Tải bản đầy đủ (.docx) (126 trang)

Kiem toan du an dau tu xay dung cong trinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 126 trang )

ĐATN: Kiểm toán dự án đầu tư xây dựng công trình

GVHD: Phan Thị Hiền

PHẦN I
TỔNG QUAN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN

Vũ Việt Đức – Quản lý xây dựng công trình giao thông K50

1


ĐATN: Kiểm toán dự án đầu tư xây dựng công trình

GVHD: Phan Thị Hiền

CHƯƠNG 1
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KIỂM TOÁN

1.1.

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KIỂM TOÁN THẾ GIỚI

Kiểm toán ra đời vào khoảng thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, gắn liền với nền văn minh
Ai Cập và La Mã cổ đại. Ở thời kỳ đầu, kiểm toán chỉ mới ở mức độ sơ khai, biểu hiện là
những người làm công tác kiểm toán đọc to những số liệu, tài liệu cho một bên độc lập nghe
và sau đó chứng thực. Khi xã hội phát triển xuất hiện của cải dư thừa, hoạt động kế toán ngày
càng được mở rộng và ngày một phức tạp thì việc kiểm tra, kiểm soát về kế toán và tài chính
càng được quan tâm hơn.
Đến thời kỳ cách mạng công nghiệp bùng nổ ở châu Âu, xuất hiện nhiều thành phần kinh tế
kéo theo sự ra đời nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau. Cùng với sự phát triển của thị


trường, sự tích tụ và tập trung tư bản đã làm cho sự phát triển của các doanh nghiệp và các tập
đoàn ngày càng mở rộng. Sự tách rời giữa quyền sở hữu của ông chủ và người quản lý, người
làm công ngày càng xa, đã đặt ra cho các ông chủ một cách thức kiểm soát mới. Phải dựa vào
sự kiểm tra của những người chuyên nghiệp hay những Kiểm toán viên bên ngoài. Việc kiểm
tra đi dần từ việc kiểm tra ghi chép kế toán đến tuân thủ quy định của pháp luật. Mãi đến
những thập niên 80, kiểm toán hoạt động bắt đầu được hình thành và phát triển, nhưng hiện
nay đã trở thành lĩnh vực trung tâm của kiểm toán nói chung, đặc biệt là kiểm toán Nhà nước
và kiểm toán nội bộ.
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, từ việc phá sản của hàng loạt tổ chức tài chính và sự
khủng hoảng kinh tế trên thế giới đã bộc lộ rõ những hạn chế của kiểm tra kế toán, sự kiểm tra
trên cùng một hệ thống. Chính từ đây, việc kiểm tra kế toán buộc phải được chuyển sang một
giai đoạn mới, yêu cầu kiểm tra kế toán một cách độc lập đã được đặt ra.
Ở Hoa Kỳ sau khủng hoảng về tài chính vào những năm 1929, đến năm 1934 Ủy ban bảo
vệ và trao đổi tiền tệ (SEC) đã xây dựng và ban hành quy chế về kiểm toán viên bên ngoài.
Đồng thời, trường đào tạo kế toán viên công chứng của Hoa Kỳ (AICPA) đã in ra mẫu chuẩn
đầu tiên về báo cáo kiểm toán tài khoản của các công ty. Cũng trong giai đoạn này, ở các tổ
chức kinh doanh, các doanh nghiệp đã bắt đầu xuất hiện và phát triển chức năng kiểm tra một
cách độc lập trong nội bộ với tên gọi Kiểm toán nội bộ. Năm 1942 Viện kiểm toán nội bộ Hoa
Vũ Việt Đức – Quản lý xây dựng công trình giao thông K50

2


ĐATN: Kiểm toán dự án đầu tư xây dựng công trình

GVHD: Phan Thị Hiền

Kỳ (IIA) được thành lập và đã đi vào hoạt động đào tạo các kiểm toán viên nội bộ. Đồng thời,
Viện đã xây dựng và ban hành Hệ thống chuẩn mực kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ vào năm 1978.
Tại Pháp, việc kiểm tra một cách độc lập của những người chuyên nghiệp bên ngoài đã

được xác lập và thông qua bởi Đạo luật về các công ty thương mại ngày 24/07/1966. Đồng
thời, kiểm toán nội bộ ở Pháp cũng đã được hình thành chính thức vào những năm 60 thế kỷ
XX ở những công ty con thuộc tập đoàn ngoại quốc. Đến 1965 Hội kiểm toán viên nội bộ của
Pháp được thành lập và sau này phát triển trở thành Viện kiểm toán viên nội bộ của Pháp vào
năm 1973.
Ở giai đoạn đầu, khi mới hình thành, kiểm toán độc lập được biểu hiện thông qua việc cung
cấp dịch vụ kiểm toán của một hoặc một nhóm kiểm toán viên hoặc của một văn phòng kiểm
toán độc lập riêng biệt. Mô hình này đến nay vẫn đang được duy trì và vẫn phát huy hiệu quả
ở một số nước trên thế giới. Tuy nhiên, trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, mô
hình này bộc lộ nhiều hạn chế về khả năng cạnh tranh, nên nó đang dần dần chuyển sang sát
nhập để hình thành các tổ chức, tập đoàn lớn, có đủ tiềm lực về tài chính và sức mạnh để cạnh
tranh trong tương lai và sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu của nền kinh tế thị trường. Điển hình là
các công ty kiểm toán tầm cỡ quốc tế như: KPMG Peat Marwick (Mỹ); Enst and Young (Mỹ);
PricewaterhouseCoopers (Anh) và Deloitte Touche Tohmatsu International (Mỹ). Mỗi công ty
thuộc nhóm Big4 này đều có trên 13.000 nhân viên và đặt văn phòng trên 110 quốc gia.
Ngày nay, Kiểm toán phát triển mạnh mẽ và có mặt ở tất cả các nước trên thế giới. Các
hiệp hội Kiểm toán được thành lập với nhiều hoạt động chuyên môn phong phú, giúp nền kinh
tế, tài chính thế giới vững vàng hơn.
1.2.

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KIỂM TOÁN TẠI VIỆT NAM

Nếu như thuật ngữ kiểm toán và hoạt động nghề nghiệp kiểm toán đã được biết đến và phát
triển từ lâu trên thế giới. Thì tại Việt Nam, kiểm toán mới được chấp nhận từ khi chuyển đổi
cơ chế quản lý, từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường có định hướng của nhà
nước. Trong cơ chế quản lý kinh tế mới, Nhà nước lãnh đạo và quản lý nền kinh tế không phải
bằng biện pháp hành chính mà bằng pháp luật, bằng biện pháp kinh tế, bằng đòn bẩy và công
cụ kinh tế. Kinh tế thị trường cũng đòi hỏi các hoạt động kinh tế - tài chính phải diễn ra một
cách bình đẳng, công khai, minh bạch. Hoạt động kiểm toán hình thành và phát triển trở thành
một nhu cầu tất yếu đối với hoạt động kinh doanh và nâng cao chất lượng quản lý tài chính.

Thừa hưởng được những thành quả trong sự phát triển của ngành nghề kiểm toán trên thế giới,
ngay từ những ngày đầu, cả ba loại hình kiểm toán: Kiểm toán độc lập, Kiểm toán Nhà nước
và Kiểm toán nội bộ đều được chú ý hình thành và phát triển ở Việt Nam.
Vũ Việt Đức – Quản lý xây dựng công trình giao thông K50

3


ĐATN: Kiểm toán dự án đầu tư xây dựng công trình

GVHD: Phan Thị Hiền

Ngày 19/01/1994, Chính phủ ban hành nghị định 07/CP về Quy chế về kiểm toán độc lập
trong nền kinh tế quốc dân. Sau đó, ngày 13/05/1991, Bộ Tài chính đã ký quyết định thành lập
hai công ty Kiểm toán đầu tiên: Công ty Kiểm toán Việt Nam – VACO (nay là công ty
Deloitte Việt Nam) và Công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán Việt Nam –
AASC (nay là công ty TNHH Tư vấn tài chính kế toán và Kiểm toán). Số lượng nhân viên ban
đầu chỉ khoảng 15 người và hầu như chưa có chứng chỉ Kiểm toán viên- là chứng chỉ hành
nghề phải có theo quy định.
Ngày 11/07/1994, Chính phủ ra nghị định 70/CP về việc thành lập Kiểm toán Nhà nước
(KTNN). Sự ra đời và hoạt động của KTNN xuất phát từ yêu cầu khách quan của việc kiểm
tra, kiểm soát chi tiêu công quỹ quốc gia, đảm bảo sử dụng hợp lý, đúng mục đích, tiết kiệm
và có hiệu quả các nguồn lực tài chính của các cơ quan công quyền. KTNN Việt Nam ra đời là
một đòi hỏi tất yếu khách quan của công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Ngày 28/10/1997, tại quyết định 832TC/QĐ/CĐKT Bộ tài chính ban hành Quy chế kiểm
toán nội bộ áp dụng tại doanh nghiệp nhà nước. Kiểm toán nội bộ từ đây từng bước được hình
thành và phát triển.
Trải qua gần 20 năm phát triển, hoạt động kiểm toán ở nước ta đã có sự phát triển mạnh mẽ
cả mặt lượng và chất. Bên cạnh vai trò của KTNN và kiểm toán nội bộ, nhận thức về vai trò

của kiểm toán độc lập ngày càng được khẳng định trong nền kinh tế thị trường Việt Nam. Sau
khi Chính phủ ban hành Nghị định 105/2004/NĐ-CP ngày 30/03/2004 về Kiểm toán độc lập
(được sửa đổi bổ sung bằng Nghị định 133/2005/NĐ-CP ngày 31/10/2005) đã tạo một “luồng
gió mới”, đẩy nhanh quá trình phát triển của ngành kiểm toán Việt Nam. Đặc biệt, ngày
29/03/2011 Luật kiểm toán độc lập đã được Quốc hội thông qua, đây là văn bản pháp luật cao
nhất về kiểm toán độc lập lần đầu tiên được công bố tại Việt Nam, đã nâng cao vị thế của
kiểm toán độc lập, đặt cơ sở pháp lý ổn định, bền vững cho sự phát triển nghề nghiệp kiểm
toán.
Theo số liệu thống kê của “Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam” (VACPA) đến năm
2012, cả nước đã trên 170 doanh nghiệp kiểm toán với trên 10.000 người làm việc tại 226 văn
phòng, chi nhánh. Trong 170 doanh nghiệp kiểm toán có 161 công ty TNHH, 5 doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài, 4 công ty hợp danh, 34 công ty là thành viên Hãng kiểm toán quốc tế,
2.800 người được Bộ Tài chính cấp chứng chỉ Kiểm toán viên, trên 700 Kiểm toán viên
(KTV) đạt trình độ quốc tế.

Vũ Việt Đức – Quản lý xây dựng công trình giao thông K50

4


ĐATN: Kiểm toán dự án đầu tư xây dựng công trình

GVHD: Phan Thị Hiền

CHƯƠNG 2
LÝ LUẬN CHUNG VỂ KIỂM TOÁN
2.1. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT VÀ Ý NGHĨA, CHỨC NĂNG CỦA KIỂM TOÁN
2.1.1. Định nghĩa, bản chất kiểm toán
2.1.1.1. Định nghĩa Kiểm toán


Có nhiều định nghĩa về kiểm toán, nhưng định nghĩa được chấp nhận rộng rãi nhất đó là:
“Kiểm toán là quá trình các kiểm toán viên độc lập và có năng lực tiến hành thu thập và đánh
giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng được của một đơn vị cụ thể, nhằm mục
đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin nảy với các chuẩn mực đã
được thiết lập” Theo Alvin A.Aren và James K.Loebbecker, trong giáo trình "Kiểm toán".

Thông tin định lượng
Các chuyên gia:
Độc lập
Có năng lực

Bằng chứng kiểm toán

Mức độ phù hợp

Báo cáo kiểm toán Người sử dụng thông tin

Chuẩn mực

Quyết định kinh tế

Hình 1: Định nghĩa kiểm toán
Các thuật ngữ trong định nghĩa nêu trên được hiểu như sau:
- Kiểm toán viên độc lập và có năng lực (chủ thể kiểm toán): Năng lực của kiểm toán viên là

trình độ nghiệp vụ được hình thành qua đào tạo và tích lũy kinh nghiệm, giúp cho kiểm
toán viên có khả năng xét đoán công việc trong từng trường hợp cụ thể. Còn tính độc lập
với đơn vị được kiểm toán là yêu cầu cần thiết để duy tri sự khách quan của kiểm toán viên
và tạo được tin cậy của người sử dụng kiểm toán. Tính dộc lập được biểu hiện thông qua
độc lập về chuyên môn, độc lập về quan hệ kinh tế và độc lập về quan hệ xã hội.

• Độc lập về chuyên môn được thể hiện ở chỗ trong các hoạt động kiểm toán, kiểm toán
viên chỉ tuân theo chuẩn mực chuyên môn và luật pháp, không bị chi phối hoặc tác động

Vũ Việt Đức – Quản lý xây dựng công trình giao thông K50

5


ĐATN: Kiểm toán dự án đầu tư xây dựng công trình

GVHD: Phan Thị Hiền

bởi lợi ích vật chất hoặc tinh thần nào làm ảnh hưởng đến tính trung thực, khách quan và
độc lập nghề nghiệp của mình.
• Độc lập về quan hệ kinh tế thể hiện ở chỗ kiểm toán viên không được nhận làm kiểm
toán cho các đơn vị mình, có quan hệ kinh tế hoặc quyền lợi kinh tế. Như góp vốn cổ
phần, cho vay hoặc vay vốn từ khách hàng, hoặc là cổ đông chi phối của khách hàng,
hoặc có ký kết hợp đồng gia công, dịch vụ, đại lý tiêu thụ hàng hoá.
• Độc lập về quan hệ xã hội được thể hiện đó là kiểm toán viên không được nhận làm
kiểm toán ở những đơn vị mà bản thân có quan hệ họ hàng thân thuộc (như bố, mẹ, vợ,
chồng, con cái, anh chị em ruột), với những người trong bộ máy quản lý (Hội đồng quản
trị, Ban Giám đốc, các trưởng, phó phòng và những người tương đương).
- Thu thập và đánh giá các bằng chứng: Để có thể đánh giá và đưa ra ý kiến về các thông tin
cần thẩm định, kiểm toán viên cần phải thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích
hợp. Bằng chứng kiểm toán là tất cả các tài liệu, thông tin do kiểm toán viên thu thập được
có liên quan đến cuộc kiểm toán và dựa trên các thông tin này kiểm toán viên hình thành
nên ý kiến của mình. Thực chất quá trình kiểm toán là quá trình mà kiểm toán viên sử dụng
các phương pháp kỹ thuật kiểm toán để thu thập và đánh giá các bằng chứng kiểm toán.
- Các thông tin có thể định lượng được (đối tượng kiểm toán) Các thông tin có thể định
lượng được của 1 đơn vị bao gồm nhiều dạng khác nhau. Những thông tin này có thể là các

thông tin trong báo cáo tài chính của một đơn vị, hoặc giá trị quyết toán của 1 hợp đồng xây
dựng, hoặc 1 bản kê khai thuế,... Các thông tin định lượng có 2 dạng: Thông tin tài chính có
thể định lượng được, đo lường bằng tiền tệ và các thông tin phi tài chính là các tác nghiệp
và điều hành.
- Các chuẩn mực đã được xây dựng và thiết lập: Các chuẩn mực này là các quy phạm có tính
chất nghề nghiệp, các tiêu chuẩn quy định, nó là cơ sở để đánh giá thông tin. Có 2 loại
chuẩn mực bao gồm các văn bản, các quy định có tính pháp luật và pháp quy của mọi lĩnh
vực và các quy định có tính chất nội bộ của từng đơn vị, loại này có tính chủ quan cao nên
kiểm toán viên cần phải thẩm định lại tính hợp pháp của các quy định nội bộ này. Các
chuẩn mực được thiết lập là cơ sở để đánh giá các thông tin được kiểm tra, chúng thay đổi
tùy theo thông tin được kiểm tra.
- Đơn vị được kiểm toán (khách thể kiểm toán): Một đơn vị được kiểm toán có thể là một tổ
chức pháp nhân độc lập ( Ban quản lý, doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, doanh
nghiệp tư nhân,...) hoặc không có tư cách pháp nhân (một phân xưởng, tổ đội, phòng
ban,...).
- Báo cáo kết quả: Đây là khâu cuối cùng của quá trình kiểm toán. Nội dung và hình thức
của báo cáo kiểm toán cũng khác nhau tùy theo từng thời kỳ. Ngày nay, báo cáo kết quả
kiểm toán thường được thể hiện bằng văn bản và trình bày ý kiến nhận xét của kiểm toán
viên và mối tương quan giữa các thông tin đã thu thập được với các chuẩn mực đã được
xây dựng.
2.1.1.2. Bản chất kiểm toán
Vũ Việt Đức – Quản lý xây dựng công trình giao thông K50

6


ĐATN: Kiểm toán dự án đầu tư xây dựng công trình

GVHD: Phan Thị Hiền


Bản chất của kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập, có nghiệp vụ thu thập và đánh
giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng được của một đơn vị cụ thể. Nhằm mục
đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp, giữa các thông tin này và các chuẩn mực đã
được thiết lập.
2.1.2. Ý nghĩa, chức năng của kiểm toán
2.1.2.1. Ý nghĩa, tác dụng của Kiểm toán

Kiểm toán sinh ra từ yêu cầu của quản lý và phục vụ cho yêu cầu của quản lý. Từ đó có thể
thấy rõ ý nghĩa, tác dụng của kiểm toán trên nhiều mặt:
Thứ nhất: Kiểm toán tạo niềm tin cho “những người quan tâm”. Trong cơ chế thị trường, có
nhiều người quan tâm tới tình hình tài chính và sự phản ánh của nó trong tài liệu kế toán, bao
gồm:
-

Các cơ quan nhà nước.
Các nhà đầu tư.
Các nhà quản trị doanh nghiệp và các nhà quản lý khác.
Người lao động.
Khách hàng, nhà cung cấp và những người quan tâm khác.

Có thể nói việc tạo ra niểm tin cho những người quan tâm là yếu tố quyết định sự ra đời và
phát triển của kiểm toán với tư cách là một hoạt động độc lập.
Thứ hai: Kiểm toán góp phần hướng dẫn nghiệp vụ củng cố nề nếp hoạt động tài chính, kế
toán nói riêng và hoạt động của quản lý nói chung. Hoạt động tài chính bao gồm nhiều mối
quan hệ về đầu tư, về kinh doanh, về phân phối, về thanh toán. Thông tin kế toán là sự phản
ánh của hoạt động tài chính. Ngoài việc chứa đựng phức tạp các mối quan hệ tài chính, thông
tin kế toán còn là sản phẩm của quá trình xử lý thông tin bằng phương pháp kỹ thuật đặc thù.
Do đó, nhu cầu hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nề nếp trong quản lý tài chính càng có đòi
hỏi thường xuyên và ngày càng ở mức độ cao hơn.
Thứ ba: Kiểm toán góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý. Kiểm toán không chỉ

xác minh rõ độ tin cậy của thông tin mà còn tư vấn về quản lý. Vai trò tư vấn này được thấy rõ
trong kiểm toán hiệu năng và hiệu quả quản lý.
2.1.2.2. Chức năng của Kiểm toán
 Chức năng xác minh

Vũ Việt Đức – Quản lý xây dựng công trình giao thông K50

7


ĐATN: Kiểm toán dự án đầu tư xây dựng công trình

GVHD: Phan Thị Hiền

Chức năng xác minh nhằm khẳng định mức độ trung thực của tài liệu, tính pháp lí của việc
thực hiện các nghiệp vụ hay việc lập các báo cáo tài chính. Xác minh là chức năng cơ bản nhất
gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của hoạt động kiểm toán. Bản thân chức năng này
không ngừng phát triển và được thể hiện khác nhau tuỳ đối tượng cụ thể của kiểm toán. Đối
với kiểm toán báo cáo tài chính, việc xác minh được thực hiện theo 2 mặt:
- Tính trung thực của các con số.
- Tính hợp thức của các biểu mẫu phản ánh tình hình tài chính.

Đối với các thông tin đã được lượng hoá: Thông thường, việc xác minh được thực hiện
trước hết qua hệ thống kiểm soát nội bộ. Kết quả cuối cùng khi đã xác minh được điều chỉnh
trực tiếp để có hệ thống thông tin tin cậy và lập các bảng khai tài chính. Theo đó, kiểm toán
trước hết là xác minh thông tin.
Đối với các nghiệp vụ (hoạt động), chức năng xác minh của kiểm toán có thể được thực
hiện bởi hệ thống ngoại kiểm hay nội kiểm. Sản phẩm của hoạt động xác minh này thường là
những biên bản. Ở lĩnh vực này, kiểm toán hướng vào việc thực hiện chức năng thứ hai là bày
tỏ ý kiến.

 Chức năng bày tỏ ý kiến

Bày tỏ ý kiến là đưa ra ý kiến nhận xét của kiểm toán viên về tính trung thực, mức độ hợp
lý của các thông tin tài chính kế toán. Chức năng bày tỏ ý kiến có thể được hiểu rộng với ý
nghĩa cả kết luận về chất lượng thông tin và cả pháp lý, tư vấn qua xác minh:
- Tư vấn cho quản lý nhà nước trong việc phát hiện bất cập của chế độ tài chính, kế toán, qua

đó kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước xem xét, nghiên cứu hoàn thiện cho phù
hợp.
- Tư vấn cho việc quản lý của các đơn vị được kiểm toán. Thông qua việc chỉ ra những sai sót,
yếu kém của hệ thống kiểm soát nội bộ, công tác quản lý tài chính, kiểm toán viên gợi mở,
đề xuất các biện pháp khắc phục hoàn thiện đối với đơn vị. Trong nhiều trường hợp, thông
qua kiểm toán, các tổ chức đơn vị doanh nghiệp đã kịp thời chấn chỉnh hệ thống kiểm soát
nội bộ, chế độ quản lý tài chính ở đơn vị mình. Qua đó khai thác có hiệu quả hơn năng lực
tài chính phát triển đơn vị.
2.2. CÁC KHÁI NIỆM CHÍNH CỦA KIỂM TOÁN
2.2.1. Cơ sở dẫn liệu
Cơ sở dẫn liệu: Là những giải trình của nhà quản lý doanh nghiệp về những khoản mục trên
báo cáo tài chính hay báo cáo quyết toán vốn. Những cơ sở dẫn liệu xuất phát từ các nguyên
Vũ Việt Đức – Quản lý xây dựng công trình giao thông K50

8


ĐATN: Kiểm toán dự án đầu tư xây dựng công trình

GVHD: Phan Thị Hiền

tắc kế toán đối với ghi chép và báo cáo số liệu trên báo cáo tài chính. Có 3 yêu cầu với cơ sở
dẫn liệu:

- Tính có thật: Đảm bảo tài sản, công nợ, vốn chủ sở hữu phản ánh trên báo cáo là thật sự tồn

tại, các nghiệp vụ được ghi chép là thực sự xảy ra, tài sản trên bản cân đối kế toán là thuộc
sở hữu của doanh nghiệp, các khoản công nợ phải thực sự tồn tại và nghĩa vụ phải thanh
toán.
- Đã tính toán và đánh giá: Thể hiện các nghiệp vụ được ghi chép đúng số lượng, số tiền, tài
sản, nợ phải trả, vốn chủ sở hữu, thu nhập và chi phí phải được đánh giá đúng nguyên tắc
kế toán.
- Đã ghi chép và cộng dồn: Đảm bảo mọi nghiệp vụ được ghi chép đầy đủ, số dư được xác
định trên cơ sở số liệu các nghiệp vụ đã được ghi chép. Đảm bảo doanh thu và chi phí được
xác định đúng kỳ.Kiểm toán viên phải đánh giá về cơ sở dẫn liệu để từ đó lập kế hoạch
kiểm toán.
- Hệ thống kiểm soát nội bộ (HTKSNB): HTKSNB của đơn vị là toàn bộ các chính sách, các
bước kiểm soát, thủ tục kiểm soát được thiết lập tại đơn vị nhằm quản lý và điều hành hoạt
động của đơn vị nhằm mục đích: Điều khiển, kinh doanh có hiệu quả. Các quyết định và
chế độ quản lý thực hiện đúng quy trình, ngăn chặn và phát hiện các sai phạm và gian lận,
bảo vệ tài sản tránh thất thoát, lãng phí.
2.2.2. Gian lận và sai sót
Theo chuẩn mực 240 trong Hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam ban hành theo Quyết
định số143/2001/QĐ-BTC ngày 21 tháng 12 năm 2001 của Bộ trưởng Bộ Tài chính:
Gian lận: Là hành vi có chủ ý lừa dối, có liên quan đến việc tham ô, biển thủ tài sản hoặc là
xuyên tạc các thông tin và che dấu tài sản. Biểu hiện của gian lận: Xử lý chứng từ theo ý chủ
quan, sử đổi, làm giả chứng từ, tài liệu; Che dấu thông tin, tài liệu, nghiệp vụ; Ghi chép nghiệp
vụ không có thật; Áp dụng sai nguyên tắc kế toán.
Sai sót: Là những nhầm lẫn, không mang tính cố ý, có ảnh hưởng đến báo cáo tài chính,
biểu hiện như: Lỗi số học, ghi chép sai, hiểu sai nghiệp vụ, áp dụng sai nguyên tắc kế toán.
Các nhân tố ảnh hưởng đến gian lận và sai sót:
- Tính chính trực, năng lực, trình độ của nhân viên, nhà quản lý.
- Các sức ép trong đơn vị.
- Yếu kém của HTKSNB.

- Phát sinh các nghiệp vụ bất thường.
2.2.3. Trọng yếu và rủi ro

Vũ Việt Đức – Quản lý xây dựng công trình giao thông K50

9


ĐATN: Kiểm toán dự án đầu tư xây dựng công trình

GVHD: Phan Thị Hiền

Theo chuẩn mực số 320 trong Hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam Ban hành theo
Quyết định số 28/2003/QĐ-BTC ngày 14 tháng 3 năm 2003 của Bộ trởng Bộ Tài chính:
2.2.3.1. Trọng yếu

Trọng yếu: Là khái niệm về tầm cỡ, bản chất của sai phạm kể cả bỏ sót các thông tin tài
chính, hoặc là riêng lẻ, hoặc là từng nhóm, khi mà trong một bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các
thông tin này để xét đoán thì sẽ không chính xác hoặc sẽ đi đến những kết luận sai lầm.
Mức trọng yếu là một mức giá trị do KTV xác định tùy thuộc vào tầm quan trọng và tính
chất của thông tin hay sai sót được đánh giá trong từng hoàn cảnh cụ thể. Mức trọng yếu là
một ngưỡng, một điểm chia cắt chứ không phải là nội dung của thông tin cần phải có. Tính
trọng yếu của thông tin phải được xem xét cả trên phương diện định lượng và định tính.
KTV vận dụng tính trọng yếu như sau:
- Ước lượng sơ bộ về mức trọng yếu.
- Phân bổ tính trọng yếu cho từng bộ phận.
- Ước tính sai sót kết hợp trên BCTC.

Về bản chất, khái niệm trọng yếu gắn với tính hệ trọng của vấn đề xem xét. Một yếu tố định
tính quan trọng cần xem xét đó là bản chất của khoản mục hoặc vấn đề đánh giá. Có những sai

phạm không phân biệt về độ lớn nhưng vẫn coi là quan trọng để xét đoán tính trọng yếu, thậm
chí được coi là trọng yếu như:
- Các sai phạm có liên quan đến luật pháp, chính sách, chế độ cà những quy định có tính

nguyên tắc.
- Sai phạm có liên quan đến tính trung thực của nhà quản lý cấp cao.
- Sai phạm có tính chất gây hậu quả dây chuyền.
2.2.3.2. Rủi ro
 Khái niệm rủi ro

Rủi ro kiểm toán được hiểu là những rủi ro mà KTV có thể mắc phải, khi đưa ra các ý kiến
nhận xét không thích hợp về đối tượng kiểm toán. Khi lập kế hoạch kiểm toán cho một hợp
đồng cụ thể, KTV phải dự kiến các trường hợp rủi ro và những trình tự, thủ tục kiểm toán
nhằm phát hiện những sai phạm nghiêm trọng, mà nguồn gốc của nó là các gian lận và sai sót.
KTV phải lập kế hoạch kiểm toán và thực hiện công việc kiểm toán với thái độ thận trọng
nghề nghiệp để rủi ro kiểm toán, nếu có xảy ra, thì ở mức độ thấp nhất.

Vũ Việt Đức – Quản lý xây dựng công trình giao thông K50

10


ĐATN: Kiểm toán dự án đầu tư xây dựng công trình

GVHD: Phan Thị Hiền

Mức độ rủi ro kiểm toán cao hay thấp quyết định khối lượng công việc kiểm toán phải tiến
hành. Vì vậy, cần phải phân loại rủi ro đến công việc kiểm toán cần phải thực hiện, cũng như
đến các trình tự và thủ tục kiểm toán thích hợp để thực hiện kế hoạch kiểm toán.



Phân loại rủi ro

Rủi ro tiềm tàng: Là khả năng trong BCTC có những sai sót nghiêm trọng hay những điều
không bình thường. Trước khi xem xét tính hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ, KTV phải
thu thập các thông tin sau để đánh giá rủi ro tiềm tàng của doanh nghiệp:
- Bản chất kinh doanh của đơn vị.
- Nhân tố ảnh hưởng đến ngành nghề của doanh nghiệp.
- Bản chất của bộ phận, khoản mục trên BCTC, báo cáo quyết toán vốn.

Rủi ro kiểm soát: Là các khả năng mà hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị không phát
hiện và ngăn chặn các gian lận và sai sót. KTV phải tìm hiểu đầy đủ về hệ thống kiểm soát nội
bộ của doanh nghiệp, để đánh giá mức độ rủi ro kiểm soát và có phương pháp kiểm toán phù
hợp.
Rủi ro phát hiện: Là khả năng mà các bước kiểm toán không phát hiện được các sai sót và
gian lận nghiêm trọng hiện có trong số dư tài khoản hoặc các loại nghiệp vụ.
Rủi ro kiểm toán: Nếu trong BCTC còn tồn tại những sai sót và gian lận nghiêm trọng mà
kiểm toán viên không phát hiện ra, do đó đưa ra nhận xét không thích hợp về BCTC, lúc đó sẽ
có rủi ro kiểm toán.
 Mối quan hệ các loại rủi ro trong kiểm toán

Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát nằm ngày trong chức năng hoạt động kinh doanh, môi
trường quản lý, cũng như trong bản chất các số dư tài khoản hay nghiệp vụ.
Nếu KTV đánh giá tốt rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát thì hạn chế tối đa được rủi ro
phát hiện và từ đó giảm bớt rủi ro kiểm toán.
2.2.3.3. Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro

Trọng yếu & Rủi ro kiểm toán có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, đó là mối quan hệ t ỷ lệ
nghịch. Mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán càng thấp và ngược lại. Nếu mức trọng
yếu có thể chấp nhận tăng lên thì rủi ro kiểm toán sẽ giảm xuống, vì khi đó giá trị sai sót có

thể bỏ qua tăng lên thì khả năng xảy ra sai sót đó sẽ giảm xuống và ngược lại. Mối quan hệ
Vũ Việt Đức – Quản lý xây dựng công trình giao thông K50

11


ĐATN: Kiểm toán dự án đầu tư xây dựng công trình

GVHD: Phan Thị Hiền

này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục
kiểm toán sẽ áp dụng. KTV phải phân tích rõ mối quan hệ này trong từng cuộc kiểm toán để
có phương pháp kiểm toán hiệu quả.
2.2.4. Bằng chứng kiểm toán

Theo chuẩn mực số 500 trong Hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam Ban hành theo
Quyết định số 219/2000/QĐ-BTC ngày 29 tháng 12 năm 2000 của Bộ trưởng Bộ Tài chính:
Bằng chứng kiểm toán là tất cả các tài liệu, thông tin do kiểm toán viên thu thập được liên
quan đến cuộc kiểm toán và dựa trên các tài liệu, thông tin này, kiểm toán viên đưa ra kết luận
và từ đó hình thành ý kiến kiểm toán. Bằng chứng kiểm toán bao gồm những tài liệu, thông tin
chứa đựng trong các tài liệu, sổ kế toán, kể cả báo cáo tài chính và những tài liệu, thông tin
khác.
Như vậy, không phải tất cả các thông tin tài liệu mà kiểm toán viên thu thập được trong
quá trình kiểm toán tại đơn vị đều là các bằng chứng kiểm toán, mà chỉ các tài liệu và thông
tin mà KTV thu thập được có liên quan đến cuộc kiểm toán, được KTV sử dụng làm cơ sở để
đưa ra các nhận xét của mình về đối tượng của cuộc kiểm toán mới là các bằng chứng kiểm
toán.
 Yêu cầu: Bằng chứng kiểm toán có hai yêu cầu

Tính thích hợp: là yêu cầu về chất lượng của bằng chứng kiểm toán thu thập được. Bằng

chứng kiểm toán thích hợp phải giúp KTV đạt được mục tiêu kiểm toán và đưa ra ý kiến kiểm
toán phù hợp. Như vậy, bằng chứng kiểm toán là thích hợp khi nó đáng tin cậy có liên quan
đến mục tiêu kiểm toán. Tính đáng tin cậy của bằng chứng kiểm toán chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố như nguồn gốc, hình thức của bằng chứng kiểm toán và từng trường hợp cụ thể.
Tính đầy đủ: là yêu cầu về số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập phải đủ để đưa ra
kết luận kiểm toán. Tất nhiên, yêu cầu đầy đủ không đặt ra một số lượng cụ thể mà đòi hỏi sự
xét đoán nghề nghiệp của KTV, trong mối quan hệ với các nhân tố quyết định số lượng bằng
chứng kiểm toán. Khi thu thập số lượng bằng chứng, KTV cần lưu ý: Bộ phận nào trọng yếu
thì phải thu thập nhiều bằng chứng, bộ phận nào có nhiều rủi ro tiềm tàng và kiểm soát thì thu
thập bằng chứng nhiều hơn.
 Các phương pháp thu thập bằng chứng:
- Đối chiếu giữa sổ sách và thực tế
- Xem xét việc thực hiện HTKSNB
- Phỏng vấn

Vũ Việt Đức – Quản lý xây dựng công trình giao thông K50

12


ĐATN: Kiểm toán dự án đầu tư xây dựng công trình

GVHD: Phan Thị Hiền

- Thực hiện xác nhận, tính toán
- Phân tích mối quan hệ tài chính
- Ý kiến chuyên gia
2.2.5. Hoạt động liên tục

Theo chuẩn mực số 570 trong Hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam Ban hành theo

Quyết định số 195/2003/QĐ-BTC ngày 28 tháng 11 năm 2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính:
Một đơn vị được coi là hoạt động liên tục trong một tương lai gần có thể dự đoán được (ít
nhất là một năm kể từ ngày kết thúc niên độ kế toán) khi không có ý định hoặc yêu cầu phải
giải thể, ngừng hoạt động hoặc thu hẹp đáng kể quy mô hoạt động, tìm kiếm sự bảo hộ từ các
chủ nợ theo pháp luật và các quy định hiện hành.
Báo cáo tài chính phải được lập trên cơ sở giả định là doanh nghiệp đang hoạt động liên tục
và sẽ tiếp tục hoạt động kinh doanh bình thường trong tương lai gần. Nghĩa là doanh nghiệp
không có ý định cũng như không buộc phải ngừng hoạt động hoặc thu hẹp đáng kể quy mô
hoạt động của mình.
Hoạt động liên tục là một giả định quan trọng khi tiến hành kiểm toán BCTC nói riêng và
kiểm toán hoạt động của doanh nghiệp nói chung. Với các cuộc kiểm toán khác, như kiểm
toán dự án đầu tư xây dựng, kiểm toán báo cáo quyết toán vốn, chu kỳ sản xuất kinh doanh
trong lĩnh vực này không mang tính lặp lại. Do vậy, trong kiểm toán báo cáo quyết toán vốn
không đề cập đến khái niệm doanh nghiệp hoạt động liên tục.
2.2.6. Chuẩn mực kiêm toán

Theo giáo trình Lý thuyết kiểm toán của TS. Lê Văn Luyện chủ nhiệm khoa Kế toán - Kiểm
toán Trường Học Viện Tài Chính:
Chuẩn mực kiểm toán là những nguyên tắc cơ bản về nghiệp vụ và về việc xử lý các mối
quan hệ phát sinh trong quá trình kiểm toán. Hiểu theo nghĩa rộng, chuẩn mực kiểm toán bao
gồm cả những hướng dẫn, những giải thích về các nguyên tắc cơ bản để các kiểm toán viên có
thể áp dụng trong thực tế, để đo lường và đánh giá chất lượng công việc kiểm toán.
2.2.7. Báo cáo kiểm toán

Theo giáo trình Lý thuyết kiểm toán của TS. Lê Văn Luyện chủ nhiệm khoa Kế toán - Kiểm
toán Trường Học Viện Tài Chính:

Vũ Việt Đức – Quản lý xây dựng công trình giao thông K50

13



ĐATN: Kiểm toán dự án đầu tư xây dựng công trình

GVHD: Phan Thị Hiền

Báo cáo kiểm toán là văn bản do KTV lập và công bố thể hiện ý kiến chính thức của mình
về vấn đề kiểm toán, báo cáo kiểm toán là sản phẩm cuối cùng của công việc kiểm toán.
Các yếu tố cơ bản của báo cáo kiểm toán gồm: Đối tượng của kiểm toán; chuẩn mực để
đánh giá; chuẩn mực kiểm toán; các giới hạn về phạm vi và ý kiến của KTV.
 Có 4 loại báo cáo kiểm toán được kiểm toán viên phát hành:
- Báo cáo nêu ý kiến chấp nhận toàn phần.
- Báo cáo nêu ý kiến chấp nhận từng phần (bị giới hạn về phạm vi hay bất đồng ý kiến).
- Báo cáo nêu ý kiến không chấp nhận.
- Báo cáo nêu ý kiến từ chối nhận xét.
2.2.8. Hồ sơ kiểm toán

Theo chuẩn mực số 230 trong Hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam Ban hành theo
Quyết định số120/1999/QĐ-BTC ngày 27 tháng 9 năm 1999 của Bộ trưởng Bộ Tài chính:
Hồ sơ kiểm toán là các tài liệu do KTV lập, thu thập, phân loại, sử dụng và lưu trữ. Tài liệu
trong hồ sơ kiểm toán được thể hiện trên giấy, trên phim, ảnh, trên phương tiện tin học hay bất
kỳ phương tiện lưu trữ nào khác theo quy định của pháp luật.
 Hồ sơ kiểm toán dùng để:
- Lưu trữ những bằng chứng thu được trong quá trình thực hiện kiểm toán và làm cơ sở cho

việc đưa ra ý kiến của KTV.
- Trợ giúp cho việc kiểm tra, soát xét và đánh giá chất lượng công việc kiểm toán.
- Trợ giúp cho việc xử lý các phát sinh sau cuộc kiểm toán.
 Yêu cầu đối với hồ sơ kiểm toán:
- Phải có đề mục rõ ràng, ghi tên đơn vị được kiểm toán, đối tượng kiểm toán, kỳ kiểm toán.

- Phải có đầy đủ chữ ký của KTV.
- Phải được chú thích rõ nguồn gốc dữ liệu.
- Phải đầy đủ, chính xác, thích hợp.
- Trình bày, sắp xếp rõ ràng dễ hiểu, khoa học.
2.3. PHÂN LOẠI KIỂM TOÁN

Vũ Việt Đức – Quản lý xây dựng công trình giao thông K50

14


ĐATN: Kiểm toán dự án đầu tư xây dựng công trình

GVHD: Phan Thị Hiền

Phân loại kiểm toán

Theo mục đích (đối tượng)

Theo chủ thể tiến hành

Theo lĩnh vực kiểm toán

Kiểm toán hoạt động

Kiểm toán nội bộ

Kiểm toán thông tin

Kiểm toán tuân thủ


Kiểm toán nhà nước

Kiểm toán quy tắc

Kiểm toán BCTC

Kiểm toán độc lập

Kiểm toán hiệu quả

Kiểm toán dự án

Phân loại khác

Kiểm toán hiệu năng

Hình 2: Phân loại kiểm toán
2.3.1. Theo mục đích (đối tượng) cuộc kiểm toán

2.3.1.1. Kiểm toán hoạt động
Là việc kiểm tra và đánh giá về sự hữu hiệu và tính hiệu quả đối với hoạt động của một bộ
phận, một dự án, phương án, một quy trình, từ đó có những đề xuất về biện pháp cải tiến.
Đối tượng của cuộc kiểm toán này rất đa dạng, nên nó không có chuẩn mực chung để đánh
giá. Các chuẩn mực đó có thể là mục đích yêu cầu khi đưa phương án, một dự án, một quy
trình đi vào hoạt động. Kết quả kiểm toán phục vụ cho bản thân đơn vị được kiểm toán.
2.3.1.2. Kiểm toán tuân thủ

Vũ Việt Đức – Quản lý xây dựng công trình giao thông K50


15


ĐATN: Kiểm toán dự án đầu tư xây dựng công trình

GVHD: Phan Thị Hiền

Là việc kiểm tra nhằm đánh giá mức độ chấp hành một quy định nào đó của đơn vị được
kiểm toán. Chuẩn mực được sử dụng để đánh giá có thể là các văn bản pháp lý, các luật
thuế….Kết quả cuộc kiểm toán phục vụ cho sự quản lý của các cấp có thẩm quyền.
2.3.1.3. Kiểm toán báo cáo tài chính
Là việc kiểm tra và đưa ra ý kiến về sự trình bày trung thực và hợp lý của BCTC của một
đơn vị. Do việc lập BCTC bắt buộc phải tuân thủ các chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán
hiện hành, nên chuẩn mực dùng để đánh giá trong cuộc kiểm toán là các chuẩn mực kế toán và
chế độ kế toán hiện hành.
Kết quả cuộc kiểm toán phục vụ cho đơn vị, cho nhà nước các cổ đông, nhà đầu tư, ngân
hàng.
2.3.1.4. Kiểm toán dự án
Là việc kiểm tra kỹ càng hoạt động quản lý của một dự án, phương pháp luận và các thủ
tục, các tài liệu lưu trữ, các tài sản, ngân sách và chi tiêu, và mức độ hoàn thiện của dự án đó.
Nó có thể xem xét tổng thể toàn bộ dự án, hoặc chỉ một phần của dự án.
2.3.2. Theo chủ thể tiến hành cuộc kiểm toán
2.3.2.1. Kiểm toán nội bộ

Kiểm toán nội bộ là loại kiểm toán do các nhân viên nội bộ của đơn vị tiến hành. Kiểm toán
nội bộ chủ yếu để đánh giá về việc thực hiện các quy chế nội bộ, kiểm tra tính hữu hiệu của
HTKSNB và việc thực thi công tác kế toán, tài chính.
Mô hình tổ chức của kiểm toán nội bộ có thể là các giám định viên kế toán hoặc bộ phận
kiểm toán nội bộ trong đơn vị. Thông thường, kiểm toán nội bộ có thể đảm trách những công
việc như: Kiểm tra về thiết kế và vận hành của HTKSNB để có kiến nghị hoàn chỉnh; Kiểm tra

thông tin hoạt động và thông tin tài chính; Kiểm tra tính hiệu quả của một hoạt động; Kiểm tra
tính tuân thủ pháp luật và quy định nội bộ.
Phạm vi và mục đích của kiểm toán nội bộ rất linh hoạt tuỳ thuộc yêu cầu quản lý, điểu
hành của Ban lãnh đạo đơn vị. Báo cáo kiểm toán nội bộ chủ yếu phục vụ doanh nghiệp, ít có
giá trị pháp lý.
2.3.2.2. Kiểm toán Nhà nước

Vũ Việt Đức – Quản lý xây dựng công trình giao thông K50

16


ĐATN: Kiểm toán dự án đầu tư xây dựng công trình

GVHD: Phan Thị Hiền

Kiểm toán Nhà nước là hệ thống bộ máy chuyên môn của Nhà nước, thực hiện chức năng
kiểm toán đối với các đơn vị, tổ chức có sử dụng Ngân sách Nhà nước, tài sản công.Khách thể
kiểm toán là tất cả các hoạt động có liên quan đến việc quản lý và sử dụng ngân sách nhà
nước, lĩnh vực kiểm toán chủ yếu là kiểm toán tuân thủ và kiểm toán tài chính.
Cơ sở pháp lý của cuộc kiểm toán là hệ thống chuẩn mực kiểm toán Nhà nước và luật kiểm
toán Nhà nước. Các cuộc kiểm toán được thực hiện theo lệnh kiểm toán, căn cứ trên kế hoạch
và không thu phí nhằm phục vụ mục đích quản lý của Nhà nước, do vậy tính chất pháp lý của
cuộc kiểm toán là rất cao.
Kiểm toán Nhà nước chủ yếu thực hiện thực hiện chức năng kiểm toán tuân thủ, xác nhận
tính đúng đắn, hợp pháp của tài liệu và số liệu kiểm toán, báo cáo quyết toán của các cơ quan
nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế nhà nước và các đoàn thể quần chúng, các tổ
chức xã hội sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước cấp.
Tại Việt Nam: Kiểm toán Nhà nước Việt Nam là một cơ quan nhà nước có chức năng kiểm
toán tài sản công, kiểm tra chi tiêu, đánh giá các báo cáo tài chính các cơ quan thuộc chính

phủ, giúp tài chính nhà nước minh bạch, hạn chế tham nhũng.
Kiểm toán Nhà nước Việt Nam chính thức thành lập 11/07/1994 theo nghị định 70/CP của
Chính phủ Việt Nam, chức danh Tổng kiểm toán nhà nước tương đương với Bộ trưởng do Thủ
tướng bổ nhiệm và quốc hội phê chuẩn.
Các đơn vị kiểm toán nhà nước chuyên ngành hiện nay tại Việt Nam:
1.Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành Ia (lĩnh vực quốc phòng)
2.Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành Ib (lĩnh vực an ninh, tài chính đảng)
3.Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành II (lĩnh vực ngân sách TW của bộ, ngành kinh tế
tổng hợp)
4.Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành III (lĩnh vực ngân sách TW của bộ, ngành, cơ quan
thuộc Chính phủ)
5.Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành IV (lĩnh vực đầu tư xây dựng, dự án hạ tầng cơ
sở)
6.Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành IV (lĩnh vực đầu tư, dự án công nghiệp, dân dụng)
7.Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành VI(Các tập đoàn, Tổng công ty NN)
8.Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành VII (Ngân hàng, các tổ chức tài chính)
2.3.2.3. Kiểm toán độc lập
Kiểm toán độc lập là loại kiểm toán được tiến hành bởi các KTV độc lập thuộc các công ty,
các văn phòng kiểm toán chuyên nghiệp. Kiểm toán độc lập là loại hình hoạt động dịch vụ có
Vũ Việt Đức – Quản lý xây dựng công trình giao thông K50

17


ĐATN: Kiểm toán dự án đầu tư xây dựng công trình

GVHD: Phan Thị Hiền

thu phí, được pháp luật thừa nhận và bảo hộ, được quản lý chặt chẽ bởi các hiệp hội chuyên
ngành về kiểm toán. Kiểm toán độc lập chỉ được thực hiện khi có yêu cầu của các đơn vị

thông qua việc ký kết hợp đồng kinh tế.
Hoạt động kiểm toán độc lập là nhu cầu cần thiết, trước hết vì lợi ích của bản thân doanh
nghiệp, của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, lợi ích của chủ sở hữu vốn, các chủ nợ, lợi ích
và yêu cầu của Nhà nước. Người sử dụng kết quả kiểm toán phải được đảm bảo rằng những
thông tin họ được cung cấp là trung thực, khách quan, có độ tin cậy cao để làm căn cứ cho các
quyết định kinh tế hoặc thực thi trách nhiệm quản lý và giám sát của mình.
Điều 2 của Nghị định số 105/2004/NĐ-CP ngày 30/3/2004 của Chính phủ quy định “Kiểm
toán độc lập là việc kiểm tra và xác nhận của kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán về
tính trung thực và hợp lý của các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo tài chính của các doanh
nghiệp, tổ chức (gọi chung là đơn vị được kiểm toán) khi có yêu cầu của các đơn vị này”.
2.3.3. Theo lĩnh vực kiểm toán
 Kiểm toán thông tin

Kiểm toán thông tin: hướng vào việc đánh giá tính trung thực và hợp pháp của các tài liệu
làm cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các mối quan hệ kinh tế, tạo niềm tin cho những người
quan tâm đến tài liệu kế toán.
 Kiểm toán quy tắc

Kiểm toán quy tắc: hướng vào việc đánh giá tình hình thực hiện các thể lệ, chế độ, luật
pháp của đơn vị được kiểm toán trong quá trình hoạt động.
 Kiểm toán hiệu quả

Kiểm toán hiệu quả: hướng vào mối quan hệ giữa một bên là các sản phẩm dịch vụ làm ra
với một bên là các nguồn lực đã tạo ra chúng với yêu cầu có kết quả tối đa và chi phí về nguồn
lực tối thiểu.
 Kiểm toán hiệu năng

Kiểm toán hiệu năng: hướng vào mối quan hệ giữa mục tiêu và kết cụ thể của một chương
trình.
2.3.4. Một số cách phân loại khác


Vũ Việt Đức – Quản lý xây dựng công trình giao thông K50

18


ĐATN: Kiểm toán dự án đầu tư xây dựng công trình

GVHD: Phan Thị Hiền

Ngoài ba cách phân loại phổ biến nêu trên, kiểm toán còn có thể được phân loại theo các
tiêu thức khác nhau, như sau:
- Phân loại kiểm toán theo phương pháp áp dụng trong kiểm toán, có thể phân kiểm toán

thành kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ.
- Phân loại kiểm toán theo phạm vi tiến hành kiểm toán, kiểm toán bao gồm kiểm toán toàn

diện và kiểm toán chọn điểm.
- Phân loại kiểm toán theo mối quan hệ giữa chủ thể với khách thể kiểm toán, kiểm toán

được chia thành nội kiểm và ngoại kiểm.
- Phân loại kiểm toán theo quan hệ pháp lý của kiểm toán, kiểm toán được phân thành kiểm

toán bắt buộc và kiểm toán tự nguyện.
- Phân loại kiểm toán theo chu kỳ của kiểm toán, có thể phân kiểm toán thành kiểm toán thường
2.4.

kỳ, kiểm toán định kỳ và kiểm toán bất thường.
PHƯƠNG PHÁP KIỂM TOÁN
Phương pháp kiểm toán là một trường hợp vận dụng của phương pháp khoa học. Phương

pháp kiểm toán là các biện pháp, cách thức, thủ tục, thủ pháp được sử dụng trong công tác
kiểm toán nhằm thực hiện mục tiêu kiểm toán đã đặt ra.
Theo quan điểm của kiểm toán hiện đại thì có hai phương pháp kiểm toán bao gồm:
 Phương pháp kiểm toán hệ thống
 Phương pháp kiểm toán cơ bản.
2.4.1. Phương pháp kiểm toán hệ thống
2.4.1.1. Khái niệm

Là phương pháp kiểm toán trong đó các kiểm toán viên tiếp cận HTKSNB để xây dựng các
thủ tục kiểm toán.
Thực chất, phương pháp này là tìm hiểu đánh giá HTKSNB của đơn vị, thu thập bằng
chứng về tính thích hợp và hiệu quả của HTKSNB để khoanh vùng rủi ro, xác định trọng tâm,
phương hướng kiểm toán.
Sau khi nghiên cứu HTKSNB, KTV phải trả lời được câu hỏi “Liệu công việc kiểm toán
tiếp theo có thể dựa vào hệ thống kiểm soát nội bộ hay không? Mức độ thoả mãn về kiểm soát
trong từng trường hợp cụ thể?

Vũ Việt Đức – Quản lý xây dựng công trình giao thông K50

19


ĐATN: Kiểm toán dự án đầu tư xây dựng công trình

GVHD: Phan Thị Hiền

Tuỳ thuộc mức độ thoả mãn về kiểm soát để tiến hành các thử nghiệm và kiểm tra có dựa
vào các quy chế kiểm soát của đơn vị hay không.
2.4.1.2. Nội dung


Nội dung của phương pháp gồm 3 bước:


Bước 1: Khảo sát và mô tả hệ thống:

Là việc xem xét HTKSNB của đơn vị được kiểm toán căn cứ vào các văn bản quy định về
quy trình nghiệp vụ của đơn vị, quan sát tận mắt các quy trình nghiệp vụ thông qua trao đổi,
phỏng vấn các nhân viên. Mô tả hệ thống là sử dụng lưu đồ hoặc bằng tường thuật để phác
thảo HTKSNB của đơn vị. Mô tả hệ thông bao gồm 4 nội dung sau đây:


Nắm vững và mô tả rõ ràng, chi tiết quy trình nghiệp vụ hiện hành được quy định (bằng
văn bản).
Kết quả quan sát quy trình nghiệp vụ đang được vận hành.
So sánh giữa quy trình nghiệp vụ đã được quy định với quy trình nghiệp vụ diễn ra trong
thực tế.
Chỉ ra những khác biệt và phân tích những nguyên nhân của sự khác biệt.
Bước 2: Xác nhận hệ thống:

Là lấy ý kiến xác nhận của những người quản lý về HTKSNB mà KTV đã mô tả sau khi
kiểm tra đánh giá tính hiệu lực, tuân thủ của HTKSNB trong thực tế:


Những điểm thống nhất và chưa thống nhất.
Khảo sát bổ sung về nhũng vấn đề chưa thống nhất.
Ý kiến của người quản lý đơn vị về những vấn đề chưa thống nhất.
Lập biên bàn làm việc giữa kiểm toán viên với người quản lý.
Bước 3: Phân tích hệ thống:

Là việc đánh giá tính hiệu quả của HTKSNB của đơn vị được kiểm toán thông qua việc

phân tích những ưu, nhược điểm của HTKSNB. Chỉ ra những chỗ kiểm soát còn thiếu, yếu;
những rủi ro tiềm ẩn chưa được kiểm soát phát hiện. Có 4 bước trong phân tích hệ thống:
- Hình dung quy trình nghiệp vụ lý tưởng về nghiệp vụ đang được kiểm toán. (Tính lý tưởng

phụ thuộc kiến thức, trình độ, am hiểu và kinh nghiệm của KTV.).
- Xem xét quy trình nghiệp vụ hiện tại của đơn vị được kiểm toán. (Quy trình nghiệp vụ hiện
tại được thể hiện bằng văn bản là các chế độ và thực tế quy trình xử lý nghiệp vụ của đơn
vị.).
- So sánh quy trình nghiệp vụ hiện tại với quy trình nghiệp vụ lý tưởng.
Vũ Việt Đức – Quản lý xây dựng công trình giao thông K50

20


ĐATN: Kiểm toán dự án đầu tư xây dựng công trình

GVHD: Phan Thị Hiền

- Tiến hành các thử nghiêm kiểm soát, trên cơ sở đó tìm ra điểm mạnh, yếu của đơn vị được

kiểm toán, vùng tiềm ẩn rủi ro trong quy trình.
2.4.2. Phương pháp kiểm toán cơ bản
2.4.2.1. Khái niệm

Là phương pháp kiểm toán, trong đó các thủ tục các kỹ thuật kiểm toán được thiết kế nhằm
thu thập các bằng chứng có liên quan đến dữ liệu về đối tượng kiểm toán và xử lý thông tin
cung cấp.
Đặc trưng của phương pháp này là tiến hành các thử nghiệm (thử nghiệm cơ bản), các đánh
giá đều dựa trên hệ thống thông tin, dựa trên các báo cáo liên quan đến đối tượng kiểm toán và
hệ thống thông tin nội bộ của đơn vị (thử nghiệm theo số liệu).

2.4.2.2. Nội dung
 Bước 1: Phân tích đánh giá tổng quát.

Phương pháp này dựa trên cơ sở sử dụng các tỷ lệ , các mối quan hệ tài chính để xác định
những tính chất hay những sai lệch bất thường. Kỹ thuật của phương pháp này là phân tích so
sánh về lượng trên cùng chỉ tiêu và phân tích tỷ suất. Tác dụng của bước này là giúp cho KTV
nhìn nhận doanh nghiệp một cách toàn diện, xác định tính chất bất thường một cách nhanh
chóng để định hướng và xác định phạm vi kiểm tra, rút ngắn thời gian kiểm toán.
Bước 2: Kiểm tra chi tiết



KTV kiểm tra trực tiếp, cụ thể toàn bộ hoặc một số (trên cơ sở trọn mẫu) các lĩnh vực nội
dung khác nhau của đối tượng cuộc kiểm toán (BCTC, báo cáo quyết toán vốn).
Với Kiểm toán BCTC Là việc kiểm tra và ghi chép từng loại nghiệp vụ phát sinh trong hoạt
động sản xuất kinh doanh. Phương pháp này thích hợp để kiểm tra các doanh nghiệp có quy
mô nhỏ, các loại nghiệp vụ có tính chất không phức tạp, hoặc những bộ phận, những khoản
mục nhạy cảm như: Tiền mặt, chứng khoán, vật tư, hàng hóa quý hiếm...
Với Kiểm toán báo cáo quyết toán vốn, KTV trực tiếp kiểm tra toàn bộ hoặc một số các nội
dung như: Hồ sơ pháp lý, nguồn vốn đầu tư, chi phí đầu tư được tính và không được tính vào
giá trị tài sản hình thành, công nợ và vật tư thiết bị tồn đọng, cũng như việc kết luận của các
cơ quan thanh tra kiểm tra.
2.5.

QUY TRÌNH KIỂM TOÁN

Thông thường, quá trình kiểm toán được khái quát theo trình tự sau:
Vũ Việt Đức – Quản lý xây dựng công trình giao thông K50

21



ĐATN: Kiểm toán dự án đầu tư xây dựng công trình

GVHD: Phan Thị Hiền

 Chuẩn bị kiểm toán

Chuẩn bị kiểm toán là giai đoạn đầu tiên của quy trình kiểm toán, mục đích là tiếp cận
những thông tin, xác định nhu cầu, khả năng (mục tiêu kiểm toán, mức trọng yếu, đánh giá rủi
ro) để xây dựng kế hoạch và chương trình kiểm toán.
 Thực hiện kiểm toán

Thực hiện kiểm toán là quá trình thực hiện đồng bộ các công việc đã được hoạch định trong
kế hoạch kiểm toán. Thực chất của giai đoạn này là KTV áp dụng các phương pháp kiểm toán
để thu thập, đánh giá các bằng chứng kiểm toán theo kế hoạch và chương trình kiểm toán đã
thiết kế.
 Kết thúc kiểm toán
Kết thúc kiểm toán là giai đoạn mà KTV dựa trên cơ sở các bằng chứng kiểm toán thu thập
được trong giai đoạn thực hiện kiểm toán, để hình thành ý kiến kiểm toán, lập và phát hành
báo cáo kiểm toán. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700 quy định (VAS 700) quy định “Mục
tiêu của kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán là đưa ra ý kiến kiểm toán về báo cáo tài
chính, trên cơ sở đánh giá các kết luận rút ra từ bằng chứng kiểm toán thu thập được và trình
bày ý kiến kiểm toán một cách rõ ràng bằng văn bản, trong đó nêu rõ cơ sở của ý kiến đó”
Ở giai đoạn này KTV cũng tiến hành hoàn chỉnh hồ sơ kiểm toán và giải quyết những phát
sinh sau khi lập báo cáo kiểm toán.

Vũ Việt Đức – Quản lý xây dựng công trình giao thông K50

22



ĐATN: Kiểm toán dự án đầu tư xây dựng công trình

GVHD: Phan Thị Hiền

CHƯƠNG 3
CHUẨN MỰC VỀ KIỂM TOÁN

3.1. ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA CHUẨN MỰC KIỂM TOÁN
3.1.1. Đặc điểm của chuẩn mực kiểm toán

Kiểm toán cũng được xem như một nghề, cùng với các nghề khác mà trong tất cả mọi
ngành nghề đều tồn tại các quy tắc, chuẩn mực nhằm điều tiết hành vi của các thành viên trong
nghề theo một hướng nhất định bảo đảm uy tín nghề nghiệp nói chung và để kiểm soát chất
lượng công việc của các thành viên nói riêng.
Chuẩn mực kiểm toán là những quy phạm pháp lý, là thước đo chung về chất lượng công
việc kiểm toán và dùng để điều tiết những hành vi của kiểm toán viên và các bên hữu quan
theo hướng và mục tiêu xác định. Chuẩn mực kiểm toán được hiểu là đường lối chung để giúp
các kiểm toán viên hoàn thành trách nhiệm nghề nghiệp trong cuộc kiểm toán. Chúng bao gồm
việc suy xét về các đức tính nghề nghiệp như tính độc lập và năng lực, các quy định của quá
trình báo cáo và bằng chứng.
Do quan hệ giữa chủ thể kiểm toán với khách thể kiểm toán và đối tượng cụ thể của kiểm
toán khác nhau nên chuẩn mực cụ thể để điêu chỉnh các quan hệ đó cũng khác nhau. Chẳng
hạn, chuẩn mực cụ thể dùng để điều tiết các chủ thể kiểm toán khác nhau như kiểm toán Nhà
nước, kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ. Cũng từ đó chuẩn mực kiểm toán có thể được
biểu hiện bởi các hình thức khác nhau song có thể quy về hai hình thức cơ bản đó là luật kiểm
toán và hệ thống chuẩn mực kiểm toán cụ thể.
Như vậy, hình thức pháp lý cao nhất của các quy định liên quan đến kiểm toán là luật kiểm
toán ban hành bởi cơ quan lập pháp (Quốc hội), sau đó là các văn bản pháp quy dưới luật do

cơ quan của Nhà nước ban hành. Với các chuẩn mực loại này, tính pháp lý của quy định đạt
mức cao và có ý nghĩa điều tiết các hành vi của nhiều phía có liên quan. Vì vậy, hình thức này
bao hàm những quy định chung nhất với tính pháp lý cao cho kiểm toán Nhà nước và kiểm
toán độc lập. Hiện nay, hình thức này được ứng dụng phổ biển ở các nước Tây Âu. Tại Việt
Nam, Luật kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước và Luật kiểm toán của kiểm toán độc lập đã
được ban hành và được coi là văn bản pháp lý cao nhất về kiểm toán.
3.1.2.

Vai trò của chuẩn mực kiểm toán

Vũ Việt Đức – Quản lý xây dựng công trình giao thông K50

23


ĐATN: Kiểm toán dự án đầu tư xây dựng công trình

GVHD: Phan Thị Hiền

Việc ban hành hệ thống các chuẩn mực kiểm đã giúp cho hoạt động của cơ quan kiểm toán
và các kiểm toán viên có được đường lối hoạt động rõ ràng, thực hiện công việc kiểm toán trôi
chảy đạt chất lượng cao. Các chuẩn mực kiểm toán là điều kiện để các kiểm toán viên nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và thực hiện được đạo đức nghề nghiệp.
Hệ thống chuẩn mực kiểm toán là cơ sở để kiểm tra đánh giá chất lượng, hiệu quả và độ
tuân thủ của các kiểm toán viên cũng như các đoàn kiểm toán khi thực hiện kiểm toán tại các
đơn vị. Ngoài ra hệ thống chuẩn mực kiểm toán là cơ sở để kiểm tra tính đúng đắn các nhận
xét của kiểm toán viên trong báo cáo kiểm toán và là cơ sở để giải quyết các tranh chấp phát
sinh giữa kiểm toán viên, đoàn kiểm toán với các đơn vị được kiểm toán đồng thời cũng là cơ
sở pháp lý giúp cho các kiểm toán viên và đoàn kiểm toán giải toả được trách nhiệm của mình
về các vấn đề có thể xảy ra trong tương lai.

Hệ thống chuẩn mực kiểm toán còn là tài liệu quan trọng giúp cho việc đào tạo, bồi dưỡng
kiểm toán viên và đánh giá chất lượng KTV.
Trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam, những chuyển biến trong môi trường kinh doanh và
pháp lý cũng đặt ra những yêu cầu bức thiết đòi hỏi sự ra đời của hệ thống chuẩn mực kiểm
toán.
3.2.

HỆ THỐNG CHUẨN MỰC KIỂM TOÁN VIỆT NAM

Tại Việt Nam, chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (VSA) được xây dựng và ban hành thuộc về
trách nhiệm của Bộ Tài chính mà trực tiếp là Vụ Chế độ Kế toán và Kiểm toán. Với phương
châm là ban hành khung pháp lý về kiểm toán đầy đủ và phù hợp với thông lệ phổ biến của
kiểm toán trên thế giới, Bộ Tài chính đã ban hành qua 7 đợt được 37 chuẩn mực kiểm toán
Việt Nam Cụ thể:
- Năm 1999 (đợt 1), Bộ Tài chính đã ban hành 4 chuẩn mực kiểm toán (VSA 200, 210, 230

và 700).
- Năm 2000 (đợt 2), ban hành 6 chuẩn mực kiểm toán (VSA 250,310, 500,510, 520 và 580).
- Năm 2001 (đợt 3), ban hành 6 chuẩn mực kiểm toán (VSA 240, 300, 400, 530, 540, 610).
- Năm 2003 (đợt 4), ban hành 5 chuẩn mực kiểm toán (VSA 220, 320, 501, 560, 600). Cũng

trong năm 2003, Bộ Tài chính ban hành chuẩn mực kiểm toán đợt 5 gồm 6 chuẩn mực
(VSA 401, 550, 570, 800, 910, 920).
- Năm 2005, với lần ban hành đợt 6 gồm 6 chuẩn mực (VSA 402, 620, 710, 720, 930, 1000);
và ban hành đợt 7 gồm 4 chuẩn mực (VSA 260, 330, 505 và 545).

Vũ Việt Đức – Quản lý xây dựng công trình giao thông K50

24



ĐATN: Kiểm toán dự án đầu tư xây dựng công trình

GVHD: Phan Thị Hiền

Đầu năm 2013, Bộ Tài chính đã chính thức sửa đổi lại các chuẩn mực kiểm toán đã ban
hành. Theo đó, hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam được cập nhật mới nhất đến
01/01/2013 và có hiệu lực bao gồm:
- VSA 220: Kiểm soát chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính.
- VSA 230: Tài liệu, hồ sơ kiểm toán.
- VSA 240: Trách nhiệm của kiểm toán viên liên quan đến gian lận trong quá trình kiểm toán
-

báo cáo tài chính.
VSA 250: Xem xét tính tuân thủ pháp luật và các quy định trong kiểm toán báo cáo tài
chính.
VSA 260: Trao đổi các vấn đề với Ban quản trị đơn vị được kiểm toán.
VSA 265: Trao đổi về những khiếm khuyết trong kiểm soát nội bộ với Ban quản trị và Ban
Giám đốc đơn vị được kiểm toán.
VSA 300: Lập kế hoạch kiểm toán báo cáo tài chính.
VSA 315: Xác định và đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu thông qua hiểu biết về đơn vị
được kiểm toán và môi trường của đơn vị.
VSA 320: Mức trọng yếu trong lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán.
VSA 330: Biện pháp xử lý của kiểm toán viên đối với rủi ro đã đánh giá.
VSA 402: Các yếu tố cần xem xét khi kiểm toán đơn vị có sử dụng dịch vụ bên ngoài.
VSA 450: Đánh giá các sai sót phát hiện trong quá trình kiểm toán.
VSA 500: Bằng chứng kiểm toán.
VSA 501: Bằng chứng kiểm toán đối với các khoản mục và sự kiện đặc biệt.
VSA 505: Thông tin xác nhận từ bên ngoài.
VSA 510: Kiểm toán năm đầu tiên - số dư đầu kỳ.

VSA 520: Thủ tục phân tích.
VSA 530: Lấy mẫu kiểm toán.
VSA 540: Kiểm toán các ước tính kế toán (bao gồm ước tính kế toán về giá trị hợp lý và
các thuyết minh liên quan).
VSA 550: Các bên liên quan.
VSA 560: Các sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc kỳ kế toán.
VSA 570: Hoạt động liên tục.
VSA 580: Giải trình bằng văn bản.
VSA 600: Lưu ý khi kiểm toán báo cáo tài chính tập đoàn (kể cả công việc của kiểm toán
viên đơn vị thành viên).
VSA 610: Sử dụng công việc của kiểm toán viên nội bộ.
VSA 620: Sử dụng công việc của chuyên gia.
VSA 700: Hình thành ý kiến kiểm toán và háo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính.
VSA 705: Ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần.
VSA 706: Đoạn nhấn mạnh vấn đề và vấn đề khác trong kiểm toán về báo cáo tài chính.
VSA 710: Thông tin so sánh – Dữ liệu tương ứng và báo cáo tài chính so sánh.
VSA 720: Các thông tin khác trong tài liệu có báo cáo tài chỉnh đã được kiểm toán.
VSA 800: Lưu ý khi kiểm toán báo cáo tài chính được lập theo khuôn khổ về lập và trình
bày báo cáo tài chính cho mục đích đặc biệt.

Vũ Việt Đức – Quản lý xây dựng công trình giao thông K50

25


×