Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

Luận văn báo cáo chất thải điện tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (908.91 KB, 56 trang )

1

MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO


2

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ CHẤT THẢI ĐIỆN TỬ
1.1

Khái niệm về chất thải điện tử (E-Waste hay CTĐT).
Cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất và hoàn chỉnh về CTĐT.

Mỗi một tổ chức hay một quốc gia thường có một cách định nghĩa khác nhau. Tuy
nhiên có một số cách hiểu chung nhất, có thể được liệt kê sau đây:
Theo OECD (tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế) thì tất cả các thiết bị sử
dụng năng lượng điện để vận hành khi đã hết khả năng sử dụng đều được coi là chất
thải điện tử. Một cách hiểu khác: Chất thải điện tử là loại chất thải bao gồm các
thiết bị điện tử bị vỡ, hỏng hay không còn được sử dụng.
Từ những điểm chung nhất có thể định nghĩa một cách tổng quát: Chất thải
điện tử hay còn gọi là thiết bị điện- điện tử là các sản phẩm bao gồm dân dụng và
công nghiệp, toàn bộ các thiết bị, dụng cụ, máy móc điện, điện tử cũ, hỏng không
đáp ứng được mục đích sửa dụng thiết kế, các sản phẩm đã đến điểm cuối vòng đời
sử dụng, có hàm chứa chất độc nguy hiểm, ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
1.2

Phân loại chất thải điện tử
Tùy theo cách định nghĩa của từng tổ chức hay quốc gia mà CTĐT được

phân loại theo các phương pháp khác nhau. Một phương pháp phân loại được chấp


nhận rộng rãi trên thế giới đó là của Liên minh Châu Âu (EU).
“Chất thải thiết bị điện,điện tử bao gồm tất cả thành phần, chi tiết là một phần
của một thiết bị điện, điện tử hay toàn bộ thiết bị điện,điện tử tại thời điểm bị thải
bỏ”.


3

Theo đó chất thải điện tử được chia làm 10 nhóm bao gồm:
1

Nhóm thiết bị sử dụng trong gia đình có kích thước lớn: tủ lạnh, máy giặt, máy sấy

2

quần áo, máy rửa bát, bếp điện, lò vi sóng, lò sưởi điện, …
Nhóm thiết bị sử dụng trong gia đình có kích thước nhỏ: máy hút bụi, máy lau
thảm, máy may vá, bàn là quần áo, máy pha cà phê, đồng hồ điện tử, máy massage,

3

máy sấy tóc, máy cắt tóc,…
Nhóm thiết bị văn phòng, phương tiện thông tin liên lạc, IT và viễn thông: laptop,

4

fax, máy tính bàn, máy photo, điện thoại,….
Nhóm thiết bị nghe nhìn: radio, TV, camera, máy quay phim, máy nghe nhạc, bộ

5


khuếch đại âm thanh,…
Nhóm thiết bị chiếu sáng: đèn huỳnh quang, đèn cpmpact, đèn cường độ sáng cao,

6

đèn natri hạ áp,…
Nhóm khí cụ gia dụng: máy khoan, máy hàn, máy cưa, máy phay, máy mài, thiết bị

7

làm vườn,…
Nhóm đồ chơi, giải trí và thể thao: tàu hỏa hoặc ô tô đua, video game, thiết bị giải

8

trí nhận tiền xu, một số loại dụng củ tập thể dục,…
Nhóm dụng cụ y tế: thiết bị xạ trị, máy điện tim, máy chạy thận, các máy xét

9

nghiệm,…
Nhóm thiết bị quan trắc và kiểm soát: detector cảnh bảo khói, bộ điều chỉnh nhiệt,
các thiết bị cân đo, căn chỉnh trong nhà và và phòng thí nghiệm, các thiết bị quan

trắc và kiểm soát trong công nghiệp,…
10 Nhóm máy dịch vụ tự động: máy rút tiền tự động, máy bán nước tự động, điện thoại
công cộng,…
Qua đó chúng ta thấy chất thải điện tử thật sự đa dạng , phong phú và rất phổ
biến. Điều đó củng là một đặc trưng gây khó khăn trong việc quản lý chúng. Thực

tế ở nhiều nước trên thế giới chỉ tập trung quản lý một số chất thải thiết bị điện điển
hình như TV,CP, điện thoại, tủ lạnh, máy giặt, máy điều hòa nhiệt độ.


4

1.3
1.3.1

Đặc điểm chất thải điện tử
Thành phần
CTĐT là dạng chất thải rắn không đồng nhất và phức tạp về vật chất và thành

phần. Chất thải điện và điện tử chứa hơn 1000 chất khác nhau, trong đó có nhiều
kim loại nặng, chất phóng xạ cũng như các chất độc thứ cấp. Vì vậy muốn phát triển
hệ thống tái chế thân thiện môi trường và có hiệu quả điều quan trọng là phân loại
và nhận dạng vật liệu có giá trị, các chất nguy hại tiếp theo và các đặc trưng vật lý
của luồng chất thải điện tử.
Theo Trung tâm Quản lý chất thải và Nguồn tài nguyên Châu Âu, sắt và thép
là các nguyên liệu phổ biến nhất trong các thiết bị điện và điện tử và chiếm hơn
50% tổng lượng chất thải điện và điện tử. Nhựa là thành phần nhiều thứ hai chiếm
xấp xỉ 21% ; kim loại khác bao gồm cả kim loại quý hiếm(Al, Zn, Cu, Pb, Sn, Cr,
Au, Ag, Pt, Pd …) chiếm xấp xỉ 13% tổng trọng lượng chất thải điện và điện tử.
Thành phần tính theo % trọng lượng của các chất có trong CTĐT được thể hiện
trong hình 1.1.
Hình 1.1 Thành phần chủ yếu trong chất thải điện, điện tử

Nguồn: Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội Báo cáo chất thải điện tử



5

Bảng 1.1: Thành phần kim loại không nguy hại và có thể có giá trị
Thành phần kim loại
Đồng
Hợp kim hàn( thiếc và chì)
Thành phần sắt và các ferit ( từ lõi máy biến thế)
Niken
Bạc
Vàng
Platin
Các kim loại khác ở lượng vết bao gồm bismut…
Nguồn: URENCO

1.3.2

% khối lượng
16
4
3
2
0.05
0.03
0.01
<0.01

Khối lượng
CTĐT là nguồn thải phát sinh ngày càng nhiều do nhu cầu sử dụng và nâng

cấp của người dân, đặc biệt là dân cư đô thị. Mặc dù các chính sách và chương trình

môi trường đã tập trung vào vấn đề giảm lượng phát sinh, bãi chôn lấp mới và thiêu
đốt chất thải nhưng lượng chất thải điện tử vẫn phát sinh với tốc độ lớn. Theo tính
toán của UNEP hàng năm trên thế giới phát sinh 20-50 triệu tấn chất thải điện tử
trong đó vấn đề nổi cộm nhất là thời gian sử dụng ngắn của máy tính, điện thoại di
động và TV. Một số nghiên cứu môi trường Australia cho thấy mức độ tăng khối
lượng chất thải điện tử đáng báo động. Kết quả khảo sát 62% hộ gia đình năm 2005
tại Australia cho thấy có 45 triệu các thiết bị điện, chủ yếu là các thiết bị điện tử gia
dụng trong đó có 9 triệu máy tính cá nhân, 5 triệu máy in, 2 triệu máy quét hình
ảnh(scanner)…hàng năm chôn lấp 2,5 triệu thiết bị và hơn 50% (khoảng hơn 20000
tấn)trong số này được đem chôn lấp.


6

Bảng 1.2
Năm

Gia tăng CTĐT trên toàn cầu

Lượng CTĐT
(Triệu tấn)

Dân số ( Tỉ
người)

Lượng racds
điện tử phát
sinh theo đầu
người
(kg/người/năm

)

2010
33,8
6,8
5,0
2011
35,8
6,9
5,2
2012
37,8
6,9
5,4
2013
39,8
7,0
5,7
2014
41,8
7,1
5,9
2015
43,8
7,2
6,1
2016
57,8
7,3
6,3

2017
47,8
7,4
6,5
2018
49,8
7,4
6,7
Nguồn: Baldé C.P.,Wang F., Kueher R., Huisman J.,The Global E- Waste Monitor
2014 Quantitities, flows and resources, United Nations University

Năm 2014, châu Á là khu vực phát sinh CTĐT nhiều nhất (16
triệu tấn; 3,7 kg/người/năm), châu Mỹ đứng thứ nhì (11,7 triệu tấn;
12,2 kg/người/năm), châu Đại Dương phát sinh CTĐT ít nhất (0,6
triệu tấn; 15,2 kg/người/năm), nhưng khu vực này có lượng CTĐT
phát sinh tính theo đầu người cao gần bằng châu Âu (15,6
kg/người/năm).
Các nghiên cứu gần đây của Hiệp hội quốc tế các nhà Tái chế Chất thải điện
tử cho thấy khoảng 3 tỉ đơn vị thiết bị điện tử sẽ trở thành phế liệu trong những năm
còn lại của thập kỷ này ở Hoa Kỳ. Trong công nghiệp, các nước châu Âu thải ra
190000 ắc quy axit chì mỗi năm.
Các tiến bộ về khoa học và công nghệ ngoài yếu tố tích cực còn là nguyên
nhân của sự tăng đột biến về số lượng cũng như chủng loại chất thải điện tử thậm
chí làm đảo lộn mọi dự báo của các nhà khoa học và quản lý. Để so sánh chúng ta
có thể lấy ví dụ: Năm 2001, Meinhardt công bố kết quả nghiên cứu tại Australia dự
đoán thời gian sử dụng của các thiết bị điện tử trung bình 5 năm do vậy hàng năm
có khoảng 240000 máy tính, 15000 máy scan sẽ bị loại bỏ nhưng thực tế ngày nay


7


hàng triệu máy tính, 1,5 triệu máy in, 2,1-8,7 triệu hộp mực in cùng 38000 km dây
cáp được chôn lấp trong 1 năm.
Tác hại của chất thải điện tử

1.3.3

Người ta ước tính có hơn 1000 chất khác nhau trong một chiếc máy tính, đa số
chúng là các chất độc hại với môi trường. Một chiếc máy tính chứa khoảng 1,8 >3,6 kg Chì. Màn hình thuỷ tinh chứa khoảng 20% Chì về khối lượng. Khi những
bộ phận này bị vứt vào các bãi rác thải, Chì và các chất độc khác sẽ được giải phóng
ra ngoài môi trường, đe dọa tới sức khỏe con người và các sinh vật khác. Đặc biệt,
trong thành phần của CTĐT đã nêu trên có chứa các chất nguy hại khác như As, Cd,
Cr, Hg…
Hình 1.2 Quá trình xâm nhập của các chất độc trong chất thải điện tử vào cơ
thể con người và sinh vật

Nguồn : URENCO

CTĐT chứa nhiều chất thải cực kì độc hại: bereli trong maintboard, cadium
trong điện trở và chíp bán dẫn chì , thủy ngân trong pin và màn hình.
Tụ biến thế, dây cách điện PVC chứa polychlorinated biphenyl gây ung thư.
Tình trạng đốt rác thải điện tử tạo khói độc, bải và thủy ngân ngấm vào nước gây ô
nhiễm.
Đa số các kim loại và các hợp chất của nó trong chất thải rắn điện tử bán dẫn
đều có khả năng gây ra các đột biến làm rối loạn các quá trình trao đổi vật chất và


8

năng lượng gây ra những khuyết tật trong các tế bào và cơ thể sống đó mắc phải

một số chứng bệnh viêm nhiễm, ung thư, rối loạn nội tiết... Chẳng hạn nếu bị
nhiễm độc thuỷ ngân con người có thể mắc một số chứng bệnh: đau bụng nôn mửa,
thiếu máu. Khi bị nhiễm độc Asen liều cao có thể bị tử vong, liều thấp, tích tụ lâu
có thể mắc các chứng bệnh nan y như ung thư.
Hình 1.3 Bệnh ung thư đang cướp đi sinh mạng của nhiều người

Nguồn: kienthuc.net.vn


9

Hình 1.4 Ô nhiễm môi trường

Nguồn: anninhthudo.vn

Các vật liệu độc hại phát sinh từ rác thải của ngành điện tử tập trung chủ yếu
là các kim loại nặng như chì, thuỷ ngân, crôm trong các bảng mạch, pin và các bóng
đèn điện tử. Trong các TV và bóng đèn điện tử có chứa trung bình 1,8 kg chì (phụ
thuộc vào kích thước và cấu tạo). Thuỷ ngân từ chất thải điện tử là nguồn ô nhiễm
thuỷ ngân chính trong rác thải đô thị.
Bảng 1.2 Một số chất thải điện tử gây nguy hại đến sức khỏe con người
Tác động đến môi trường
và sức khỏe
Hợp chất Halogen:

Chất nguy hại

Ứng dụng

PCB (polychlorynated

bipheny1)

Ngưng tụ, biến áp

Gây ung thư, ảnh hưởng đến
hệ miễn dịch, hệ thần kinh, hệ
nội tiết, chức năng sinh sản, …


10

Có tính tồn lưu và tích lữu sinh
học
TBBA
(tetrabromobisphenol
- A)
PBB (polybrominated
bisphenyls)
PBDE
(polybrominated
diphenylethers)
CFC
(chorofluorcarbon)
PVC (polyvinyl
chloride)

Sử dụng rất rộng rãi
làm chất chống cháy
và cách nhiệt


Chất tái lạnh
Dây cáp cách nhiệt

Có thể gây tổn thương lâu dài
đến sức khỏe
Tạo thành chất độc khi cháy

Khi cháy phát xạ nhiều độc
chất
Dây cáp cách nhiệt ở nhiệt độ
cao có thể sinh ra chlorine,
sau đó biến dổi thành dioxin
và furan

Kim loại:

Gallium arsenide

Có một lương nhỏ
trong LED
CRT
Bộ chỉnh lưu
Sạc pin NiCd, mực in,
CRT, máy photocopy
Băng dữ liệu, đĩa
mềm
LED

Chì


CRT, pin

Lithium

Pin Li
Đèn huỳnh quang,
pin kiềm
Sạc pin NiCd hoặc
NiMHm, ống phóng
điện trong CRT

Asenic
Barium
Beryllium
Cadmium
Chromium VI

Thủy ngân
Nickel
Các nguyên tố đất
hiêm
Selenium
Zine sulphide

Chất rất độc, gây thương tổn
lâu dài tới sức khỏe
Sinh ra khí nổ H2 khi ẩm ướt
Gây hại khi hít vào
Chất độc gây tổn thương lâu
dài đến sức khỏe

Chất rất độc, gây dị ứng và tổn
thương lâu dài đến sức khỏe
Gây tổn thương đến sức khỏe
Gây độc hệ thần kinh, hệ tuần
hoàn, thận và ảnh hưởng đến
sự tiếp thu của trẻ nhỏ
Sinh ra khí nổ H2 khi ẩm ướt
Chất rất độc gây tổn thương
đến sức khỏe
Gây dị ứng

Lớp huỳnh quang

Kích thích da và mắt

Máy photocopy
Hỗn hợp với các
nguyên tố đất hiếm
trong lớp huỳnh
quang

Gây tổn thương đến sức khỏe
Gây hại khi hít vào

Khác:
Bụi màu
Chất phóng xạ
Nguồn : UNEP

Hộp mực máy in

Không gặp

Gây hại khi hít vào
Gây ung thư


11

CTĐT còn gây ảnh hưởng nguy hiểm đến môi trường sống làm thủng tầng
ozone,gây ra các thiết bị vỡ thành nhiều mảnh tập trung ở các khu vực gần sông
ngòi, ao hồ, khi có tác động của mưa các chất thải điện tử sẽ theo dòng nước ra
biển, ao hồ cùng với các chất độc hại sẽ làm cho hệ sinh thái bị tổn hại, môi trường
sống của sinh vật bị thu hẹp gây nên mất cân bằng sinh thái.
Hình 1.5 Mảnh vỡ của CTĐT

Nguồn: kenh14.vn

Hình 1.6 CTĐT tập trung ở gần bờ sông


12

Nguồn: kenh14.vn


Bên cạnh đó chất thải điện, điện tử củng mang lại một số lợi ích nhưng củng
không thể bù đắp lại được thiệt hại, sự nguy hiểm mà nó gây ra:
Chứa nhiều kim loại quý, 1 tấn quặng vàng chỉ cho 5gram vàng nguyên chất
trong khi 1 tấn điện thoại bỏ đi đã cho 150 gram vàng, 3kg bạc, 100 kg đồng và
nhiều thứ khác nữa

Với lượng CTĐT năm 2014, toàn cầu có thể thu hồi khoảng 300 tấn vàng,
tương đương 11% số vàng thế giới khai thác từ mỏ năm 2013; 1.000 tấn bạc; 220
ngàn tấn nhôm,… (Bảng 5). Tuy nhiên để khai thác được nguồn “tài nguyên” này,
cần có các chính sách, kèm theo công nghệ và năng lực của công nghiệp tái chế.
Hình 1.7 Tài nguyên có thể khai thác từ nguồn CTĐT trên
toàn cầu, năm 2014

Nguồn: Baldé C.P.,Wang F., Kueher R., Huisman J.,The Global E- Waste Monitor
2014 Quantitities, flows and resources, United Nations Universit



CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ XỬ LÝ CHẤT

THẢI ĐIỆN TỬ
2.1

Thực trạng quản lý và xử lý chất thải điện tử ở một số nước trên thế giới.
Trong hai thập kỷ qua, việc quản lý chất thải điện tử đã được đưa vào chương

trình nghị sự của nhiều nước phát triển và đang phát triển và trở thành vấn đề quan
trọng cần được giải quyết ở quy mô toàn cầu. Nhiều quốc gia đã hạn chế việc nhập
khẩu chất thải điện tử trên lãnh thổ của mình, tuy nhiên vẫn còn một chặng đường
dài để ngăn chặn những tác động của chúng tới môi trường và sức khỏe cộng đồng.
Chất thải điện tử là các thiết bị điện và điện tử không còn trong tình trạng sử dụng,
trong đó có chứa cả các chất độc hại (thủy ngân, CFC, chì kính, pin...) và các chất
có giá trị (vàng, bạc, palladium, bạch kim...).
2.1.1

Thực trạng chung trên thế giới

Tháng 10/2002, các nước trong khu vực EU đã đạt được thoả thuận về các

quy định đối với việc quản lý chất thải từ thiết bị điện, điện tử (WEEE). Quy định
của EU về quản lý WEEE được xem như tài liệu tham khảo chính để xây dựng các
văn bản pháp lý về chất thải điện tử tại hầu hết các quốc gia trên thế giới. WEEE là
một trong các dòng thải phát triển nhanh nhất trong EU, với khoảng 9 triệu tấn được
tạo ra vào năm 2005, và dự kiến sẽ tăng lên hơn 12 triệu tấn vào năm 2020. Chương
trình này kêu gọi các nhà sản xuất cung cấp tài chính cho các hoạt
động thu gom, xử lý, thu hồi và chôn lấp an toàn các chất thải điện tử, từ dân
dụng đến toàn bộ các hoạt động khác.


Hình 2.1

Lượng CTĐT phát sinh theo khu vực, năm 2014

Nguồn: Baldé C.P.,Wang F., Kueher R., Huisman J.,The Global E- Waste
Monitor 2014 Quantitities, flows and resources, United Nations University

Quy định về WEEE của EU yêu cầu các thành viên tuyên bố chấp nhận
các hoạt động chính sau:
-

Khuyến khích các nhà sản xuất thiết kế và chế tạo sản phẩm mới có tính toán

-

đến việc tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tháo dỡ, tái chế thu hồi.
Nâng cao hiệu quả của quá trình phân loại chất thải điện, điện tử bằng cách
đảm bảo việc các khách hàng có cơ hội trả lại các sản phẩm điện tử hết thời

hạn sử dụng mà không phải trả phí gì. Cơ chế cho việc thu gom các thiết bị
này có thể bao gồm việc các nhà phân phối đổi cũ lấy mới Ti vi từ các nhà
phân phối và các hệ thống thu gom riêng biệt hay phối hợp liên kết được vận

-

hành và quản lý bởi các nhà sản xuất.
Đảm bảo là đến ngày 31 – 12 – 2006, các hệ thống thu gom các chất thải điện

-

tử từ hộ gia đình trong EU đạt được tỉ lệ 4kg /người /năm.
Các nhà sản xuất phải thiết lập hệ thống xử lý chất thải điện tử với các công
nghệ tái chế, thu hồi xử lý tốt nhất có thể có. Các nhà sản xuất có thể hành


động độc lập, liên kết hoặc thông qua qua đối tác thứ ba. Các nhà sản xuất
-

phải đạt được các yêu cầu cụ thể về việc thu hồi sản phẩm.
Loại bỏ không sử dụng thủy ngân, Cadmi, Crom (VI) và 2 loại chất chống

-

cháy có chứa hợp chất brom trong các thiết bị điện và điện tử vào năm 2004.
70 – 90 % về trọng lượng của tất cả các thiết bị điện, điện tử phải được tái sử

-

dụng hoặc tái chế. Đối với TV và máy tính 70% phải được tái chế.

Việc tái chế không bao gồm việc thiêu đốt.
Đối với việc thiêu đốt cùng với thu hồi năng lượng cho phép 10 – 30 % xỉ
thải. Tuy nhiên các chất có chứa Pb, Hg, Cr (VI), PCBs, chất chống cháy
halogen, các chất phóng xạ, amiăng và Be phải loại bỏ khỏi thiết bị thải trước

-

khi chôn lấp hoặc thiêu đốt hay thu hồi.
Khuyến khích các nhà sản xuất tăng hàm lượng các chất có khả năng tái chế
trong các sản phẩm mới. Ví dụ từ năm 2004 trong các thiết bị phải có ít nhất

-

5% nhựa có thể tái chế được.
Các nhà sản xuất phải thiết kế các thiết bị có dán nhãn thuận lợi cho việc tái

-

chế ví dụ như loại nhựa được sử dụng, và vị trí của tất cả các chất nguy hại.
Các nước thành viên phải thu thập thông tin từ nhà sản xuất số lượng thiết bị
xuất ra thị trường số các đơn vị sản phẩm và khối lượng, cũng như sự bào
mòn sản phẩm. Các thông tin này sẽ phải chuyển đến uỷ ban Châu Âu năm

-

2004 và sau đó cứ 3 năm một lần.
Các nhà sản xuất có thể thực hiện quá trình xử lý ở nước khác, nhưng không
được chuyển từ các nước EU sang các nước ngoài EU nơi không hoặc có tiêu
chuẩn xử lý thấp hơn EU. Một cách hợp lý, các nhà sản xuất có thể chuyển
WEEE tới những nơi đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật và môi trường về xử lý và

tái chế.

Bảng 2.1
Quốc gia

Lượng CTĐT phát sinh ở một số nước châu Á,
năm 2014
Lượng CTĐT
(Ngàn tấn)

Lượng rác đô thị
phát sinh theo đầu
người
(kg/người/năm)

Dân số (ngàn
người)


Trung Quốc
Nhật
Ấn độ
Hàn Quốc
Indonesla
Thổ nhỉ kỳ
Thái lan
Malasia
Hong Kong
Israel
Philippines

Việt Nam
Singapore
Kuwait
Myamar
Campuchia
Afhantstan
Làm

6.033
2.200
1.641
804
745
503
419
232
157
138
127
116
110
69
29
16
8
8

4,4
17,3
1,3

15,9
3,0
6,5
6,4
7,6
21,5
17,2
1,3
1,3
19,6
17,2
0,4
1,0
0,3
1,2

1.367.520
127.061
1.255.565
50.475
251.490
76,707
64.945
30.267
7.296
8.040
99.434
92.571
5.595
1.999

66.252
15.561
33.967
6.557

Nguồn: Baldé C.P.,Wang F., Kueher R., Huisman J.,The Global E- Waste Monitor
2014 Quantitities, flows and resources, United Nations University
2.1.2

Thực hiện quản lý và biện pháp xử lý chất thải điện tử ở Nhật Bản
Nhật Bản là một trong những quốc gia sản xuất và tiêu thụ các thiết bị điện

điện tử lớn nhất thế giới đồng thời là một trong những nước đi tiên phong trong vấn
đề quản lý chất thải điện tử. Vấn đề rác thải được phân chia rất rõ ràng.
Rác thải từ hộ gia đình sẽ do nhà nước quản lý, còn chất thải điện
tử, thiết bị cũ sẽ do các hãng sản xuất chịu trách nhiệm xử lý. Theo
đó, khi mua sản phẩm mới, nếu có đồ cũ, người tiêu dùng sẽ nhận
được tiền cho các khoản rác thải điện tử mà họ có. Chính quyền tại
các TP lớn như Tokyo, Kobe, Osaka đều xây dựng nhà máy tái chế
riêng, trên đường phố cũng được đặt thêm các thùng rác nhiều
màu sắc để người dùng tự phân loại rác.
Là nước sản xuất và tiêu dùng nhiều đồ điện tử từ những năm 1960 của thế kỉ
trước, Nhật Bản đã sớm có những chính sách liên quan đến CTĐT. Năm 1970 Nhật
Bản bắt đầu có chính sách xử lý CTĐT khác với các loại rác thải khác. Họ thuê
những công nhân đã qua đào tạo đặc biệt để tháo dỡ và tái chế những vật liệu trong


CTĐT. Tuy nhiên do chi phí quá cao nên chương trình này không thể tiếp tục.
CTĐT lại được vứt ra bãi rác như những loại rác khác.
Nhật bản đã đưa ra những luật liên quan trực tiếp nhất đến CTĐT là “Luật

xúc tiến sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên” được thi hành vào tháng tư năm
2001. “Luật tái chế các loại đồ điện gia dụng” luật này áp dụng cho 4 loại đồ điện
gia dụng cỡ lớn là ti vi, tủ lạnh, máy giặt, máy điều hòa.
Bảng 2.2 Số lượng CTĐT thải bỏ ở Nhật Bản giai đoạn 2000-2004
Đơn vị: 1.000 chiếc
Năm

2000

2001

2002

2003

2004

Thân ĐTDĐ
13.613
Sạc điện
3.128
Pin
11.847
Nguồn: Puja Sawhney et al, 2008.

13.107
4.231
11.788

11.369

3.355
9.727

11.717
4.387
10.247

8.528
3.181
7.312

Bảng 2.3 Tỉ lệ tái chế đồ điện gia dụng của Nhật Bản
Chỉ tiêu và tái chế (%)
2009
70
55
60
65
Nguồn: Central Environment Council of Japan, 2010

Khi một thiết bị hết khả năng sử dụng người sở hữu phải trả phí thu gom và
phí tái chế cho người bán lẻ. Sau đó các sản phẩm đã được thu gom sẽ chuyển đến
các cơ sở tái chế. Tại các cơ sở này, các sản phẩm sẽ được tháo dỡ thủ công và phân
loại, một phần sẽ được thu hồi tái sử dụng vào mục đích khác, phần còn lại được xử
lý trong lò đốt.


Hình 2.2 Sơ đồ tái chế chất thải điện tử tại Nhật Bản sau luật EHAR

Nguồn: Central Environment Council of Japan.


Ưu điểm của phương pháp này đó là giao trách nhiệm thu gom tái chế lại cho
người sản xuất từ đó dẫn tới: Thứ nhất, nhà sản xuất có trách nhiệm hơn với sản
phẩm của mình, để giảm chi phí tái chế họ bắt buộc phải sản xuất các thiết bị thân
thiện hơn với môi trường. Thứ hai, để giữ hình ảnh cho mình, nhà sản xuất phải
tuân thủ quy trình tái chế nghiêm ngặt, do đó tránh các rủi ro gây nguy hại tới môi
trường.
Nhược điểm của phương pháp đó là phí thu gom và tái chế dược thu từ người
tiêu dùng, do đó có thể không tạo được sự hưởng ứng từ người dân các quốc gia
đang phát triển có mức sống thấp hơn Nhật Bản rất nhiều lần.


Hình 2.3 Tăng trưởng đăng ký SC ở một số nước (Giai đoạn 20062010)

Nguồn: Baldé C.P.,Wang F., Kueher R., Huisman J.,The Global E- Waste
Monitor 2014 Quantitities, flows and resources, United Nations University

Nhật Bản áp dụng chế độ phiếu tái chế đối với đồ điện gia dụng. Đây là hình
thức do Hiệp hội đồ điện gia dụng phát triển để đảm bảo các bên liên quan cùng có
trách nhiệm thúc đẩy hoạt động tái chế theo Luật tái chế đồ điện gia dụng. Hệ thống
này hoạt theo cách: Người tiêu dùng trả phí thu hồi, vận chuyển và tái chế đối với
những thiết bị như ti vi, tủ lạnh, máy điều hòa, máy giặt thải bỏ. Người bán lẻ có
trách nhiệm thu hồi những thiết bị đã bán và chở chúng đến các kho bãi của nhà sản
xuất. Nhà sản xuất hoặc nhà nhập khẩu có trách nhiệm xử lý thích hợp hoặc tái chế
những sản phẩm họ sản xuất ra hoặc nhập khẩu.
Nhật Bản tuyên truyền để nâng cao nhận thức và thay đổi thái độ người tiêu
dùng hướng tới sự thân thiện với môi trường hơn. Các nhà sản xuất cũng phải chú


trọng đến vấn đề môi trường, sáng tạo và đưa ra những dòng sản phẩm mới đáp ứng

được yêu cầu mới của người tiêu dùng, lựa chọn những chất liệu, những chiến lược
tiếp thị phù hợp với những qui định hiện hành ở Nhật Bản.
Nhật Bản là một trong những nước đã có những kinh nghiệm tốt trong quản
lý CTĐT. Đây là nguồn rác thải độc hại nhưng nếu biết xử lý đúng cách thì có thể
tận dụng được nguồn nguyên liệu quí và giảm thiểu tác hại đến môi trường. Từ kinh
nghiệm của Nhật Bản có thể thấy rằng để có thể quản lý CTĐT tốt cần có một
khuôn khổ pháp lý thích hợp, phân định rõ trách nhiệm của các bên liên quan như
nhà sản xuất, người bán lẻ, người tiêu dùng, chính quyền địa phương, chính quyền
trung ương. Có chính sách phát triển bền vững như chính sách về thu gom, tái chế
và phục hồi CTĐT, đồng thời có những chính sách khuyến khích các nhà sản xuất
thực hiện thiết kế xanh và công nghệ tốt cho môi trường. Bên cạnh đó, cần nâng cao
cảnh giác trước những tác hại đến sức khỏe và môi trường của CTĐT, tăng cường
giáo dục tuyên truyền để người tiêu dùng có ý thức trong việc sử dụng hay thải bỏ
đồ điện- điện tử. Phát triển đội ngũ chuyên gia và các nguồn lực khác để đối phó
với CTĐT..
1

Hiện trạng công tác quản lý và biện pháp xử lý chất thải điện tử một số
nước châu Á.
Năm 2003, Hàn Quốc đã quy định TV, tủ lạnh, máy giặt, máy điều hoà

nhiệt độ, và máy tính cá nhân là các thiết bị điện và điện tử phải được tái chế
theo nguyên tắc “Trách nhiệm sau sản xuất” trong luật tái chế, sau đó vào năm
2005 họ bổ sung các thiết bị nghe nhìn và điện thoại di động vào danh mục này.
Đài Loan cũng xác định các chất thải công nghệ thông tin như các loại máy
tính, màn hình, máy in, fax và TV, điều hoà, máy giặt, tủ lạnh là những chất thải bắt
buộc phải tái chế.
Khác với Nhật Bản, các nhà máy sản xuất ở Hàn Quốc và Đài Loan phải
trả phí tái chế cho các cơ sở tái chế. Do khách hàng không phải trực tiếp trả phí
tái chế khi chôn lấp thiết bị điên, điện tử cho nên người dân thường tự giác đưa



các thiết bị gia dụng điện, điện tử lỗi thời tới nơi thu gom. Tuy nhiên do các điều
luật còn lỏng lẻo nên các thiết bị điện tử đã bị loại bỏ có thể dễ dàng bị chuyển
đến các cơ sở tái chế tư nhân có chi phí tái chế thấp và quy trình tái chế không
minh bạch.
Tại Philipin, luật về Quản lý chất thải rắn sinh thái đã được thông qua
01/2000. Theo luật này các thiết bị điện, điện tử dân dụng như lò sưởi, máy điều
hoà tủ lạnh,... được coi như các loại chất thải đặc biệt phải được phân tách khỏi các
chất thải sinh hoạt và thương mại thông thường. Mặc dù luật trên đã xác định các
loại chất thải đặc biệt riêng rẽ nhưng không có một chỉ dẫn rõ ràng riêng biệt nào
cho việc xử lý chúng.
Các nước khác như Campuchia, Ấn Độ, Malaysia và Việt Nam chưa có chính
sách hay quy định riêng cho quản lý chất thải điện, điện tử trừ các loại pin và ắc
quy. Ở những nước này các thành phần không chuyên nghiệp (bao gồm cả người
nhặt rác). Đóng vai trò quan trọng trong việc thu gom và tái chế các phần có giá trị.
Các thành phần không chuyên nghiệp cũng chiếm một lượng lớn công việc thu gom
chất thải ở Hàn Quốc, Đài Loan và cả Nhật Bản nơi mà hệ thống luật tái chế đang
tồn tại.
Trung Quốc cũng đã sử dụng biện pháp quản lý như trong sản phẩm không
có chất độc hại thì dán ký hiệu “e” màu xanh lá cây; nếu sản phẩm có chất độc hại
thì phải dán ký hiệu cảnh báo màu vàng cam trên sản phẩm, đồng thời ghi chú tên
gọi, hàm lượng của nguyên tố có độc đó, thời hạn sử dụng và thời điểm bắt buộc
huỷ bỏ sản phẩm.
Dưới đây là bảng tóm tắt các quy định luật về quản lý chất thải điện tử của
một số nước châu Á mà nhóm đã tìm hiểu được:


Bảng 2.4
Quốc gia


Tóm tắt các quy định, luật về quản lý chất thải
điện và điện tử tại một số nước Châu Á
Đối tượng

Quy định

Campuchia

Không

quy
định
cho
chất
thải điện tử

Trung Quốc

Xây
dựng
dự thảo các
quy định về
“quản

việc tái chế
các thiết bị
điện, điện
tử
gia

dụng”
(2004)

Máy
tính,tủ
lạnh, tivi, điều
hòa, máy giặt

Nhật Bản

Hàn Quốc

Các nhà phân phối phải có trách
nhiệm thu gom và vận chuyển tới
các cơ sở tái chế. Các đơn vị tái
chế có nhiệm vụ tái sử dụng, tháo
dỡ thu hồi và loại bỏ. Người tiêu
dùng nên chuyển các chất thải
điện tử tới nơi thu gom.. Một quỹ
quốc gia đặc biệt sẽ được thành
lập cho việc tái chế chất thải điện
tử. Một phần của quỹ này từ các cơ
sở sản xuất và lắp ráp.

Không

quy
định
cho
chất

thải điện tử

Ấn Độ

Nhật Bản

Chú giải

TV, Tủ lạnh,
điều hoà, máy
giặt

Máy tính cá
nhân
hoặc
máy
tính
công nghiệp

TV,
điều
giặt
tính

Tủ lạnh,
hoà, máy
và Máy
cá nhân

Luật tái chế

các đồ điện
gia
dụng
(soạn thảo
năm 1998
có hiệu lực
từ 2001)
Luật
về
việc nâng
cao
hiệu
quả
sử
dụng
tài
nguyên
(2001 đối
với
máy
tính doanh
nghiệp,
2003
đối
với
máy
tính

nhân)
Luật tái chế

(2003)

Các cơ sở bán hàng có trách nhiệm
nhận các thiết bị cũ, hỏng từ khách
hàng. Các nhà máy có trách nhiệm
nhận các thiết bị này từ các cơ sở
bán hàng và thực hiện phân loại tái
sử dụng và tái chế. Các cơ sở bán
hàng cũng như nhà máy có thể yêu
cầu người sử dụng phải trả tiền cho
việc thu gom, vận chuyển và tái
chế các thiết bị mà họ loại bỏ.

Các nhà sản xuất có trách nhiệm
nhận lại các máy tính loại bỏ để tái
chế. Chi phí cho việc tái chế được
đưa vào giá thành bán hàng

Chính phủ quy định lượng chất thải
phải tái chế hàng năm. Nhà sản
xuất phải trả tiền cho các sản
phẩm của họ khi tái chế


(2003), Thiết
bị nghe nhìn
và điện thoại
di động)
Không


quy
định
cho
chất
thải điện tử

quy
định riêng
về ắc quy
đối với các
nhà
sản
xuất trong
luật
môi
trường
1989

Malaysia

Đài Loan

Philippines

TV, Tủ lạnh,
điều hoà, máy
giặt và Máy
tính
TV, Radio, Tủ
lạnh,

điều
hoà,
máy
giặt, Máy rửa
bát đĩa, Máy
sấy, Máy giặt

Waste
Disposal
Act (1998)

Các nhà sản xuất phải có trách
nhiệm về mặt tài chính đối với các
cơ sở tái chế chất thải điện tử

Chương
trình quản
lý chất thải
sinh
thái
2000

Các chất thải kể trên được phân
loại thành chất thải đặc biệt cần
phải có biện pháp xử lý riêng

Soạn thảo
chiến lược
quốc gia về
quản


Thái Lan
Chưa xác định thích
hợp
các
loại
chất
thải
điện

điện tử
Nguồn : Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội Báo cáo chất thải điện tử
2.2
2.2.1

Thực trạng quản lý và xử lý chất thải điện tử tại Việt Nam
Hệ thống quản lý hành chính
Hình 2.4 Sơ đồ quản lý nhà nước về chất thải điện tử
Cấp quốc gia

Bộ Công thương
Cơ quan xuất nhập khẩu

Tổng cục

Bộ Tài nguyên và môi trường

Hải quan

Tổng cục môi trường



×