Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

BÀI GIẢNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.08 KB, 19 trang )

NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
I. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của Ngân sách Nhà nước
1. Khái niệm ngân sách Nhà nước
Theo luật Ngân sách Nhà nước của Việt Nam (Luật số 01/2002/QH11 do Quốc hội khóa
11, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 16/12/2002) thì ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu,
chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong
một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Theo khái niệm trên thì ngân sách Nhà nước là một bảng kế hoạch tài chính, gắn liền với
quyền lực của Nhà nước, là công cụ vật chất của Nhà nước để thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của mình.
Ngân sách Nhà nước là một bảng kế hoạch tài chính vĩ mô được cơ quan có thẩm quyền
quyết định và được thực hiện trong một thời gian nhất định, thường là 1 năm, năm đó người ta
gọi là năm ngân sách hay năm tài chính. Đây là giai đoạn mà trong đó dự toán thu chi tài chính
được phê chuẩn của Quốc hội có hiệu lực thi hành.
Ở hầu hết các quốc gia, năm ngân sách thường có độ dài là 12 tháng, tuy nhiên thời điểm
bắt đầu và thời điểm kết thúc ở mỗi nước có khác nhau. Chẳng hạn ở Việt Nam, Bỉ, Pháp, Hà
Lan, Trung Quốc, Malaysia, Lào...năm ngân sách trùng với năm dương lịch tức bắt đầu từ ngày
1/1 năm nay và kết thúc vào 31/12 năm nay. Một số nước như Anh, Nhật, Hồng Kông, Ấn Độ năm
ngân sách bắt đầu từ 1/4 năm nay và kết thúc 31/3 năm sau. Ở Mỹ bắt đầu từ 1/10 năm nay và kết
thúc 30/9 năm sau; ở Úc thì từ 1/7 năm nay đến 30/6 năm sau. Việc qui định năm ngân sách
thường là do ý chủ quan của Nhà nước và phụ thuộc vào 2 yếu tố:
+ Đặc điểm hoạt động của nền kinh tế liên quan đến nguồn thu ngân sách.
+ Đặc điểm hoạt động của cơ quan lập pháp.
- Về mặt bản chất, ngân sách Nhà nước là hệ thống các quan hệ tài chính giữa Nhà nước và
xã hội, phát sinh, gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung lớn
nhất của Nhà nước khi Nhà nước huy động và sử dụng nguồn tài chính quốc gia nhằm đảm bảo
yêu cầu thực hiện các chức năng quản lý và điều hành nền kinh tế - xã hội của mình trên cơ sở
luật định.


Mối quan hệ tài chính giữa Nhà nước và xã hội là các quan hệ kinh tế thể hiện dưới hình


thức giá trị phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ của Nhà
nước, mối quan hệ đó bao gồm:
- Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các doanh nghiệp được biểu hiện dưới hình thức như
nộp thuế, cấp phát kinh phí, hỗ trợ giá….
- Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các cơ quan quản lý Nhà nước; quản lý kinh tế xã hội
được biểu hiện dưới các hình thức như cấp phát kinh phí.
- Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với dân cư.
- Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các tổ chức tài chính quốc tế, chính phủ nước khác…
dưới các hình thức như vay nợ, viện trợ….
Đặc trưng cơ bản của các quan hệ trong tạo lập và sử dụng ngân sách Nhà nước là mang
tính pháp lý cao gắn liền với quyền lực chính trị của Nhà nước.
Không giống các loại quỹ tiền tệ khác, ngân sách Nhà nước là một quỹ tiền tệ tập trung lớn
nhất của Nhà nước, hoạt động của Ngân sách Nhà nước được tiến hành trên cơ sở luật định rõ
ràng và mang tính chất hoàn trả không trực tiếp.
2. Đặc điểm của ngân sách nhà nước
Các hoạt động của ngân sách Nhà nước luôn gắn với việc thực hiện các chức năng, nhiệm
vụ của Nhà nước. Vì vậy, mà hoạt động của nó rất đa dạng, liên quan đến mọi lĩnh vực kinh tế xã hội và tác động tới mọi chủ thể trong xã hội. Chính nét đặc thù đó là nhân tố có ảnh hưởng
quyết định tới các đặc điểm của ngân sách Nhà nước. Những đặc điểm của Ngân sách Nhà nước
bao gồm:
Thứ nhất, Ngân sách Nhà nước thuộc sở hữu Nhà nước, do đó Nhà nước là chủ thể duy
nhất quyết định việc sử dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước. Hoạt động ngân sách Nhà nước luôn
luôn gắn chặt với quyền lực kinh tế - chính trị của Nhà nước, được Nhà nước tiến hành trên
những cơ sở luật lệ nhất định.
Đặc điểm này là đảm bảo quyền lãnh đạo tập trung thống nhất của Nhà nước, loại trừ chia
rẽ, phân tán quyền lực trong việc điều hành Ngân sách Nhà nước.
Thứ hai, quy mô quỹ ngân sách Nhà nước và các hình thức thu, chi ngân sách Nhà nước
đều bị quyết định bởi quy mô, tốc độ, chất lượng phát triển của mỗi ngành, mỗi vùng, mỗi địa
phương. Hay nói cách khác, sự phát triển kinh tế sẽ là cơ sở cho sự hình thành nguồn thu của
ngân sách Nhà nước; sự phát triển của xã hội về cơ bản sẽ đặt ra những đòi hỏi về nhu cầu chi



của ngân sách Nhà nước, song các nhu cầu này chỉ có khả năng đáp ứng khi kinh tế có sự phát
triển.
Tuy nhiên, khi đưa vào sử dụng, quỹ ngân sách Nhà nước luôn được phân chia thành các
quỹ tiền tệ nhỏ hơn. Quá trình phân chia quỹ Ngân sách Nhà nước chính là quá trình cấp phát
kinh phí từ Ngân sách Nhà nước để hình thành các loại quỹ nhằm thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của
các lĩnh vực, các ngành theo yêu cầu quản lý của Nhà nước. cụ thể, tương ứng với các cấp ngân
sách, quỹ ngân sách Nhà nước được chia thành: quỹ ngân sách của Chính phủ Trung ương; quỹ
ngân sách của chính quyền cấp tỉnh và tương đương; quỹ ngân sách của chính quyền cấp huyện
và tương đương; quỹ ngân sách của chính quyền cấp xã và tương đương. Phục vụ thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của chính quyền Nhà nước các cấp, quỹ ngân sách lại được chia thành
nhiều phần nhỏ để sử dụng cho các lĩnh vực khác nhau, như: phần dùng cho phát triển kinh tế;
phần dùng cho phát triển văn hoá, giáo dục, y tế; phần dùng cho hoạt động của các lĩnh vực xã
hội, an ninh, quốc phòng…
Thứ ba, Chi tiêu của ngân sách Nhà nước là việc phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của
Nhà nước nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế vĩ mô. Tính hiệu quả hoạt động ngân sách Nhà nước
được xem xét trên tầm vĩ mô, tức là nó phải được xem xét dựa trên cơ sở đánh giá mức độ hoàn
thành các mục tiêu kinh tế - xã hội đã đặt ra mà các khoản chi của ngân sách Nhà nước phải đảm
nhận.
Đặc điểm này có ý nghĩa trong việc định hướng và có biện pháp sử dụng các quỹ tiền tệ
của Nhà nước, tập trung vào việc xử lý các vấn đề kinh tế vĩ mô.
Ví dụ như cấp phát kinh phí cho giáo dục đào tạo nhằm thực hiện mục tiêu nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài; hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp, trợ giá các mặt hàng
nhằm ổn định thị trường, giá cả, kìm chế lạm phát….
Thứ tư, các hoạt động của ngân sách Nhà nước phải được công khai, minh bạch. Đây vừa là
đặc điểm vừa là yêu cầu đặt ra đối với các hoạt động thu, chi ngân sách Nhà nước. Ở đâu làm tốt
được công khai, minh bạch ngân sách, thì ở đó công tác xã hội hóa huy động nguồn thu ngân
sách sẽ đạt tốt và chi tiêu ngân sách sẽ ít bị thất thoát, lãng phí.
3. Vai trò của ngân sách nhà nước
Vai trò của ngân sách Nhà nước được thiết lập trên cơ sở các chức năng và nhiệm vụ cụ thể

trong từng giai đoạn nhất định. Vai trò của ngân sách Nhà nước thể hiện trên các mặt sau:


3.1. Ngân sách Nhà nước giữ vai trò huy động nguồn tài chính để đảm bảo nhu cầu chi tiêu
của Nhà nước
Đây là vai trò truyền thống của ngân sách Nhà nước. Khi Nhà nước xuất hiện, nhằm có đủ
nguồn lực tài chính để duy trì tổ chức bộ máy Nhà nước và thực hiện các chức năng nhiệm vụ
phát triển kinh tế xã hội của mình, bằng quyền lực chính trị, Nhà nước đã kêu gọi sự đóng góp
của xã hội dưới hình thức thuế, công trái, trái phiếu….Nhờ có hoạt động thu này mà Nhà nước
có đủ nguồn lực để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của mình. Tuy nhiên, khi tiến hành huy động nguồn
lực tài chính vào quỹ ngân sách Nhà nước, Nhà nước cần chú ý đến mức độ động viên nguồn tài
chính. Tỷ lệ động viên vào ngân sách Nhà nước đối với tổng sản phẩm quốc nội căn cứ vào chủ
trương phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ. Mức động viên các
nguồn tài chính vào ngân sách Nhà nước của các chủ thể trong xã hội thông qua thuế và các
khoản thu khác phải hợp lý vừa thúc đẩy kinh tế xã hội vừa đảm bảo duy trì sự tồn tại và tăng
cường sức mạnh của bộ máy Nhà nước.
3.2. Vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô các hoạt động kinh tế - xã hội
Đây là vai trò được xuất phát từ những điều kiện kinh tế- xã hội cụ thể trong một giai đoạn
phát triển nhất định. Không những sự phát triển về kinh tế - chính trị của một chế độ Nhà nước
được thể hiện vai trò của ngân sách Nhà nước mà những cuộc cải cách kinh tế cũng có ảnh
hưởng nhất định đến vai trò của ngân sách Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân. Thay đổi kinh
tế bằng cải cách kinh tế đã tác động trực tiếp đến ngân sách Nhà nước. Mỗi cơ chế kinh tế đều có
đặc điểm riêng, ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng các công cụ tài chính. Trong nền kinh tế thị
trường, mọi hoạt động kinh tế, sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế, các ngành kinh tế
chủ yếu tuân theo sự điều tiết của các quy luật vốn có của thị trường. Nhà nước không can thiệp
trực tiếp vào các hoạt động kinh tế - xã hội đó mà chỉ sử dụng luật pháp và các công cụ tài chính,
giá cả, tiền tệ để quản lý. Cũng trong nền kinh tế thị trường, nhiều thành phần kinh tế tồn tại và
được tự do cạnh tranh, tự do liên kết hoạt động. Nền kinh tế được phát triển đa dạng và hình
thành nhiều thị trường mà trước đây chưa có như thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị
trường sức lao động ... Kinh tế thị trường tạo ra động lực phát triển mạnh mẻ. Bên cạnh những

ưu điểm trên thì nền kinh tế thị trường vẫn còn tồn tại các khuyết tật như: Xuất hiện độc quyền
trong sản xuất kinh doanh gây tác hại đến nền kinh tế buộc Nhà nước phải tham gia điều tiết
dưới hình thức tài trợ, thuế. Do chạy theo lợi nhuận, các chủ thể kinh tế cũng đã có những hành
vi vi phạm luật pháp như buôn lậu, trốn thuế, gian lận thuế…, lạm dụng tài nguyên huỷ hoại môi


trường. Cũng như nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, hiện tượng phân hóa xã hội luôn tồn tại
trong nền kinh tế thị trường và dễ gây ra các mâu thuẩn tiêu cực. Để khắc phục những khuyết tật
đó, Nhà nước đã sử dụng hàng loạt các công cụ tài chính trong đó ngân sách Nhà nước được coi
là một trong những công cụ chủ yếu để điều tiết quản lý vĩ mô nền kinh tế xã hội. Vai trò điều
chỉnh vĩ mô của ngân sách Nhà nước đối với các hoạt động kinh tế - xã hội thể hiện trên 3 mặt
tương ứng với 3 nội dung cơ bản sau:
* Về mặt kinh tế: Kích thích sự tăng trưởng kinh tế theo định hướng phát triển kinh tế - xã
hội của ngân sách Nhà nước.
Vai trò này được thực hiện nhờ vào việc vận dụng chức năng huy động và phân bổ nguồn
lực tài chính của Nhà nước vào hoạt động thực tiễn.
Thông qua hoạt động của ngân sách nhà nước góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho phát
triển sản xuất kinh doanh, góp phần hình thành và hoàn thiện cơ cấu sản xuất và cơ cấu kinh tế xã hội, đảm bảo các tỷ lệ cân đối của nền kinh tế, từ đó thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát
triển. Cụ thể, thông qua các khoản thuế và chính sách thuế sẽ đảm bảo vai trò định hướng đầu tư
kích thích hoặc hạn chế kích thích kinh doanh. Thuế, một mặt tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà
nước, một mặt góp phần kích thích sản xuất phát triển, thu hút doanh nghiệp tư nhân bỏ vốn đầu
tư vào các ngành nghề cần thiết và điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo định hướng phát triển kinh tế.
Để thuế phát huy được tác dụng đó thì Nhà nước phải xây dựng một hệ thống thuế bao quát các
hoạt động kinh tế; thuế suất xây dựng phải phù hợp với ngành nghề cần khuyến khích hoặc hạn
chế phát triển. Nhà nước nên thống nhất áp dụng các loại thuế đối với các chủ thể, sử dụng các
loại thuế linh hoạt nhằm: (i) Tạo môi trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, thành phần kinh
tế; (ii) Đảm bảo sự tồn tại và phát triển của sản xuất; (iii) Tạo ra sức ép để các doanh nghiệp
quan tâm đến công nghệ, tiếp cận thị trường nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất.
Việc đưa ra các mức thuế suất khác nhau của từng loại thuế phải tính toán phù hợp với khả năng
đóng góp về thuế của các chủ thể.

Ngoài ra, để tạo thêm nguồn vốn cho nền kinh tế, Nhà nước nên tranh thủ các nguồn vốn
vay trong và ngoài nước phục vụ cho nhu cầu đầu tư phát triển. Việc sử dụng vốn vay phải đảm
bảo nguyên tắc: (1) Vốn vay không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát
triển; (2) Nhà nước phải có kế hoạch thu hồi vốn vay; (3) phải đảm bảo cân đối ngân sách để chủ
động trả hết nợ khi đến hạn.


Bên cạnh hoạt động thu, hoạt động chi ngân sách Nhà nước cũng có tác dụng kích thích
tăng trưởng kinh tế thông qua việc cung cấp nguồn kinh phí để đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng,
hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt, trên cơ sở đó tạo môi trường và điều
kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác. Cấp phát vốn để hình thành các doanh nghiệp Nhà nước, đây được xem là một trong những
biện pháp căn bản để chống độc quyền. Trong những trường hợp cần thiết, Nhà nước tiến hành
hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp đảm bảo cho sự ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị
chuyển đổi sang cơ cấu mới hợp lý hơn
* Về mặt thị trường: Ngân sách Nhà nước là công cụ để bình ổn giá cả, ổn định thị trường
và chống lạm phát.
Sự phát triển ổn định của một nền kinh tế được đánh giá trên những tiêu chí như: Đảm bảo
tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý và bền vững; duy trì cơ cấu kinh tế đã xác định; thực hiện được
cân đối cán cân thanh toán quốc tế; hạn chế sự tăng giá đột ngột; duy trì tỷ lệ lạm phát có thể
kiểm soát được v.v...
Trong nền kinh tế thị trường, qui luật cung cầu chi phối mạnh đến giá cả khiến giá cả luôn
biến động ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của nhà sản xuất. Nhà sản xuất sẽ di chuyển lĩnh
vực đầu tư từ nơi có thu nhập thấp đến nơi có thu nhập cao. Chính điều này dễ dẫn đến cơ cấu
kinh tế bị thay đổi, mất cân đối giữa các ngành, lĩnh vực, phát triển kinh tế không bền vững. Để
đảm bảo lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp và xã hội, giữ vững cơ cấu kinh tế đã xác định và góp
phần giữ vững ổn định của nền kinh tế, thông qua hoạt động của ngân sách, Nhà nước sử dụng
các biện pháp như tạo lập các quỹ dự trữ về hàng hóa và tài chính nhằm đề phòng và ứng phó với
những biến động của thị trường, tạo lập quỹ bình ổn giá, tạo lập và sử dụng quỹ quốc gia hỗ trợ
việc làm... Trong trường hợp nền kinh tế có lạm phát có thể sử dụng biện pháp cắt giảm chi tiêu

ngân sách Nhà nước, tăng thuế tiêu dùng, giảm thuế đầu tư, phát hành công trái, trái phiếu Kho
bạc hoặc sử dụng công cụ tín dụng và lãi suất để thu hút lượng tiền thừa trong lưu thông làm
giảm sự căng thẳng trong quan hệ hàng - tiền.
* Về mặt Xã hội: Ngân sách Nhà nước là công cụ điều chỉnh thu nhập, tạo sự công bằng
trong xã hội, giảm phân hóa giàu nghèo.
Vai trò này được thể hiện thông qua việc sử dụng các công cụ thu - chi của ngân sách Nhà
nước để điều chỉnh thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, giảm bớt những bất hợp lý trong phân


phối, đảm bảo công bằng trong phân phối và góp phần giải quyết những vấn đề xã hội đáp ứng
các mục tiêu xã hội của kinh tế vĩ mô. Cụ thể:
- Sử dụng thuế thu nhập một cách hợp lý để điều tiết và phân phối lại thu nhập của những
người có thu nhập cao cho người có thu nhập thấp
- Thông qua thuế gián thu nhằm hướng dẫn tiêu dùng một cách hợp lý hơn
- Tăng chi đầu tư cho các lĩnh vực văn hóa - xã hội hay xây dựng các công trình phúc lợi
công cộng, chi đảm bảo xã hội (trợ cấp khó khăn, xây nhà tình nghĩa ...), trợ giá các mặt hàng ....
Ngày nay, nhu cầu tài chính để giải quyết các vấn đề xã hội rất lớn. Để giảm bớt gánh nặng
cho ngân sách Nhà nước và thực hiện tốt các vấn đề xã hội. Cần quán triệt phương châm “Nhà
nước và nhân dân cùng làm”. Những khoản chi của Nhà nước cho lĩnh vực này phải tiết kiệm có
hiệu quả.
3.3. Vai trò kiểm tra của ngân sách Nhà nước
Ngân sách Nhà nước có mối quan hệ với các khâu tài chính khác thể hiện ở chỗ các khâu
tài chính khác đều phải làm nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước mặt khác các khâu tài chính này
lại nhận được sự tài trợ, hỗ trợ của ngân sách Nhà nước dưới những hình thức khác nhau một
cách trực tiếp hay gián tiếp.
Xuất phát từ lợi ích chung, ngân sách Nhà nước kiểm tra các hoạt động tài chính khác
không chỉ trong việc làm nghĩa vụ nộp thuế và các khoản phải nộp, trong việc sử dụng các nguồn
tài chính của Nhà nước, sử dụng các tài sản quốc gia mà còn trong việc thực hiện các pháp luật,
chính sách về ngân sách cũng như chính sách, pháp luật có liên quan.
II. Nội dung của ngân sách Nhà nước

1. Thu ngân sách Nhà nước
1.1 Khái niệm và đặc điểm của thu ngân sách Nhà nước
Thu ngân sách Nhà nước là tiền đề cần thiết để duy trì quyền lực chính trị và thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Về mặt hình thức, thu ngân sách Nhà nước bao gồm tất cả các khoản tiền Nhà nước huy
động vào Ngân sách để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Phần lớn các khoản thu mang
tính bắt buộc (những khoản thu có tính chất thuế), phần còn lại là các khoản thu khác của Nhà
nước (thu ngoài thuế).


Về mặt bản chất, thu ngân sách Nhà nước là hệ thống những quan hệ kinh tế giữa Nhà
nước và xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động các nguồn tài chính để hình thành
quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước nhằm thỏa mãn các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Vậy, thu ngân sách Nhà nước là sự động viên nguồn tài chính quốc gia giữa Nhà nước với
các chủ thể trong xã hội dựa trên quyền lực của Nhà nước, nhằm giải quyết hài hòa các lợi ích
kinh tế, xuất phát từ yêu cầu tồn tại và phát triển của bộ máy Nhà nước cũng như yêu cầu thực
hiện các chức năng nhiệm vụ kinh tế xã hội của Nhà nước.
Qua khái niệm về thu ngân sách Nhà nước ta có thể khái quát những đặc điểm của thu
ngân sách Nhà nước như sau :
- Thu ngân sách Nhà nước chứa đựng các quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị dựa trên
cơ sở quyền lực Nhà nước nhằm tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ tiền
tệ tập trung của Nhà nước.
-Thu ngân sách Nhà nước luôn gắn chặt với thực trạng kinh tế và sự vận động của của các
phạm trù giá trị khác như: giá cả, thu nhập, lãi suất …
1.2. Nội dung các khoản thu ngân sách Nhà nước
Thu ngân sách Nhà nước bao gồm:
(1) Thu từ thuế, lệ phí, phí do các tổ chức, cá nhân nộp theo quy định.
* Thuế là hình thức động viên bắt buộc một phần thu nhập của các cá nhân, doanh nghiệp,
tổ chức cho Nhà nước nhằm đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Thuế ra đời và phát triển
gắn với sự tồn tại và phát triển của Nhà nước. Những loại thuế đầu tiên trong lịch sử loài người

xuất hiện cùng với Nhà nước chiếm hữu nô lệ. Ban đầu thuế được thu bằng hiện vật, sau đó, khi
nền kinh tế hàng hóa tiền tệ phát triển hơn, thuế được thu dưới hình thức giá trị. Nhà nước sử
dụng thuế thông qua hệ thống thuế, một mặt để huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước,
mặt khác coi thuế là công cụ phân phối quan trọng tác động vào quá trình quản lý và điều tiết
hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Đặc điểm quan trọng nhất của thuế là tính bắt buộc, tính
không hoàn trả trực tiếp và tính pháp lý cao.
Hiện nay, hệ thống thuế của Việt Nam bao gồm các sắc thuế chủ yếu sau:
Thuế giá trị gia tăng
Thuế tiêu thụ đặc biệt
Thuế xuất khẩu thuế nhập khẩu
Thuế tài nguyên


Thuế sử dụng đất nông nghiệp
Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
Thuế bảo vệ môi trường
Thuế thu nhập doanh nghiệp
Thuế thu nhập cá nhân
Thuế môn bài.
* Phí và lệ phí:
Phí là khoản thu do Nhà nước quy định nhằm bù đắp một phần chi phí của ngân sách Nhà
nước đầu tư, xây dựng, mua sắm, bảo dưỡng và quản lý tài sản, tài nguyên hoặc chủ quyền quốc
gia để phục vụ các tổ chức, cá nhân hoạt động sự nghiệp, hoạt động công cộng hoặc lợi ích công
cộng theo yêu cầu, không mang tính kinh doanh. Ví dụ như học phí, viện phí, phí qua cầu, phà,
phí bảo vệ môi trường….
Lệ phí là khoản thu do Nhà nước quy định đối với tổ chức, cá nhân để Nhà nước phục vụ
công việc quản lý hành chính Nhà nước theo yêu cầu hoặc theo quy định của pháp luật. Ví dụ
như lệ phí hộ tịch, lệ phí trước bạ, lệ phí chứng thư, lệ phí cấp giấy phép hành nghề đăng ký kinh
doanh….
Hiện nay, trong phạm vi cả nước, ở tất cả các bộ ngành ở Trung ương và các tỉnh, thành

phố có khoảng 300 loại phí, khoản phí được phép thu do Chính phủ quy định trong Danh mục
chi tiết ban hành kèm theo Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
Pháp lệnh phí và lệ phí.
(2) Các khoản thu từ các hoạt động kinh tế của Nhà nước. Nhà nước tham gia hoạt động
kinh tế và thu được lợi nhuận trên phần vốn đầu tư của mình. Các khoản thu này tồn tại dưới
nhiều hình thức, biểu hiện hoạt động kinh tế đa dạng của nhà nước. Bao gồm tiền thu hồi vốn của
Nhà nước tại các cơ sở kinh tế; thu hồi tiền cho vay của Nhà nước (cả gốc và lãi); thu nhập từ
vốn góp của Nhà nước vào các cơ sở kinh tế, kể cả thu từ lợi nhuận sau khi thực hiện nghĩa vụ về
thuế của các tổ chức kinh tế có sự tham gia góp vốn của Nhà nước theo quy định của Chính phủ.
(3) Các khoản thu từ việc khai thác tài nguyên thuộc sở hữu Nhà nước dưới các hình thức
như tiền sử dụng đất, thu từ hoa lợi công sản và đất công ích; tiền cho thuê đất, thuê mặt nước;
phần nộp ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật từ tiền bán hoặc cho thuê tài sản
thuộc sở hữu Nhà nước


(4) Các khoản thu viện trợ, đóng góp ủng hộ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước.
Bao gồm:
Đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước như đóng góp cho quỹ phòng
chống thiên tai, ủng hộ đồng bào bão lụt, quỹ an ninh ….
Các khoản viện trợ không hoàn lại bằng tiền hoặc bằng hiện vật của Chính phủ các nước,
các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài cho Chính phủ, các cấp chính quyền và các cơ quan, đơn vị
của Nhà nước.
(5) Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật như các khoản di sản Nhà nước được
hưởng; thu từ tiền phạt, tịch thu, tịch biên tài sản; thu hồi dự trữ Nhà nước, thu chênh lệch giá,
phụ thu ….
Để thuận tiện trong quản lý và điều hành ngân sách Nhà nước. Người ta tiến hành phân loại
thu ngân sách Nhà nước theo các tiêu chí sau:
* Theo nội dung kinh tế. Việc phân loại theo tiêu thức này nhằm thấy rõ sự phát triển của
nền kinh tế, tính hiệu quả của nền kinh tế. Theo cách phân loại này, thu ngân sách Nhà nước bao

gồm
- Nhóm thu thường xuyên có tính chất bắt buộc (như thuế, phí, lệ phí)
- Nhóm thu không thường xuyên bao gồm: các khoản thu từ hoạt động kinh tế của nhà
nước, thu từ hoạt động sự nghiệp, tiền bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước; các
khoản thu viện trợ, đóng góp ủng hộ và các thu khác…
* Theo sự phân cấp ngân sách nhà nước bao gồm thu ngân sách trung ương và thu ngân
sách các cấp chính quyền địa phương.
- Nguồn thu của ngân sách trung ương gồm:
+ Các khoản thu ngân sách trung ương hưởng 100%: như Thuế giá trị gia tăng hàng hóa
nhập khẩu; Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Thuế tiêu thụ đặc biệt hàng hóa nhập khẩu; Thuế
thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch toán toàn ngành; Các khoản thuế và thu khác từ dầu
khí theo quy định của Chính phủ; Tiền thu hồi vốn của ngân sách trung ương tại các tổ chức kinh
tế, thu hồi tiền cho vay của ngân sách trung ương (cả gốc và lãi), thu từ quỹ dự trữ tài chính của
trung ương, thu nhập từ vốn góp của Nhà nước; Viện trợ không hoàn lại của Chính phủ các nước,
các tổ chức quốc tế, các tổ chức khác, các cá nhân ở nước ngoài cho Chính phủ Việt Nam; Các


khoản phí, lệ phí nộp vào ngân sách trung ương; Thu kết dư ngân sách trung ương; Các khoản
thu khác theo quy định của pháp luật;
+ Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa ngân sách trung ương và ngân
sách địa phương: bao gồm Thuế giá trị gia tăng, không kể thuế giá trị gia tăng hàng hóa nhập
khẩu; Thuế thu nhập doanh nghiệp, không kể thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch
toán toàn ngành; Thuế thu nhập cá nhân; Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, không kể thuế
chuyển lợi nhuận ra nước ngoài từ lĩnh vực dầu, khí; Thuế tiêu thụ đặc biệt thu từ hàng hóa, dịch
vụ trong nước; Phí xăng, dầu. Tỷ lệ phân chia do Chính phủ quyết định và tỷ lệ này được áp
dụng thống nhất đối với tất cả các khoản thu được phân chia.
- Nguồn thu của ngân sách địa phương gồm:
+ Các khoản thu ngân sách địa phương hưởng 100%: bao gồm Thuế sử dụng đất phi nông
nghiệp; Thuế tài nguyên (không kể thuế tài nguyên thu từ dầu, khí); Thuế môn bài; Thuế sử dụng
đất nông nghiệp; Tiền sử dụng đất; Tiền cho thuê đất; Tiền cho thuê và tiền bán nhà ở thuộc sở

hữu nhà nước; Lệ phí trước bạ; Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết;Thu hồi vốn của ngân sách địa
phương tại các tổ chức kinh tế, thu từ quỹ dự trữ tài chính của địa phương, thu nhập từ vốn góp
của địa phương; Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức quốc tế, các tổ chức khác, các cá nhân ở
nước ngoài trực tiếp cho địa phương; Các khoản phí, lệ phí, thu từ các hoạt động sự nghiệp và
các khoản thu khác nộp vào ngân sách địa phương theo quy định của pháp luật; Thu từ quỹ đất
công ích và thu hoa lợi công xã khác; Huy động từ các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp
luật; Đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân ở trong nước và ngoài nước; Thu kết dư ngân
sách địa phương; Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
+ Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa ngân sách trung ương và ngân
sách địa phương.
+ Thu bổ sung từ ngân sách trung ương bao gồm:
Thu bổ sung để cân đối ngân sách là mức chênh lệch giữa dự toán chi được giao và dự toán
thu từ các nguồn thu được phân cấp (các khoản thu 100% và các khoản thu phân chia theo tỷ lệ
phần trăm). Số bổ sung cân đối này được xác định từ năm đầu của thời kỳ ổn định ngân sách và
được giao ổn định từ 3 đến 5 năm.
Thu bổ sung có mục tiêu là các khoản bổ sung theo từng năm để hỗ trợ xã thực hiện một số
nhiệm vụ cụ thể.


+ Thu từ huy động đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng theo quy định. Mức dư
nợ từ nguồn vốn huy động không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng
năm của ngân sách cấp tỉnh.
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến thu ngân sách Nhà nước
Những nhân tố ảnh hưởng đến thu ngân sách Nhà nước bao gồm:
- Thu nhập GDP (tổng sản phẩm quốc nội) bình quân đầu người. Đây là nhân tố quan trọng
quyết định khách quan đến mức động viên của ngân sách Nhà nước. Nếu thoát ly chỉ tiêu này khi
ấn định mức động viên của ngân sách Nhà nước sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến vấn đề tiết kiệm, tiêu
dùng và đầu tư của khu vực tư nhân.
- Khả năng xuất khẩu tài nguyên: Xuất khẩu tài nguyên là yếu tố góp phần tăng thu ngân
sách Nhà nước. Đối với nước ta hiện nay thu ngân sách Nhà nước từ thuế còn chiếm tỷ lệ thấp vì

vậy nguồn thu ngân sách Nhà nước từ xuất khẩu tài nguyên chiếm tỷ trọng tương đối lớn. Vì vậy
xuất khẩu tài nguyên là nhân tố ảnh hưởng lớn đến thu ngân sách Nhà nước.
- Tỷ suất lợi nhuận trong nền kinh tế. Tỷ suất lợi nhuận trong nền kinh tế phản ảnh hiệu quả
của đầu tư phát triển kinh tế. Tỷ suất doanh lợi càng lớn thì tài chính càng dồi dào. Trên cơ sở tỷ
suất doanh lợi để xác định tỷ suất thu ngân sách Nhà nước.
- Mức độ trang trải các các khoản chi phí của Nhà nước. Nhu cầu chi tiêu của Nhà nước để
thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước càng lớn thì đòi hỏi mức độ huy động nguồn
thu càng tăng. Vì vậy thu ngân sách Nhà nước phụ thuộc vào mức độ trang trải các khoản chi phí
của Nhà nước.
- Tổ chức bộ máy thu nộp.
Tổ chức bộ máy thu nộp ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thu. Nếu tổ chức bộ máy thu nộp
hợp lý sẽ tạo điều kiện cho việc thu ngân sách Nhà nước đúng đủ, kịp thời các nguồn thu vào
ngân sách Nhà nước. Ngược lại tổ chức bộ máy thu nộp không hợp lý cồng kềnh dẫn đến hiệu
quả của việc thu nộp khá cao, gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Do đó khi cải cách
công tác thu ngân sách Nhà nước cần phải cải cách từ bộ máy thu nộp.
1.4. Những nguyên tắc thiết lập hệ thống thu ngân sách Nhà nước
Thiết lập một hệ thống thu ngân sách nhà nước không chỉ nhằm mục đích duy trì và đảm
bảo nguồn thu ngân sách nhà nước mà còn phải chứa đựng các mục tiêu kinh tế xã hội khác.
Những nguyên tắc thiết lập hệ thống thu ngân sách Nhà nước đó là:


+ Nguyên tắc ổn định và lâu dài: Nguyên tắc này tạo thuận lợi cho công tác kế hoạch hóa
ngân sách và kích thích nộp thuế, cải tiến phương pháp sản xuất kinh doanh.
Yêu cầu của nguyên tắc này là phải ổn định mức thu, ổn định các sắc thuế, không được gây
xáo trộn trong hệ thống thuế. Đồng thời phải lựa chọn đối tượng tính thuế ít biến động.
+ Nguyên tắc đảm bảo sự công bằng: Nguyên tắc này đòi hỏi không phân biệt địa vị xã hội,
thành phần kinh tế, công bằng đối với mọi người chịu thuế.
+ Nguyên tắc rõ ràng và chắc chắn: Nguyên tắc này đòi hỏi các điều luật của các sắc thuế
phải rõ ràng cụ thể rành mạch về mức thuế cũng như căn cứ tính thuế.
+ Nguyên tắc đơn giản: Mỗi sắc thuế đòi hỏi phải hạn chế số lượng thuế suất, xác định rõ

ràng mục tiêu chính.
Khi thiết lập hệ thống thu nếu đảm bảo các nguyên tắc trên không những tăng nguồn thu
cho ngân sách Nhà nước mà cần nuôi dưỡng và phát triển được nguồn thu.
+ Nguyên tắc phù hợp với thông lệ quốc tế:
Trong điều kiện hiện nay, với xu thế hội nhập và toàn cầu hoá, việc thiết lập hệ thống thu
ngân sách Nhà nước còn phải đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế. Điều này có ý nghĩa rất lớn
đối với việc thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội.
2. Chi ngân sách Nhà nước
2.1. Khái niệm và đặc điểm chi ngân sách Nhà nước
Về mặt pháp lý, chi NSNN là những khoản chi tiêu của Chính phủ nhằm thực hiện các mục
tiêu kinh tế - xã hội.
Về mặt bản chất, chi ngân sách Nhà nước thể hiện các quan hệ tiền tệ hình thành trong quá
trình phân phối và sử dụng quỹ ngân sách Nhà nước nhằm trang trải cho các chi phí của bộ máy
Nhà nước và thực hiện chức năng kinh tế xã hội của Nhà nước theo những nguyên tắc nhất định.
Trong thực tế, chi ngân sách Nhà nước là sự kết hợp giữa 2 quá trình phân phối và sử dụng
quỹ ngân sách Nhà nước.
Quá trình phân phối là quá trình cấp phát vốn, kinh phí từ ngân sách Nhà nước để hình
thành các loại quỹ trước khi đưa vào sử dụng.
Quá trình sử dụng là quá trình trực tiếp chi dùng các khoản vốn, kinh phí được cấp phát từ
ngân sách Nhà nước.


Do đó thực hiện các khoản chi ngân sách Nhà nước luôn gắn liền với quan hệ kinh điển đặc
trưng bởi các quan hệ tiền tệ trong phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước theo
nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp. Nhà nước trong bất kỳ chế độ xã hội nào cũng đều đòi hỏi
phải có cơ sở vật chất để đảm bảo điều kiện cho Nhà nước tồn tại và thực hiện các chức năng
nhiệm vụ của mình. Nhà nước sử dụng công cụ tài chính để phân phối các nguồn tài chính trong
xã hội cho những nhu cầu chi tiêu xác định và tổ chức quản lý các khoản chi đó.
Chi ngân sách Nhà nước có các đặc điểm sau:

- Chi ngân sách Nhà nước gắn với bộ máy Nhà nước và chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.
Trong từng thời kỳ nhất định, khi bộ máy Nhà nước được mở rộng và đảm đương nhiều nhiệm
vụ hơn thì mức độ và phạm vi chi ngân sách Nhà nước càng lớn hơn.
- Cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước là chủ thể duy nhất quyết định cơ cấu, nội
dung mức độ các khoản chi của ngân sách Nhà nước. Do đó, chi ngân sách Nhà nước mang tính
pháp lý cao làm cho ngân sách Nhà nước trở thành công cụ có hiệu lực trong quá trình điều hành
và quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước.
- Chi ngân sách Nhà nước mang tính chất không hoàn trả trực tiếp và được xem xét hiệu
quả trên tầm vĩ mô tức là xem xét toàn diện dựa vào sự hình thành các mục tiêu kinh tế xã hội.
- Các khoản chi ngân sách Nhà nước luôn gắn chặt với sự vận động của phạm trù giá trị
khác như: Tiền lương, giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái… Mối quan hệ giữa chi ngân sách Nhà
nước với các chính sách tiền tệ, chính sách tài chính có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc
thực hiện các mục tiêu của kinh tế vĩ mô như: tăng trưởng, công ăn, việc làm, giá cả .v.v.
2.2. Nội dung chi ngân sách Nhà nước
Chi ngân sách Nhà nước là quá trình phân phối có kế hoạch các nguồn tài chính đã được
tập trung vào ngân sách Nhà nước để Nhà nước thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình. Vì
vậy, nội dung chi ngân sách Nhà nước rất đa dạng, phong phú gồm nhiều khoản mục, cho nhiều
mục đích khác nhau. Để tổ chức sử dụng có hiệu quả các khoản chi ngân sách Nhà nước ta phải
tiến hành phân loại. Hiện nay có các cách phân loại chi ngân sách Nhà nước sau:
2.2.1. Phân loại chi ngân sách Nhà nước theo tính chất và phương thức quản lý ngân sách
Nhà nước
Cách phân loại này được áp dụng phổ biến trên thế giới, cho phép xem xét đánh giá được
mối quan hệ chi ngân sách nhà nước cho tăng trưởng kinh tế và duy trì hoạt động thường xuyên
của nhà nước trong từng thời kỳ nhất định.


Theo tiêu thức phân loại này, toàn bộ khoản chi ngân sách Nhà nước được chia thành các
nhóm:
- Các khoản chi thường xuyên: Bao gồm các chi nhằm đảm bảo cho các hoạt động thường
xuyên của Nhà nước gắn liền với chức năng quản lý kinh tế - xã hội của nhà nước. Các khoản chi

thường xuyên mang tính ổn định khá rõ nét. Tính ổn định của chi thường xuyên bắt nguồn từ tính
ổn định trong từng hoạt động cụ thể mà mỗi bộ phận cụ thể thuộc guồng máy của Nhà nước phải
thực hiện. Đại bộ phận các khoản chi thường xuyên mang tính chất tiêu dùng. Chi thường xuyên
của ngân sách Nhà nước được chia làm 2 bộ phận cơ bản. Một bộ phận vốn được sử dụng để đáp
ứng nhu cầu quản lý kinh tế - xã hội chung của Nhà nước và một bộ phận để đáp ứng các nhu
cầu của dân cư trong lĩnh vực phát triển văn hóa, xã hội, có mối quan hệ trực tiếp với thu nhập
của dân cư và nâng cao mức sống dân cư. Chi thường xuyên của nhà nước bao gồm:
* Chi cho hoạt động quản lý hành chính Nhà nước: Đây là các khoản chi nhằm đảm bảo sự
hoạt động của hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, các cơ sở
hoạt động của Đảng và hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội. Đây là khoản chi mang tính
chất tiêu dùng, mặc dù khoản chi này không liên quan trực tiếp đến sản xuất, nhưng rất cần thiết
cho xã hội. Khoản chi này đảm bảo kinh phí hoạt động cho các cơ quan hành chính và cơ quan
chính quyền Nhà nước. Qui mô chi phụ thuộc vào bộ máy quản lý hành chính (tức đội ngũ công
chức, viên chức nhà nước). Bộ máy nhà nước càng cồng kềnh thì khoản chi này càng chiếm tỷ
trọng cao và ngược lại.
* Chi sự nghiệp văn hóa - xã hội là các khoản chi của ngân sách cho các nhu cầu của xã
hội về đào tạo, giáo dục, y tế, văn hóa, thông tin, phúc lợi xã hội và trợ cấp xã hội... nhằm nâng
cao trình độ văn hoá, chăm lo bảo vệ sức khoẻ cho quần chúng nhân dân; xây dựng và phát triển
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho quần
chúng nhân dân cũng như thực hiện các nhiệm vụ thông tin tuyên truyền các đường lối, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Đây là khoản chi cần thiết không thể thiếu đối với xã hội vì khoản chi này liên quan trực
tiếp đến việc nâng cao dân trí, đảm bảo sức khoẻ cho nhân dân mà những vấn đề này lại có mối
quan hệ mật thiết với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Qui mô chi cho sự nghiệp văn hóa xã hội
phụ thuộc vào: Khả năng của ngân sách Nhà nước; Chính sách xã hội của Nhà nước.
Ngoài ra, chi sự nghiệp văn hóa – xã hội còn là phương tiện để Nhà nước thực hiện quá
trình phân phối lại thu nhập nhằm mục tiêu công bằng xã hội.


* Chi cho hoạt động sự nghiệp kinh tế: Đây là những khoản chi nhằm phục vụ cho yêu cầu

phát triển của nền kinh tế. Bao gồm chi cho hoạt động khảo sát, thiết kế, thăm dò; hoạt động tuyên
truyền phổ biến khoa học kỹ thuật, hoạt động nông lâm nghiệp, thuỷ lợi, công cộng ...
Hoạt động sự nghiệp kinh tế mang tính chất phục vụ chứ không nhằm mục đích kinh doanh
lấy lãi, do đó hoạt động của các đơn vị sự nghiệp kinh tế không theo nguyên tắc hạch toán kinh
doanh mà được đảm bảo bởi kinh phí ngân sách Nhà nước.
* Chi quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội: Là khoản chi nhằm củng cố nền an
ninh chính trị quốc gia. Bao gồm các khoản chi đầu tư xây dựng các công trình quốc phòng, chi
mua sắm, bảo dưỡng các phương tiện kỹ thuật phục vụ cho hoạt động quốc phòng, chi trang bị
cho quân đội, chi nuôi quân và chi phí khác...Qui mô khoản chi phụ thuộc vào: Tình hình chính
trị và an ninh quốc phòng của mỗi nước trong từng thời kỳ. Chi an ninh quốc phòng thường được
gọi là chi tiêu dùng đặc biệt, khoản chi này thường là gánh nặng cho ngân sách Nhà nước nhưng
không thể không duy trì lực lượng phòng thủ quốc gia. Tuy nhiên mỗi quốc gia chỉ nên duy trì ở
mức chi cần thiết.
* Các khoản chi thường xuyên khác theo qui định của pháp luật: Bao gồm trợ giá theo
chính sách của Nhà nước; phần chi thường xuyên thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia, dự
án Nhà nước; ….
- Chi đầu tư phát triển: Đây là những khoản chi nhằm tạo ra cơ sở vật chất cho các lĩnh
vực, nhất là cơ sở kinh tế của Nhà nước và làm tăng sản phẩm quốc nội (GDP). Các khoản chi
này có tác dụng góp phần làm cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Đây là khoản chi lớn
của ngân sách Nhà nước nhưng không mang tính ổn định. Đại đa số các khoản chi đầu tư phát
triển mang tích chất tích lũy. Đối tượng đầu tư của Nhà nước thường là các công trình thuộc kết
cấu hạ tầng, các ngành kinh tế mũi nhọn then chốt và những công trình kinh tế không thể dựa
vào đầu tư tư nhân nhưng hoạt động của chúng cần thiết cho xã hội. Việc đầu tư phát triển kinh
tế thường đòi hỏi số vốn đầu tư lớn thời gian dài, và thường chúng không mang lại lợi nhuận trực
tiếp mà hiệu quả của chúng thể hiện ở sự phát triển kinh tế nói chung. Chi đầu tư phát triển kinh
tế không chỉ có chi đầu tư mới còn bao gồm cả chi đầu tư mở rộng và đầu tư chiều sâu. Trong đó
đặc biệt chú ý đầu tư chiều sâu vì hiệu quả kinh tế của chúng thường lớn hơn hiệu quả đầu tư
theo chiều rộng vì:
+ Nhu cầu vốn đầu tư nhỏ hơn.
+ Thời gian đầu tư ngắn hơn.



+ Thời gian thu hồi vốn cũng ngắn hơn.
Chi đầu tư phát triển bao gồm những khoản chi cơ bản sau:
+ Chi đầu tư xây dựng cơ bản hay nói cách khác là chi đầu tư xây dựng các công trình kết
cấu hạ tầng - kinh tế xã hội không có khả năng thu hồi vốn, các công trình thuộc các doanh nghiệp
Nhà nước theo kế hoạch được duyệt, các dự án quy hoạch vùng lãnh thổ.
+ Chi đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài chính
của Nhà nước
+ Chi góp vốn cổ phần, góp vốn liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết
có sự tham gia của Nhà nước
+ Chi đầu tư phát triển thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án Nhà nước.
+ Chi bổ sung dự trữ Nhà nước
+ Các khoản chi đầu tư phát triển khác.
- Chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền tiền do Chính phủ vay: Chi trả nợ bao gồm :
Trả nợ trong nước là những khoản nợ mà Nhà nước vay của các tầng lớp dân cư, tổ chức
kinh tế - Xã hội bằng việc phát hành các loại chứng khoán của Nhà nước như: trái phiếu chính
phủ, trái phiếu công trình, tín phiếu Kho Bạc ...
Trả nợ nước ngoài các khoản nợ nước ngoài mà Nhà nước vay của Chính phủ các nước,
các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, tài chính, tiền tệ quốc tế.
2.2.2. Phân loại chi ngân sách Nhà nước theo mục đích chi tiêu: ngân sách Nhà nước chia
thành hai loại chi cho tích lũy và chi cho tiêu dùng
- Chi cho tích lũy là những khoản chi của ngân sách Nhà nước làm gia tăng cơ sở vật chất
và tiềm lực cho nền kinh tế, góp phần tăng trưởng kinh tế. Các khoản chi tích lũy gồm có:
+ Chi đầu tư xây dựng cơ bản.
+ Chi cấp vốn lưu động cho các doanh nghiệp.
+ Chi dự trữ vật tư chiến lược của Nhà nước.
+ Các khoản chi tích lũy khác.
- Chi tiêu dùng của ngân sách Nhà nước: Là các khoản chi không tạo ra sản phẩm vật chất cơ sở vật chất. Chi tiêu dùng bao gồm:
+ Chi cho sự nghiệp kinh tế

+ Chi cho sự nghiệp văn hóa, giáo dục xã hội.
+ Chi cho sự nghiệp y tế, khoa học, kỹ thuật


+ Chi cho quản lý hành chính Nhà nước
+ Chi cho quốc phòng an ninh.
+ Chi cho ngoại giao, cho phát triển quan hệ quốc tế
+ Chi tiêu dùng khác
Cách phân loại này giúp cho việc nghiên cứu phân tích đánh giá quá trình phân phối kinh
phí góp phần giải quyết mối quan hệ cân đối lớn trong nền kinh tế là quan hệ cân đối giữa tích
lũy và tiêu dùng.
2.2.3. Phân loại chi ngân sách Nhà nước theo nội dung chi tiêu, lĩnh vực chi cụ thể.
Theo cách phân loại này chi ngân sách Nhà nước gồm:
+ Chi cho phát triển kinh tế
+ Chi cho phát triển giáo dục, đào tạo
+ Chi cho khoa học - công Nghệ môi trường
+ Chi cho y tế
+ Chi cho văn hóa, thể dục thể thao
+Chi cho xã hội
+ Chi cho quản lý Nhà nước các cấp
+ Chi cho quốc phòng, an ninh
+ Chi viện trợ
Cách phân loại này giúp ta phân tích đánh giá hiệu quả, tính đúng đắn của việc phân phối
ngân sách Nhà nước gắn với các hoạt động của Nhà nước, thông qua đó xem xét tỷ trọng của các
loại chi ngân sách Nhà nước và sự biến đổi của nó qua các thời kỳ để đánh giá tính đúng đắn của
việc phân phối sử dụng nguồn tài chính của Nhà nước.
2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến chi ngân sách Nhà nước
Nội dung, cơ cấu chi ngân sách Nhà nước của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ nhất định
chịu ảnh hưởng của các nhân tố sau:
Chế độ xã hội: Chế độ xã hội quyết định bản chất và nhiệm vụ kinh tế xã hội của Nhà

nước, do đó nó ảnh hưởng quyết định đến nội dung, cơ cấu chi ngân sách Nhà nước.
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất, yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại
hóa đất nước. Nhân tố này vừa tạo ra khả năng và điều kiện hình thành nội dung, cơ cấu chi một
cách hợp lý, vừa đặt ra yêu cầu thay đổi nội dung, cơ cấu chi trong từng thời kỳ nhất định.


- Khả năng tăng trưởng nền kinh tế, khả năng tích luỹ của nền kinh tế càng lớn thì mức
chi cho đầu tư phát triển càng lớn.
- Trình độ tổ chức quản lý chi ngân sách Nhà nước (tổ chức phân phối quỹ ngân sách Nhà
nước, trình độ tổ chức giải ngân ...)
Ngoài ra, nội dung, cơ cấu chi ngân sách Nhà nước còn chịu ảnh hưởng bởi sự biến động
của các nhân tố về kinh tế, chính trị, xã hội và các nhân tố liên quan đến giá cả, lãi suất, tỷ giá
hối đoái...
2.4. Những nguyên tắc tổ chức chi ngân sách Nhà nước
Chi ngân sách Nhà nước là quá trình phân phối và sử dụng quỹ ngân sách Nhà nước nhằm
thực hiện chức năng nhiệm vụ của Nhà nước, chi ngân sách Nhà nước là động lực phát triển kinh
tế, văn hóa giáo dục xã hội... Vì vậy khi tổ chức các khoản chi ngân sách Nhà nước phải dựa trên
những nguyên tắc nhất định.
- Gắn chặt khả năng thu để bố trí các khoản chi ngân sách Nhà nước: Mục đích là nhằm
đảm bảo tính cân đối của ngân sách Nhà nước, tránh tình trạng bội chi ngân sách Nhà nước.
- Đảm bảo yêu cầu tiết kiệm và có hiệu quả trong việc bố trí các khoản chi tiêu của ngân
sách Nhà nước.
- Tuân thủ nguyên tắc “Nhà nước và nhân dân cùng làm” nhất là các khoản chi mang tính
chất phúc lợi xã hội. Mục đích là nhằm giảm nhẹ gánh nặng trong chi tiêu ngân sách Nhà nước.
- Khi tổ chức chi ngân sách Nhà nước phải thực hiện tập trung vào chương trình trọng
điểm, tập trung vào các ngành mũi nhọn, những ngành này làm cơ sở cho việc thực hiện công
nghiệp hóa hiện đại hóa. Mục đích là nhằm đảm bảo tính mục đích và khả năng tiết kiệm các
khoản chi ngân sách Nhà nước.
- Phân biệt rõ nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của các cấp theo luật pháp để bố trí các
khoản chí cho thích hợp. Mục đích là nhằm tránh việc bố trí các khoản chi chồng chéo, khó kiểm

tra, giám sát, nâng cao trách nhiệm và tính chủ động của các cấp.
- Kết hợp chặt chẽ các khoản chi ngân sách Nhà nước với khối lượng tiền tệ, lãi suất, tỷ
giá hối đoái...



×