần đầu tiên vạch được nguồn gốc xã hội của sự

sợ hãi đó
PHẦN III. CHÍNH SÁCH DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO CỦA
NƯỚC TA HIỆN NAY
1. chính sách dân tộc
Dựa trên quan điểm của Mac_Lênin về vấn đề dân tộc và thực tiễn lịch sử đấu
tranh cách mạng để xây dựng và bảo vệ tổ quốc việt nam cũng như dựa vào tình
hình thế giới trong giai đoạn hiện nay Đảng và nhà nước ta ngay từ khi thành lập
cho đến nay luôn luôn coi vấn đề dân tộc và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
có tầm quan trọng đặ biệt
Trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đảng đã nêu rõ :” vấn đề
dân tộc và đại đoàn kết dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13ATH
SVTT: Nguyễn Thị Quỳnh
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
mạng”. thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp
đỡ lẫn nhau cùng nhau phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát
triển sản xuất hàng hóa, chăm lo đời sống vật chất tinh thần đi đôi với “giữ gìn và
phát huy bản sắc dân tộc. thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế -xã hội ở
miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng :”, kiên
quyết “chống kỳ thị chia rẽ dân tộc, chống tư tưởng lớn, tư tưởng dân tộc hẹp,
dân tộc cực đoan khắc phục tư tưởng tự tị mặc cảm dân tộc
Biểu hiện cụ thể như sau :
Có chính sách phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp
với điều kiện và đặc điểm từng vùng từng dân tộc khai thác thuộc được thế mạnh
của địa phương mình và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng tổ quốc
Tôn trọng lợi ích, truyền thống văn hóa, ngôn ngữ, tập quán tín ngưỡng của
đồng bào các dân tộc, từng bước nâng cao dân trí nhất là các dân tộc thiểu số ở
vùng cao, hải đảo
Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết và đấu tranh kiên cương của các dân
tộc vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp,

nghiêm câm mọi hành vi miệt thị và chia rẽ dân tộc
Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, đồng thời giáo
dục tinh thần kết hợp tác cho cán bộ các dân tộc. bởi vì chỉ tinh thần đó mới phù
hợp với đòi hỏi khách quan của công cuộc phát triển dân tộc và xây dựng đất
nước, trong công cuộc đó , không dân tộc nào có thể chỉ sử dụng đội ngũ cán bộ
xuất thân từ dân tộc, cần sự hỗ trợ lẫn nhau trong cả nước.
Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
đã đề ra chính sách dân tộc là " Đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các
dân tộc, cùng tiến bộ". Chính sách đó đã được thể chế vào Hiến pháp, các luật cơ
bản của Nhà Nước Việt Nam.
Việc thực hiện Chính sách dân tộc đã đạt được một số kết quả như từ chỗ đều
bị áp bức bóc lột đã trở thành người làm chủ đất nước; đã tạo ra cơ sở hạ tầng
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13ATH
SVTT: Nguyễn Thị Quỳnh
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
phục vụ sản xuất và đời sống rộng khắp trên mọi miền của đất nước; từ chỗ tự
cung tự túc đã hình thành một số vùng sản xuất có tính chất hàng hóa với quy mô
ngày càng lớn; sự nghiệp giáo dục, văn hóa, bảo vệ sức khỏe đã được phát triển
rất mạnh so với trước; hệ thống chính trị đã được xây dựng củng cố vững mạnh;
đội ngũ cán bộ và trí thức người dân tộc thiểu số đã được hình thành.
2. Chính sách tôn giáo
Chủ trương, chính sách của Đảng đối với tín ngưỡng, tôn giáo từng bước được
hoàn thiện. Đến đầu thập kỷ 90, trong những năm đầu thực hiện công cuộc đổi
mới, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 24-NQ/TƯ về công tác tôn giáo trong tình
hình mới, ghi dấu son về sự đổi mới đường lối, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo.
Sau gần 10 thực hiện Nghị quyết 24, Đảng ta đã tổng kết, đánh giá những thành
tựu và nêu rõ những khuyết điểm, đồng thời Bộ Chính trị ra Chỉ thị 37-CT/TƯ
ngày 02-7-1998 về công tác tôn giáo trong tình hình mới. Cho đến Nghị quyết
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ bẩy, khoá IX về công tác tôn
giaó (Nghị quyết 25-NQ/TƯ ngày 12-3-2003) quan điểm, chính sách của Đảng

đối với tín ngưỡng, tôn giáo tiếp tục được khẳng định và phát triển thêm một
bước mới phù hợp với sự nghiệp đổi mới của Đảng. Đó là "Tín ngưỡng, tôn giáo
là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực hiện nhất quán chính
sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn
giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật".
Những quan điểm của Đảng ta từ ngày thành lập đến nay chứng minh rằng
Đảng coi quyền tự do tín ngưỡng là một nhu cầu quan trọng của con người, là
một trong những quyền công dân, quyền chính đáng của con người. Vì vậy, Đảng
và Nhà nước ta luôn luôn tôn trọng đức tin của đồng bào theo tín ngưỡng, tôn
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13ATH
SVTT: Nguyễn Thị Quỳnh
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
giáo khác nhau; tôn trọng quyền được theo bất cứ tôn giáo nào cũng như quyền
không theo tôn giáo nào, mong muốn cho người dân theo tôn giáo được "phần
hồn thong dong, phần xác ấm no".
KẾT LUẬN
Thực trạng tình hình dân tộc của nước ta hiện nay là tốt đẹp hơn bao giờ hết,
các dân tộc đang cùng đồng bào cả nước phát triển tiến bộ vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, đồng thời nhà nước ta đang huy động
mọi nguồn lực làm cho miền núi và vùng dân tộc phát triển nhanh hơn, thu hẹp
khoảng cách chênh lệch về mọi mặt giữa vùng đồng bào dân tộc với các vùng
khác. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng: dân tộc là vấn đề chiến lược lớn, là
vấn đề rất dễ nhạy cảm. Hơn nữa, tính chất quan trọng của nó không phải chỉ là
nhất thời mà còn là vấn đề chiến lược lâu dài.
Vấn đề tôn giáo trên thế giới hiện nay đang là một vấn đề nóng, không chỉ
riêng đối với Chủ nghĩa xã hội. Chính vì thế việc giải quyết các vấn đề tôn giáo
cần phải được đặt ra như là một vấn đề cấp thiết, đòi hỏi phải có những phương
pháp giải quyết đúng đắn
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13ATH

SVTT: Nguyễn Thị Quỳnh
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
PHẦN I: DÂN TỘC
I.DÂN TỘC VÀ HAI XU HƯỚNG KHÁCH QUAN CỦA DÂN TỘC
II. ĐẶC ĐIỂM DÂN TỘC
1.Ngôn ngữ dân tộc là 1 giá trị văn hoá đặc biệt
2. Lãnh thổ dân tộc
3. Cơ sở kinh tế của dân tộc
4. Các đặc trưng sinh họat văn hóa và ý thức tự giác dân tộc
PHẦN II. TÔN GIÁO
PHẦN III. CHÍNH SÁCH DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO CỦA NƯỚC TA
HIỆN NAY
1. chính sách dân tộc
2. Chính sách tôn giáo
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lenin
2. báo lao động
3. Cổng thông tin điện tử chinhphu.vn
4. Giáo trình chính trị
5. Tạp chí cộng sản
6. Trang web tailieu.vn
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13ATH
SVTT: Nguyễn Thị Quỳnh

×