Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Địa vị pháp lý của người chấp hành án không bị tước tự do trong luật thi hành án hình sự việt nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh hòa bình)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 113 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

H XUN HUY

ĐịA Vị PHáP Lý CủA NGƯờI CHấP HàNH áN
KHÔNG Bị TƯớC Tự DO TRONG LUậT THI HàNH áN HìNH Sự VIệT NAM
(TRÊN CƠ Sở Số LIệU THựC TIễN ĐịA BàN TỉNH HòA BìNH)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

H XUN HUY

ĐịA Vị PHáP Lý CủA NGƯờI CHấP HàNH áN
KHÔNG Bị TƯớC Tự DO TRONG LUậT THI HàNH áN HìNH Sự VIệT NAM
(TRÊN CƠ Sở Số LIệU THựC TIễN ĐịA BàN TỉNH HòA BìNH)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: TS. NGUYN KHC HI

H NI - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn “Địa vị pháp lý của người chấp
hành án không bị tước tự do trong Luật thi hành án hình sự Việt Nam –
Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hòa Bình” là công trình nghiên
cứu do tôi thực hiện. Mọi số liệu, thông tin, tài liệu tham khảo sử dụng
trong nội dung luận văn đều được tham khảo một cách trung thực và
được trích nguồn đầy đủ, đúng quy định.
Tác giả luận văn

Hồ xuân huy


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA
NGƯỜI CHẤP HÀNH ÁN KHÔNG BỊ TƯỚC TỰ DO ........................8
1.1.

KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGƢỜI CHẤP
HÀNH ÁN KHÔNG BỊ TƢỚC TỰ DO .......................................................8

1.1.1.


Khái niệm ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do .....................................8

1.1.2.

Khái niệm địa vị pháp lý của ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do..............13

1.1.3.

Đặc điểm địa vị pháp lý của ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do .............14

1.2.

MỘT SỐ NÉT VỀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGƢỜI CHẤP HÀNH
ÁN KHÔNG BỊ TƢỚC TỰ DO .................................................................18

1.2.1.

Giai đoạn từ tháng 8/1945 đến năm 1992. ..................................................18

1.2.2.

Giai đoạn từ năm 1992 tới trƣớc khi nghị định 60/2000/NĐ-CP ngày
30/10/2000 có hiệu lực pháp luật ................................................................24

1.3.

MỘT SỐ CHUẨN MỰC QUỐC TẾ VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA
NGƢỜI CHẤP HÀNH ÁN KHÔNG BỊ TƢỚC TỰ DO ...........................25


Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ VỀ
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI CHẤP HÀNH ÁN KHÔNG BỊ
TƯỚC TỰ DO VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH HÒA BÌNH .....................................................................................29
2.1.

CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ VỀ ĐỊA
VỊ PHÁP LÝ CỦA NGƢỜI CHẤP HÀNH ÁN KHÔNG BỊ TƢỚC
TỰ DO .........................................................................................................29


2.1.1.

Quyền của ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do ..................................29

2.1.2.

Nghĩa vụ của ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do ..............................37

2.2.

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT THI
HÀNH ÁN HÌNH SỰ VỀ VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGƢỜI
CHẤP HÀNH ÁN KHÔNG BỊ TƢỚC TỰ DO TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH HÒA BÌNH .......................................................................................41

2.2.1.

Đặc điểm về địa lý, dân cƣ, kinh tế, xã hội và hoạt động của các loại
tội phạm trên địa bàn tỉnh Hòa Bình ...........................................................41


2.2.2.

Thực trạng thi hành pháp luật thi hành án hình sự về địa vị pháp lý của
ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do trên địa bàn tỉnh Hòa Bình .............45

2.3.

MỘT SỐ TỒN TẠI, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN ............................54

2.3.1.

Một số tồn tại, hạn chế trong việc đảm bảo địa vị pháp lý của ngƣời
chấp hành án không bị tƣớc tự do ...............................................................54

2.3.2.

Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong việc đảm bảo địa vị
pháp lý của ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do .................................70

Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO ĐẢM BẢO ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA
NGƯỜI CHẤP HÀNH ÁN KHÔNG BỊ TƯỚC TỰ DO ......................75
3.1.

CƠ SỞ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ VỀ
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGƢỜI CHẤP HÀNH ÁN KHÔNG BỊ
TƢỚC TỰ DO ............................................................................................75

3.2.


MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ ĐẢM BẢO ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGƢỜI CHẤP
HÀNH ÁN KHÔNG BỊ TƢỚC TỰ DO .....................................................78

3.2.1.

Sửa đổi, bổ sung những hạn chế bất cập trong luật thực định ....................78

3.2.2.

Nghiên cứu tăng cƣờng khả năng, điều kiện áp dụng và bổ sung các
hình phạt không tƣớc tự do trong Bộ luật hình sự Việt Nam ......................85

3.3.

GIẢI PHÁP NÂNG NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT THI VÈ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGƢỜI CHẤP HÀNH ÁN
KHÔNG BỊ TƢỚC TỰ DO ........................................................................86


3.3.1.

Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng ..............................................................86

3.3.2.

Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền trong thi
hành án ........................................................................................................86

3.3.3.


Tăng cƣờng ý thức chấp hành án đối với cá nhân ngƣời chấp hành án
và với gia đình của họ .................................................................................91

3.3.4.

Tăng cƣờng công tác kiểm tra, giám sát trong việc đảm bảo địa vị
pháp lý của ngƣời chấp hành án không tƣớc tự do .....................................92

3.3.5.

Đảm bảo các điều kiện cần thiết và có chế độ chính sách cho cán bộ
làm công tác thi hành án phạt không tƣớc tự do .........................................93

3.3.6.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật .................95

KẾT LUẬN ..............................................................................................................98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................101


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
THAHS:

Thi hánh án hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự


TAND:

Tòa án nhân dân

UBND:

Ủy ban nhân dân


DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1: Tình hình chấp hành án cảnh cáo, phạt tiền và cải tạo
không giam giữ trên địa bàn tỉnh Hòa Bình từ năm
2010 – 2014

46


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 17/6/2010 với sự ra đời của Luật thi hành án hình sự đã đánh dấu một
bƣớc tiến lớn trong hoạt động lập pháp của Nhà nƣớc ta nói chung, trong lĩnh vực
Luật hình sự nói riêng, việc ra đời Luật thi hành án hình sự đã góp phần quan trọng
trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an

toàn xã hội, đáp ứng yêu cầu cải cách tƣ pháp cũng nhƣ bảo đảm tốt hơn quyền tự
do, dân chủ của công dân. Luật thi hành án hình sự năm 2010 đã quy định rõ về
nguyên tắc, trình tự, thủ tục, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan có thẩm
quyền trong thi hành bản án, quyết định có hiệu lực của tòa án, quy định rõ trách
nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong thi hành án hình sự, biện
pháp tƣ pháp, đặc biệt Luật thi hành án hình sự đã có những quy định chi tiết, cụ
thể, rõ ràng về địa vị pháp lý của ngƣời chấp hành án.
Về mặt lý luận: Địa vị pháp lý của ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do
vẫn chƣa đƣợc quan tâm, chú trọng nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống. Qua
tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy chƣa có công trình khoa học trong nƣớc nào nghiên
cứu độc lập vấn đề này, chƣa đƣa ra đƣợc khái niệm cũng nhƣ các đặc điểm cơ bản
về ngƣời chấp hành án không tƣớc tự do nói chung và về địa vị pháp lý của ngƣời
chấp hành án không tƣớc tự do nói riêng. Việc phân biệt ngƣời chấp hành án không
tƣớc tự do, địa vị pháp lý của họ so với những ngƣời chấp hành án hạn chế tự do,
ngƣời chấp hành án tƣớc tự do, ngƣời chấp hành án bị tƣớc quyền sống chƣa đƣợc
thực hiện. Xuất phát từ thực trạng trên việc nghiên cứu về địa vị pháp lý của ngƣời
chấp hành án không bị tƣớc tự do là một vấn đề bức thiết đặt ra.
Về mặt lập pháp: Các quy định pháp luật hiện hành tƣơng đối đầy đủ, đảm
bảo cho quá trình thi hành án hình sự đƣợc diễn ra theo đúng trình tự, đúng mục
đích đề ra và nhất là đảm bảo địa vị pháp lý của ngƣời chấp hành án đồng thời phần
nào đã đáp ứng đƣợc yêu cầu của các nghị quyết của Đảng về cải cách tƣ pháp. Tuy
nhiên cũng cần nhận định rằng các quy định về thi hành án hình sự nói chung và địa

1


vị pháp lý của ngƣời chấp hành án nói riêng đƣợc ban hành rải rác ở nhiều văn bản
pháp luật và ở những thời điểm khác nhau nên còn tản mạn, hiệu lực pháp lý chƣa
cao, bộc lộ những hạn chế, bất cập và chƣa đồng bộ, nhiều quy định không còn phù
hợp và vẫn chƣa có sự thống nhất, phần lớn các hƣớng dẫn còn mang tính đơn hành,

hƣớng dẫn cụ thể việc áp dụng hình phạt đối với từng loại ngƣời chấp hành án. Điều
này làm giảm hiệu lực cũng nhƣ hiệu quả của công tác thi hành án, tạo sự khó khăn
trong quá trình áp dụng.
Về mặt thực tiễn: Việc bảo đảm địa vị pháp lý của những ngƣời chấp hành
án không bị tƣớc tự do không chỉ cần có sự tham gia của các cơ quan thi hành án
hình sự chuyên trách mà cần có sự tham gia của chính quyền địa phƣơng, của các
cơ quan nhà nƣớc và các tổ chức, cá nhân khác. Việc quản lý, giám sát, giáo dục
những ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do là vô cùng khó khăn, phức tạp đòi
hỏi các chủ thể có chức năng quyền hạn phải có chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng,
đồng thời phải thực sự khách quan, trung thực, huy động đƣợc sự tham gia của toàn
xã hội. Về phía ngƣời chấp hành án nhiều quyền lợi mà bản thân họ đƣợc hƣởng đã
không đƣợc thực hiện triệt để trên thực tế nhƣ việc miễn, giảm thời gian chấp hành
án, việc xét giảm thời hạn xóa án tích, việc khiếu nại, tố cáo cách hành vi vi
phạm… cùng với đó tình trạng ngƣời chấp hành án chƣa tuân thủ những nghĩa vụ
quy định trong pháp luật thi hành án vẫn diễn ra phổ biến, cá biệt có những trƣờng
hợp tái phạm hành vi phạm tội. Qua nghiên cứu trên địa bản tỉnh Hòa Bình có thể
thấy những ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do có sự biến động theo từng năm.
Công tác quản lý, giáo dục ngƣời chấp hành án của các cơ quan thi hành án vẫn tồn
tại nhiều sai phạm, yếu kém. Thêm vào đó đa phần những ngƣời chấp hành án là
những ngƣời dân tộc thiểu số, có dân trí thấp việc họ đƣợc bảo đảm quyền cũng nhƣ
thực hiện nghĩa vụ trong quá trình thi hành án còn rất hạn chế.
Nhƣ vậy xuất phát từ những hạn chế trong lý luận, lập pháp và thực tiễn của
việc đảm bảo địa vị pháp lý của ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do, ngoài ra
trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tƣ pháp theo tinh thần
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lực cải cách tƣ

2


pháp đến năm 2020. Việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự

Việt Nam hiện hành về việc đảm bảo địa vị pháp lý của ngƣời chấp hành án không
bị tƣớc tự do để làm sáng tỏ về mặt lý luận và đƣa ra những giải pháp hoàn thiện,
nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định đó mang ý nghĩa quan trọng,
đồng thời xuất phát từ tình hình thực tế của địa phƣơng nơi sinh sống tôi xin lựa
chọn đề tài “Địa vị pháp lý của người chấp hành án không bị tước tự do trong Luật
thi hành án hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hòa Bình)”.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong thời gian qua có một số công trình khoa học đã nghiên cứu đến địa vị
pháp lý của người chấp hành án không bị tước tự do trong Luật thi hành án hình sự
Việt Nam”. Nhìn chung, các công trình khoa học chỉ nghiên cứu, đề cập đến một số
khía cạnh mà chƣa tập trung nghiên cứu toàn diện, đi sâu phân tích cũng nhƣ chƣa
đƣa ra những đánh giá, nhận xét cụ thể về vấn đề này.
Về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận khoa học có một số công trình đề
cập đến vấn đề địa vị pháp lý của ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do nhƣ: Võ
Khánh Vinh (Chủ biên), pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam, những vấn đề lý
luận và thực tiễn, nhà xuất bản Tƣ pháp, Hà Nội năm 2006; TS. Trần Minh Hƣởng,
bình luận khoa học Luật Thi hành án hình sự và các quy định mới nhất về thi hành
án hình sự, nhà xuất bản: Thời đại, Hà Nội năm 2010; Nguyễn Ngọc Anh (chủ
biên), Bình luận Luật Thi hành án hình sự năm 2010, nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Hà Nội năm 2012…. Ngoài ra một số công trình khác liên quan chặt chẽ đến
việc thi hành án, mắt xích cuối cùng kiểm tra lại tính hiệu quả trên thực tế của các
quy định trong bộ luật hình sự nói chung và hệ thống hình phạt nói riêng nhƣ:
PGS.TS Trịnh Quốc Toản, “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt bổ sung
trong luật hình sự Việt Nam”, nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nôi năm
2011; TS Trịnh Tiến Việt, “Kiểm soát xã hội đối với tội phạm”, nhà xuất bản Chính
trị quốc gia, Hà Nội năm 2014….
Một số tác giả cũng đã công bố một số bài báo tiêu biểu có đề cập đến vấn đề
địa vị pháp lý của ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do nhƣ sau: GS-TSKH Lê

3



Cảm, “Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về chính sách thi hành án hình sự”, tạp
chí Kiểm sát số 10 năm 2006; Đỗ Văn Chỉnh, “Những quy định mới về thi hành án
hình sự”, tạp chí Toà án nhân dân Số 3 năm 2011; Nguyễn Văn Tuấn, “Một số
vướng mắc trong công tác thi hành án hình sự và kiến nghị hoàn thiện”, tạp chí Tòa
án nhân dân số 7 năm 2012; Đàm Cảnh Long, “Cần hoàn thiện các quy định của
luật về thi hành án hình sự nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi hành án hình sự
của tòa án”, tạp chí Kiểm sát số 20 năm 2014….
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát cho thấy những công trình trên đã
giải quyết một số khía cạnh nhất định các quy định về địa vị pháp lý của ngƣời chấp
hành án không bị tƣớc tự do, tuy nhiên chƣa có một công trình nghiên cứu nào toàn
diện, hệ thống về mặt lý luận, lập pháp và thực tiễn về các quy định pháp luật về địa
vị pháp lý của ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do và đặc biệt là trên cơ sở số
liệu của địa bàn tỉnh Hòa Bình. Nhƣ vậy, tình hình nghiên cứu trên khẳng định việc
nghiên cứu đề tài “Địa vị pháp lý của người chấp hành án không bị tước tự do trong
Luật thi hành án hình sự Việt Nam – Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hòa
Bình” là đòi hỏi khách quan, cần thiết và có tính thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực
tiễn áp dụng các quy định pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của ngƣời chấp
hành án không bị tƣớc tự do, tiến hành so sánh, nhận xét, đánh giá sự hoàn thiện,
đúng đắn cũng nhƣ sự phù hợp các quy định pháp luật thực định với thực tiễn áp
dụng. Từ đó tìm ra những nguyên nhân, hạn chế của các quy định pháp luật hình sự
nói chung, đề ra những hƣớng khắc phục, các kiến giải lập pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật thực định. Đồng thời đƣa ra những giải pháp góp phần quản lý, giáo dục
tốt đối với những ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do nhằm bảo đảm mục đích
của hình phạt, đề ra những biện pháp nhằm bảo vệ quyền của những ngƣời chấp
hành án không bị tƣớc tự do nói riêng nhằm bảo đảm quyền con ngƣời đã đƣợc ghi

nhận cụ thể trong Hiến pháp năm 2013.

4


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để đạt đƣợc mục đích trên, việc nghiên cứu phải giải quyết đƣợc những
nhiệm vụ sau:
Nghiên cứu về mặt lý luận khái niệm và đặc điểm địa vị pháp lý của ngƣời
chấp hành án không bị tƣớc tự do
Nghiên cứu và so sánh trên cơ sở các quy định của pháp luật quốc tế tìm ra
những điểm tƣơng đồng và chƣa tƣơng đồng, phù hợp, chƣa phù hợp, để sửa đổi
pháp luật hiện hành.
Nghiên cứu những quy định cụ thể về địa vị pháp lý (quyền và nghĩa vụ) của
ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do trong pháp luật hiện hành của Việt Nam. Chủ
yếu nghiên cứu những quy định trong Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự và Luật thi
hành án hình sự đối với ngƣời ngƣời chấp hành án phạt cảnh cáo, ngƣời chấp hành án
phạt tiền và ngƣời chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ, từ đó rút ra những tồn tại,
hạn chế của các quy định trong luật thực định Việt Nam cần khắc phục.
Nghiên cứu đánh giá thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về địa vị
pháp lý của ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do từ năm 2010 (cụ thể trên phạm
vi tỉnh Hòa Bình) đến năm 2014 nhằm tìm ra những những khó khăn, vƣớng mắc,
những điều bất hợp lý khi áp dụng trên thực tế, cũng nhƣ những nguyên nhân, điều
kiện dẫn đến những vấn đề còn tồn tại đó.
Từ đó, đƣa ra các giải pháp trên các phƣơng diện pháp lý, thực tiễn áp dụng
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật về địa vị pháp của ngƣời
chấp hành án không bị tƣớc tự do.
3.3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn các quy
định pháp luật về địa vị của ngƣời chấp hành án không tƣớc tự do dƣới góc độ là

một trong những điều kiện, cơ sở để bảo đảm mục đích của hình phạt và bảo đảm
quyền con ngƣời, đồng thời tìm ra những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự thực định nói chung và
nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật.

5


Luận văn nghiên cứu việc áp dụng các quy định pháp luật về quyền và nghĩa
vụ của ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do trên địa bàn tỉnh Hòa Bình từ năm
2010 đến năm 2014. Thực tế thi hành trên địa bàn tỉnh Hòa Bình đối với ngƣời chấp
hành án không bị tƣớc tự do chủ yếu là ngƣời chấp hành án cảnh cáo, ngƣời chấp
hành án phạt tiền và ngƣời chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ, do đó luận
văn sẽ chủ yếu phân tích những đối tƣợng này.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp luận: Đề tài đƣợc nghiên cứu trên cơ sở phƣơng pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về bảo đảm quyền công dân, quyền con ngƣời.
Các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể bao gồm: Phƣơng pháp phân tích, so
sánh, tổng hợp, kết hợp việc khảo sát thực tế; Phƣơng pháp chuyên gia, phƣơng
pháp xã hội học...
5. Những đóng góp lý luận và thực tiễn của luận văn
Làm sáng tỏ về mặt lý luận khái niệm và đặc điểm địa vị pháp lý của ngƣời
chấp hành án không bị tƣớc tự do
Đƣa ra những kiến giải lập pháp nhằm tạo ra sự phù hợp, tƣơng đồng giữa
các quy định của pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế.
Trên cơ sở những tồn tại, hạn chế của các quy định trong luật thực định và
những khó khăn vƣớng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật về địa vị pháp lý
(quyền và nghĩa vụ) của ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do đƣa ra những
phƣơng hƣớng, biện pháp khắc phục.

Nội dung và kết quả nghiên cứu của đề tài có thể đƣợc sử dụng khai thác
trong quá trình biên soạn giáo trình, nghiên cứu khoa học; Là tài liệu tham khảo cho
các cơ quan, cán bộ đang làm nhiệm vụ trực tiếp quá trình quản lý, giáo dục ngƣời
chấp hành án đồng thời bảo đảm quyền của những ngƣời chấp hành án trên thực tế
áp dụng pháp luật hình sự.

6


6. Kết cấu của luận văn
- Mở đầu
- Nội dung gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của ngƣời chấp hành án
không bị tƣớc tự do.
Chương 2: Thực trạng pháp luật thi hành án hình sự về địa vị pháp lý của ngƣời
chấp hành án không bị tƣớc tự do và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp luật về
địa vị pháp lý của ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do.
- Kết luận
- Danh mục tài liệu tham khảo.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ
CỦA NGƯỜI CHẤP HÀNH ÁN KHÔNG BỊ TƯỚC TỰ DO
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGƢỜI CHẤP
HÀNH ÁN KHÔNG BỊ TƢỚC TỰ DO
1.1.1. Khái niệm người chấp hành án không bị tước tự do

Tại khoản 1 Điều 3 Luật thi hành án hình sự năm 2010 có đƣa ra khái niệm
về ngƣời chấp hành án cụ thể nhƣ sau: “Người chấp hành án là người bị kết tội và
phải chịu hình phạt theo bản án đã có hiệu lực pháp luật”.
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về việc phân loại ngƣời chấp hành án.
Theo GS.TS Võ Khánh Vinh thì căn cứ vào các loại hình phạt chính và hình phạt bổ
sung đƣợc quy định tại Điều 28 Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) có
thể đƣợc áp dụng đối với ngƣời phạm tội. Hình phạt chính bao gồm 7 hình phạt:
Cảnh cáo; Phạt tiền; Cải tạo không giam giữ; Trục xuất; Tù có thời hạn; Tù chung
thân; Tử hình; Hình phạt bổ sung bao gồm 7 hình phạt: Cấm đảm nhiệm chức vụ,
cấm hành nghề hoặc làm các công việc nhất định; Cấm cƣ trú; Quản chế; Tƣớc một
số quyền công dân; Tịch thu tài sản; Phạt tiền (khi không áp dụng hình phạt chính);
Trục xuất (khi không áp dụng là hình phạt chính). Tác giả đã phân chia ngƣời bị kết
án kèm theo hình phạt thành ba loại gồm: Nhóm ngƣời bị kết án có hình phạt tử hình;
Nhóm ngƣời bị kết án có hình phạt tù (bao gồm tù có thời hạn và tù chung thân, phạt
tù nhƣng cho hƣởng án treo); Nhóm ngƣời bị kết án có hình phạt khác ngoài hình
phạt tù và tử hình bao gồm số còn lại [51, tr. 75-76]. Nhƣ vậy tƣơng tự có thể hiểu tác
giả đã phân chia ngƣời chấp hành án thành ba loại. Cách phân loại ngƣời chấp hành
án của tác giả căn cứ vào tính chất hình phạt đƣợc áp dụng nhƣ trên tƣơng đối rõ
ràng, tuy nhiên chƣa đƣợc hợp lý bởi lẽ việc phân loại nhƣ vậy vẫn gộp chung ngƣời
chấp hành án không tƣớc tự do và ngƣời chấp hành án bị hạn chế tự do vào nhóm
ngƣời bị kết án có hình phạt khác ngoài hình phạt tù và tử hình bao gồm số còn lại,
tuy nhiên có thể thấy tính chất cũng nhƣ địa vị pháp lý của hai loại này có sự khác
biệt, do đó cần thiết phải phân chia một cách rõ ràng hơn.
8


Cũng căn cứ vào loại hình phạt đƣợc áp dụng nhƣng theo TS.Vũ Trọng Hách
thì thi hành án hình sự có hai loại là thi hành hình phạt tù, tử hình và thi hành hình
phạt không phải là tù, tử hình [19, tr. 172-173]. Tƣơng tự ngƣời chấp hành án có hai
loại là ngƣời chấp hành án tù, tử hình và ngƣời chấp hành án không phải là chấp

hành án phạt tù, tử hình. Cách phân loại của tác giả nhƣ trên chúng tôi cho là khá
đơn giản và không hợp lý việc phân loại nhƣ trên chƣa nêu bật đƣợc tính chất cũng
nhƣ đặc điểm và địa vị pháp lý của từng loại ngƣời chấp hành án.
Theo GS.TSKH Lê Cảm thì thi hành án hình sự bao gồm: Thi hành các hình
phạt bổ sung và các hình phạt chính không tƣớc tự do (bao gồm thi hành các hình
phạt quản chế, cấm cƣ trú và tịch thu tài sản, thi hành hình phạt cảnh cáo, thi hành
hình phạt cải tạo không giam giữ, thi hành hình phạt trục xuất); Thi hành các hình
phạt tù (bao gồm thi hành án phạt tù có thời hạn và thi hành hình phạt tù chung
thân) và thi hành hình án phạt tử hình; Ngoài ra còn có thi hành các biện pháp về
miễn chấp hành hình phạt và thi hành án hình sự đối với ngƣời chƣa thành niên bị
kết án [8, tr. 9,10], tƣơng tự đối với cách phân chia trên có thể hiểu có những loại
ngƣời chấp hành án sau: Ngƣời chấp hành án các hình phạt bổ sung và các hình
phạt chính không tƣớc tự do, ngƣời chấp hành án phạt tù, ngƣời chấp hành án tử
hình. Cách phân chia của tác giả theo chúng tôi là hợp lý và rõ ràng việc phân chia
nhƣ trên thể hiện rõ các đặc điểm cũng nhƣ quyền và nghĩa vụ của từng loại ngƣời
chấp hành án.
Tuy nhiên để phân chia một cách rõ ràng hơn chủ yếu căn cứ vào loại hình
phạt đƣợc áp dụng và các đặc điểm về địa vị pháp lý của ngƣời chấp hành án có thể
chia ngƣời chấp hành án ra thành ba loại nhƣ sau: Ngƣời chấp hành án bị tƣớc
quyền sống (ngƣời chấp hành án tử hình); Ngƣời chấp hành án bị tƣớc tự do gồm:
Ngƣời chấp hành án phạt tù có thời hạn và ngƣời chấp hành án phạt tù chung thân
(ngƣời chấp hành án phạt tù không có thời hạn); Cuối cùng là ngƣời chấp hành án
không bị trƣớc tự do gồm: Ngƣời chấp hành án phạt cấm cƣ trú, ngƣời chấp hành án
phạt quản chế, ngƣời chấp hành án phạt trục xuất; Ngƣời chấp hành án phạt cảnh
cáo, ngƣời chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ, ngƣời chấp hành án phạt tiền,

9


ngƣời chấp hành án phạt tƣớc một số quyền công dân, ngƣời chấp hành án phạt cấm

đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tịch thu tài sản,
ngƣời chấp hành các biện pháp tự pháp và ngƣời chấp hành án treo.
Về định nghĩa khái niệm ngƣời chấp hành án không tƣớc tự do trong khoa
học luật hình sự Việt Nam, qua tìm hiểu chúng tôi chƣa thấy có công trình nghiên
cứu nào đƣa ra định nghĩa rõ ràng, đầy đủ. Các tác giả có đƣa ra thuật ngữ ngƣời
chấp hành án không tƣớc tự do nhƣng chƣa đi sâu nghiên cứu để đƣa ra định nghĩa
với nội hàm đầy đủ của khái niệm. Tuy vậy có thể hiểu những ngƣời chấp hành án
không bị tƣớc tự do là những cá nhân bị kết tội và phải chịu hình phạt không tƣớc tự
do, các biện pháp tƣ pháp theo bản án, quyết định có hiệu lực của pháp luật.
Trên cơ sở tổng kết, tiếp thu những quan điểm của các học giả trong và ngoài
nƣớc về khái niệm hình phạt và phân tích nội dung, đặc điểm đặc trƣng cũng nhƣ
mục đích của hình phạt, PGS.TS Trịnh Quốc Toản đã đƣa ra khái niệm khoa học về
hình phạt theo đó:
Hình phạt là biện pháp cƣỡng chế nghiêm khắc của Nhà nƣớc,
đƣợc quy định trong luật hình sự do Tòa án quyết định áp dụng đối với
ngƣời phạm tội và đƣợc thể hiện ở việc tƣớc bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi
ích của họ nhằm giáo dục, cải tạo họ trở thành ngƣời có ích cho xã hội,
không phạm tội mới, giáo dục mọi công dân có ý thức tôn trọng pháp
luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm [42. tr. 32].
Căn cứ vào các khái niệm trên có thể hiểu những hình phạt không tƣớc tự do
ở đây là:
Những biện pháp cƣỡng chế nghiêm khắc nhất về hình sự của Nhà
nƣớc do Toà án quyết định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật để
buộc ngƣời bị kết án phải chịu một hoặc một số hậu quả pháp lý bất lợi
(nhƣng không tƣớc hoặc hạn chế quyền tự do thân thể, quyền tự do cƣ
trú), nhằm cải tạo, giáo dục ngƣời phạm tội, phòng và chống tội phạm,
các hình phạt không tƣớc tự do bao gồm cảnh cáo, cải tạo không giam
giữ, phạt tiền, tƣớc một số quyền công dân, cấm đảm nhiệm chức vụ,

10



cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tịch thu tài sản, quản chế,
cấm đi khỏi nơi cƣ trú [22, tr. 17].
“Tự do” đƣợc nói đến ở đây đƣợc hiểu là một trong những khía cạnh của
quyền con ngƣời hay nói cách khác là quyền tự do cá nhân. Quyền tự do cá nhân
không đƣợc các văn kiện pháp lý quốc tế định nghĩa mà chủ yếu đƣợc giải thích
trong thực tiễn áp dụng. Mạng lƣới chuyên gia độc lập của Liên minh Châu Âu về
các quyền cơ bản giải thích về quyền này nhƣ sau: “Quyền tự do cá nhân, chỉ liên
quan đến một khía cạnh rất cụ thể của quyền tự do của con ngƣời, tự do di
chuyển cơ thể theo nghĩa hẹp trong việc bắt bớ và giam giữ. Tất cả các hình thức ít
nghiêm trọng khác hạn chế về tự do di chuyển của cơ thể, chẳng hạn nhƣ quản chế
hoặc cấm cƣ trú, trục xuất, lƣu vong, lệnh giới nghiêm hoặc sự giám sát đối với các
tù nhân đƣợc phóng thích không thuộc phạm vi của quyền tự do cá nhân”. Tự do cá
nhân không hƣớng tới lý tƣởng về một xã hội không có nhà tù, trại giam mà chỉ
hƣớng tới một sự bảo đảm về mặt thủ tục. Quyền tự do cá nhân không phủ nhận
chính việc tƣớc quyền này mà chỉ phản đối việc bắt giữ và giam cầm một cách tùy
tiện [50, tr. 23]. Cụ thể hóa các quy định về quyền con ngƣời pháp luật Việt Nam
hiện hành quy định về các quyền tự do cơ bản của công dân đƣợc ghi nhận trong
hiến pháp và pháp luật Việt Nam đó là các quyền tự do đi lại và cƣ trú ở trong nƣớc,
có quyền ra nƣớc ngoài và từ nƣớc ngoài về nƣớc…(Điều 23 Hiến pháp 2013),
quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo, hoặc không theo một tôn giáo nào…(Điều 24
Hiến pháp 2013), quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp,
lập hội, biểu tình… (Điều 25 Hiến pháp 2013), quyền tự do kinh doanh trong những
ngành nghề mà pháp luật không cấm (Điều 33 Hiến pháp 2013).
Từ những phân tích ở trên có thể định nghĩa ngƣời chấp hành án không bị
tƣớc tự do là “Những cá nhân đã bị tòa án xét xử, kết tội và phải chịu những biện
pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất về hình sự của Nhà nước do Toà án quyết định
trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật, buộc các cá nhân này phải chịu một hoặc
một số hậu quả pháp lý bất lợi nhưng không tước hoặc hạn chế quyền tự do thân

thể, quyền tự do cư trú”.

11


Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi sẽ đi sâu nghiên cứu
về ba loại ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do bao gồm: Ngƣời chấp hành án
phạt cảnh cáo, ngƣời chấp hành án phạt tiền và ngƣời chấp hành án phạt cải tạo
không giam giữ. Các đối tƣợng này có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, ngƣời chấp hành án không tƣớc tự do là những ngƣời có tội. Pháp
luật nƣớc ta quy định không ai có thể bị coi là có tội khi tội phạm do họ thực hiện
chƣa đƣợc chứng minh theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003 và chƣa đƣợc xác định bằng bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của tòa. Tức
là, một ngƣời chỉ có thể bị coi là có tội khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật [33]. Những ngƣời bị tòa án kết tội là những cá nhân có năng lực trách
nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, đã thực hiện hành vi phạm tội với
lỗi cố ý hoặc vô ý, đƣợc tòa án xét xử theo bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Thứ hai, với hành vi phạm tội của mình những ngƣời chấp hành án phải chịu
những hình phạt không tƣớc tự do đƣợc quy định trong pháp luật hình sự bao gồm
hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, ngoài ra còn có một số hình
phạt bổ sung (hình phạt tƣớc một số quyền công dân, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tịch thu tài sản và phạt tiền). Những hình
phạt này có những tác động khác nhau đến ngƣời chấp hành án tuy nhiên chúng đều
có đặc điểm chung đó là không tƣớc đi quyền tự do của những cá nhân này và việc
áp dụng những hình phạt này đều có chung mục đích là nhằm cải tạo, giáo dục
ngƣời phạm tội, phòng và chống tội phạm.
Thứ ba, chỉ phải chấp hành hình phạt khi bản án do Tòa án tuyên có hiệu lực
pháp luật. Bản án có hiệu lực pháp luật là bản án bao gồm: Những bản án của Tòa
án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm; Những bản án
của Tòa án cấp phúc thẩm và những quyết định của Tòa án giám đốc thẩm, tái thẩm

(Điều 255 BLTTHS). Khi bản án có hiệu lực pháp luật tức là thời điểm ngƣời chấp
hành án phải chịu hình phạt hay nói cách khác là thời điểm phát sinh quyền và
nghĩa vụ của ngƣời chấp hành án.

12


1.1.2. Khái niệm địa vị pháp lý của người chấp hành án không bị tước tự do
Việc xác định địa vị pháp lý của ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do có
ý nghĩa quan trọng đối với các cơ quan thi hành án hình sự trong việc đề ra các biện
pháp quản lý, giáo dục ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do, hƣớng tới mục đích
thay đổi nhận thức của ngƣời chấp hành án, khiến họ trở hành những con ngƣời
hoàn lƣơng, sống có ích cho cộng đồng và xã hội, mặt khác cũng giúp cho những
ngƣời chấp hành án có thể hiểu đƣợc những quyền lợi mà họ đƣợc hƣởng cũng nhƣ
những nghĩa vụ trách nhiệm, hậu quả bất lợi mà họ phải gánh chịu, ngăn ngừa việc
tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, tái phạm, tái phạm nguy hiểm đồng thời tạo tính
răn đe đối với các chủ thể khác trong xã hội.
Theo từ điển luật học, NXB Tƣ pháp, năm 2009 thì địa vị pháp lý đƣợc hiểu
là “Vị trí của một chủ thể pháp luật trong mối liên hệ với những chủ thể khác trên
cơ sở quy định pháp luật, thể hiện thành một tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp
lý của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể đối với các
hoạt động pháp lý của mình trong phạm vi các quyền và nghĩa vụ đó” [48, tr.49].
Xuất phát từ định nghĩa trên có thể hiểu địa vị pháp lý của ngƣời chấp hành
án không bị tƣớc tự do là: “Vị trí của người chấp hành án không tước tự do trong
mối liên hệ với những chủ thể khác trên cơ sở quy định pháp luật. Địa vị pháp lý
được thể hiện thông qua tổng thể các quyền và nghĩa vụ của người chấp hành án
không bị tước tự do và mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ trong quá trình từ giai
đoạn bản án có hiệu lực pháp luật cho tới khi chấp hành xong hình phạt hoặc chấp
hành xong các biện pháp tư pháp, hoặc chấp hành xong thời gian thử thách, qua đó
xác lập cũng như giới hạn khả năng của người chấp hành án không bị tước tự do

đối với các hoạt động pháp lý của mình trong phạm vi các quyền và nghĩa vụ đó”.
Pháp luật Việt Nam hiện hành không có văn bản quy phạm pháp luật nào quy
định đầy đủ hết các quyền và nghĩa vụ của ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do
mà quyền và nghĩa vụ của ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do đƣợc quy định ở
nhiều văn bản khác nhau trong hệ thống pháp luật Việt Nam nhƣ Hiến pháp, Luật
Hình sự, Luật Tố tụng hình sự, luật Dân sự, Luật tố tụng dân sự, Luật Thi hành án
hình sự, Luật thi hành án dân sự, Luật Hôn nhân gia đình, Luật kinh doanh…
13


1.1.3. Đặc điểm địa vị pháp lý của người chấp hành án không bị tước tự do
Khi nói đến địa vị pháp lý của ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do
chúng ta xem xét trên hai khía cạnh: Thứ nhất là quyền và nghĩa vụ của ngƣời chấp
hành án không bị tƣớc tự do. Thứ hai: chúng ta xem xét tới mối quan hệ giữa quyền
và nghĩa vụ ngƣời ngƣời chấp hành án không tƣớc tự do.
Quyền là khả năng của mỗi công dân đƣợc tự do lựa chọn và hành động, khả
năng đó đƣợc pháp luật ghi nhận, tôn trọng và bảo đảm thực hiện bằng quyền lực Nhà
nƣớc, quyền của ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do là khả năng đƣợc tự do lựa
chọn và hành động (hay những hoạt động mà ngƣời chấp hành án đƣợc phép làm)
trong quá trình từ giai đoạn bản án có hiệu lực pháp luật cho tới khi ngƣời bị kết án
đƣợc xóa án tích đƣợc pháp luật ghi nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật,
đƣợc tôn trọng và đƣợc thực hiện một cách nghiêm minh bằng quyền lực của nhà
nƣớc. So với ngƣời chấp hành án bị tƣớc tự do ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự
do đƣợc hƣởng nhiều quyền lợi hơn trong đó đặc biệt là quyền không bị cách ly khỏi
xã hội. Tuy vậy pháp luật cũng đặt ra những nghĩa vụ đối với ngƣời chấp hành án
không bị tƣớc tự do nhằm có thể quản lý họ một cách tốt nhất, bảo đảm cho quá trình
cải tạo, giáo dục đạt hiệu quả cao, tránh việc tái phạm hành vi phạm tội.
Nghĩa vụ của ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do đƣợc hiểu là những xử
sự bắt buộc phải thực hiện của ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do (hay những
hoạt động mà ngƣời chấp hành án phải làm) đƣợc ghi nhận trong các quy định pháp

luật, bắt buộc phải tuân theo và đƣợc bảo đảm thực hiện bằng quyền lực nhà nƣớc.
Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành chúng tôi nhận thấy địa vị pháp
lý của ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do có một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, quyền và nghĩa vụ của ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do
đƣợc ghi nhận trong nhiều văn bản khác nhau chủ yếu trong Hiến pháp và Luật thi
hành án hình sự, ngoài ra còn một số văn bản pháp luật chuyên ngành nhƣ Luật hình
sự, Luật tố tụng hình sự, Luật thi hành án dân sự và các nghị định chính phủ...quy
định về vấn đề này. Điều này xuất phát từ việc ở những năm 2000 trở về trƣớc pháp
luật về thi hành án hình sự chƣa đƣợc quan tâm, chú trọng phát triển do đó có rất

14


nhiều văn bản pháp luật trong lĩnh vực này mang tính đơn lẻ, tản mạn, chủ yếu quy
định về một loại ngƣời chấp hành án, với sự xuất hiện của luật thi hành án hình sự
năm 2010 các quy định về quyền và nghĩa vụ của ngƣời chấp hành án nói chung và
ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do nói riêng đã đƣợc pháp điển hóa một cách
cụ thể, rõ ràng, tuy nhiên để có cách nhìn một cách đầy đủ nhất về quyền của ngƣời
chấp hành án không bị tƣớc tự do thì ngoài các quy định trong pháp luật thi hành án
hình sự chúng ta vẫn cần phải xem xét tới các quy định khác trong hiến pháp, pháp
luật hình sự, tố tụng hình sự, pháp luật thi hành án dân sự, nghị định chính phủ….
Có thể thấy việc nghiên cứu về quyền của ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do
là một vấn đề quan trọng và cần thiết trong bối cảnh kỳ họp thứ 6 quốc hội khóa
XIII nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Hiến pháp năm 2013
gồm 11 chƣơng 120 Điều đã ghi nhận một cách rõ ràng và đầy đủ các quyền về con
ngƣời, quyền công dân trong chƣơng II từ Điều 14 đến Điều 49 (gồm 36/120 điều
luật) ngoài ra việc đảm bảo quyền thực hiện quyền con ngƣời, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân cũng là quan điểm cơ bản, nội dung quyền xuyên suốt trong toàn
bộ Hiến pháp năm 2013, điều này cho thấy pháp luật nƣớc ta luôn có sự quan tâm
đặc biệt đối với quyền lợi của công dân, quyền con ngƣời nói chung, quyền lợi của

ngƣời chấp hành án nói riêng, đây cũng là phƣớng hƣớng, mục tiêu của Đảng ta
theo đó “việc bảo đảm thực hiện quyền công dân, quyền con người là mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội, xuất phát từ bản chất cả chế độ ta, và bao quát toàn bộ lĩnh vực
từ chính trị, tư tưởng, văn hóa tới kinh tế, an ninh, quốc phòng, pháp chế…” [2].
Thứ hai, quyền và nghĩa vụ nêu trên chỉ đƣợc áp dụng đối với những cá nhân
phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhân
thân tốt đƣợc tòa án áp dụng các hình phạt không tƣớc tự do trong bản án có hiệu
lực pháp luật. Nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự hiện hành có thể thấy
các hình phạt chính không tƣớc tự do nhƣ cảnh cáo chỉ áp dụng đối với ngƣời phạm
tội ít nghiêm có nhiều tình tiết giảm nhẹ (từ 2 tình tiết trở lên quy định tại Điều 46
Bộ luật hình sự); Phạt tiền chỉ áp dụng đối với ngƣời phạm tội ít nghiêm trọng;
Hình phạt cải tạo không giam giữ chỉ áp dụng đối với ngƣời phạm tội ít nghiêm

15


trọng hoặc nghiêm trọng, có nhân thân tốt. Mục đích của các nhà làm luật khi quy
định về các hình phạt không tƣớc tự do nhằm thể hiện tính chất nhân đạo trong
chính sách pháp luật hình sự của nƣớc ta, các hình phạt này chỉ áp dụng đối với
những cá nhân có những điều kiện nhƣ phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng
(tội phạm gây nguy hại không lớn hoặc lớn cho xã hội) có nhiều tình tiết giảm nhẹ
(có từ hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự) và có nhân thân
tốt (có lai lịch, nơi cƣ trú rõ ràng, chƣa có tiền án, tiền sự….). Đây là những điều
kiện đầu tiên, tiên quyết nhất để tòa án quyết định không cần thiết phải áp dụng các
hình phạt cách ly những cá nhân này ra khỏi xã hội bởi vì xét về bản chất những cá
nhân này có thể tự thân cải tạo dƣới sự giám sát, giáo dục của gia đình và xã hội.
Thứ ba, khác với địa vị pháp lý các đối tƣợng chấp hành án tƣớc tự do, hạn
chế tự do thì đối với địa vị pháp lý ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do đƣợc
thực hiện trong khi ngƣời chấp hành án không bị cách ly khỏi xã hội. Ngƣời chấp
hành án không tƣớc tự do phải chịu những hình phạt là những biện pháp cƣỡng chế

mang tính nghiêm khắc nhất của nhà nƣớc tuy nhiên họ không bị tƣớc bỏ quyền tự
do, họ đƣợc giáo dục, cải tạo không cần phải cách ly khỏi xã hội, đƣợc thi hành án
trong môi trƣờng bình thƣờng nơi ngƣời đó đang sống hoặc làm việc, công tác.
Ngƣời bị kết án tự cải tạo với sự giám sát, giúp đỡ và giáo dục của cơ quan Nhà
nƣớc, tổ chức xã hội, chính quyền địa phƣơng và gia đình, đây là đặc điểm cơ bản,
quan trọng nhất để phân biệt với địa vị pháp lý của ngƣời chấp hành án không bị
tƣớc tự do so với các đối tƣợng chấp hành án khác. Ở những ngƣời chấp hành án bị
tƣớc tự do nhƣ đối với ngƣời chấp hành án phạt tù (tù có thời hạn hoặc tù chung
thân), Nhà nƣớc áp đặt chế độ giam giữ, lao động, sinh hoạt và kỷ luật khắt khe đối
với ngƣời phạm tội để giáo dục, cải tạo ngƣời phạm tội, còn đối với ngƣời chấp
hành án không tƣớc tự do, yếu tố quyết định trong việc cải tạo ngƣời phạm tội lại
chính là bản thân ngƣời phạm tội, là ý thức tự giác của họ. Trong quá trình cải tạo
ngƣời phạm tội không phải chịu sự quản lý, giám sát chặt chẽ nhƣ ngƣời chấp hành
án phạt tù mà chỉ phải chịu sự quản lý, giám sát ở một mức độ nhất định.
Thứ tư, việc bảo đảm địa vị pháp lý của ngƣời chấp hành án đƣợc thực hiện

16


bởi nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau. Khác với ngƣời chấp hành án phạt tù, ngƣời
chấp hành án phạt tử hình… pháp luật hiện hành quy định rõ một cơ quan chuyên
trách là cơ quan Công an để thi hành án thì việc quản lý cũng nhƣ bảo đảm những
quyền lợi cho những ngƣời chấp hành án không bị tƣớc tự do là một vấn đề phức tạp,
vừa cần có sự tham gia của các cơ quan thi hành án chuyên trách, vừa cần có sự tham
gia của chính quyền địa phƣơng, của các cơ quan nhà nƣớc, các tổ chức chính trị, xã
hội khác bởi lẽ những cá nhân trên họ không bị cách ly khỏi xã hội nhƣ đối với những
ngƣời chấp hành án phạt tù, tử hình, việc quản lý, giám sát, giáo dục những cá nhân
trên là vô cùng khó khăn cần có sự tham gia của toàn xã hội. Trong quá trình thi hành
án, các cơ quan thi hành án một mặt phải có sự phối hợp chặt chẽ với nhau, mặt khác
phải phối hợp với các cơ quan, tổ chức chính trị, xã hội khác mới đạt đƣợc hiệu quả

cao. Theo quy định tại Điều 275 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì Chính quyền
xã, phƣờng, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi ngƣời bị kết án cƣ trú hoặc làm việc có
nhiệm vụ theo dõi, giáo dục, giám sát việc cải tạo của những ngƣời bị phạt cải tạo
không giam giữ. Cơ quan thi hành án dân sự thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản
và quyết định dân sự trong vụ án hình sự. Chính quyền xã, phƣờng, thị trấn hoặc cơ
quan, tổ chức có nhiệm vụ giúp chấp hành viên trong việc thi hành án. Nếu cần phải
áp dụng biện pháp cƣỡng chế thi hành án thì cơ quan Công an và các cơ quan hữu
quan khác có nhiệm vụ phối hợp. Về ý nghĩa của việc giao cho nhiều cơ quan khác
nhau thi hành các hình phạt không tƣớc tự do, chúng tôi hoàn toàn nhất trí với nhận
định "Việc thi hành các hình phạt khác không phải tù, không do một cơ quan thực
hiện mà đƣợc giao cho nhiều cơ quan, tổ chức xã hội nơi ngƣời bị kết án cƣ trú theo
dõi, giám sát thể hiện bản chất nhân đạo của Nhà nƣớc ta và xu hƣớng xã hội hoá một
số mặt công tác thi hành án hình sự hiện nay".
Thứ năm, việc bảo đảm địa vị pháp lý của ngƣời chấp hành án không tƣớc tự
do phát huy cao độ vai trò của cộng đồng trong việc giáo dục, cải tạo ngƣời phạm
tội. Những ngƣời chấp hành án không tƣớc tự do đƣợc cải tạo dƣới sự giám sát,
giúp đỡ và giáo dục của cơ quan Nhà nƣớc, tổ chức xã hội, chính quyền địa phƣơng
và gia đình. Các nhân tố đó đóng vai trò rất quan trọng trong việc cảm hoá ngƣời

17


×