Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Đảng lãnh đạo công tác giáo dục đào tạo ở miền bắc giai đoạn 1954 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (604.56 KB, 71 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH sử
===£T)£ũlGa===

PHÙNG THỊ XUÂN

ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC
GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở MIỀN BẮC
GIAI ĐOẠN 1954 -1975
KHÓA LUẬN TÓT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng

Người hướng dẫn khoa học
TS. TRẦN THỊ VUI

HÀ NỘI, 2016


LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Trần Thị Vui - nguời đã tận tình
hướng dẫn, chỉ bảo và truyền đạt kinh nghiệm cho em trong suốt quá trình nghiên cứu
đề tài khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Lịch sử, các thầy cô
trong bộ môn Lịch sử Đảng trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, đã tạo điều kiện giúp
đỡ em hoàn thành khóa luận của mình.
Do lần đầu tiên làm quen với công tác nghiên cứu khoa học nên đề tài nghiên
cứu khóa luận của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận
được ý kiến đóng góp của các thầy cô và các bạn sinh viên để đề tài này được hoàn
thiện hơn.
Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2016


Sinh viên

Phùng Thị Xuân


LỜI CAM ĐOAN

Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thảnh dưới sự hướng dẫn của TS. Trần
Thị Vui. Em xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng em.
Neu sai em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Các số liệu, tài liệu nêu ra trong báo cáo khoa học là trung thực, đảm bảo tính
khách quan, khoa học.
Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2016
Sinh viên

Phùng Thị Xuân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
Chương 1. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG TÁC GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
Ở MIỀN BẮC GIAI ĐOẠN 1954 - 1975 .................................................................... 8

1.1. Đăc điểm tình hình...................................................................................8
«

1.2. Chủ trương của Đảng về phát triển giáo dục - đào tạo ở miền Bắc
giai đoạn 1954 -1975 .......................................................................................11
Chương 2. QUÁ TRÌNH THựC HIỆN CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG TÁC

GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở MIỀN BẮC GIAI ĐOẠN 1954 - 1975......................... 27

2.1. Giáo dục - đào tạo trong những năm khôi phục, hàn gắn yết thương
chiến tranh và cải tạo xã hội chủ nghĩa (1954 - 1960) ................................ 27
2.2. Sự nghiệp giáo dục - đào tạo miền bắc trong thực hiện kế hoạch 5
năm lần thứ nhất (1961 - 1965)......................................................................35
2.3. Giữ vững và phát triển giáo dục - đào tạo ở miền Bắc giai đoạn 1965
- 1975.......................................................................................................................... 43
Chương 3. NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM ........................................... 53
3.1. Nhận xét ............................................................................................................ 53
3.2. Một số kinh nghiệm .......................................................................................... 59
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 68


MỞ ĐÀU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một dân tộc có truyền thống hiếu học, truyền thống đó đã trở
thành nét đẹp của nền văn hiến nước Việt. Lịch sử Việt Nam đã chứng minh: khi nào
Nhà nước quan tâm đến việc phát triển giáo dục, trọng dụng nhân tài, thì lúc đó đất
nước hưng thịnh.
Giáo dục - đào tạo giữ một vai trò quan trọng trong sự nghiệp cách mạng dân
tộc, góp phần đào tạo đội ngũ nhân tài phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, nhân ngày khai giảng đầu
tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi các
học sinh, nêu rõ vai trò to lớn của giáo dục đối với sự nghiệp kiến thiết nước nhà:
“Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài
vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ
một phần lớn ở công học tập của các em”.
Trước, trong cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp Đảng đã chú

trọng đến công tác giáo dục - đào tạo, từng bước xây dựng nền giáo dục Việt Nam,
khắc phục những khó khăn, tàn dư của nền giáo dục thực dân để lại, bước đầu đã đạt
được những thành tựu nhất định.
Sau năm 1954, tình hình đất nước có nhiều thay đổi. Miền Bắc được hoàn toàn
giải phóng và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam bước vào cuộc kháng chiến
chống Mỹ vô cùng cam go, khốc liệt. Đảng đề ra chủ trương xây dựng con người mới
xã hội chủ nghĩa, nguồn nhân lực của hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa, phục vụ
công cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Cùng với đó, sự viện
trợ của Liên Xô, Trung Quốc về trang thiết bị vũ khí hiện đại cho cuộc chiến tranh
Việt Nam ngày càng gia tăng. Thực tiễn ấy đã đặt ra yêu cầu cần đào tạo đội ngũ cán
bộ ngày càng có năng lực chuyên môn cao, đồng thời với nâng cao trình độ dân trí cho
nhân dân, giúp nhân dân nhận thức và ý thức được nghĩa vụ của công dân, thấu hiểu
và ủng hộ những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Để làm được những
mục tiêu trên cần phải phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Chính vì vậy sự nghiệp

1


giáo dục - đào tạo ở miền Bắc giai đoạn 1954 - 1975 càn được nghiên cứu một cách
toàn diện và càn có những đánh giá đúng đắn nhất, không những thế, nghiên cứu công
tác giáo dục - đào tạo ở miền Bắc trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội góp phàn
làm phong phú lịch sử dân tộc.
Công cuộc đổi mới đất nước đang diễn ra mạnh mẽ, vì vậy nghiên cứu sự phát
triển của công tác giáo dục - đào tạo có thể đúc rút bài học kinh nghiệm bổ ích cho chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định đường lối phát triển
giáo dục - đào tạo cho mỗi vùng miền nói riêng và cả nước nói chung.
Với ý nghĩa như vậy, em chọn đề tài “Đảng lãnh đạo công tác giáo dục - đào
tạo ở miền Bắc giai đoạn 1954 - 1975” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân lịch
sử của mình.


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giành thắng lợi, miền Bắc
được hoàn toàn giải phóng và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đã có nhiều công
trình nghiên cứu về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nhưng riêng vấn
đề giáo dục - đào tạo trong những năm 1954 - 1975 chưa có nhiều. Gần đây, mảng đề
tài này đang ngày càng thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, tiếp cận dưới
nhiều góc độ khác nhau.
Đối với sự nghiệp giáo dục - đào tạo ở miền Bắc từ 1954 - 1975, hiện nay được
đề cập tản mát trong các công trình sau:
Phạm Văn Đồng, Mẩy vấn đề về văn hóa giảo dục. Cuốn sách đề cập đến
những bài nói và viết của đồng chí Phạm Văn Đồng về văn hóa và giáo dục, tầm quan
trọng của sự nghiệp giáo dục phổ thông, trách nhiệm của đội ngũ giáo viên, tình hình
cách mạng và nhiệm vụ văn nghệ.
Phạm Minh Hạc, Sơ thảo giáo dục Việt Nam (1945 - 1992), tập trung nghiêm
cứu lịch sử, cải cách và tổ chức giáo dục, xóa bỏ nạn mù chữ và phổ cập giáo dục sơ
đẳng; giáo dục trước tuổi đi học, giáo dục cao đẳng, hệ thống các trường trung học, kỹ
thuật và các trường dạy nghề, giáo dục bổ sung, đào tạo tại chức và giáo dục liên tục.
Nghiên cứu về giáo dục và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.

2


Truờng Đại học Su phạm thành phố Hồ Chí Minh biên soạn cuốn: 60 năm
ngành Sư phạm Việt Nam (1946 - 2006), tập trung viết về một số ý kiến của Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đồng chí Phạm Văn Đồng về ngành su phạm; giới thiệu sơ luợc 60
năm ngành su phạm Việt Nam, ngành su phạm truớc tuơng lai đất nuớc và nhân dân;
những hình ảnh 60 năm ngành su phạm Việt Nam (1946 - 2006). Tuy nhiên tác phẩm
mới chỉ đề cập tới ngành su phạm nói riêng.
Tác giả Trần Hồng Quân với cuốn: Năm mươi năm phát triển sự nghiệp giáo
dục và đào tạo (1945 - 1995) cuốn sách chuyên khảo về lịch sử sự nghiệp giáo dục và

đào tạo Việt Nam từ năm 1945 - 1995.
Lê Văn Giạng, Lịch sử giản lược: hơn 1000 năm nền giảo dục Việt Nam, đã
khái quát nền giáo dục Việt Nam qua các giai đoạn phát triển của lịch sử từ nền giáo
dục nho học đến thời Pháp thuộc, thời kỳ giải phóng đất nuớc, thời kỳ xây dựng xã hội
chủ nghĩa cùng sự phát triển của các quan điểm và những cải tiến trong giáo dục Việt
Nam.
Cuốn Giáo dục Việt Nam 1945 - 2010 của Phạm Tất Dong, giới thiệu tổng quát
về lịch sử hình thành, phát ữiển và những thảnh tựu của nền giáo dục Việt Nam qua
các thời kỳ; đồng thời ghi lại những nét đặc thù của sự nghiệp giáo dục - đào tạo của
26 tỉnh, thành phố trong giai đoạn 1945 - 2010.
Giáo dục đại học ở miền Bắc thời kỳ 1954 - 1975 của tác giả Ngô Văn Hà đã
trình bày những vấn đề cơ bản về tình hình giáo dục đại học ở miền Bắc giai đoạn
1954 - 1975; đồng thời đua ra một vài nhận xét và bài học kinh nghiệm.
về các luận án, luận văn có liên quan đến đề tài:

Luận án của Nguyễn Thúy Quỳnh - Giáo dục phổ thông ở miền Bẳc từ năm
1954 đến năm 1975. Trình bày những yếu tố lịch sử, kinh té, xã hội tác động đến quá
trình xây dựng và phát triển giáo dục phổ thông ở miền Bắc Việt Nam qua các giai
đoạn 1954 - 1965 và 1965 - 1975. Phân tích, đánh giá về những thành công, hạn chế
và chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến những thành tựu, hạn chế trong phát triển giáo
dục phổ thông; đánh giá vai trò, vị trí những đóng góp quan trọng của giáo dục phổ
thông miền Bắc, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết.

3


Luận án của Ngô Văn Hà - Đảng lãnh đạo sự nghiệp giáo dục đại học ở miền
Bắc (1954 - 1975). Phân tích, trình bày chủ trương, biện pháp của Đảng và Chính phủ
trong việc xây dựng nền giáo dục đại học qua các giai đoạn 1954 - 1965 và 1965 1975. Làm rõ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục đại
học 1954 - 1975. Qua đó nêu lên những thành tựu, hạn ché và rút bài học kinh nghiệm

phục vụ cho việc xây dựng nền giáo dục đại học hiện nay.
Một số bài viết của các nhà khoa học đăng trên các tạp chí như:
Tạp chí Lịch sử Đảng: Giáo dục đại học miền Bắc phục vụ sản xuất và chiến
đẩu của Ngô Văn Hà, 2008, số 4, tr.15-19. Quan điểm của Đảng về xây dựng và phát
triển giáo dục đại học, đào tạo cán bộ chuyên môn (1945 - 1975) - Ngô Văn Hà, số
12, 2010. Xây dựng đội ngũ trí thức ở miền Bẳc (1954 - 1965) - Nguyễn Thu Hải, số 4,
2015.
Tạp chí Khoa học giáo dục: 60 năm phát triển nền giáo dục Việt Nam, Phạm
Minh Hạc, 2005, số 1, tr.3 - 6; số 2, tr.l - 6.
Tạp chí Nghiên cứu giáo dục: Nen giảo dục Việt Nam -50 năm trên chặng
đường xây dựng và phát triển, Phạm Tất Dong, 1995, số 2.
Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử: về cải cách hệ thống giáo dục phổ thông năm
1956 ở miền Bắc Việt Nam - Nguyễn Thúy Quỳnh, 2013, số 7.
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu trên mới chỉ đề cập đến một mặt,
một vấn đề nào đó hoặc đã trình bày khái quát nhưng chưa thật sự sâu sắc về công tác
giáo dục ở miền Bắc từ năm 1954 đến năm 1975.
Vì vậy, theo tác giả đề tài khóa luận hoàn toàn mới, không trùng lặp với bất kỳ
công trình, luận án, luận văn nào trước đây.

3. Mục đích, đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
3.1. Mạc đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là đi sâu tìm hiểu một cách có hệ thống, toàn
diện về công tác giáo dục - đào tạo ở miền Bắc thời kỳ 1954 - 1975; vai trò lãnh đạo
của Đảng và Chính phủ, sự phát ưiển về giáo dục và đào tạo; đồng thời thấy được
những đóng góp của quàn chúng nhân dân đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã

4


hội ở miền Bắc và cuộc kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam. Từ đó khẳng định những

giá trị to lớn, rút ra ý nghĩa sâu sắc của vấn đề.
3.2. Đổi tượng nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu về công tác giáo dục - đào tạo ở miền Bắc trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội từ 1954 đến 1975.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đe đạt được mục đích nghiên cứu trên, khóa luận có nhiệm vụ giải quyết các
vấn đề sau:
Làm rõ hoàn cảnh lịch sử, chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ về
công tác giáo dục - đào tào ở miền Bắc trong thời kỳ 1954 - 1975.
Làm rõ sự chuyển biến trong công tác giáo dục - đào tạo ở miền Bắc thời kỳ
1954 - 1975 dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đánh giá sự phát triển của giáo dục - đào tạo, ý nghĩa của vấn đề đối với sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc cũng như sự nghiệp kháng chiến chống
Mỹ ở miền Nam và rút ra một số kinh nghiệm.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
về nội dung: nghiên cứu về giáo dục - đào tạo ở miền Bắc thời kỳ 1954 -

1975.
về không gian: nghiên cứu sự phát triển giáo dục - đào tạo ở miền Bắc trong

công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
về thời gian: nghiên cứu công tác giáo dục - đào tạo trong thời gian từ 1954 -

1975.

4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiền cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Thực hiện đề tài này tác giả đã nghiên cứu các tài liệu bao gồm các văn kiện

của Đảng và Nhà nuớc để tiếp cận với những chủ truơng, chính sách của Đảng và

Chính phủ về giáo dục - đào tạo nói chung.
Đe nghiên cứu vấn đề này tác giả cũng tìm đọc nguồn tu liệu phong phú tại
Thu viện Quốc gia. Đó là những cuốn sách, những luận án Tiến sĩ... Từ đó đuợc ké

5


thừa những kết quả nghiên cứu có giá trị của các nhà khoa học.
Nguồn tài liệu trên đây cho phép tác giả giải quyết những nhiệm vụ cơ bản mà
đề tài đặt ra.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phuơng pháp luận:
Khóa luận đuợc hình thành trên cơ sở phuơng pháp luận của chủ nghĩa MácLênin và tu tuởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đuờng lối, chủ truơng của Đảng về
công tác giáo dục - đào tạo.
Phuơng pháp nghiên cứu:
Ket hợp phuơng pháp lịch sử với phuơng pháp logic.
Vận dụng các phuơng pháp nhu phân tích, so sánh, đối chiếu để rút ra kết
luận.
Trong một vài truờng hợp khóa luận sử dụng phuơng pháp thống kê, phuơng
pháp định luợng và định tính để giải quyết vấn đề.

5. Đóng góp của khóa luận
Trên cơ sở nghiên cứu sự phát triển của giáo dục - đào tạo ở miền Bắc từ năm
1954 đén năm 1975, khóa luận có một số đóng góp:
Duới góc độ lịch sử, đề tài nghiên cứu một mảng quan trọng của sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc thời kỳ 1954 - 1975.
Đánh giá những thành công, hạn chế của công tác giáo dục - đào tạo, những
đóng góp đối với đất nuớc.
Đúc rút một số kinh nghiệm trong phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Đặt cơ sở nghiên cứu về công tác giáo dục - đào tạo cho những giai đoạn

tiếp theo, trên phạm vi cả nước.

6. Bố cuc của khóa luân
• •

Ngoài phàn mở đầu, két luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Chủ trương của Đảng về công tác giáo dục - đào tạo ở miền Bắc
giai đoạn 1954 - 1975.

6


Chương 2: Quá trình thực hiện chủ trương của Đảng về công tác giáo dục - đào
tạo ở miền Bắc giai đoạn 1954 - 1975.
Chương 3: Nhận xét và một số kinh nghiệm.

7


Chương 1
CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG TÁC GIÁO DỤC - ĐÀO
TẠO Ở MIỀN BẮC GIAI ĐOẠN 1954 - 1975
1.1. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH
1.1.1. Tình hình thế giới
Đầu những năm 50 của thế kỷ XX, các nước xã hội chủ nghĩa đứng đàu là Liên
Xô đã đạt được nhiều thành tựu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt,
Liên Xô có sự thành công vượt bậc trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật. Năm 1953, chế
tạo thảnh công bom khinh khí; năm 1957 Liên Xô phóng vệ tinh nhân tạo (Sputnik)
lên quỹ đạo trái đất; năm 1960 phóng tàu vũ trụ đầu tiên với nhà du hành I.Gagarin.

Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa sau khi thành lập (10/1949) đã bắt tay
vào công cuộc khôi phục và xây dựng đất nước. Đến năm 1959, Trung Quốc đạt được
nhiều thành tựu trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục bùng lên mạnh mẽ. Ở châu Phi, năm
1953 nước Cộng hòa Ai Cập ra đời, năm 1957 tuyên bố quốc hữu hóa kênh đào Suez,
giữ quyền kiểm soát việc đi lại của tàu thuyền các nước qua con đường huyết mạnh
này. Ngay sau chiến tranh Đông Dương chấm dứt, tháng 11 năm 1954, cuộc kháng
chiến chống Pháp của nhân dân Angiêri bùng lên mạnh mẽ, đến năm 1962, Pháp phải
công nhận nền độc lập của nước này. Cùng thời gian đó nhiều nước châu Phi lần lượt
tuyên bố độc lập, năm 1960 được gọi là “Năm châu Phi”. Phong trào giải phóng dân
tộc trở thành làn sóng đấu tranh, đánh dấu sự phát triển quan trọng trong lịch sử thế
giới, nhiều nước xã hội chủ nghĩa liên tiếp ra đời cùng với Liên Xô, Trung Quốc trở
thảnh hệ thống thế giới.
Sự thành công của các nước xã hội chủ nghĩa có tác động không nhỏ tới Việt
Nam trên nhiều lĩnh vưc. Đối với ngành giáo dục - đào tạo chúng ta có cơ hội gửi
những sinh viên xuất sắc sang du học, lĩnh hội những kiến thức khoa học kỹ thuật tiên
tiến về phục vụ cho đất nước.
Trong hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa, vị thế của Mỹ ngày càng tăng,

8


chiếm vị trí lãnh đạo các nước tư bản chủ nghĩa. Mỹ đóng vai trò quan trọng đối với
các nước Tây Âu thông qua hai công cụ chính là kế hoạch Masrshall phục hưng kinh
té và khối quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO). Kinh té các nước châu Âu sau thời
gian phục hồi đã phát triển nhanh chóng, bắt đầu thành lập các tổ chức liên kết hợp
tác, năm 1957 thảnh lập Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC), tiền thân của Liên minh
châu Âu (EU). Đồng thời Mỹ thiết lập các Liên minh quân sự và đóng quân ở nhiều
nơi trên thé giới tạo thành vành đai bao vây các nước xã hội chủ nghĩa như: Hiệp ước
Mỹ - Nhật, Mỹ - Hàn, Khối quân sự Đông Nam Á (SEATO), khối Trung Đông

(CENTO) và khối ANZUS (gồm Ôtrâylia, Niu Dilân và Mỹ). Với sự bao vây của các
nước tư bản đứng đầu là Mỹ đã gây ra những khó khăn đối với sự phát triển của các
nước xã hội chủ nghĩa trong đó có Việt Nam. Đặc biệt việc Mỹ trực tiếp tham chiến
tại miền Nam Việt Nam đã thể hiện tham vọng của Mỹ ở Đông Nam Á. Đối phó với
một nước tư bản hùng mạnh đặt ra cho Việt Nam một yêu cầu cần một đội ngũ cán bộ
có trình độ khoa học kỹ thuật về mọi mặt, nhân dân có trình độ văn hóa để xây dựng,
củng cố nội lực của đất nước trước hết là miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Những sự kiện quốc tế kể ữên có ảnh hưởng quan ữọng đối với công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nói chung và sự phát triển của nền giáo dục - đào tạo
nói riêng.

1.1.2. Tình hình trong nước
Hiệp định Giơnevơ (7-1954) được ký kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng. Mọi
hoạt động của ngành giáo dục diễn ra trong hoàn cảnh hòa bình, đặt dưới sự lãnh đạo
thống nhất, tập trung của Đảng. Từ phân tán về tập trung, hoạt động của giáo dục nằm
trong mối liên hệ tổng thể với các ngành khác, có điều kiện hợp tác phát triển. Đó là
sự thay đổi rất lớn ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách, phương pháp tổ chức
của giáo dục.
Sau hiệp định Giơnevơ, chúng ta không những có khu tự do cũ, mà còn tiếp
quản vùng nông thôn mới, các thành phố lớn, nơi tập trung dân cư đông đúc, trung
tâm kinh tế, chính trị, văn hóa. Sự biến đổi này đem lại thuận lợi cho việc phát triển

9


nền giáo dục với quy mô lớn.
Vị thế của nước ta ữên chính trường quốc tế được nâng cao, quan hệ đối ngoại
được mở rộng. Các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là Liên Xô, Trung Quốc cam kết giúp
đỡ ủng hộ ta về nhiều mặt, trong đó có cam kết giúp đỡ về phát triển giáo dục, đào tạo
cán bộ chuyên môn.

Nhiệm vụ giáo dục do Đảng đề ra sau năm 1945 đã cơ bản hoàn thành và có
bước phát triển vượt bậc từ sau khi thực hiện cải cách giáo dục năm 1950.
Phong trào bình dân học vụ tiếp tục được Chính phủ quan tâm chỉ đạo. Đen
năm 1952, khoảng 1,4 ữiệu người đã thoát nạn mù chữ.
Phong trào bổ túc văn hóa được đẩy mạnh. Đen tháng 9 năm 1953, trong các
vùng tự do đã có 10.450 lớp bổ túc văn hóa, với 335.946 học viên.
Một số trường phổ thông lao động ở trung ương và địa phương được thành lập.
Ngành giáo dục phổ thông phát triển mạnh theo hướng cải cách giáo dục năm 1950.
Tính đến năm 1953, trong các vùng tự do có 769.640 học sinh phổ thông từ cấp I đến
cấp III. Năm 1954, số học sinh tăng lên 1.132.196 người. Trong khoảng 3 năm (19511953), Nhà nước đã đào tạo được 7.000 cán bộ kỹ thuật. Sau khi biên giới được khai
thông, Chính phủ đã cử hàng nghìn cán bộ và sinh viên tốt nghiệp phổ thông và đại
học đi học dài hạn ở nước ngoài, nhằm chuẩn bị cho việc xây dựng đất nước sau khi
chiến tranh kết thúc. Những thành công trên là cơ sở nền tảng quan trọng để Đảng và
nhân dân tiếp tục phát triển sự nghiệp giáo dục trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi đó, công cuộc xây dựng nền giáo dục còn
gặp nhiều khó khăn, thử thách.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, song đất nước bị
chia cắt, với hai ché độ chính trị khác nhau. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, tiếp
tục thực hiện nhiệm vụ cách mạng dân chủ nhân dân, tạo tiền đề từng bước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Miền Nam đang bị kìm kẹp dưới ách thống trị của đế quốc và tay
sai, tiếp tục hoàn thảnh cuộc cách mạng dân chủ nhân dân, đi tới thống nhất nước nhà.

10


Một Đảng lãnh đạo đồng thời hai nhiệm vụ khác nhau ở mồi miền là hết sức khó khăn,
phức tạp. Công cuộc xây dựng miền Bắc nói chung và xây dựng nền giáo dục xã hội
chủ nghĩa nói riêng còn mới mẻ đối với chúng ta, do đó phải vừa làm, vừa tìm hiểu,
vừa đúc rút kinh nghiệm.

Hậu quả của chiến tranh để lại là hết sức nặng nề đối với sự phát triển kinh tế,
xã hội, văn hóa, giáo dục. Trước khi rút lui, thực dân Pháp xuyên tạc, tuyên truyền, dụ
dỗ gần một triệu đồng bào công giáo di cư vào Nam, ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình
an ninh, trật tự xã hội. Chúng phá hủy hoặc tháo dỡ trang thiết bị, đồ dùng phục vụ
giảng dạy và học tập của các trường đại học, tìm mọi cách lôi kéo, kích động các giáo
sư và sinh viên, gây hoang mang giao động trong họ.
Sự nghiệp giáo dục - đào tạo của miền Bắc nằm trong bối cảnh nóng bỏng, bức
xúc và đầy khó khăn đó. Mặc dù vậy, những thuận lợi nêu trên vẫn là yếu tố căn bản,
tác động lớn tới sự phát triển của nền giáo dục miền Bắc.

1.2. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC - ĐÀO
TẠO Ở MIÈN BẮC GIAI ĐOẠN 1954 - 1975
1.2.1. Quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển sự
nghiệp giáo dục - đào tạo ở miền Bắc từ năm 1954 đến năm 1960
Căn cứ vào tình hình giáo dục và yêu cầu của nhiệm vụ chung trước mắt, Đảng
khẳng định nhiệm vụ của giáo dục lúc này là đảm bảo dạy văn hóa cho con em của
công nhân và nông dân, đào tạo cán bộ sơ cấp và trung cấp càn thiết cho việc khôi
phục kinh tế quốc dân và chuẩn bị kiến thiết nước nhà.
Đe đảm bảo nhiệm vụ ấy, công tác trước mắt của ta về giáo dục là:
Chấn chỉnh và công bố giáo dục phổ thông, nâng cao chất lượng cả việc
giảng dạy, nhất là ở cấp III, đào tạo thêm giáo viên, bồi dưỡng cho cán bộ giáo dục về
tư tưởng và chính trị cũng như về sinh hoạt vật chất. Bổ túc văn hóa cho cán bộ, nhân
viên các cơ quan và cho cán bộ xã trước hết là cho những xã đã vận động giảm tô hoặc
cải cách ruộng đất. Tiếp tục phát triển bình dân học vụ để dàn dần xóa bỏ nạn mù chữ.
Mở các trường chuyên nghiệp và trung cấp cần thiết trước mắt cho công cuộc khôi

11


phục kinh tế, như giao thông, công chính, canh nông... [11; tr.143- 144],

Tiến tới thống nhất hai hệ thống giáo dục một cách có kế hoạch, có từng bước,
có chuẩn bị. Yêu cầu của công tác này là đạt được thống nhất về mục đích giáo dục,
về tư tưởng và tác phong của cán bộ giáo dục, về chương trình và sách giáo khoa, về
quy chế dạy và học, về chính sách bồi dưỡng vật chất và tinh thần cho các giáo viên.
về công tác giáo dục phổ thông

Đối với thành phần quốc lập củng cố là chính. Dựa vào dân lập mà củng cố cấp
I, dựa vào tư thục mà phát ữiển cấp II. Đe củng cố các trường quốc lập, cần phải chấn
chỉnh các trường lớp, cung cấp thêm tài liệu giáo khoa và phương tiện giảng dạy; bổ
túc văn hóa, nghiệp vụ cho giáo viên, chỉnh đốn chương trình và tài liệu giảng dạy;
củng cố sự lãnh đạo nhà trường và tăng cường kiểm tra.
Để khuyến khích phát triển giáo dục dân lập và tư thục cần ban hành các chính
sách cụ thể đối với giáo viên dân lập và việc mở trường tư thục, có chính sách khen
thưởng đối với những địa phương có công trong việc vận động xây dựng và lãnh đạo
hệ thống này. Nghiên cứu một ché độ thu học phí hợp lý hơn.
Ngày 30 tháng 1 năm 1959 Ban Bí thư ra Chỉ thị số 125-CT/TW về chẩn trình
công tác giáo dục chính trị trong nhà trường phổ thông (cấp II và cẩp III).
Công tác giáo dục chính trị trong nhà trường phổ thông có một tầm quan
trọng lớn lao; nó là một bộ phận công tác trong cuộc cách mạng tư tưởng mà hiện nay
Đảng đang tiến hành. Mặt khác, nhà trường phổ thông là một động lực to lớn, có tổ
chức, cho nên Đảng phải chú ý bồi dưỡng lực lượng đó, là cho thanh niên học sinh trở
thảnh những người lao động yêu nước, giác ngộ chủ nghĩa xã hội, có văn hóa, có sức
khỏe, có đạo đức, những người công dân tốt tích cực xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ tổ quốc [13; tr.135].
về công tác bổ túc vãn hóa và thanh toán nạn mù chữ.

Năm 1957 tích cực đẩy mạnh công tác bổ túc văn hóa, hướng chính là số cán
bộ xã, công nhân, cán bộ, nhân viên ở các công trường, xí nghiệp và cơ quan nhả
nước, phương thức chính là học tại chồ, tại chức. Các trường bổ túc công nông và phổ
thông lao động tiếp tục hoạt động, tiêu chuẩn lấy học sinh phải chặt chẽ hơn năm


12


1956.
Ngày 27-12-1957 Chính phủ ra quyết định thành lập Ban lãnh đạo thanh toán
nạn mù chữ và Bổ túc văn hóa ở Trung ương, cụ Tôn Đức Thắng được cử làm Trưởng
ban, các tỉnh lần lượt thành lập ban lãnh đạo thanh toán nạn mù chữ và bổ túc văn hóa
tăng cường hoạt động xuống tận cơ sở.
Ngày 7 tháng 3 năm 1958 Ban Bí thư ra Chỉ thị số 72-CT/TW về việc tăng
cường lãnh đạo công tác bình dân học vụ để hoàn thành thanh toán nạn mù chữ vào
cuối năm 1958.
Việc dạy văn hóa cho cán bộ, công nhân, nhân viên cơ quan nhằm mục
đích nâng cao dần dần trình độ văn hóa của cán bộ, công nhân, nhân viên một cách
từng bước, có trọng tâm, giúp họ có một số kiến thức văn hóa phổ thông để cải tiến
nghiệp vụ, học tập lý luận có hệ thống để ngày càng tăng hiệu suất công tác, tăng khả
năng phục vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa... Muốn thế, trình độ văn hóa phải được
nâng cao mới có cơ sở kiến thức để nâng cao trình độ chính trị và nghiệp vụ.
Trong ba năm 1958, 1959, 1960 cần phải cố gắng nâng cao trình độ văn
hóa của cán bộ, công nhân, nhân viên mỗi năm lên một lớp. Nói chung, sau ba năm,
trình độ văn hóa của cán bộ, công nhân, nhân viên phải từ lớp 1 đến lớp 4, từ lớp 2
đến lớp 5. Riêng đối với những cán bộ chỉ đạo và một số cán bộ nghiên cứu, cán bộ kỹ
thuật hiện có trình độ lớp 3 sẽ được học hết chương trình lớp 6 và nếu đã có trình độ
lớp 4 thì sẽ học hết chương trình lớp 7 [12; tr.49].
Ngày 3 tháng 10 năm 1958 Ban Bí thư ra Chỉ thị số 107-CT/TW về quyết tâm
đảm bảo hoàn thành kế hoạch thanh toán nạn mù chữ.
Trong thanh toán nạn mù chữ, phải đặc biệt chú trọng thanh toán cho
đối tượng chủ yếu bao gồm cán bộ xã, xóm, đảng viên, thanh niên trong Đoàn và
ngoài Đoàn. Phải giao trách nhiệm cho các chi bộ, tổ đảng có ké hoạch xóa song nạn
mù chữ cho những người đó. Song song với việc thanh toán nạn mù chữ, cần phải chú

trọng mở các lớp bổ túc văn hóa, để cho những người đã thoát nạn mù chữ không mù
chữ trở lại và dàn dần nâng cao trình độ văn hóa của cán bộ và nhân dân [12; tr.362363].

13


Ngày 2 tháng 12 năm 1959 Ban Bí thư ra Nghị quyết số 93-NQ/TW về việc
tăng cường lãnh đạo công tác bổ túc văn hóa cho cán bộ, công nhân, nông dân nhằm
đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà.
Do sự quan tâm của Đảng và sự cố gắng của nhân dân, cuối năm 1958,
các tỉnh miền xuôi đã căn bản xóa song nạn mù chữ; hàng chục vạn người được bổ túc
văn hóa. Những thành tích ấy tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển cơ sở chính
trị, kinh tế. Tuy nhiên, so với yêu càu cách mạng xã hội chủ nghĩa thì trình độ văn hóa
của cán bộ và nhân dân còn quá thấp. Đại đa số nông dân còn ở trình độ lớp 1, lớp 2,
80% công nhân ở trình độ lớp 2 và số lượng cán bộ chuyên môn, kỹ thuật chưa đầy
2% so với tổng số công nhân. Trong 630 cán bộ cao cấp ở các cơ quan dân chính đảng
trung ương thì 10,5% còn ở trình độ cap I, 50% chưa hết cấp II, 16,5% trên trình độ
cấp II, 23% có trình độ trên cấp III và đại học... Tình trạng đó hạn ché nâng cao năng
lực công tác, năng suất lao động, hạn ché trình độ quản lý sản xuất, quản lý nhà nước,
hạn chế trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa và do đó, hạn chế bước tiến nhanh của cách
mạng [13; tr.937].
Do đó Đảng nhấm mạnh: “trong thời gian tới, nếu không khẩn trương nâng cao
trình độ văn hóa của cán bộ công nông thì sẽ ảnh hưởng lớn đến công cuộc cải tạo xã
hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, cho nên yêu cầu bức thiết là phải ra sức
đẩy mạnh và lãnh đạo tốt phong trào bổ túc văn hóa” [13; tr.938].
Nội dung bổ túc văn hóa
Nội dung chủ yếu nhằm đảm bảo kiến thức về khoa học cơ bản, có tác
dụng nâng cao trình độ nghiệp vụ, đẩy mạnh sản xuất, đồng thời bao gồm nội dung
nâng cao nhiệt tình xã hội chủ nghĩa, nâng cao tinh thần yêu nước và quyết tâm đấu
tranh thống nhất nước nhà. Nguyên tắc chung là phải học các kiến thức cơ bản phổ

thông, nhưng với một nội dung tinh giảm, một trình tự hợp lý, luôn luôn liên hệ thực
té, có phần theo hệ thống, có phàn phục vụ ngay trước mắt [13; tr.938].
về đào tạo đại học và trung học chuyên nghiệp

Công cuộc phát triển và cải tạo kinh té quốc dân đòi hỏi phải có một đội ngũ

14


cán bộ cần thiết, chất lượng tốt, trung thảnh với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa
nhưng tình trạng thiếu cán bộ và chất lượng cán bộ là một nhược điểm lớn của ta. Đe
giải quyết nhược điểm đó Đảng đưa ra phương hướng là phải tích cực đào tạo cán bộ
mới và chú trọng bồi dưỡng cán bộ hiện có. Phải chú trọng mở thêm các trường trung
cấp và sơ cấp, đào tạo thật nhiều cán bộ trồng trọt, chăn nuôi, để cung cấp cho phong
ữào hợp tác hóa nông nghiệp.
Năm 1957 dự định củng cố và tăng cường các trường chuyên nghiệp các cấp: 7
trường đại học với 5.329 sinh viên vượt hẳn trước chiến tranh; 13 trường trung học
chuyên nghiệp với 11.707 học sinh, ngành chuyên nghiệp sơ cấp sẽ CÓ17.790 người.
Ngoài ra, năm 1957 sẽ mở trường dạy ngoại ngữ cho 426 học sinh để gửi đi lưu học
sinh ở các nước dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa cho ké hoạch dài hạn sắp tới.
Ngày 21 tháng 10 năm 1958 Ban Bí thư ra Chỉ thị về việc tổ chức cho các giáo
sư, giảng viên, cán bộ, sinh viên các trường đại học và học sinh các trường chuyên
nghiệp trung cấp đi tham gia lao động sản xuất. Để củng cố và phát triển kết quả học
tập trong các trường học và bước đầu thực hiện chế độ tham gia lao động của các
trường đại học và chuyên nghiệp trung cấp, bắt đầu năm học 1958 - 1959 Ban Bí thư
quyết định:
Bộ giáo dục và các bộ có trường chuyên nghiệp trung cấp cần tổ chức
cho giáo sư, sinh viên, cán bộ và học sinh ở các trường đại học và chuyên nghiệp
trung cấp tham gia lao động sản xuất trong một thời gian là từ một đến hai tháng. Mục
đích của đợt tham gia lao động sản xuất này là tạo thên cơ hội thuận lợi cho giáo sư,

sinh viên, cán bộ và học sinh ở các trường đại học và chuyên nghiệp trung cấp rèn
luyện lập trường, tư tưởng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nhà trường tách rời
thực tế, tách rời lao động, tách rời quần chúng công nông [12; tr.380].
Ngày 24 tháng 5 năm 1957 Ban Bí thư ra Nghị quyết số 14-NQ/TW về việc
thành lập Tiểu ban Giáo dục khoa học Trung ương với nhiệm vụ chủ yếu là phát triển
văn hóa, nghiên cứu đường lối chính sách giáo dục và khoa học để đề nghị Trung
ương quyết định, theo dõi tình hình các trường học và tổ chức nghiên cứu khoa học.

15


1.2.2. Quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển sự
nghiệp giáo dục - đào tạo ở miền Bắc từ năm 1960 đến năm 1965
Đại hội lần thứ III của Đảng đã khẳng định công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc đã đạt được những thành tựu quan trọng. Trên cơ sở đó, Đảng tiếp tục đề
ra nhiệm vụ và đường lối cho giai đoạn tiếp theo trên nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh
vực giáo dục.
Công tác giáo dục phải phát triển theo quy mô lớn nhằm bồi dưỡng thế
hệ ữẻ thảnh những người lao động làm chủ nước nhà, có giác ngộ xã hội chủ nghĩa, có
văn hóa và kỹ thuật, có sức khỏe, nhằm phục vụ đắc lực cho việc đào tạo cán bộ và
nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân lao động. Công tác giáo dục phải phục vụ
đường lối và nhiệm vụ cách mạng của Đảng, phải kết hợp giáo dục với lao động sản
xuất, kết hợp lý luận với thực tế, giáo dục của nhà trường với giáo dục của xã hội [14;
tr.930].
Đổi với giáo dục phổ thông
Cần ra sức phát triển mạnh mẽ nhằm đào tạo những thế hệ thanh niên có đạo
đức, có văn hóa, có sức khỏe, sẵn sàng xây dựng chủ nghĩa xã hội. Công tác giáo dục
phải phục vụ nhiệm vụ và đường lối cách mạng của Đảng, nắm vững những phương
châm giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực té, học đi đôi
với hành, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục xã hội; kết hợp lực lượng của Nhà

nước với lực lượng của nhân dân.
Ở miền xuôi, phấn đấu hoàn thành phổ cập giáo dục phổ thông cấp I vào năm
1963-1964, chuẩn bị phổ thông cấp II trong ké hoạch 5 năm lần thứ hai; tiếp tục mở
thêm trường cấp III để thỏa mãn nhu cầu tuyển sinh của các trường đại học và một
phàn cho các nhu cầu khác. Ở miền núi, cần hoàn thành xóa nạn mù chữ, thực hiện
phổ cập cấp I ở một số địa phương và phát triển mạnh mẽ cấp II, cấp III. Song song
với các trường phổ thông, càn mở thêm những trường vừa dạy văn hóa, vừa dạy nghề,
chủ yếu là về nông nghiệp cho các em lớn tuổi.
Trong việc phát triển giáo dục phổ thông phải coi trọng cả số lượng và chất

16


lượng. Có những cái mới phù hợp với những yêu cầu cách mạng. Trọng tâm phát triển
giáo dục phổ thông từ năm 1960 đến năm 1965 là cấp III và lớp 7. Đe đảm bảo chất
lượng nhà trường cần phải quy định những tiêu chuẩn tối thiểu về giáo viên và trường
sở. Ví dụ ữong năm 1960-1961, phải cố gắng chuẩn bị đẩy đủ lớp học và bàn ghé cho
học sinh. Đe mở thêm các lớp cấp 1, phải có những giáo viên là học sinh có trình độ
lớp 7 hoặc cán bộ có trình độ lớp 5, 6 và phải trải qua một lớp huấn luyện ít nhất là 6
tháng; để mở thêm những lớp cấp II, phải có những giáo viên tốt nghiệp trường sư
phạm cấp II; để mở thêm những lớp cấp III phải có những giáo viên tốt nghiệp Đại
học sư phạm.
Song song với những trường phổ thông cần tích cực nghiên cứu mở những
trường vừa học văn hóa phổ thông vừa học kỹ thuật sản xuất, nhất là kỹ thuật sản xuất
nông nghiệp. Loại trường này nhằm đào tạo những người lao động trẻ tuổi có văn hóa,
có kỹ thuật, có sức khỏe. Trên phương hướng đó Đảng chủ trương tiến hành phổ cập
kỹ thuật dần dần trong nhân dân, đồng thời tạo thêm điều kiện cho con em nhân dân
được học tập.
Đối với bổ túc văn hóa
Cần coi việc bổ túc văn hóa cho những người lớn tuổi là nhiệm vụ hàng đầu,

nhằm tạo cơ sở phổ biến khoa học và kỹ thuật, đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị
tư tưởng trong quần chúng cơ bản và tạo cơ sở vững chắc hơn cho việc đào tạo cán bộ
theo quy mô lớn. Đối tượng chủ yếu trong việc bổ túc văn hóa là cán bộ lãnh đạo các
cấp; các cán bộ và nhân viên trẻ tuổi, thanh niên công nông ưu tú cần được chuẩn bị
về văn hóa để đưa vào các trường đại học và đưa đi học nước ngoài. Với công nhân và
nông dân và quần chúng lao động khác, cần thực hiện phổ cập giáo dục cấp I. Hình
thức chính để mở rộng việc bổ túc văn hóa là mở các lớp ngoài giờ làm việc; đồng
thời cũng càn mở thêm các trường lớp chính quy để bổ túc văn hóa nhanh cho những
đối tượng cần thiết.
Trong việc đẩy mạnh bổ túc văn hóa phải đặc biệt chú trọng việc bổ túc văn
hóa cho các ngành, các cấp, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt từ xã đến Trung ương,
thứ đến là phải chú trọng các đảng viên và đoàn thanh niên trong công nhân, nông dân

17


đang trực tiếp sản xuất trong các xí nghiệp công trường, nông trường và các hợp tác
xã. Đe làm tốt công tác này, càn phải quy định một ché độ học tập thích đáng; đối với
cán bộ tạm thời quy định mỗi tuần hai buổi học tập văn hóa; cần phải nghiên cứu hình
thức tổ chức học tập cho thích hợp với hoàn cảnh công tác của cán bộ và sản xuất của
công nhân, két hợp hình thức học tập chung với học tại chức; đối với những cán bộ
hoàn cảnh không cho phép học tại chức, thì kiên quyết đưa đi học tập ở các lớp tập
trung; cần xúc tiến khẩn trương việc biên soạn các chương trình cho thích hợp với
từng đối tượng, kịp thời biên soạn các sách giáo khoa. Đối với các lớp bổ túc văn hóa
tập trung cho cán bộ và công nhân, càn kiên quyết điều động một số giáo viên tốt, có
kinh nghiệm về phương pháp giảng dạy cho người lớn; một mặt khác, để bổ túc văn
hóa cho cán bộ thêm két quả, đảm bảo chất lượng, cũng càn giành một phần thích
đáng về thiết bị thí nghiệm và giáo cụ trực quan cho các lớp học đó.
về đào tạo đại học và trung học chuyên nghiệp


Để bảo đảm phát triển mạnh sự nghiệp giáo dục, cần mở rộng các trường sư
phạm sơ cấp, trung cấp và đại học, nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên và bồi
dưỡng giáo viên sẵn có về mọi mặt, tích cực xây dựng trường sở, tăng thêm các thiết
bị thí nghiệm và xây dựng thư viện, tủ sách cho các trường bổ túc văn hóa và các
trường phổ thông.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất tổ
quốc đòi hỏi ngành giáo dục cung cấp cán bộ làm công tác giáo dục ngày càng nhiều
với chất lượng ngày càng cao. Để thực hiện nhiệm vụ trên, ngành giáo dục phải hết
sức coi trọng việc bồi dưỡng cán bộ cũ và đào tạo cán bộ mới.
Việc bồi dưỡng phải nhằm mục đích lâu dài và cụ thể, là nâng trình độ cán bộ
giáo dục lên trình độ chính quy. Nội dung bồi dưỡng phải bao gồm cả chính trị, văn
hóa và nghiệp vụ. Phải chú trọng việc bồi dưỡng khoa học giáo dục và phương pháp
giáo dục.
Để kịp thời đào tạo một đội ngũ cán bộ giáo dục đủ số lượng và chất lượng,
ngành giáo dục phải tập trung lực lượng thích đáng để xây dựng một hệ thống trường
sư phạm tiến dàn lên chính quy. Đe phục vụ cho ké hoạch 5 năm làn thứ nhất, càn có

18


những trường sư phạm cấp I lấy cán bộ và học sinh lớp 7 hoặc tương đương, học 1
năm, trường sư phạm cấp II lấy cán bộ và học sinh lớp 7 hoặc tương đương học 2 năm
và 3 năm; Trường đại học Sư phạm lấy cán bộ và học sinh lớp 10 hoặc tương đường
học 2 năm và 4 năm.
Phải ra sức đào tạo và bồi dưỡng cán bộ xây dựng kinh tế và công nhân lảnh
nghề đáp ứng cho nhu cầu trước mắt và chuẩn bị cán bộ và công nhân lành nghề cho
những năm sau.
Đồng thời phải chú trọng đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật cho hợp
tác xã nông nghiệp để góp phần tích cực vào việc củng cố và phát triển hợp tác xã.
Đẩy mạnh việc đào tạo cán bộ quản lý kinh tế, nhằm nâng cao trình độ quản lý các

ngành kinh tế quốc dân, đồng thời tích cực đào tạo cán bộ kỹ thuật, khoa học, nghiệp
vụ để đáp ứng yêu càu của ké hoạch 5 năm.
Phải chú trọng cải tiến chương trình và nội dung giảng dạy, nâng cao hơn nữa
chất lượng giảng dạy, kết hợp chặt chẽ giữa học tập là lao động sản xuất, giữa học tập
và nghiên cứu khoa học; nghiên cứu rút ngắn thời gian học tập ở một số ngành; phát
triển hình thức đào tạo theo lối không chính quy và nửa chính quy; tăng cường việc
bồi dưỡng giáo sư, giáo viên, phát huy năng lực của họ trong việc giảng dạy; phải học
tập chuyên gia tốt hơn nữa.
Phải tăng cường việc phối hợp giữa các ngành trong việc đào tạo cán bộ, thành
lập một hội đồng gồm đại biểu các cơ quan có quan hệ với công tác đào tạo cán bộ để
giúp trung ương chỉ đạo và thống nhất việc đào tạo, phân phối cán bộ và khoa học kỹ
thuật.
Đi đôi với việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ xây dựng kinh tế, các ngành phải
đặc biệt chú trọng đào tạo công nhân về các mặt chính trị, văn hóa, kỹ thuật, lợi dụng
nhiều hình thức đào tạo; đào tạo tại các trường lớp, đào tạo theo hướng kèm cặp, mở
lớp đào tạo ngay tại xí nghiệp,...
về nghiên cứu khoa học, đẩy mạnh công tác nghiên cứu và phổ biến khoa học

và kỹ thuật một cách có trọng điểm, có từng bước vững chắc, nhằm phục vụ sản xuất,
phục vụ dân sinh, phục vụ quốc phòng. Ra sức đào tạo cán bộ khoa học và xây dựng

19


các cơ sở nghiên cứu khoa học cần thiết, két hợp với việc phổ biến rộng rãi những
hiểu biết và khoa học kỹ thuật trong đông đảo quần chúng, thúc đẩy phong trào thi đua
cải tiến kỹ thuật, sáng chế phát minh. Mở rộng sự hợp tác với các nước anh em trong
việc nghiên cứu khoa học kỹ thuật.
Phải đẩy mạnh việc điều tra cơ bản, thăm dò tài nguyên; đẩy mạnh công tác
quản lý kỹ thuật bước đàu xây dựng một hệ thống đo lường thống nhất, chủ yếu là về

cân và đo để phục vụ cho sản xuất và thương nghiệp, xây dựng một số tiêu chuẩn của
nhà nước như tiêu chuẩn về nguyên liệu, vật liệu, ché tạo cơ khí; bắt đầu nghiên cứu
một số vấn đề kỹ thuật riêng biệt của vùng khí hậu nhiệt đới nhằm bảo quản và sử
dụng tốt các thiết bị máy móc ché biến và bảo quản nông, lâm, thủy sản. về khoa học
kỹ thuật nông nghiệp cần nghiên cứu những biện pháp để tăng năng suất một số cây
trồng trước hết là lúa; nghiên cứu để đi tới áp dụng một cách phổ biến những công cụ
lao động cải tiến trong nông nghiệp thích hợp với điều kiện nông nghiệp và nông thôn
nước ta. về y học, cần nghiên cứu phương pháp có hiệu quả để phòng và chống dịch,
phòng và chống bệnh nhằm bảo đảm sức khỏe cho nhân dân lao động.
Phải có kế hoạch phổ biến khoa học và kỹ thuật trong đông đảo quần chúng,
vận động quần chúng đi vào khoa học kỹ thuật, có kế hoạch đào tạo cán bộ nghiên cứu
khoa học chuyên nghiệp ngay từ năm 1961 và bắt đầu xây dựng một số cơ sở cần thiết
cho công tác nghiên cứu khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên và kỹ thuật.
Mục tiêu phấn đấu đến năm 1965 là:
- về bổ túc văn hóa: phải phổ cập cấp I (lớp 1 và 2) cho các xã viên hợp tác xã
nông nghiệp, bảo đảm trình độ hét cấp I và một số có trình độ cấp II cho các đối tượng
chính và các đối tượng chủ chốt, trước hết cho cán bộ lãnh đạo ở xã và hợp tác xã và
những thanh niên tiến tiến có thành tích trong sản xuất.
Việc học phải gắn liền với học văn hóa và học kỹ thuật, thực hiện phương
châm cần gì học nấy, hình thức học chủ yếu là học tại chức, các hình thức trường tập
trung như bổ túc văn hóa công nông, phổ thông lao động sẽ thu hẹp.
- về giáo dục phổ thông: năm 1965 học sinh cấp I sẽ lên tới 2.464.000, tăng
93,9% so với năm 1960, bình quân hàng năm tăng 8,6%. cấp II sẽ có 838.000 học sinh

20


phổ thông thường, tăng 246,6% so với năm 1960, bình quân tăng 28,2%. Các trường
phổ thông học nghề vừa học vừa làm có 150.000 học sinh, cấp III đến năm 1965 sẽ
lên tới 97.800 học sinh, tăng 274,6% so với năm 1960, bình quân tăng 30,2%. Trong

các năm cuối kế hoạch tỷ lệ tuyển sinh cho cấp III từ 25 đén 27%.
- Để thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục trong kế hoạch 5 năm, phải hết sức chú ý
đến vấn đề đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, số giáo viên tăng thêm khoảng
57.000 người là một lực lượng lớn cần được lãnh đạo và bồi dưỡng tốt nhằm đưa trình
độ giáo viên hiện nay lên ngang với yêu cầu của mỗi lớp, mỗi cấp. Chú ữọng giải
quyết giáo viên cho các lớp bổ túc văn hóa cho đối tượng chính, cần chấp hành đúng
các chính sách và ché độ đãi ngộ vật chất với giáo viên dân lập và giáo viên dạy bổ túc
văn hóa.
- Đối với công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ phấn đấu đến năm 1965 số sinh
viên học đại học có mặt đầu năm học sẽ lên đến 36.830 người, tăng 236% so với năm
1960; số học sinh trung cấp đầu năm học sẽ lên đến 54.440 người, tăng 175% so với
năm 1960.
Từ năm 1963 đến năm 1965, trung bình mồi năm sẽ cố gắng đưa khoảng 300
đến 400 sinh viên tốt nghiệp đại học ra nước ngoài học tập để nâng lên trình độ phó
tiến sĩ, tiến sĩ, kỹ sư trưởng, tổng công trình sư. về công nhân kỹ thuật trong năm
(1961-1965) dự định đào tạo 200.000, trong đó có 1.000 công nhân đi học ở nước
ngoài.

1.2.3. Quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển sự
nghiệp giáo dục - đào tạo ở miền Bắc từ năm 1965 đến năm 1975
Trong giai đoạn này Đảng nêu lên quan điểm cơ bản về giáo dục là: nhà
trường là một công cụ đắc lực của nền chuyên chinh vổ sản, công tác giáo dục là một
bộ phận rất quan trọng của cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa. Dựa trên nhận thức
nói trên Đảng đã đề ra nhiệm vụ cụ thể của công tác giáo dục trong những năm tới:
1. Ra sức nâng cao chất lượng giáo dục lên một bước, đồng thời tích cực phát
triển giáo dục phổ thông và bổ túc văn hóa một cách vững chắc, lấy việc phát triển cấp
II làm trọng tâm, tạo điều kiện để hoàn thành phổ cập cấp II vào những năm sau.

21



×