Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Luận văn thạc sỹ - Giải pháp phòng ngừa và xử lý nợ quá hạn tại Quỹ phát triển đất tỉnh Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.1 MB, 99 trang )

TRƯờNG ĐạI HọC KINH Tế QUốC DÂN
&

TRầN THị THANH VÂN

GIảI PHáP PHòNG NGừA Và Xử Lý Nợ QUá HạN
TạI QUỹ PHáT TRIển ĐấT TỉNH BắC NINH
Chuyên ngành: KINH Tế TàI CHíNH - NGÂN HàNG

Ngời hớng dẫn khoa học:
TS. TRầN TấT THàNH

Hà Nội - 2015


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
QPTĐ
UBND

Quỹ phát triển đất
Ủy ban nhân dân

HĐQL

Hội đồng quản lý

KBNN


Kho bạc nhà nước

CBVC

Cán bộ viên chức


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU ĐỒ
SƠ ĐỒ:
BIỂU ĐỒ:
Biểu đồ 2.1:

Tình hình thu hồi nợ so với tổng vốn đã ứng lũy kế..................Error:
Reference source not found

Biểu đồ 2.2 :

Tình hình nợ đã thu hồi.................Error: Reference source not found

Biểu đồ 2.3:

Tình hình nợ quá hạn trong tổng dư nợ...Error: Reference source not
found

Biểu đồ 2.4:

Tình hình nợ quá hạn theo đối tượng được ứng vốn..................Error:
Reference source not found

Biều đồ 2.5:


Tình hình nợ quá hạn theo khu vực.........Error: Reference source not
found

Biểu đồ 2.6:

Tình hình nợ quá hạn được phân loại theo thời gian..................Error:
Reference source not found

Biều đồ 2.7:

Nợ quá hạn trên 360 ngày tính đến 30/6/2015..........Error: Reference
source not found

Biểu đồ 2.8:

Nợ quá hạn đã phát sinh theo đối tượng ứng vốn.....Error: Reference
source not found

Biểu đồ 2.9:

Nợ quá hạn đã hát sinh theo khu vực.......Error: Reference source not
found

Biểu đồ 2.10:

Kết quả xử lý nợ quá hạn theo đối tượng ứng vốn....Error: Reference
source not found

Biểu đồ 2.11:


Kết quả xử lý nợ quá hạn theo khu vực...Error: Reference source not
found

Biều đồ 2.12:

Kết quả xử lý nợ quá hạn theo thời gian quá hạn......Error: Reference
source not found


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự hội nhập kinh tế thế giới, Việt Nam trong nhiều năm gần đây
vẫn đang tập trung nguồn lực tăng cường xây dựng các dự án kinh tế, xây dựng cơ
sở hạ tầng phục vụ cho việc phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình
thực hiện, giải phóng mặt bằng luôn là một vấn đề khó khăn ngay từ bước đầu của
các dự án. Từ năm 2010, thực hiện theo sự chỉ đạo của Chính phủ tại Quyết định số
40/2010/QĐ-Ttg ngày 12/5/2010 về việc ban hành Quy chế mẫu về quản lý, sử
dụng Quỹ phát triển đất , tổ chức này lần lượt được thành lập trên các tỉnh thành với
chức năng, nhiệm vụ ứng vốn cho công tác đền bù giải phóng mặt bằng, hỗ trợ xây
dựng khu tái định cư, các công trình hạ tầng địa phương tạo điều kiện cho việc thực
hiện kế hoạch của tỉnh và cả nước. Theo Tổng cục thống kê (2011), với 822,7 km 2,
Bắc Ninh là tỉnh có diện tích nhỏ nhất trên cả nước nhưng có nền kinh tế phát triển
mạnh mẽ với nhiều dự án đầu tư lớn vào các khu công nghiệp, khu công nghệ cao.
Mặc dù kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn song năm 2011 tốc độ phát triển
kinh tế của tỉnh vẫn đạt 16,2%, cao nhất trong cả nước, đồng thời luôn nằm trong số
những tỉnh có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong nhiều năm qua (Từ điển bách khoa
Việt Nam, 2015). Bên cạnh đó, diện tích đất thu hồi để phục vụ cho các mục tiêu

phát triển kinh tế trên toàn tỉnh từ năm 2003 - 2011 cũng khá lớn với hơn 8000 ha,
song trong công tác bồi thường giải phóng mặt bằng còn gặp nhiều khó khăn, hạn
chế. Trước bối cảnh đó, năm 2011 Quỹ phát triển đất tỉnh Bắc Ninh được thành lập.
Đây là một trong số các tỉnh có QPTĐ thành lập sớm với vốn điều lệ tương đối lớn
so với các tỉnh thành trên cả nước.
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, thu hồi vốn luôn là vấn đề khó khăn
đối với Quỹ phát triển đất tỉnh Bắc Ninh. Theo báo cáo tổng kết 6 tháng đầu năm
2015, hơn 40% lượng vốn đã ứng của Quỹ hiện đang trong tình trạng quá hạn chưa
thể thu hồi, đặc biệt trong bối cảnh thị trường bất động sản nói riêng và nền kinh tế
nói chung chưa có sự tăng trưởng mạnh mẽ sau ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng


2
kinh tế thế giới thì tình trạng này càng bị kéo dài. Trong khi đó, nhiều dự án mới
không có nguồn vốn để giải phóng mặt bằng, khiến cho quá trình thực hiện bị chậm
trễ, ảnh hưởng đến sự phát triển của tỉnh.
Vấn đề đặt ra với Quỹ là cần nâng cao khả năng thu hồi, giảm tình trạng nợ
quá hạn, tăng hiệu quả sử dụng vốn nhà nước vào đầu tư phát triển kinh tế xã hội
theo kế hoạch đã đề ra. Vì vậy tác giả lựa chọn đề tài “ Giải pháp phòng ngừa và
xử lý nợ quá hạn tại Quỹ phát triển đất tỉnh Bắc Ninh” với mong muốn đưa ra
những giải pháp giải quyết thực trạng mà Quỹ đang phải đối mặt.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề phòng ngừa,
xử lý nợ quá hạn; rủi ro tín dụng; chất lượng tín dụng như: Luận án “Quản trị rủi ro
tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam ” của tác giả
Nguyễn Tuấn Anh (2012), trong đó tác giả đã đưa ra một hệ thống đầy đủ các tiêu
chí định tính và định lượng để đánh giá hiệu quả công tác quản trị rủi ro tín dụng
của các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam, đồng thời đưa ra các khuyến nghị cho
ngân hàng cũng như kiến nghị với Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước và một số bộ
ngành liên quan; Luận văn “Giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại ngân hàng nông

nghiệp và phát triển nông hôn tỉnh Gia Lai” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền
(2012) đã nêu lên những nguyên nhân chủ yếu gây nên nợ xấu những hạn chế tồn
tại của ngân hàng, và đề ra giải pháp nhằm hạn chế phát sinh và biện pháp xử lý nợ
xấu; Luận văn “Chất lượng tín dụng tại Quỹ đầu tư phát triển tỉnh Lâm Đồng” của
tác giả Vũ Thị Bích Ngọc (2012) đã nêu lên được các tiêu chuẩn của chất lượng tín
dụng, các nhân tố ảnh hưởng cũng như các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của
Qũy, kết hợp với phân tích tình hình chi tiết của từng hoạt động để đưa ra các giải
pháp phù hợp với đặc điểm riêng của đơn vị …Tuy nhiên các đề tài đã thực hiện
đều tập trung nghiên cứu tại các ngân hàng, quỹ đầu tư phát triển hay các tổ chức
tín dụng, chưa có đề tài nào nghiên cứu nào được thực hiện tại Quỹ phát triển đất
hoặc các tổ chức tài chính nói chung.


3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trong đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn về
phòng ngừa và xử lý nợ quá hạn.
Phạm vi nghiên cứu: Về không gian, tác giả nghiên cứu các vấn đề về nợ quá
hạn và thực trạng phòng ngừa và xử lý nợ quá hạn tại Quỹ phát triển đất tỉnh Bắc
Ninh. Về thời gian, nghiên cứu được thực hiện dựa trên cơ sở dữ liệu từ năm 2012
đến hết quý II năm 2015. Đây cũng chính là toàn bộ thời gian Quỹ chính thức đi
vào hoạt động.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả lựa chọn sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính để thu thập và
xử lý thông tin trong luận văn. Nguồn số liệu được sử dụng là các số liệu thứ cấp
trên các bản báo cáo, bao gồm các chỉ tiêu về tổng nguồn vốn, vốn đã ứng, nợ được
thu hồi, dư nợ, nợ quá hạn … của Quỹ phát triển đất tỉnh Bắc Ninh, Quỹ phát triển
đất một số tỉnh và các số liệu được thu thập qua một số kênh thông tin khác.
Dựa trên các số liệu được thu thập, tác giả lựa chọn, sắp xếp và tính toán các
chỉ tiêu cần thiết, đồng thời biểu thị trên các biểu đồ làm cơ sở so sánh một cách

trực quan, qua đó thực hiện so sánh qua các thời kỳ tại đơn vị, so sánh chéo với các
đơn vị khác nhằm đánh giá đúng thực trạng, phân tích được các nguyên nhân cụ thể
để đưa ra được các giải pháp, kiến nghị phù hợp với thực tế.
5. Mục tiêu nghiên cứu
Về mặt lý luận: thông qua luận văn, tác giả thực hiện lựa chọn cơ sở lý luận
về hoạt động ứng vốn và nợ quá hạn trong hoạt động ứng vốn, làm rõ nội dung và
đưa ra được các nguyên nhân phát sinh, ảnh hưởng cũng như chỉ tiêu đánh giá nợ
quá hạn.
Về mặt thực tiễn: dựa trên cơ sở lý luận, tác giả phân tích, đánh giá thực
trạng nợ quá hạn cũng như công tác phòng ngừa và xử lý nợ quá hạn trong giai
đoạn 2012 – 30/6/2015 tại Quỹ phát triển đất tỉnh Bắc Ninh, từ đó đề xuất được
những giải pháp, kiến nghị nhằm cải thiện tình hình, nâng cao chất lượng hoạt động
ứng vốn của Quỹ.


4
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Phòng ngừa và xử lý nợ quá hạn trong hoạt động ứng vốn của
Quỹ phát triển đất
Chương 2: Thực trạng phòng ngừa và xử lý nợ quá hạn tại Quỹ phát triển
đất tỉnh Bắc Ninh
Chương 3: Giải pháp phòng ngừa và xử lý nợ quá hạn tại Quỹ phát triển đất
tỉnh Bắc Ninh.


5

CHƯƠNG 1
PHÒNG NGỪA VÀ XỬ LÝ NỢ QUÁ HẠN TRONG

HOẠT ĐỘNG ỨNG VỐN CỦA QUỸ PHÁT TRIỂN ĐẤT
1.1 HOẠT ĐỘNG ỨNG VỐN
1.1.1 Khái niệm ứng vốn
Ứng vốn là hoạt động được đề cập khá nhiều, tuy nhiên chưa có một quy
định cụ thể hay một định nghĩa chính xác nào về vấn đề này. Theo từ điển tiếng
Việt, “ứng” có nghĩa là trao cho quyền sử dụng trước rồi thanh toán sau. Có nhiều
cá nhân cho rằng ứng vốn cũng là tín dụng, tuy nhiên ý kiến này không chính xác.
“Tín dụng” (credit) theo tiếng latinh có nghĩa là tín nhiệm, tin tưởng, theo tiếng Việt
được hiểu là vay mượn.
Theo quy định trong thông tư 162/2012/TT-BTC ngày 03/10/2012 của Bộ
Tài chính và Quyết định số 40/2010/QĐ-Ttg của Thủ tướng Chính phủ, hoạt động
ứng vốn chỉ được thực hiện với một số đối tượng cụ thể nằm trong quy định, chịu
sự quản lý của nhà nước và đơn vị ứng vốn về việc sử dụng lượng vốn đã ứng. Xét
về mặt hình thức, ứng vốn có thể giống tín dụng vì đều là sự chuyển giao quyền sử
dụng một khoản vốn cho một đối tượng khác và hoàn trả trong một khoảng thời
gian nhất định để sử dụng vào những mục đích nhất định đã được bên ứng hay cấp
tín dụng đồng ý. Nhưng xét về bản chất, ứng vốn và tín dụng hoàn toàn khác nhau.
Xét về quan hệ giữa các đối tượng: Đơn vị ứng vốn là tổ chức nắm giữ tài
chính của một cấp quản lý nhà nước hay một doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trong xã
hội (đơn vị chủ quản) như tổ chức tài chính nhà nước, phòng ngân quỹ của các đơn
vị, doanh nghiệp…Chủ thể được ứng vốn là một cá nhân, tổ chức cấp dưới tuy
không chịu sự quản lý của đơn vị ứng vốn nhưng chịu sự quản lý của đơn vị chủ
quản. Đối với tín dụng, chủ thể cấp tín dụng có thể là các tổ chức tín dụng hay đơn
vị, cá nhân trong nền kinh tế có nguồn vốn nhàn rỗi trao cho cá nhân, đơn vị cần sử
dụng vốn quyền sử dụng khoản vốn của mình. Như vậy trong tín dụng chỉ có quan
hệ vay mượn, không chịu sự quản lý của nhau.
Xét về mục đích sử dụng vốn: Trong quan hệ ứng vốn, đơn vị được ứng vốn
sử dụng vốn để thực hiện nhiệm vụ được giao hoặc trong kế hoạch, đồng thời chịu



6
sự quản lý giám sát của đơn vị ứng vốn và đơn vị chủ quản. Trong tín dụng, đối
tượng đi vay dùng vốn vay để thực hiện mục đích của mình, mục đích đó có thể
không liên quan đến đối tượng cấp tín dụng.
Xét về nguồn thu và chi phí trả lãi vay hoặc phí ứng vốn: Trong ứng vốn,
phí ứng vốn được tính vào chi phí của công việc hoặc dự án. Khi dự án hoàn thành
có nguồn thu, đơn vị được ứng vốn phải hoàn trả gốc và phí ứng vốn, song thực tế,
phí ứng vốn vẫn là một khoản chi phí mà đơn vị chủ quản phải chịu, phần lợi nhuận
thu được sau khi trừ chi phí đơn vị chủ quản có quyền chỉ đạo sử dụng hoặc phân
bổ cho các cấp. Trong tín dụng, lãi là chi phí của đối tượng đi vay và là thu nhập
của đối tượng cho vay. Với lợi nhuận thu được, đối tượng đi vay được toàn quyền
sử dụng mà không liên quan đến người cho vay.
Trong thực tế, ứng vốn xuất hiện chủ yếu trong hoạt động của các tổ chức
tài chính Nhà nước. Vốn được ứng cho các cấp ngân sách hay các tổ chức theo quy
định để đáp ứng nh cầu vốn chi tiêu tạm thời hay đầu tư phát triển kinh tế, xã hội.
Sau một khoản thời gian nhất định phải chuyển trả lại cho tổ chức đã ứng vốn, tùy
theo từng mục tiêu sử dụng có thể phát sinh phí ứng vốn.
Tóm lại, “Ứng vốn là hoạt động của tổ chức tài chính nhà nước giao cho
đơn vị một khoản vốn để thực hiện mục tiêu kinh tế, xã hội nhất định đã được
phê duyệt trong một thời gian xác định theo nguyên tắc có hoàn trả gốc và phí
(nếu có)”. Đơn vị được ứng vốn phải đúng theo quy định của pháp luật, đồng
thời phải chịu trách nhiệm về số vốn được ứng và chỉ được sử dụng theo đúng
mục đích và nội dung đã được giao. Nếu số tiền ứng không sử dụng hoặc không
sử dụng hết phải chuyển trả lại tổ chức tài chính. Đơn vị được ứng vốn phải cung
cấp đầy đủ hồ sơ chi tiết, chứng từ thanh toán cho tổ chức tài chính và các đơn vị
liên quan. Việc sử dụng vốn phải công khai, minh bạch, hiệu quả, đúng mục đích
và được các tổ chức có thẩm quyền kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Hoạt động này là
một trong những công cụ giúp Nhà nước thực hiện đầu tư trực tiếp vào những dự
án, công trình có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển kinh tế, xã hội của các
địa phương cũng như trên toàn đất nước.

Mặc dù ứng vốn không phải là tín dụng, song do một số điểm giống nhau về
phương thức thực hiện và quy định về hoạt động ứng vốn hiện nay còn thiếu nên có


7
thể áp dụng một số quy định của tín dụng vào hoạt động ứng vốn một cách linh hoạt
sao cho phù hợp với điều kiện cụ thể của hoạt động ứng vốn.
1.1.2 Phân loại
1.1.2.1 Tạm ứng vốn Kho bạc Nhà nước
Theo các quy định trong thông tư 62/2015/TT-BTC ngày 05/5/2015, tạm ứng
vốn KBNN là việc KBNN ứng một khoản vốn cho ngân sách các cấp để thực hiện
các mục tiêu nằm trong quy định trong một khoảng thời gian ngắn (không quá 12
tháng). Các cấp ngân sách được ứng vốn từ Kho bạc chỉ có ngân sách trung ương và
ngân sách các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (ngân sách cấp tỉnh). Ngân
sách trung ương được tạm ứng vốn từ Kho bạc trong trường hợp xử lý thiếu hụt tạm
thời, đáp ứng các nhu cầu chi đột xuất khi ngân sách nhà nước chưa tập trung kịp
nguồn thu. Ngân sách cấp tỉnh được thực hiện tạm ứng để thực hiện các dự án, công
trình đầu tư xây dựng cơ bản trong kế hoạch năm cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện
để sớm hoàn thành, đưa vào khai thác sử dụng mang lại hiệu quả kinh tế xã hội
hoặc các dự án, công trình đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tạo được nguồn thu hoàn
trả vốn tạm ứng đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt để thu hút vốn đầu tư của các
tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Vốn KBNN chỉ thực hiện ứng cho ngân sách
cấp tỉnh và ngân sách trung ương để thực hiện các nhiệm vụ cấp bách trong thời
gian ngắn, do đó được gọi là tạm ứng.
1.1.2.2 Ứng vốn từ Quỹ phát triển đất tỉnh
Quỹ phát triển đất tỉnh là đơn vị mới được thành lập trong vài năm trở lại
đây tại các tỉnh thành trên cả nước. Theo quy định tại Quyết định số 40/2010/QĐTtg, hoạt động ứng vốn của đơn vị tập trung chủ yếu vào thực hiện các nhiệm vụ
liên quan đến lĩnh vực đất đai như ứng vốn để chi bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất; tạo quỹ đất và phát triển quỹ đất, xây dựng cơ sở hạ tầng
trên quỹ đất để đấu giá quyền sử dụng đất phục vụ phát triển kinh tế xã hội địa

phương; ứng vốn chi hỗ trợ xây dựng khu tái định cư, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng
ở các địa phương có đất bị thu hồi hoặc ứng vốn hỗ trợ thực hiện các đề án đào tạo
nghề,chuyển đổi nghề nghiệp cho các đối tượng bị thu hồi đất. Bên cạnh đó, Quỹ
phát triển đất cũng thực hiện ứng vốn cho các nhiệm vụ khác do UBND tỉnh giao.
Hoạt động ứng vốn của Quỹ phát triển đất tỉnh nhằm đáp ứng nhu cầu về


8
vốn trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, tạo quỹ đất và phát triển quỹ
đất phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Tóm lại, hoạt động ứng vốn chủ yếu tập trung cho nhu cầu vốn chi đột xuất
của ngân sách trung ương, các công trình xây dựng cơ bản và chi bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
1.1.3 Vai trò của hoạt động ứng vốn
Vai trò của hoạt động ứng vốn được thể hiện ở các nội dung sau:


Vai trò trong tăng trưởng và phát triển kinh tế

Gia tăng lượng vốn đầu tư vào nền kinh tế: Vốn đầu tư là yếu tố quan trọng
trong việc tăng trưởng kinh tế, nhất là với các nước đang phát triển. Hoạt động ứng
vốn đã cung ứng một lượng vốn lớn vào thị trường thông qua chi tiêu của ngân sách
trung ương và vốn đầu tư cho các dự án. Bên cạnh đó, việc ưu tiên vào những dự án
có tính thu hút vốn đầu tư của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước cũng góp
phần gia tăng thêm một lượng vốn cho hoạt động đầu tư từ nước ngoài. Nhờ đó,
tổng cầu tăng góp phần vào sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án: Vốn là nhân tố quan trọng để hoàn
thành các dự án. Các công trình, dự án thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng, công trình công
cộng như giao thông, bệnh viện, trường học… có tác động lớn đến tình hình phát
triển kinh tế cũng như đời sống, tuy nhiên đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn nhưng thời

gian thực hiện và thu hồi lâu, lợi nhuận thu được thấp. Do đó, các nhà đầu tư
thường không muốn đầu tư vào những lĩnh vực này khiến việc huy động nguồn vốn
trở nên khó khăn. Thực tế cho thấy có những công trình kéo dài nhiều năm do thiếu
vốn. Nguồn vốn đầu tư lĩnh vực này chủ yếu được cấp từ ngân sách Nhà nước theo
dự toán kế hoạch hàng năm. Tuy nhiên, nhiều dự án cấp thiết không nằm trong kế
hoạch hoặc ngân sách không bố trí kịp nguồn vốn khiến việc thực hiện bị trì trệ. Khi
đó, vốn ứng từ các tổ chức tài chính đã giải quyết được vấn đề này, tạo điều kiện
cho các dự án được thực hiện theo đúng tiến độ đã đề ra và nhanh chóng hoàn thành
để đưa vào sử dụng.
Nâng cao chất lượng hệ thống các công trình xây dựng cơ bản: Chất lượng


9
cơ sở hạ tầng, các công trình công cộng là nền tảng cho sự phát triển của mỗi quốc
gia, đồng thời cũng phản ánh trình độ phát triển của quốc gia đó. Một quốc gia có
cơ sở hạ tầng lạc hậu đồng nghĩa với việc kinh tế kém phát triển. Để có một hệ
thống giao thông liên lạc thuận tiện, đồng bộ và hiện đại, các công trình công cộng
có chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu của nhân dân thì phải thường xuyên đầu tư xây
dựng, nâng cấp và tu sửa. Như đã trình bày ở trên, đây là lĩnh vực đầu tư có lợi
nhuận thấp nhưng thời gian kéo dài, do đó hoạt động ứng vốn chính là một trong
những giải pháp cung cấp nguồn vốn kịp thời cho việc xây dựng, sửa chữa các công
trình này.
Là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô: Ta thấy, cơ cấu của nền kinh tế được
quyết định bởi cơ cấu đầu tư. Nhà nước có thể thông qua hoạt động ứng vốn để điều
chỉnh một phần cơ cấu đầu tư hoặc điều chỉnh lượng vốn cung ứng ra thị trường để
thực hiện theo định hướng đã đề ra


Vai trò trong phát triển xã hội


Rút ngắn khoảng cách nông thôn – thành thị, nâng cao chất lượng sống
nhân dân: Hoạt động ứng vốn đã đưa các công trình đầu tư xây dựng cơ bản đến
hầu hết các tỉnh thành trên cả nước giúp cho giao thông và thông tin liên lạc giữa
nông thôn và thành thị ngày càng thuận tiện. Nếu như trước đây nông thôn đồng
nghĩa với nông nghiệp và lạc hậu thì nông thôn mới ngày nay có kinh tế tăng trưởng
nhanh với nhiều ngành nghề kinh doanh và dịch vụ, dân trí cao và tốc độ đô thị hóa
nhanh, cơ sở hạ tầng phát triển, quy hoạch hiện đại, chất lượng cuộc sống đang dần
đuổi kịp thành thị.
Ổn định đời sống và đảm bảo an sinh xã hội: Vốn đầu tư tăng, kinh tế tăng
trưởng đồng nghĩa với việc tăng nhu cầu lao động. Bên cạnh đó, các khoản vốn ứng
chi hỗ trợ tái định cư, thực hiện đề án đào tạo nghề, chuyển đổi nghề nghiệp khi
Nhà nước thu hồi đất cũng tạo điều kiện cho họ có nơi ở mới, có công việc ổn định,
nhờ đó ngăn chặn sự gia tăng tỷ lệ thất nghiệp và hạn chế các tệ nạn xã hội. Cùng
sự tăng trưởng kinh tế, nâng cao dân trí và các dịch vụ công cộng, chất lượng cuộc


10
sống của nhân dân ngày càng được cải thiện, xã hội ngày càng phát triển.


Mở rộng quan hệ quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài

Bên cạnh việc ưu tiên ứng vốn vào các dự án có khả năng thu hút vốn đầu tư
nước ngoài thì cơ sở hạ tầng phát triển chính là điều kiện cho các tổ chức kinh tế
bên ngoài đầu tư vào trong nước, mở rộng quan hệ hợp tác kinh doanh. Đồng thời
một nền kinh tế - xã hội phát triển chính là tiềm lực để nước ta ngày càng hội nhập
và vươn xa hơn trong trường quốc tế.
Nhận thấy, hoạt động ứng vốn là một trong những công cụ đắc lực hỗ trợ
Nhà nước trong sự phát triển cả về kinh tế - xã hội và quan hệ quốc tế.
1.2


NỢ QUÁ HẠN TRONG HOẠT ĐỘNG ỨNG VỐN

1.2.1 Khái niệm
Hoạt động ứng vốn giữ vai trò quan trọng trong kế hoạch phát triển kinh tế.
Để kế hoạch đạt kết quả tốt đòi hỏi phải nâng cao chất lượng hoạt động ứng vốn của
các tổ chức tài chính Nhà nước qua việc kịp thời ứng vốn cho các dự án có nhu cầu
và đủ điều kiện, thu hồi vốn đúng thời hạn, tăng khả năng tái ứng vốn. Tuy nhiên,
trong quá trình hoạt động, nợ quá hạn là điều không thể tránh khỏi .
Theo quy định tại Điều 3 Thông tư 62/2015/TT-BTC, “mọi khoản ứng vốn
KBNN đều phải hoàn trả đúng hạn, đúng quy định, trừ trường hợp được gia hạn do
Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt”. Theo quyết định số 40/2010/QĐ-Ttg, nguyên
tắc hoạt động ứng vốn của Quỹ phát triển đất là “bảo toàn nguồn vốn, bù đắp chi
phí phát sinh, không vì mục đích lợi nhuận” Như vậy, nguyên tắc của hoạt động
ứng vốn là sự hoàn trả, nếu khoản vốn không được hoàn trả đúng thời hạn theo cam
kết mà không có lý do chính đáng thì nó đã vi phạm nguyên tắc hoạt động của đơn
vị ứng vốn. Khi đó khoản vốn cần phải chuyển sang một nhóm nợ khác có mức phí
cao hơn và chế độ giám sát chặt chẽ hơn. Thực tế cho thấy đây là các khoản nợ có
vấn đề, gây ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của tổ chức ứng vốn. Theo quy định
tại Điều 3 Thông tư 02/2013/TT-NHNN “ Khoản nợ quá hạn là khoản nợ mà một
phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn”.
Như vậy, nợ quá hạn trong hoạt động ứng vốn là hiện tượng khi đến hạn


11
thanh toán, các đơn vị được ứng vốn không có khả năng thực hiện nghĩa vụ trả gốc
vốn ứng và phí ứng vốn (nếu có). Nếu không được điều chỉnh kỳ hạn hoặc gia hạn,
số vốn ứng đến hạn phải chuyển sang nợ quá hạn và các đơn vị được ứng vốn phải
chịu phí quá hạn đối với số tiền trả chậm.
Theo quy định tại thông tư 49/2004/TT-BTC ngày 03/6/2004 của Bộ Tài chính

hướng dẫn chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tài chính của các tổ chức tín dụng
Nhà nước, tỷ lệ nợ quá hạn được xác định như sau:
Tỷ lệ nợ quá hạn =

x 100%

Chỉ tiêu nợ quá hạn phản ánh tại một thời điểm xác định, trong 100 đơn vị
tiền tệ ứng ra thì có bao nhiêu đơn vị tiền tệ không thu hồi được đúng theo thời hạn
đã quy định. Chỉ tiêu này thường được đánh giá theo kỳ vào cuối tháng, cuối quý
hoặc cuối năm. Nếu tỷ lệ nợ quá hạn cao đồng nghĩa với hoạt động ứng vốn chưa
đạt được hiệu quả, chất lượng sử dụng vốn chưa tốt, đồng thời gây ảnh hưởng đến
nguồn vốn ứng của các tổ chức ứng vốn.
1.2.2 Phân loại nợ quá hạn
Để có cơ sở đánh giá chất lượng hoạt động ứng vốn và sử dụng vốn ứng,
đồng thời có phương hướng xử lý cụ thể theo từng khoản nợ quá hạn, cần phân loại
nợ quá hạn theo các chỉ tiêu khác nhau để đưa ra được những biện pháp phù hợp.
Nợ quá hạn trong hoạt động ứng vốn được phân loại theo các tiêu chí sau:
* Căn cứ vào thời gian quá hạn
Theo các quy định hiện hành, hiện chưa có văn bản nào quy định phân loại
nợ quá hạn của hoạt động ứng vốn. Theo thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày
21/1/2013 quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự
phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức
tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, nợ quá hạn theo thời gian được phân
chia theo 5 nhóm:
+ Nhóm 1: Nợ quá hạn dưới 10 ngày: nợ đủ tiêu chuẩn
+ Nhóm 2: Nợ quá hạn từ 10 - 90 ngày: nợ cần chú ý
+ Nhóm 3: Nợ quá hạn từ 91 – 180 ngày: Nợ dưới tiêu chuẩn


12

+ Nhóm 4: Nợ quá hạn 181 – 360 ngày : Nợ nghi ngờ
+ Nhóm 5: Nợ quá hạn từ 361 ngày trở lên: Nợ có khả năng mất vốn
So với hoạt động tín dụng của ngân hàng, hoạt động ứng vốn ít gặp rủi ro
do vốn được ứng cho các đơn vị Nhà nước để thực hiện theo các mục tiêu đã đề ra
nhưng thời gian sử dụng vốn thường dài hạn. Dựa trên cơ sở phân loại nợ quá hạn
của ngân hàng nhà nước quy định, kết hợp với đặc điểm của hoạt động ứng vốn, có
thể phân loại nợ quá hạn trong hoạt động ứng vốn thành 3 nhóm sau:
- Nợ quá hạn từ 1- 180 ngày
- Nợ quá hạn từ 181 - 360 ngày
- Nợ quá hạn từ 361 ngày trở lên
* Căn cứ mục đích sử dụng vốn
Căn cứ theo các hoạt động được ứng vốn theo quy định trong thông tư
62/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính và Quyết định số 40/2010/QĐ-Ttg của Thủ
tướng Chính phủ, ta phân loại nợ quá hạn theo mục đích sử dụng vốn thành 4 nhóm:
- Xử lý thiếu hụt tạm thời, đáp ứng nhu cầu chi đột xuất cho ngân sách
Nhà nước
- Đầu tư cho các công trình xây dựng cơ bản
- Chi bồi thường, hỗ trợ, xây dựng cơ sở hạ tầng cho các dự án đấu giá
quyền sử dụng đất
- Hỗ trợ đào tạo nghề, chuyển đổi nghề nghiệp, hỗ trợ tái định cư cho các
đối tượng bị thu hồi đất
* Căn cứ theo đối tượng được ứng vốn
- Ngân sách Nhà nước
- Ngân sách tỉnh
- Ngân sách huyện
- Các tổ chức khác
* Căn cứ theo khu vực địa lý được sử dụng vốn ứng
- Theo khu vực Bắc, Trung, Nam
- Theo tỉnh thành trên cả nước



13
- Theo quận, huyện trong tỉnh
* Căn cứ nguyên nhân phát sinh
- Nợ quá hạn do nguyên nhân chủ quan
- Nợ quá hạn do nguyên nhân khách quan
* Căn cứ khả năng thu hồi
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi 100%
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi 1 phần
- Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi
1.2.3 Nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn
1.2.3.1 Nguyên nhân khách quan
- Môi trường kinh tế không thuận lợi
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nổ ra năm 2008 khiến kinh tế sụt giảm
nghiêm trọng. Trong giai đoạn kinh tế suy thoái hoạt động đầu tư sẽ góp phần kích
thích tổng cầu, song lại gặp nhiều khó khăn trong quá trình huy động các nguồn lực
khác để hoàn thành dự án, khiến tiến độ thực hiện chậm lại. Bên cạnh đó, thị trường
bất động sản phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế nên các dự án đấu giá đất trong
hoàn cảnh này sẽ khó tìm được đầu ra để có nguồn trả nợ. Nguồn thu ngân sách
trong bối cảnh kinh tế khó khăn cũng giảm xuống, trong khi đầu tư công cần tích
cực thực hiện để gia tăng tổng cầu, do đó các khoản vốn ứng cho ngân sách hoặc
các dự án đầu tư xây dựng cơ bản có nguồn vốn từ ngân sách cũng chậm được bố trí
nguồn hoàn trả, công tác thu hồi vốn gặp nhiều khó khăn, khả năng phát sinh nợ
quá hạn cao. Nền kinh tế tăng trưởng ổn định là điều kiện thuận lợi nhất để các hoạt
động diễn ra thành công, song sự phát triển của nền kinh tế mang tính chu kỳ lúc
thịnh lúc suy, nên kể cả trong bối cảnh kinh tế tăng trưởng, bên cạnh việc mở rộng
đầu tư, các đơn vị vẫn nên chủ động có kế hoạch để hạn chế ảnh hưởng khi xảy ra
các biến động xấu trong nền kinh tế.
- Môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh và thống nhất, các quy định
thường xuyên thay đổi gây ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện dự án

Môi trường pháp lý được hiểu là một hệ thống luật và văn bản pháp lý liên


14
quan đến công tác ứng vốn. Các quy định chưa đầy đủ, thống nhất khiến cho quá
trình thực hiện xảy ra nhiều mâu thuẫn, hoặc xảy ra hiện tượng lách luật để thu lợi
cá nhân, làm thất thoát nguồn vốn và chậm tiến độ dự án. Bên cạnh đó, việc thay
đổi các quy định thường xuyên có thể đáp ứng các yêu cầu của thực tế, song một số
trường hợp gây ảnh hưởng không tốt. Ví dụ như quy định về giá đất thay đổi hàng
năm, trong khi quá trình thực hiện dự án có thể kéo dài đến vài năm. Do đó xảy ra
hiện tượng một số đối tượng có đất bị thu hồi không nhận tiền đền bù sớm mà cố
tình kéo dài thời gian để chờ và đòi hỏi giá đền bù theo quy định mới, gây nên sự
mất công bằng và dẫn đến công tác đền bù bị kéo dài, dự án chậm hoàn thành và
không có nguồn hoàn trả đúng theo dự kiến. Ngoài ra, còn có rất nhiều trường hợp
thay đổi quy định gây ảnh hưởng xấu tới tình hình thực hiện dự án.
- Ngân sách cấp trên chưa phân bổ nguồn cho đơn vị trả nợ
Ngân sách Nhà nước được sử dụng cho các hoạt động chi tiêu và đầu tư theo
kế hoạch hàng năm. Với những khoản đầu tư không nằm trong kế hoạch hoặc ngân
sách chưa có nguồn bố trí sẽ được huy động từ các nguồn khác như phát hành trái
phiếu, công trái, huy động tài trợ, viện trợ, vay nợ hoặc ứng vốn từ các tổ chức tài
chính Nhà nước. Do đó nguồn chi trả từ các dự án này sẽ phụ thuộc vào nguồn
phân bổ từ ngân sách. Là nước đang phát triển trong quá trình công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước với lượng vốn đầu tư rộng lớn, nguồn thu có hạn nên việc
bố trí nguồn để trả nợ có phần hơi chậm chạp. Bên cạnh đó, các khoản vay nợ,
phát hành trái phiếu, công trái cần được ưu tiên trả trước, vốn ứng về bản chất vẫn
là vốn của Nhà nước nên thường trong tình trạng quá hạn rất lâu mà chưa được
ngân sách bố trí nguồn hoàn trả.
1.2.3.2 Nguyên nhân chủ quan
* Nguyên nhân từ tổ chức ứng vốn
- Công tác quản lý, tổ chức yếu kém

Nếu công tác quản lý, tổ chức lỏng lẻo không đạt hiệu quả khiến đơn vị
không xác định được đường lối hoạt động cụ thể, dùng người không đúng yêu cầu


15
công việc, các bộ phận không hoạt động đúng chức năng nhiệm vụ của mình mà
đùn đẩy trách nhiệm cho bộ phận khác, hoặc không có sự phối hợp chặt chẽ giữa
các phòng, ban của đơn vị ứng vốn và sự phối hợp với các đơn vị có liên quan
không chặt chẽ, gây ảnh hưởng đến chất lượng ứng vốn và thu hồi vốn ứng, dẫn đến
nợ quá hạn gia tăng.
- Chất lượng cán bộ còn hạn chế
Yếu tố con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại của một tổ chức. Đội
ngũ cán bộ có chất lượng không tốt sẽ khiến tất cả các khâu trong hoạt động của
đơn vị từ thu thập thông tin, thẩm định, quyết định ứng vốn, kiểm tra giám sát và
thu hồi vốn ứng không đạt hiệu quả, gây ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng quản lý
và sử dụng các khoản vốn ứng. Để hoạt động của đơn vị ứng vốn đạt hiệu quả, đòi
hỏi chất lượng cán bộ phải ngày càng được hoàn thiện cả về trình độ chuyên môn
nghiệp vụ và đạo đức con người.
Về trình độ chuyên môn, cán bộ phải am hiểu về quy trình nghiệp vụ của
đơn vị nói riêng và các chính sách pháp luật nói chung, có khả năng đánh giá thẩm
định dự án, phân tích tình hình một cách chính xác để đánh giá tính khả thi của dự
án và khả năng quản lý, sử dụng vốn của đơn vị được ứng vốn. Đồng thời, cán bộ
Quỹ cần có đạo đức, lối sống tốt, tránh để những yếu tố cá nhân gây ảnh hưởng đến
công việc từ đó gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động của cơ quan.
- Quy trình nghiệp vụ chưa phù hợp
Quy trình nghiệp vụ là tổng hợp các nguyên tắc, quy định trong việc ứng
vốn. Một quy trình nghiệp vụ thông thường gồm các bước: Lập kế hoạch ứng vốn,
lập hồ sơ ứng vốn, thẩm định hồ sơ ứng vốn, giải ngân, kiểm tra giám sát tình hình
sử dụng vốn ứng và thu hồi vốn ứng.
Quy trình có thể không phù hợp với tình hình thực tế trên các phương diện

như thời gian, hồ sơ pháp lý hoặc phân công nhiệm vụ cho các thành phần liên quan
trong suốt quá trình thực hiện dự án. Về thời gian, nếu quy định thời gian cho mỗi
giai đoạn quá ngắn sẽ khiến quá trình thực hiện vội vàng, gấp gáp gây ảnh hưởng
đến chất lượng công việc, còn quá dài sẽ gây ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự


16
án. Về hồ sơ pháp lý, hồ sơ được quy định cần đơn giản, cụ thể nhưng đầy đủ và
phù hợp theo từng đối tượng dự án. Quy định về hồ sơ không đầy đủ dẫn đến công
tác thẩm định thiếu cơ sở khiến cho chất lượng thẩm định không tốt, nhưng hồ sơ
quy định phức tạp sẽ gây khó khăn cho đơn vị xin ứng. Ngoài ra, nếu quy trình
nghiệp vụ không xác định được rõ nhiệm vụ của từng phòng ban và mối quan hệ
trong công việc một cách cụ thể sẽ dẫn đến tình trạng đùn đẩy trách nhiệm trong
quá trình thực hiện, gây ảnh hưởng đến hiệu quả công việc. Tóm lại, mỗi vấn đề
được quy định nếu không phù hợp sẽ gây ảnh hưởng xấu cả về thời gian và chất
lượng thực hiện công tác ứng vốn cho dự án, khiến nguy cơ phát sinh nợ quá hạn
của đơn vị tăng lên
- Công tác thẩm định chưa đạt hiệu quả
Thẩm định là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của hoạt động ứng
vốn. Chất lượng thẩm định không tốt khiến khoản vốn ứng có thể bị chi sai mục
đích hoặc khả năng thu hồi thấp, gây ảnh hưởng trực tiếp tới tình hình quản lý
nguồn vốn của đơn vị ứng vốn, làm gia tăng tỷ lệ nợ quá hạn.Có một số nguyên
nhân ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng thẩm định:
Thứ nhất, cán bộ thẩm định nắm bắt thông tin chưa đầy đủ hoặc chưa chính
xác về dự án, về tình hình kinh tế, chính trị, luật pháp có liên quan và các thông tin
khác do đơn vị chưa xây dựng được một hệ thống thông tin đầy đủ, hoặc do cán bộ
có trình độ hạn chế, không có khả năng thu thập và xử lý thông tin, nắm bắt tình
hình thực tế để phân tích đánh giá, từ đó đưa ra những nhận định đúng đắn trong
quá trình thực hiện thẩm định.
Thứ hai, thẩm định sai quy trình và các nguyên tắc ứng vốn do cán bộ thẩm

định còn yếu về chuyên môn nghiệp vụ hoặc cố tình làm sai vì các mục đích cá
nhân, gây thất thoát nguồn vốn của đơn vị.
Vì vậy, các đơn vị ứng vốn cần chú trọng khắc phục những tồn tại trong
công tác thẩm định để hạn chế rủi ro trong hoạt động của mình.
- Công tác kiểm tra giám sát chưa chặt chẽ
Công tác kiểm tra giám sát bao gồm kiểm soát nội bộ và giám sát các đơn vị


17
được ứng vốn. Công tác này mang tính thường xuyên và cần thiết. Nếu kiểm tra
giám sát không thường xuyên, chặt chẽ sẽ khiến hoạt động ứng vốn thực hiện không
đúng hướng, đúng nguyên tắc và quy trình nghiệp vụ, không nắm bắt kịp thời
thông tin trong quá trình thực hiện dự án, gây thất thoát nguồn vốn, ảnh hưởng đến
hoạt động của đơn vị ứng vốn. Thực hiện công tác kiểm tra giám sát đạt hiệu quả là
biện pháp nhằm ngăn ngừa, hạn chế sai sót của cán bộ và các đơn vị được ứng vốn
nhằm nâng cao chất lượng vốn ứng, hạn chế phát sinh nợ quá hạn.
- Thời hạn ứng vốn không phù hợp
Thời hạn ứng vốn là khoảng thời gian mà đơn vị nhận vốn phải hoàn trả
được quy định trong quyết định và hợp đồng ứng vốn. Trong hoạt động ứng
vốn, thông thường thời hạn được thực hiện theo quy định của Nhà nước. Tuy
nhiên thời hạn thực tế của các dự án thường rất dài, trong khi thời hạn ứng vốn
quy định lại rất ngắn, do đó dẫn tới tình trạng không có nguồn để trả nợ đúng
thời hạn. Đây là nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến việc gia tăng tỷ lệ nợ quá
hạn trong hoạt động ứng vốn.
* Nguyên nhân từ đơn vị được ứng vốn và chủ đầu tư
- Năng lực quản lý, thực hiện dự án không hiệu quả
Năng lực quản lý được thể hiện trực tiếp qua kết quả hoạt động. Nếu đội ngũ
quản lý không nhạy bén, linh hoạt sẽ khiến đội ngũ nhân viên hoạt động trì trệ dẫn
đến hoạt động không hiệu quá, dự án không hoàn thành đúng kế hoạch và không có
khả năng trả nợ đúng thời hạn. Do đó công tác thẩm định cần có sự đánh giá chính

xác yếu tố này.
- Đạo đức, uy tín của đơn vị không tốt
Trong thực tế, tính trung thực và khả năng chi trả có thể thay đổi trước hoặc
sau khi khoản ứng vốn được giải ngân. Đơn vị được ứng vốn có thể gian lận về số
liệu, hồ sơ nhằm tăng gia tăng khoản vốn ứng để sử dụng cho các mục đích khác
hoặc do sự gian lận của một số cá nhân. Nếu không được phát hiện thì hành vi này
có thể làm tăng chi phí dự án, giảm nguồn thu cho ngân sách đồng thời ảnh hưởng


18
đến quá trình thực hiện dự án. Bên cạnh đó, việc chiếm dụng những khoản vốn đã
ứng nhưng chưa thực hiện giải ngân để sử dụng vào mục đích khác mà không
chuyển trả về tổ chức đã ứng vốn cũng góp phần làm tăng tỷ lệ nợ quá hạn.
Uy tín của đơn vị được ứng vốn là tiêu chí đánh giá việc đơn vị sẵn sàng trả
nợ và thực hiện các nghĩa vụ cam kết trong hợp đồng, được xác lập dựa trên kết quả
sau mỗi lần thiết lập quan hệ ứng vốn hoặc tín dụng với các tổ chức tài chính. Yếu
tố này cần được thu thập, phân tích thông tin một cách chính xác để xác định đúng
mức độ uy tín của mỗi đơn vị.
1.2.4 Ảnh hưởng của nợ quá hạn
1.2.4.1 Ảnh hưởng đến nền kinh tế
- Tăng sức ép lạm phát
Nợ quá hạn ở mức độ thấp sẽ không có tác động lớn đến nền kinh tế, nhưng
nếu hiện tượng nợ quá hạn ở mức cao khiến khối lượng vốn lớn tồn đọng trong các
dự án, dẫn đến sự khan hiếm vốn một cách giả tạo. Khi đó, lượng tiền trong lưu
thông giảm sút sẽ gây sức ép tăng cùng tiền dẫn đến lạm phát tăng.
- Giảm tốc độ chu chuyển vốn
Do nguồn vốn có hạn nên để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế nhanh,
bền vững, đảm bảo phúc lợi xã hội, chúng ta cần sử dụng vốn một cách hiệu quả,
tốc độ quay vòng vốn đạt chất lượng để đảm bảo hoàn thành mục tiêu. Nợ quá hạn
khiến cho đồng vốn đọng lại trong các dự án mà không thể tiếp tục thực hiện nhiệm

vụ của mình, khiến cho tốc độ luân chuyển vốn chậm lại, ảnh hưởng đến quá trình
thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội.
- Giảm nguồn thu cho ngân sách
Việc thực hiện thành công và đưa các dự án đầu tư xây dựng cơ bản sẽ mang
lại nguồn thu thường xuyên cho ngân sách, hoặc tạo điều kiện cho các lĩnh vực khác
phát triển khiến thu từ thuế, phí, lệ phí tăng lên. Bên cạnh đó, các dự án đấu giá
quyền sử dụng đất thành công sẽ mang lại nguồn thu khá lớn cho ngân sách tỉnh và
các địa phương, tạo nguồn vốn cho việc thực hiện các mục tiêu khác. Khi đơn vị
được ứng vốn không trả được nợ đúng hạn đồng nghĩa với việc dự án không hoàn


19
thành đúng kế hoạch hoặc chưa có nguồn thu để trả nợ, tức là ngân sách cũng chưa
có khoản thu từ những dự án này. Nợ quá hạn kéo dài sẽ làm số vòng quay của vốn
giảm, tức là số lượng dự án được hoàn thành giảm nên nguồn thu ngân sách cũng
giảm theo.
- Giảm đầu tư vào cơ sở hạ tầng và các công trình công cộng
Lượng vốn tồn đọng trong các khoản nợ quá hạn khiến nguồn vốn phục vụ
cho đầu tư giảm. Thêm vào đó các dự án đấu giá quyền sử dụng đất luôn đi kèm
nhiệm vụ tạo nguồn vốn xây dựng cơ sở hạ tầng tại địa phương có đất đấu giá. Khi
các dự án này chưa hoàn thành thì ngân sách chưa có nguồn để phân bổ cho địa
phương, khiến các mục tiêu không có nguồn để thực hiện theo kế hoạch.
- Ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội
Mặc dù không đầu tư trực tiếp vào các lĩnh vực kinh tế nhưng các đơn vị
thực hiện hoạt động ứng vốn đã đóng góp một phần không nhỏ vào việc xây dựng
cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế, tạo điều kiện tiền đề về đất đai cho các dự án công
cộng, an sinh xã hội. Nếu nguồn vốn hoạt động đúng theo lộ trình đã đề ra sẽ giúp
cho kinh tế, xã hội các tỉnh nói riêng và cả nước nói chung đạt được những thành
công nhất định. Ngược lại, khi tỷ lệ nợ quá hạn tăng khiến cho hoạt động đầu tư
không đạt hiệu quả, nguồn vốn tái đầu tư bị thu hẹp, gây ảnh hưởng lớn đến mục

tiêu kinh tế, xã hội của địa phương cũng như đất nước.
1.2.4.2 Ảnh hưởng đến đơn vị ứng vốn
- Giảm hiệu quả sử dụng vốn
Chất lượng ứng vốn được đánh giá dựa trên vòng quay của vốn, dư nợ và tỷ
lệ nợ quá hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn cao kéo theo dư nợ tăng và vòng quay của vốn
giảm, làm giảm tổng vốn ứng cho các dự án, hay nói cách khác hiệu quả sử dụng
vốn không đạt được như mong đợi.
- Giảm khả năng ứng vốn
Nợ quá hạn khiến các kế hoạch thực hiện ứng vốn bị thay đổi do vốn ứng bị
ứ đọng trong các dự án quá hạn, nguồn vốn của đơn vị ứng vốn không thể tiếp tục


20
quay vòng, làm mất cơ hội đầu tư cho các dự án đang cần vốn, ảnh hưởng đến kế
hoạch và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
- Nguy cơ giải thể
Đây là ảnh hưởng nghiêm trọng nhất của nợ quá hạn đối với hoạt động của
tổ chức thực hiện ứng vốn. Nếu nợ quá hạn cứ tiếp tục gia tăng mà không có biện
pháp hạn chế và xử lý sẽ khiến nguồn vốn của bị cạn kiệt, ngân sách không có
nguồn thu để bổ sung nguồn vốn, khi đó nguy cơ giải thể là điều khó tránh khỏi.
1.2.4.3 Ảnh hưởng đến đơn vị được ứng vốn
- Tăng chi phí
Phí ứng vốn quá hạn cao hơn phí ứng vốn trong hạn, do vậy khi đơn vị phát
sinh nợ quá hạn đồng nghĩa với việc đơn vị sử dụng vốn sẽ phải gánh khoản chi phí
lớn hơn, áp lực trả nợ cao hơn. Đồng thời, thời hạn thực hiện dự án kéo dài dẫn đến
trượt giá tăng, làm tăng chi phí nguyên vật liệu đầu vào, khiến tổng chi phí cho dự
án bị tăng theo.
- Gây khó khăn trong việc xin ứng vốn
Phát sinh nợ quá hạn sẽ khiến đơn vị được ứng vốn mất uy tín đối với các tổ
chức tài chính, đồng thời do nguồn vốn bị ứ đọng làm giảm nguồn vốn còn dư của

tổ chức ứng vốn nên khi đơn vị phát sinh những dự án mới sẽ gặp nhiều khó khăn
trong việc tiếp tục xin ứng.
1.3
1.3.1

PHÒNG NGỪA VÀ XỬ LÝ NỢ QUÁ HẠN
Dấu hiệu của khoản nợ có vấn đề

Trên thực tế có rất nhiều dấu hiệu của khoản nợ có vấn đề, nhưng chưa có
một mô hình cụ thể nào phản ánh điều này. Ta có thể dựa vào một số dấu hiệu
thường gặp sau:
- Tiến độ thực hiện chậm so với kế hoạch: Trong mỗi khâu của dự án, nếu
tiến độ thực hiện kéo dài sẽ ảnh hưởng tới kế hoạch toàn bộ dự án. Hoàn thành
chậm so với kế hoạch đã đề ra đồng nghĩa với việc sẽ không có nguồn trả nợ đúng
thời hạn. Do đó cần tích cực giám sát tốc độ thực hiện của các dự án ứng vốn.
- Đơn vị được ứng vốn có thái độ trì hoãn hợp tác trong công tác kiểm tra,


21
giám sát: Phân tích hồ sơ thực hiện kết hợp kiểm tra giám sát tình hình thực hiện dự
án có thể giúp cán bộ nghiệp vụ tìm ra những dấu hiệu cơ bản của việc thực hiện
kém hiệu quả hoặc sử dụng vốn không đúng đối tượng, mục đích theo kế hoạch. Vì
vậy, khi đơn vị được ứng vốn tìm cách trì hoãn hợp tác với cán bộ của trong công
tác này chứng tỏ đơn vị sử dụng vốn có thể không đúng theo kế hoạch hoặc dự án
xuất hiện vấn đề, cần kiểm tra giám sát làm rõ nguyên nhân để có những biện pháp
xử lý kịp thời.
- Hoãn trả gốc và phí khi đến hạn: Đây là dấu hiệu rõ ràng và cụ thể nhất
với các khoản nợ quá hạn, chứng tỏ đơn vị được ứng vốn không có khả năng thanh
toán hoặc có sự chây ì đối với việc trả nợ.
1.3.2 Biện pháp phòng ngừa phát sinh nợ quá hạn

Phòng ngừa là quá trình sử dụng các biện pháp, công cụ trước, trong và sau
quá trình ứng vốn nhằm hạn chế tối đa việc phát sinh nợ quá hạn. Đây là phương án
hiệu quả nhất trong việc nâng cao chất lượng ứng vốn.
* Với các dự án mới
- Nghiên cứu thông tin đơn vị được ứng vốn
Tìm hiểu nắm bắt thông tin về đơn vị xin ứng vốn là yếu tố đầu tiên trước
khi thực hiện thẩm định dự án. Chúng ta cần xem xét nghiên cứu năng lực quản lý,
uy tín của đơn vị, hiểu rõ đơn vị sẽ sử dụng vốn nhằm đánh giá khả năng chi trả của
họ trong tương lai.
- Thiết lập hệ thống thông tin các dự án theo khu vực
Một hệ thống thông tin chi tiết, cụ thể sẽ giúp cán bộ nghiệp vụ cũng như
những đơn vị liên quan có cái nhìn tổng quát hơn, cơ sở cụ thể để đánh giá chi tiết
dự án theo tình hình kinh tế, điều kiện cụ thể từng khu vực, từ đó đưa ra các quyết
định chính xác và có kế hoạch tập trung nguồn vốn trong tương lai vào khu vực nào
để đạt hiệu quả cao nhất.
- Nghiên cứu, điều tra nắm bắt thông tin thị trường
Thị trường đất đai không nằm ngoài quy luật của nền kinh tế. Đơn vị ứng
vốn cần có sự đầu tư vào việc hệ thống hóa các biến động của nền kinh tế, tạo cơ sở


×