Tải bản đầy đủ (.pdf) (207 trang)

Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chuyên trách công tác thi đua, khen thưởng ở nước ta giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 207 trang )

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
NGUYễN KHắC Hà
XÂY DựNG Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
chuyên trách công tác thi đua, khen thởng
ở nớc ta giai đoạn hiện nay
luận án tiến sĩ khoa học chính trị
Hà Nội 2014
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Nguyễn khắc hà
XÂY DựNG Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
chuyên trách công tác thi đua, khen thởng
ở nớc ta giai đoạn hiện nay
Chuyên ngành: Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 62 31 23 01
luận án tiến sĩ khoa học chính trị
Ngời hớng dẫn khoa học: PGS, TS Lê Kim Việt
Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn nêu trong luận án là
trung thực, có xuất xứ rõ ràng. Những kết luận đưa ra
trong luận án là kết quả nghiên cứu của tác giả luận án.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Khắc Hà
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
CBLĐQL
Cán bộ lãnh đạo quản lý
CNH, HĐH
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH
Chủ nghĩa xã hội


HTCT
Hệ thống chính trị
Nxb
Nhà xuất bản
TĐKT
Thi đua, khen thưởng
TW
Trung ương
UBND
Ủy ban nhân dân
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: “Cán bộ là cái gốc
của mọi công việc”[105, tr. 269]; “công việc thành công hoặc thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém”[105, tr. 273]. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng,
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề cán bộ, đặc biệt
là cán bộ lãnh đạo, quản lý (CBLĐQL) các ngành, các cấp. Đây là đội ngũ
cán bộ quyết định thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương, các
cấp, các ngành và thắng lợi của cách mạng. Nhờ luôn chăm lo xây dựng đội
ngũ cán bộ, Đảng đã đề ra đường lối, các chủ trương, nghị quyết đúng đắn và
triển khai thực hiện với quyết tâm chính trị cao, đạt kết quả to lớn. Đội ngũ
cán bộ các ngành, các cấp ở nước ta, trong đó có đội ngũ CBLĐQL được xây
dựng ngày càng vững mạnh, góp phần quan trọng đưa cách mạng nước ta đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Bước vào thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH,
HĐH) đất nước, với mục tiêu, nhiệm vụ to lớn, nặng nề và có nhiều mới mẻ,
được thực hiện trong điều kiện có nhiều thời cơ, thuận lợi, nhưng cũng gặp

không ít khó khăn, thách thức quyết liệt, đội ngũ cán bộ nói chung, CBLĐQL
nói riêng càng có vai trò rất quan trọng. Nhiệm vụ, mục tiêu của công cuộc
đổi mới chỉ có thể được hoàn thành khi xây dựng được đội ngũ cán bộ, nhất là
CBLĐQL có chất lượng tốt. Bởi “cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại
của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là
khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng…”[57, tr. 66]. Tổng kết 10 năm
thực hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Đảng ta
tiếp tục nhấn mạnh: “Phải thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ,
đổi mới công tác cán bộ gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng”[64,
2
tr. 239-240]. Đồng thời, Đảng chỉ rõ "Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
dạo, quản lý trên các lĩnh vực những tài năng và những chuyên gia giỏi trên
các lĩnh vực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc "[64, tr. 241]. Xây dựng đội ngũ
cán bộ, nói chung, đội ngũ CBLĐQL, các chuyên gia giỏi các ngành, các cấp,
nói riêng đã trở thành nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên và được toàn Đảng,
các cấp uỷ đảng và cả hệ thống chính trị (HTCT) triển khai thực hiện. Nhờ đó,
chất lượng đội ngũ cán bộ ngày càng được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, chất lượng đội ngũ cán bộ, kể cả đội ngũ CBLĐQL, các
chuyên gia hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập so với yêu cầu, nhiệm vụ của
công cuộc đổi mới. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu công cuộc đổi
mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, từng bước tiến đến mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội (CNXH), Đảng phải xây dựng được đội ngũ cán bộ, nhất là CBLĐQL, các
chuyên gia trên các lĩnh vực có đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, cao về
chất lượng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng.
Xây dựng đội ngũ CBLĐQL có chất lượng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
công cuộc đổi mới những năm tới phải được tiến hành đồng bộ ở các cấp, các
ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị. Trong đó, xây dựng đội ngũ CBLĐQL
chuyên trách công tác thi đua, khen thưởng (TĐKT) là một bộ phận rất quan

trọng, bởi TĐKT đã góp phần to lớn vào thắng lợi của cách mạng.
Trong giai đoạn hiện nay, TĐKT lại càng có vai trò và tác dụng đối với
sư nghiệp đổi mới. Đó là động lực thúc đẩy những cá nhân, tập thể năng động,
sáng tạo tìm tòi các giải pháp thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của
ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, thúc đẩy công cuộc đổi mới phát triển.
Để phát huy vai trò, tác dụng của TĐKT trong giai đoạn hiện nay, Bộ Chính
trị đã ban hành Chỉ thị 35-CT/TW ngày 3/6/1998 “Về đổi mới công tác thi
đua, khen thưởng trong giai đoạn mới”; tiếp theo là Chỉ thị số 39-CT/TW,
3
ngày 21/5/2004 “Về tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước,
phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến”. Gần đây, Ban Bí
thư Trung ương Đảng (khóa X) có Kết luận số 83-KL/TW ngày 30-8-2010
tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW của Bộ Chính trị, trong đó nhấn mạnh
phải tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước và xây dựng đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT có chất lượng tốt.
Thực hiện các chỉ thị, kết luận nêu trên, việc xây dựng đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đã có chuyển biến tích cực trên tất cả
các khâu, như: cụ thể hóa tiêu chuẩn chức danh cán bộ; quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng, luân chuyển, quản lý, đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ và thực hiện
chính sách cán bộ Nhờ đó, chất lượng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công
tác TĐKT đã được nâng lên một bước: số lượng và cơ cấu từng bước được cải
thiện; bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, trình độ mọi mặt, năng
lực và tính chuyên nghiệp trong công việc được nâng lên, tích lũy được nhiều
kinh nghiệm công tác; từng bước đáp ứng yêu cầu công tác TĐKT của ngành,
địa phương, cơ quan, đơn vị trong thời kỳ mới
Tuy nhiên, đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT vẫn còn
nhiều hạn chế, yếu kém về nhiều mặt: Số lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ chưa
phù hợp; nhiều cán bộ thiếu hụt kiến thức về quản lý nhà nước, pháp luật, kinh
tế thị trường và kiến thức về các khoa học khác, nên còn lúng túng và có sai sót
trong công việc, nhất là về chỉ đạo các phong trào thi đua trong các lĩnh vực,

các giai tầng xã hội và trong thẩm định hồ sơ khen thưởng. Một số cán bộ chưa
đáp ứng tốt nhiệm vụ tổ chức triển khai, kiểm tra các phong trào thi đua và
tham mưu các giải pháp quản lý nhà nước về TĐKT đạt hiệu quả. Bởi vậy,
chưa ngăn chặn một cách cơ bản tình trạng một số ngành, địa phương, đơn vị
tuỳ tiện đặt ra các hình thức tôn vinh không đúng quy định của Luật TĐKT, cá
biệt còn để xảy ra một số trường hợp lợi dụng TĐKT nhằm tạo danh hiệu cho
cá nhân và tập thể vì mục đích riêng.
4
Nhìn một cách tổng thể, đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT mới cơ bản đáp ứng yêu cầu về thẩm định hồ sơ khen thưởng cho tập
thể và cá nhân ở một số ngành, lĩnh vực nhất định nên đã xảy ra những sai sót,
gây phức tạp Tình trạng khá phổ biến là hẫng hụt CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT kế cận có trình độ quản lý, chuyên môn cao và có nhiều kinh
nghiệm công tác. Việc xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm, nổi lên là: tiêu chuẩn chức danh
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT tuy đã được cụ thể hóa, song vẫn còn
chung chung, hạn chế kết quả thực hiện các khâu của công tác cán bộ; quy
hoạch CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT tuy đã được nhiều nơi xây dựng,
song việc thực hiện quy hoạch còn nhiều lúng túng, nhất là việc đào tạo, bồi
dưỡng, luân chuyển cán bộ; quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của cán bộ
vẫn là khâu yếu; chưa tạo được sự liên thông trong công tác cán bộ giữa Ban
TĐKT trung ương với các địa phương, ban ngành, đơn vị
Bởi vậy, nghiên cứu một cách toàn diện, tìm giải pháp khả thi nhằm
phát huy ưu điểm, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm nêu trên, xây dựng
đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
công tác TĐKT trong những năm tới là vấn đề rất cần thiết và cấp bách.
Để góp phần giải quyết vấn đề cấp bách nêu trên, tôi chọn và thực hiện
đề tài luận án tiến sĩ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chuyên
trách công tác thi đua, khen thưởng ở nước ta giai đoạn hiện nay”.
2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án

2.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng đội
ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT ở nước ta giai đọan hiện nay, luận
án đề xuất những giải pháp chủ yếu, khả thi nhằm xây dựng đội ngũ CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác TĐKT trong
những năm tới.
5
2.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện các mục tiêu trên, luận án có các nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
- Luận giải rõ những vấn đề lý luận về xây dựng đội ngũ CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT ở nước ta giai đọan hiện nay, gồm: khái niệm, vai
trò, đặc điểm của công tác TĐKT và đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT; khái niệm, nội dung, phương thức xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT
- Khảo sát, đánh giá đúng thực trạng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT ở nước ta và thực trạng việc xây dựng đội ngũ CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT từ năm 2001 đến nay, chỉ ra nguyên nhân, kinh
nghiệm và những vấn đề đặt ra cần giải quyết.
- Đề xuất mục tiêu, phương hướng và những giải pháp chủ yếu xây dựng
đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
công tác TĐKT trong những năm tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là xây dựng đội ngũ CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT ở nước ta giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án khảo sát, nghiên cứu thực trạng CBLĐQL chuyên trách công
tác TĐKT và thực trạng xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT của các Vụ, Ban, Phòng TĐKT thuộc các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ

quan thuộc Chính phủ, các ban, ngành, đoàn thể ở Trung ương; các tổng
công ty, tập đoàn kinh tế Nhà nước và của cấp uỷ tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương.
Thời gian nghiên cứu, khảo sát thực tiễn từ năm 2001 đến nay.
6
Phương hướng, giải pháp đề xuất trong luận án có giá trị đến năm 2020.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm, đường lối của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ và về TĐKT.
Cơ sở thực tiễn của luận án là thực trạng đội ngũ cán bộ và công tác
xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT ở nước ta trong
những năm qua.
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng
thời sử dụng các phương pháp: logic và lịch sử; phân tích và tổng hợp; thống
kê, điều tra, khảo sát, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Khái niệm : Xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT là toàn bộ hoạt động của các cấp ủy đảng từ Trung ương đến cơ sở, ở
ban, bộ, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân ở trung ương, ở các tổng
công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước, cán bộ, đảng viên và các tổ chức có liên
quan về thực hiện các khâu của công tác cán bộ nhằm tạo nên đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT có phẩm chất chính trị, phẩm chất
đạo đức tốt, có năng lực lãnh đạo, quản lý và tham mưu đề xuất, là những
chuyên gia trong lĩnh vực TĐKT.
- Ba kinh nghiệm về xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT từ năm 2001 đến nay:
Một là, cấp uỷ địa phương, đơn vị cần nhận thức đúng đắn về vai trò,
tác dụng, yêu cầu của công tác TĐKT và tầm quan trọng của việc xây dựng
đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT trong điều kiện hiện nay; trên
cơ sở đó, đề ra các chủ trương, giải pháp đúng, có quyết tâm chính trị cao

trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện là nhân tố quan trọng hàng đầu để xây dựng
đội ngũ CBCLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đạt kết quả.
7
Hai là, cấp ủy tranh thủ sự quan tâm, chỉ đạo của cấp trên và kết hợp
chặt chẽ với Ban TĐKT Trung ương trong công tác cán bộ nói chung và xây
dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT nói riêng trong tất cả
các khâu của công tác cán bộ, đặc biệt là đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh,
nâng cao tính chuyên nghiệp cho đội ngũ CBCLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.
Ba là, các cấp ủy đảng cần coi trọng công tác tạo nguồn và thực hiện
tốt công tác quy hoạch CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT, mạnh dạn đưa
những cán bộ trẻ có trình độ, năng lực, có triển vọng vào dự nguồn các chức
danh LĐQL công tác TĐKT ở cơ cơ quan, địa phương, đơn vị mình.
- Hai giải pháp đột phá: Tăng cường công tác tạo nguồn và quy hoạch
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT; đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng và
luân chuyển CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT theo chiều dọc giữa các
địa phương, bộ, ban với Ban TĐKT Trung ương.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý
luận và thực tiễn về xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
ở nứơc ta giai đọan hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo trong quá trình xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT ở các ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị trong những năm tới. Đồng
thời, luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ học tập và
nghiên cứu tại Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ thuộc Ban TĐKT Trung ương.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài,
kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án gồm 3 chương, 6 tiết.
8

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là CBLĐQL các cấp trong giai đoạn
hiện nay thu hút nhiều cơ quan và các nhà khoa học nghiên cứu từ những góc
độ khác nhau, ở các địa bàn khác nhau. Kết quả nghiên cứu của nhiều công
trình đã được công bố trên sách, báo, tạp chí và được thể hiện trong các tham
luận hội thảo khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ Sau đây là một số
công trình tiêu biểu:
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC TRONG NƯỚC
1.1.1. Đề tài khoa học
- Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX.04.09, “Xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức đáp ứng đòi hỏi của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân” của Bộ Nội vụ (2002-2004) [122].
Đề tài nêu bật sự cần thiết phải xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
đáp ứng đòi hỏi xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
Trong đó, đề cập đến một số tiêu chuẩn và giải pháp xây dựng đội ngũ
CBLĐQL các cấp trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam
xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân và vì dân hiện nay, nhấn mạnh
những quy định về pháp lý đối với trách nhiệm cá nhân từng chức danh
CBLĐQL và đề xuất các giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng những cán bộ này,
theo chức danh cán bộ thay vì đào tạo, bồi dưỡng chung tất cả cán bộ ở các cơ
sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng, Nhà nước hiện nay.
Một số kết quả nghiên cứu của đề tài rất bổ ích cho việc thực hiện luận
án, nhất là về đề xuất giải pháp đào tạo, bồi dưỡng CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT theo chức danh.
9
- Đề tài khoa học xã hội cấp Nhà nước giai đoạn 2001-2005, KX. 05. 6,
Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu của quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước do Vũ Văn Hiền làm Chủ

nhiệm [70].
Các nhà khoa học đã làm sâu sắc hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn
về xây dựng đội ngũ CBLĐQL nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước; phân tích, đánh giá sâu sắc thực trạng đội ngũ CBLĐQL ở
nước ta hiện nay, chỉ ra ưu, khuyết điểm, nguyên nhân, nhấn mạnh nguyên
nhân của khuyết điểm. Đồng thời, khẳng định nguyên nhân chủ yếu của
những ưu điểm và khuyết điểm của đội ngũ CBLĐQL thuộc về những ưu,
khuyết điểm của công tác cán bộ. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp chủ
yếu xây dựng đội ngũ CBLĐQL đáp ứng yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước, hội nhập quốc tế.
Nhiều nội dung của đề tài có giá trị tham khảo quan trọng đối với luận
án để đề xuất các giải pháp xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT.
- Đề tài khoa học xã hội cấp Nhà nước giai đoạn 2001-2005, KX.05. 07,
Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, do Thang Văn
Phúc làm chủ nhiệm [121].
Các nhà khoa học đã luận giải sâu sắc những vấn đề lý luận về xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong giai đoạn hiện nay, khảo sát, đánh
giá thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức và thể chế quản lý cán bộ, công
chức hiện nay; đưa ra những kinh nghiệm về xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức của một số nước trên thế giới. Một nội dung quan trọng được
trình bày là tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, trong đó đã phân
tích quan điểm của Người về vai trò, phương pháp xây dựng đội ngũ cán bộ;
phân tích nội dung, các quan điểm và nguyên tắc đổi mới cán bộ và công
10
tác cán bộ của Đảng ta hiện nay. Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu
tham khảo bổ ích đối với tác giả luận án trong việc làm rõ những vấn đề lý
luận và thực tiễn của luận án.
- Đề tài khoa học cấp bộ năm 2011, Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ lãnh đạo, quản lý theo chức danh tại Học viện Chính trị - Hành chính

quốc gia Hồ Chí Minh, do Trần Minh Tuấn làm chủ nhiệm [144].
Đề tài đã luận giải rõ yêu cầu cấp thiết hiện nay về đào tạo, bồi dưỡng
CBLĐQL theo chức danh; công tác đào tạo, bồi dưỡng CBLĐQL theo chức
danh tại Học viện từ 2005 đến nay – thực trạng và những vấn đề đặt ra cần
giải quyết; quan điểm và những giải pháp nâng cao chất lượng công tác đào
tạo, bồi dưỡng CBLĐQL theo chức danh tại Học viện. Trong đó, một số giải
pháp có giá trị: xác định đối tượng và mục tiêu đào tạo; đổi mới chương
trình đào tạo; phân định rõ các chương trình đào tạo và các chương trình
bồi dưỡng; mỗi chương trình đào tạo, bồi dưỡng phải hướng tới một loại
đối tượng cụ thể và từng chức danh; chương trình đào tạo, bồi dưỡng phải
đa dạng, mang tính “mềm” và phải tiến tới theo nhu cầu của người học, sát
với từng chức danh đào tạo; phải nâng cao chất lượng giảng viên, báo cáo
viên và đổi mới quá trình dạy và học theo hướng tích cực…
Kết quả nghiên cứu của đề tài có giá trị tham khảo tốt để tác giả luận án
làm rõ cơ sở lý luận và giải pháp đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT.
- Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước (2010-2013), Cơ sở lý luận và
thực tiễn đổi mới công tác thi đua, khen thưởng trong giai đoạn hiện nay, Mã
số: 02/2010, do Trần Thị Hà làm chủ nhiệm [71].
Các nhà khoa học đã luận giải sâu sắc những vấn đề lý luận chung về
công tác TĐKT, đưa ra các khái niệm thi đua, khái niệm khen thưởng; ý
nghĩa, bản chất của TĐKT; mối quan hệ biện chứng giữa thi đua và khen
thưởng; quản lý nhà nước về TĐKT; hệ thống hóa những quan điểm của chủ
11
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về TĐKT.
Đề tài cũng đề cập đến những vấn đề chủ yếu về TĐKT ở các nước: Liên-Xô
(trước đây); chế độ khen thưởng của Liên bang Nga, Cộng hòa Pháp; Trung
Quốc cùng những kinh nghiệm có giá trị.
Đề tài đã tập trung khảo sát, đánh giá thực trạng công tác TĐKT và
quy định của pháp luật về TĐKT; tổ chức, bộ mày và cán bộ làm công tác

TĐKT, chỉ ra ưu, khuyết điểm, nguyên nhân. Đồng thời, nêu mục tiêu, nội
dung, các giải pháp chủ yếu đổi mới công tác TĐKT trong giai đọan hiện nay
và các kiến nghị. Các kiến nghị của Đề tài, gồm: Đề nghị Bộ Chính trị ban
hành Nghị quyết để tiếp tục phát huy truyền thống thi đua yêu nước và sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm (2011- 2016); kiến nghị Quốc hội sớm sửa đổi, bổ
sung Luật TĐKT; quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu
nước gắn với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người; đổi mới
hoạt động của các cơ quan truyền thông để tuyên truyền các gương điển hình
tiên tiến; ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống tổ chức TĐKT; củng
cố và nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng TĐKT các cấp; đẩy mạnh
bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác TĐKT; thành lập
Viện Nghiên cứu bồi dưỡng, đào tạo cán bộ TĐKT.
Kết quả nhiên cứu của Đề tài có giá trị tham khảo tốt, trực tiếp để giúp
tác giả thực hiện mục đích, nhiệm vụ của luận án, nhất là một số nội dung về
công tác cán bộ.
1.1.2. Sách
- Trần Xuân Sầm (chủ biên) (1998), Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán
bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội [131].
Cuốn sách đã khái quát quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, như: việc phát hiện, lựa chọn, đào tạo, rèn
12
luyện nhà cách mạng chủ yếu là qua phong trào đấu tranh cách mạng của
quần chúng. Để cách mạng giành thắng phải tạo được đội ngũ cán bộ đủ sức
gánh vác nhiệm vụ cách mạng. Khi cách mạng chuyển giai đoạn phải có sự
thay đổi cần thiết trong cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ. Các tác giả chỉ rõ, cán bộ
phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ lãnh đạo; đồng thời phải tích cực
tu dướng rèn luyện các đức tính khiêm tốn, ham học hỏi, không giấu dốt,
thường xuyên tự phê bình và phê bình, không chủ quan tự mãn, gặp thất bại

không nản chí… Đây là những phẩm chất thuộc tiêu chuẩn hàng đầu của
người cán bộ lãnh đạo.
Qua khảo sát, phân tích thực trạng cơ cấu tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo
chủ chốt, xuất phát từ yêu cầu công cuộc đổi mới, các tác giả đưa ra tiêu
chuẩn chung đối với cán bộ lãnh đạo chủ chốt trên các mặt: chính trị, đạo đức,
trình độ, năng lực, ý thức tổ chức kỷ luật Đồng thời, đề xuất một số giải
pháp chủ yếu xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt theo cơ cấu, tiêu
chuẩn đã dược các tác giả đề ra. Các tác giả cũng luận bàn và nhấn mạnh việc
cụ thể hóa cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ cho từng tổ chức, từng cấp, từng ngành.
- Nguyễn Phú trọng và Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên), (2001), Luận
cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội [143].
Cuốn sách đã luận giải sâu sắc cơ sở lý luận và phương pháp luận của
việc xây dựng tiêu chuẩn cán bộ; đưa ra và phân tích rõ những kinh nghiệm
xây dựng tiêu chuẩn cán bộ của Đảng ta phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ từng
giai đoạn cách mạng, trong đó nhấn mạnh những tiêu chuẩn về phẩm chất
chính trị, lòng trung thành với Đảng, sự nghiệp cách mạng và với nhân dân,
phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực tổ chức thực tiễn Đồng thời, đưa ra
những quan điểm, phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán
13
bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, đặc biệt, nhấn mạnh nâng cao chất
lượng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và rèn luyện cán bộ; tiếp tục
xây dựng và hoàn thiện các quy chế, quy trình công tác cán bộ, thực hiện tiêu
chuẩn hóa cán bộ; nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát, quản lý và
bảo vệ cán bộ; xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách cán bộ; kiện toàn,
nâng cao chất lượng hoạt động các cơ quan tham mưu về công tác cán bộ; cải
cách tổ chức, bộ máy và cơ chế vận hành của HTCT.
Đề tài có giá trị tham khảo tốt để xây dựng các khái niệm và đề xuất
phương hướng, giải pháp của luận án.

- Vũ Minh Giang (2004), “Vấn đề luân chuyển quan lại trong lịch sử
trung đại Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo khoa học: Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về đánh giá, luân chuyển cán bộ ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội [89].
Tác giả chỉ rõ việc luân chuyển quan lại bắt đầu từ thời nhà Lý (1009 -
1015) đến cuối thế kỷ XIX và nêu một số nguyên tắc về bố trí, điều động quan
lại. Nhà Trần (1225 - 1400), đã áp dụng những nguyên tắc điều động, luân
chuyển quan lại của nhà Lý và đặc biệt coi trọng việc sử dụng những người
trong hoàng tộc và áp dụng chính sách thưởng phạt nghiêm minh kể cả quan
lại trong hoàng tộc. Nhà Trần còn quy định rõ thời hạn đánh giá thực hiện
công việc của quan lại, cứ 15 năm có hai lần xét duyệt, nếu không mắc sai
phạm thì sau 10 năm trấn trị thăng tước một cấp, 15 năm thăng một bậc. Nhà
Lê, nhà Nguyễn cũng tiến hành luân chuyển các quan lại.
Qua việc luân chuyển quan lại trong các triều đại phong kiến nước ta,
tác giả rút ra một số nhận xét có giá trị tham khảo đối với luận án: Điều động,
luân chuyển quan lại theo chiều dọc từ Trung ương về địa phương và ngược
lại từ địa phương về Trung ương; theo chiều ngang giữa các địa phương với
nhau và giữa các bộ phận trong triều đình với nhau; điều động, luân chuyển
14
quan lại ở địa phương không dùng người ở địa phương cai trị tại địa phương;
quy định rõ về thời gian luân chuyển (nhà Lê quy định 4 năm, nhà Nguyễn 6
năm); đánh giá thường xuyên (khảo khoá) làm cơ sở cho việc thăng - giáng
chức qua luân chuyển, điều động quan lại; việc thăng - giáng và phục hồi
chức của quan lại được tiến hành thường xuyên.
- Trần Đình Hoan (chủ biên), (2008) Đánh giá, quy hoạch, luân chuyển
cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội [75].
Các tác giả đã đưa ra và phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về
đánh giá, quy hoạch, luân chuyển CBLĐQL thời kỳ CNH, HĐH đất nước;
khảo sát và đánh giá thực trạng việc đánh giá, quy hoạch, luân chuyển

CBLĐQL những năm qua, chỉ ra ưu, khuyết điểm, nguyên nhân và tổng kết
được những kinh nghiệm có giá trị. Đặc biệt, các tác giả đã nêu kinh nghiệm
về đánh giá, luân chuyển, chuẩn bị quan lại của các triều đại phong kiến nước
ta và những kinh nghiệm về vấn đề này. Trên cơ sở đó, đưa ra những vấn đề
cần giải quyết đối với việc đánh giá, quy hoạch, luân chuyển CBLĐQL ở
nước ta giai đoạn hiện nay. Từ đó, đề xuất các giải pháp có giá trị để thực
hiện tốt việc đánh giá, quy hoạch, luân chuyển CBLĐQL ở nước ta những
năm tới.
- Trương Thị Thông và Lê Kim Việt (đồng chủ biên), (2008), Bệnh
quan liêu trong công tác cán bộ ở nước ta hiện nay - Thực trạng, nguyên
nhân và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội [141].
Các tác giả đã đưa ra quan niệm về bệnh quan liêu trong công tác cán
bộ; phân tích sâu sắc nguồn gốc, bản chất và những tác hại của nó. Đặc biệt,
đã luận giải có sức thuyết phục những biểu hiện của bệnh quan liêu trong các
khâu của công tác cán bộ. Đồng thời, cũng phân tích những biểu hiện của
bệnh quan liêu ở chủ thể công tác cán bộ; khẳng định bệnh quan liêu do nhiều
15
nguyên nhân, song nguyên nhân chủ yếu thuộc về chủ thể công tác cán bộ.
Trên cơ sở đó, cuốn sách cung cấp cho người đọc quan điểm, phương hướng
và những giải pháp có giá trị, khả thi nhằm phòng, chống bệnh quan liêu
trong công tác cán bộ ở nước ta hiện nay.
Cuốn sách có giá trị tham khảo tốt đối với luận án nhất là về đề xuất
các giải pháp phòng chống bệnh quan liêu trong công tác cán bộ ngành TĐKT.
- Thân Minh Quế (2012), Công tác quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban
Thường vụ tỉnh ủy quản lý ở các tỉnh miền núi phía Bắc giai đoạn hiện nay,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội [125].
Cuốn sách đã làm rõ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác
quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ tỉnh ủy quản lý ở các tỉnh miền
núi phía Bắc; phân tích rõ thực trạng đội ngũ cán thuộc diện Ban Thường vụ
tỉnh ủy quản lý và thực trạng xây dựng quy hoạch cán bộ này, chỉ ra ưu, khuyết

điểm, nguyên nhân, kinh nghiệm bổ ích. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải
pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban
Thường vụ tỉnh ủy các tỉnh miền núi phía Bắc quản lý, gồm: nâng cao nhận
thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là các đồng chí uỷ viên ban
thường vụ tỉnh uỷ và cấp uỷ viên các cấp, cán bộ lãnh đạo các cơ quan, đơn vị,
địa phương về công tác quy hoạch cán bộ; cụ thể hoá tiêu chuẩn từng chức
danh cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ tỉnh ủy quản lý phù hợp với từng tỉnh;
đánh giá cán bộ, tạo nguồn cán bộ dồi dào, nhất là cán bộ là người dân tộc thiểu
số, cán bộ trẻ, cán bộ nữ; đổi mới, hoàn thiện nội dung, quy trình xây dựng quy
hoạch cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ tỉnh ủy quản lý; thực hiện tốt việc
kiểm tra, rà soát, bổ sung hoàn chỉnh quy hoạch cán bộ; chủ động phát hiện,
khắc phục các biểu hiện tiêu cực, tư tưởng cục bộ khép kín, tự ti dân tộc; xây
dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ
16
1.1. 3. Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ
- Phạm Công Khâm (2000), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
vùng nông thôn Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay. Luận án tiến sĩ khoa học
chính trị, chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam [90].
Tác giả đã làm rõ vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
xã và công tác cán bộ cấp xã; đánh giá thực trạng, nêu kinh nghiệm và những
vấn đề đặt ra cần giải quyết; xác định rõ mục tiêu, quan điểm và đưa ra hệ
thống giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng đồng bằng
sông Cửu Long trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, các giải pháp đáng quan
tâm: tiếp tục đổi mới công tác quy hoạch gắn với đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng
và quản lý, kiểm tra đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã; xây dựng HTCT và
phong trào cách mạng của quần chúng ở cơ sở để rèn luyện, bồi dưỡng, tuyển
chọn, kiểm tra cán bộ; tiếp tục hoàn thiện chính sách đãi ngộ đối với cán bộ
cấp xã và tăng cường sự chỉ đạo, giúp đỡ của cấp huyện.
Đây là luận án có giá trị tham khảo tốt, nhất là phần cơ sởp lý luận và
thực tiễn về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn Đồng

bằng sông Cửu Long và một số giải pháp.
- Nguyễn Thái Sơn (2002), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, Luận án tiến sỹ khoa học chính trị, chuyên ngành xây
dựng Đảng Cộng sản Việt Nam [132].
Luận án đã luận giải vị trí, vai trò, chức năng của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp tỉnh; đánh giá đúing thực trạng đội ngũ cán bộ và việc xây
dựng đội ngũ cán bộ này, ở đồng bằng sông Hồng. Từ đó xác định nguyên nhân
của ưu điểm, khuyết điểm, hạn chế và rút ra 5 kinh nghiệm có giá trị.
Luận án phân tích đặc điểm, vai trò, vị trí, yêu cầu CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng và những vấn đề đặt ra
17
cần giải quyết; xác định tiêu chuẩn chung cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh
và tiêu chuẩn từng chức danh cán bộ. Đồng thời, đề xuất sáu giải pháp có giá
trị về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh ở đồng bằng sông
Hồng đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước.
- Huỳnh Văn Long (2003), Xây dựng đội ngũ bí thư huyện ủy, chủ tịch
uỷ ban nhân dân huyện ở đồng bằng sông Cửu Long ngang tầm đòi hỏi của
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Luận án Tiến sĩ Chính trị học,
chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam [118].
Luận án đã làm rõ hơn một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng
đội ngũ bí thư huyện ủy, chủ tịch ủy ban nhân dân (UBND) huyện ở đồng
bằng sông Cửu Long giai đoạn hiện nay; khảo sát, phân tích thực trạng đội
ngũ bí thư huyện ủy, chủ tịch UBND huyện vùng này, từ 1996 đến 2003; đề
xuất những giải pháp chủ yếu xây dựng đội ngũ bí thư huyện ủy, chủ tịch
UBND huyện những năm tới. Trong đó, đáng chú ý là các giải pháp: đổi mới
công tác đánh giá cán bộ; nêu cao ý thức trách nhiệm cá nhân của cán bộ gắn
với việc đẩy mạnh phân cấp quản lý; tăng cường kiểm tra, giám sát thực thi
công vụ của CBLĐQL chủ chốt ở cấp huyện.
- Trần Thanh Sơn (2006), Luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc

diện Ban Thường vụ Thành uỷ Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện nay, Luận
văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
[133].
Luận văn đã làm sáng tỏ khái niệm CBLĐQL; đội ngũ CBLĐQL thuộc
Ban Thường vụ Thành uỷ Hà Nội quản lý; vị trí, vai trò và đặc điểm của đội
ngũ cán bộ này; làm sáng tỏ quan niệm về luân chuyển CBLĐQL; nêu lên
những vấn đề có tính nguyên tắc và qui trình thực hiện luân chuyển CBLĐQL.
Đồng thời, phân tích đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ và công tác luân
chuyển cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Thành uỷ Hà Nội quản lý, những
18
kết quả đạt được, hạn chế, yếu kém, chỉ ra những nguyên nhân, rút ra một số
kinh nghiệm bổ ích. Trên cơ sở đó, đề xuất sáu giải pháp khả thi tăng cường
luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Thành uỷ Hà Nội quản lý
trong những năm tới. Luận văn có giá trị tham khảo đối với việc thực hiện
luận án ở một số vấn đề lý luận, thực tiễn về luân chuyển CBLĐQL thuộc
diện Ban Thường vụ Thành uỷ Hà Nội quản lý.
- Trịnh Thanh Tâm (2012), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt là nữ hệ
thống chính trị xã ở đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ
khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam [134].
Luận án đã đề cập khá đầy đủ những vấn đề lý luận về xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt là nữ hệ HTCT xã ở đồng bằng sông Hồng; đánh giá rõ thực
trạng xây dựng đội ngũ cán bộ này từ năm 2001 đến nay, chỉ ra ưu, khuyết
điểm, nguyên nhân và những kinh nghiệm. Luận án đề xuất những giải pháp
xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt là nữ HTCT trị ở đồng bằng sông Hồng
những năm tới, gồm: Thứ nhất, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ,
các tổ chức có liên quan. Thứ hai, tiếp tục cụ thể hoá tiêu chuẩn cán bộ chủ
chốt của HTCT xã và nâng cao chất lượng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ. Thứ ba, nâng cao chất lượng việc quản lý, đánh giá, tuyển chọn, bổ nhiệm
cán bộ chủ chốt là nữ của HTCT xã. Thứ tư, phát huy mạnh mẽ tinh thần tự học
tập, rèn luyện của cán bộ và thực hiện tốt chính sách cán bộ nữ. Thứ năm, phát

huy vai trò của đảng uỷ, các tổ chức trong HTCT xã và nhân dân, coi trọng vai
trò của Hội Liên hiệp phụ nữ xã. Thứ sáu, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và
tạo điều kiện thuận lợi của cấp uỷ, chính quyền, các đoàn thể huyện và cấp trên.
1.1.4. Các bài báo khoa học
- Võ Văn Kiệt (2005), Quản lý cán bộ phải sâu sát, chặt chẽ, Tạp chí
Xây dựng Đảng, số 08 [93].
Theo tác giả, quản lý cán bộ nói chung, cán bộ trung, cao cấp nói riêng
hiện nay còn lỏng lẻo, không sâu sát hoạt động thực tiễn của cán bộ. Hiện
19
tượng khá phổ biến là người đứng đầu của ngành, địa phương, đơn vị coi như
không có trách nhiệm gì đối với cán bộ dưới quyền khi cán bộ phạm sai lầm,
khuyết điểm, thậm chí khuyết điểm rất nghiêm trọng. Tác giả cho rằng, quản
lý cán bộ không thể theo cách gián tiếp, phải coi đó là biểu hiện của bệnh
quan liêu trong quản lý cán bộ, và nhấn mạnh cấp uỷ quản lý cán bộ cấp nào
thì phải nắm chắc, sâu sát cán bộ cấp đó…
- Trần Đình Hoan (2002), Luân chuyển cán bộ - khâu đột phá nhằm
xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ngang tầm thời kỳ phát triển mới.
Tạp chí Cộng sản, số 7 [75].
Tác giả đã nêu những kinh nghiệm quý trong việc dùng người của ông
cha ta, đồng thời chỉ ra những thành công, hạn chế trong công tác luân chuyển
cán bộ hiện nay và khẳng định chưa bao giờ công tác luân chuyển cán bộ lại
cấp bách như hiện nay và phải được coi là một trong những khâu đột phá có
tính quyết định đối với việc xây dựng chiến lược cán bộ ngang tầm nhiệm vụ
cách mạng mới. Tác giả cũng nêu ra những nguyên tắc và phương châm chỉ
đạo công tác luân chuyển cán bộ và bốn nhóm công việc cần thực hiện thống
nhất, mạnh mẽ và hiệu quả.
- Nguyễn Trọng Điều (2005), Về đánh giá, quy hoạch và luân chuyển
cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay, Tạp chí Cộng sản số 10 [69].
Tác giả đã phân tích và luận giải sự khác nhau giữa đánh giá, nhận xét
con người và đánh giá, nhận xét cán bộ; luận giải sự khác nhau giữa luân

chuyển cán bộ và điều động cán bộ. Đồng thời, xem xét việc đánh giá, quy
hoạch, luân chuyển cán bộ ở nước ta qua các thời kỳ và rút ra cái được và
chưa được, từ đó đưa ra một số giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng và hiệu
quả công tác đánh giá, quy hoạch và luân chuyển cán bộ hiện nay.
- Thanh Toàn (2007), Năng lực, phẩm chất người lãnh đạo trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 10 [139].
20
Tác giả chỉ ra phẩm chất, năng lực người lãnh đạo, gồm 7 tiêu chí cơ
bản: có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với lý tưởng cách mạng, với
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; có tư duy lãnh đạo; có năng
lực định hướng hoạt động cho tập thể, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; có năng lực
tổ chức; có năng lực xử lý đúng đắn các mối quan hệ; có nghệ thuật giao tiếp,
ứng xử linh hoạt, khoa học; độ lượng, nhân hậu, yêu thương cấp dưới.
- Văn Tất Thu (2008), Quan điểm và nghệ thuật tuyển dụng nhân tài
trong xây dựng chính quyền cách mạng và kháng chiến kiến quốc, Tạp chí Tổ
chức Nhà nước - Bộ Nội vụ, số 5 [138].
Tác giả khẳng định, trong giai đoạn hiện nay, học tập và vận dụng sáng
tạo quan điểm và nghệ thuật trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhất định sẽ phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và trọng dụng được nhiều nhân tài
cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
- Nguyễn Thế Thắng (2011), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua
yêu nước trong sự nghiệp đổi mới hôm nay, www.tutuonghochiminh.vn ngày
23/01/2011 [137].
Tác giả đã phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về tầm quan trọng và tính
tất yếu của thi đua; thi đua là bản tính của con người Đồng thời, nhấn mạnh
những điểm cần thiết để vận dụng có hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua
yêu nước trong sự nghiệp đổi mới, gồm: phát động các phong trào thi đua thiết
thực, sâu rộng trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội; thi đua phải có mục đích,
mục tiêu; xây phải đi đôi với chống; tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức và cải
tiến thủ tục, quy trình xét khen thưởng, thực hiện công khai, dân chủ, kịp thời và

đảm bảo tính nêu gương, giáo dục trong khen thưởng
- Nguyễn Thế Thắng (2012), Một số quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua, khen thưởng, Tạp chí Cộng sản
điện tử, ngày 29/01/2012 [136].
21
Tác giả đã phân tích một số quan điểm chủ yếu của chủ nghĩa Mác-Lênin
về thi đua và chỉ ra sự khác nhau về bản chất giữa cạnh tranh trong xã hội tư bản
với thi đua XHCN. Đồng thời, đi sâu vào phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về thi
đua ái quốc và nhấn mạnh: phải làm cho mọi người tự nguyện, tự giác tham gia
phong trào thi đua ái quốc; Đảng phải lãnh đạo thi đua; phải đổi mới nội dung và
hình thức thi đua
- Nguyễn Thị Doan (2013), Bài phát biểu tại buổi gặp mặt các thế hệ
làm công tác thi đua, khen thưởng nhân kỷ niệm 65 ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh
ra lời kêu gọi thi đua ái quốc (11/6/1948 – 11/6/2013), Tạp chí Thi đua- Khen
thưởng, số 12 năm 2013 [47].
Sau khi khẳng định vai trò của các phong trào thi đua yêu nước từ khi
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi thi đua ái quốc, tác giả khẳng định vai trò,
tác dụng của TĐKT trong giai đoạn hiện nay, và nhấn mạnh những nhiệm vụ
trọng tâm ngành TĐKT cần tập trung thực hiện: Một là, phong trào thi đua và
công tác khen thương phải nhằm động viên được sức mạnh khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, của cả HTCT vào việc thực hiện nhiệm vụ đổi mới, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của ngành, địa
phương, cơ quan, đơn vị. Hai là, nội dung và phương thức thi đua phải gắn kết
chặt chẽ với việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Ba là, khen
thưởng phải đảm bảo tính nêu gương, giáo dục; khắc phục bệnh thành tích, tính
hình thức trong TĐKT. Chuyển trọng tâm TĐKT về cơ sở, nhất là những cơ sở
trực tiếp sản xuất. Bốn là, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong công tác
TĐKT theo hướng công khai, minh bạch, công bằng, dân chủ. Năm là, củng cố,
kiện toàn tổ chức, bộ máy, cán bộ công tác TĐKT. Sáu là, phối hợp với Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, các Bộ, ngành liên quan đưa

tư tưởng thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào giảng dạy trong hệ
thống trường Đảng và các trường đại học, cao đẳng.

×