Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Các tội xâm phạm tính mạng của con người trong luật hình sự việt nam (trên cơ sở số liệu xét xử của tòa án tỉnh bình dương )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.64 KB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐOÀN VĂN LÂM

CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (TRÊN CƠ SỞ CÁC
SỐ LIỆU XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN TỈNH BÌNH DƯƠNG)
Chuyên ngành: Luật hình sự - tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Quốc Toản

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Đoàn Văn Lâm




MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
LỜI CAM ĐOAN...................................................................................................................1
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong
Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích
dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả
các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.......................................................................................................1
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.. 1
Tôi xin chân thành cảm ơn!....................................................................................................1
NGƯỜI CAM ĐOAN............................................................................................................1
Đoàn Văn Lâm.......................................................................................................................1


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:
LPHS:
CSHS:
LHS:
TNHS:
TAND:
TANDTC:
VKSND:
VKSNDTC:


Bộ luật hình sự
Lập pháp hình sự
Chính sách hình sự
Luật hình sự
Trách nhiệm hình sự
Toà án nhân dân
Toà án nhân nhân tối cao
Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiệm sát nhân dân tối cao


DANH MỤC CÁC BẢNG
LỜI CAM ĐOAN...................................................................................................................1
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong
Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích
dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả
các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.......................................................................................................1
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.. 1
Tôi xin chân thành cảm ơn!....................................................................................................1
NGƯỜI CAM ĐOAN............................................................................................................1
Đoàn Văn Lâm.......................................................................................................................1


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Quyền sống là một trong những quyền tự nhiên, quan trọng nhất mà ai
cũng có như một lẽ đương nhiên. Các thiết chế xã hội đặc biệt là Nhà nước
có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ quyền sống của con người, chống lại bất kỳ

hành vi nào xâm phạm đến quyền này. Luật Quốc tế về nhân quyền đưa ra
các tiêu chí về quyền con người và các đảm bảo quyền con người, trong đó
có quyền sống.
Ngay sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, trong bản tuyên ngôn độc
lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình đã khẳng định:
“Mọi người sinh ra có quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh
phúc…”. Với tinh thần đó, pháp luật nước ta luôn khẳng định bảo vệ quyền
con người tại Điều 71 – Hiến pháp 1992 nước ta quy định: “Công dân có
quyền bất khả xâm phạm về thân thể được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm…”.
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999
(được sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã qui định các tội xâm phạm tính mạng
con người và hình phạt tương ứng áp dụng đối với những người phạm tội. Các
qui định của BLHS đã góp phần tích cực trong bảo vệ quyền được sống, bảo
vệ tính mạng con người, góp phần làm ổn định trật tự, an toàn xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc đấu tranh phòng
ngừa các hành vi xâm phạm tính mạng của các cơ quan tiến hành tố tụng còn
bộc lộ nhiều hạn chế, ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo vệ tính mạng con
người. Những hạn chế đó thể hiện ở việc vẫn còn hiện tượng bỏ lọt tội phạm,
bỏ lọt những hành vi xâm phạm tính mạng con người, không bị điều tra xử lý.
Về việc áp dụng trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với người người có hành vi

1


xâm phạm tính mạng con người, còn nhiều trường hợp chưa tương xứng với
tính chất, mức độ tội phạm. Trong quá trình giải quyết vụ án, các cơ quan tiến
hành tố tụng còn lúng túng trong việc vận dụng pháp luật, do luật hình sự
(LHS) qui định còn chưa cụ thể, rõ ràng, nên đã ảnh hưởng đến hiệu quả đấu
tranh, xử lý đối với loại tội phạm này.

Trải qua các thời kỳ cách mạng, trong quá trình kiến thiết và bảo vệ đất
nước, vấn đề bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người
được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đặc biệt coi trọng, nhất là trong hoạch
định chính sách hình sự, nhằm đảm bảo cho hoạt động phòng và chống tội
phạm đạt hiệu quả cao, thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, từng bước hội nhập với quốc tế. Trong Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội từ năm 2011 – 2020 của đất nước, Đảng ta đưa ra quan điểm:
“Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ
thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”.
Tuy nhiên, từ thực tiễn của cuộc sống mỗi ngày diễn ra hết sức sôi
động, tình hình tội phạm xâm phạm tính mạng con người diễn ra rất đa dạng,
phức tạp, trong khi đó chính sách hình sự (CSHS) nói chung và hệ thống pháp
luật về đấu tranh phòng chống tội phạm nước ta nói riêng vẫn còn những vấn
đề cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện, đảm bảo đủ cơ sở pháp lý cho các hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử tội phạm, đáp ứng theo yêu cầu cải cách tư pháp,
xây dựng Nhà nước pháp quyền, đem lại bình yên cho cuộc sống.
Với ý nghĩa trên, tác giả chọn đề tài: Các tội xâm phạm tính mạng của
con người trong LHS Việt Nam (trên cơ sở các số liệu xét xử của Toà án tỉnh
Bình Dương) để nghiên cứu.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các tội xâm phạm tính mạng con người được nhiều nhà khoa học pháp
lý trong nước quan tâm nghiên cứu. Sau khi BLHS năm 1985 được ban hành,

2


tội xâm phạm tính mạng con người được đề cập trong nhiều giáo trình, sách
pháp lý, đề tài nghiên cứu như: Giáo trình LHS Việt Nam trong Phần các tội
phạm của Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN), Nhà xuất bản

ĐHQGHN; Giáo trình LHS Việt Nam, tập II của Trường Đại học Luật Hà
Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân năm 1998; Bình luận khoa học BLHS
của Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1987 sau đó tái bản năm 1992, 1997.
Sau khi BLHS năm 1999 được ban hành, đề tài “Các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người” của TS Trần Văn
Luyện, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000; Giáo trình LHS Việt
Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà
Nội, 2000; Giáo trình LHS Việt Nam, Phần các tội phạm của Khoa luật,
ĐHQGHN, Nhà xuất bản ĐHQGHN, Hà Nội, 2002, Tập thể tác giả do
GS.TSKH Lê Văn Cảm chủ biên; Bình luận khoa học BLHS 1999 - Phần các
tội phạm của PGS.TS Phùng Thế Vắc và các tác giả khác, Nhà xuất bản Công
an nhân dân, Hà Nội, 2001; Bình luận khoa học BLHS, Phần các tội phạm,
tập I (Bình luận chuyên sâu) của Th.S Đinh Văn Quế, NXB thành phố Hồ Chí
Minh, 2002; Bình luận khoa học BLHS (được sửa đổi, bổ sung) của PGS.TS
Trần Minh Hưởng, NXB Hồng Đức, 2012.
Các công trình nói trên đã đề cập tội xâm phạm tính mạng con người
dưới góc độ pháp lý hình sự nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một
cách toàn diện và có hệ thống về nhóm tội này. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài
các tội xâm phạm tính mạng của con người làm luận văn thạc sĩ luật học là
phù hợp với thực tế yêu cầu về xây dựng và hoàn thiện pháp luật hình sự
(PLHS) hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích nghiên cứu:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về các tội xâm phạm tính

3


mạng con người; những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội phạm này

trong PLHS Việt Nam hiện hành.
- Phân tích, đánh giá những quy định về các tội xâm phạm tính mạng
con người trong PLHS nước ta, thực trạng điều tra, truy tố, xét xử các tội
danh này trên địa bàn tỉnh Bình Dương nhằm rút ra những tồn tại, hạn chế về
lập pháp, áp dụng PLHS, qua đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện PLHS,
góp phần nâng cao hiệu quả phòng chống tội phạm, phục vụ phát triển kinh
tế, xã hội của đất nước.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được những mục đích trên, đề tài đi sâu giải quyết các nhiệm vụ
cơ bản sau:
+ Nghiên cứu làm rõ lý luận cơ bản về các tội xâm phạm tính mạng con
người trong LHS Việt Nam và thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các tội xâm
phạm tính mạng con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 05 năm
2008-2012.
+ Đề xuất nội dung để hoàn thiện các quy định của BLHS hiện hành
về các tội xâm phạm tính mạng con người và một số giải pháp nâng cao
hiệu quả áp dụng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Các qui định của CSHS Việt Nam, tập trung nhất là BLHS Việt Nam
và các công trình nghiên cứu, chuyên khảo về khoa học pháp lý liên quan đến
tội xâm phạm tính mạng con người, thực tiễn xử lý tội này của các cơ quan
tiến hành tố tụng trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2008-2012.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi về nội dung: Các tội xâm phạm tính mạng con người được
qui định ở nhiều chương của BLHS, tuy nhiên trong khuôn khổ luận văn này,

4



tác giả xác định phạm vi nghiên cứu các tội xâm phạm tính mạng con người
là các tội phạm quy định tại Chương XII của BLHS năm 1999 và thực tiễn xử
lý các tội xâm phạm tính mạng con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
+ Phạm vi về thời gian: Khảo sát thực tế 5 năm, từ năm 2008 đến
năm 2012.
5. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
- Cơ sở lý luận:
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống các quan điểm của Chủ nghĩa
Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng cộng sản Việt Nam về xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân và pháp luật về đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội xâm
phạm tính mạng con người nói riêng; là các văn bản pháp luật, các giáo trình
về LHS nói chung và các tội xâm phạm tính mạng con người nói riêng.
- Cơ sở thực tiễn:
Là kết quả khảo sát tình hình xử lý tội phạm xâm phạm tính mạng con
người trên địa bàn tỉnh Bình Dương trong 5 năm từ năm 2008 đến năm 2012
trên cả hai phương diện: Những kết quả đạt được, hạn chế thiếu sót và nguyên
nhân hạn chế, thiếu sót.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu áp dụng những phương pháp nghiên cứu:
Tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh, điều tra xã hội học, tọa đàm trao đổi
và phương pháp chuyên gia.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận:
Nội dung của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
trong quá trình giảng dạy chuyên ngành luật và nghiên cứu hoàn thiện
PLHS Việt Nam.

5



- Ý nghĩa thực tiễn:
Những đề xuất của đề tài có thể được nghiên cứu, sử dụng trong quá
trình hoàn thiện hệ thống pháp luật phòng chống tội phạm, cũng như trong
hoạt động tố tụng, nhất là trong giai đoạn xét xử, định tội danh, quyết định
hình phạt đối với các vụ án xâm phạm tính mạng con người.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu về khoa học pháp lý nói chung, khoa học LHS và áp dụng thực
tiễn công tác tại các cơ quan bảo vệ pháp luật…
8. Cấu trúc nội dung của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, nội dung của đề tài được cấu
trúc thành 03 chương.
- Chương 1: Một số vấn đề chung về các tội xâm phạm tính mạng con người.
- Chương 2: Thực tiễn xét xử các tội xâm phạm tính mạng con người
trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2008 - 2012.
- Chương 3: Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về các
tội xâm phạm tính mạng con người và một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ
CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI
1.1. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về các tội xâm
phạm tính mạng của con người
1.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLHS năm 1985
Trải qua các giai đoạn lịch sử hình thành và phát triển, xuất phát từ đặc
điểm riêng của mình, LHS Việt Nam nhìn chung có nhiệm vụ bảo vệ chế độ,
quyền làm chủ của nhân dân, quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo

vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức; bảo
vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội; đồng thời
giáo dục mọi người có ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm.
Từ khi ra đời đến nay, LHS Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ thay
đổi, phát triển, từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc, tăng
cường giao lưu hội nhập với quốc tế của đất nước, xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam XHCN.
* Thời kỳ 1945-1954:
Thời kỳ này đánh dấu bước phát triển quan trọng của quá trình lập pháp
hình sự. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân
non trẻ phải đối mặt với những khó khăn chồng chất. Nền kinh tế của đất
nước vốn đã nghèo nàn, lạc hậu, trong khi đó các thế lực thù địch câu kết với
nhau dùng nhiều thủ đoạn thâm độc nhằm đánh đổ chính quyền nhân dân do
Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta phải đánh đổi biết bao mồ hôi,
xương máu mới giành được. Miền Nam, được sự yểm trợ của quân Anh, Thực
dân Pháp xâm chiếm Sài Gòn, rồi sau đó các tỉnh Nam Bộ và Nam Trung Bộ.

7


Trong những ngày đầu giành được chính quyền và liên tiếp thời gian
sau đó, để ổn định an ninh trật tự trong điều kiện chưa xây dựng được hệ
thống luật pháp hình sự, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký lệnh ban hành hàng loạt
các sắc lệnh nhằm giải quyết những vấn đề phát sinh trước mắt. Trong giai
đoạn 1945-1954, Nhà nước ta đã ban hành các văn bản sau:
- Sắc lệnh số 21/SL ngày 14/2/1946 trừng trị bọn phản cách mạng, bọn
địa chủ cường hào ngoan cố;
- Sắc lệnh số 26/SL ngày 25/2/1946 trừng trị tội phạm phá hoại công sản;
- Sắc lệnh số 27/SL ngày 28/2/1946 trừng trị các tội phạm bắt cóc, tống

tiền, ám sát;
- Sắc lệnh số 40/SL ngày 29/3/2946 đảm bảo tự do cá nhân;
- Sắc lệnh số 223/SL ngày 20/01/1953 trừng trị tội phạm xâm hại đến
an toàn nhà nước;
- Sắc lệnh 150/SL và Sắc lệnh số 151/SL ngày 12/4/1953 trừng trị địa
chủ chống pháp luật…
Ở giai đoạn này, LHS phải thực hiện nhiệm vụ chung là bảo vệ chính
quyền nhân dân còn non trẻ, trừng trị bọn Việt Gian, phản động để phục vụ
cuộc kháng chiến chống Pháp đi đến thắng lợi; trừng trị bọn địa chủ cường
hào ngoan cố, các đối tượng hình sự lợi dụng xã hội nước ta còn chưa ổn định
có hành vi gây phương hại đến chính quyền, tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
tài sản của nhân dân.
Liên quan đến hành vi xâm phạm tính mạng con người có các sắc lệnh:
Sắc lệnh số 27/SL ngày 28/2/1946 trừng trị tội bắt cóc, tống tiền, ám sát. Sắc
lệnh này nhằm chống lại tình hình bọn "Việt Nam quốc dân Đảng" dùng các
thủ đoạn bắt cóc, tống tiền, ám sát để chống phá cách mạng và Nhà nước ta. Về
hình phạt đưa ra cũng khá nghiêm khắc: Những người phạm tội bắt cóc, tống
tiền và ám sát sẽ bị phạt tù từ 2 năm đến 10 năm và có thể bị xử tử hình.

8


Như vậy, sau Cách mạng Tháng tám thành công, Nhà nước ta tuy
còn rất non trẻ nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tích cực tiến hành hoạt động lập pháp hình sự.
Và chỉ trong thời gian ngắn đã ban hành hàng loạt các văn bản quy phạm
PLHS, đáp ứng yêu cầu giữ vững chính quyền nhân dân, góp phần xây dựng
và phát triển lực lượng, chuẩn bị sẵn sàng bước vào cuộc kháng chiến lâu dài
của cả nước.
Bước vào thời kỳ toàn quốc kháng chiến, kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí

Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19-12-1946) đến ngày 20-71954, quân dân cả nước đã tiến hành cuộc kháng chiến ròng rã chín năm với
nhiều đau thương mất mát và cuối cùng đã giành được thắng lợi: Đánh đuổi
đế quốc Pháp ra khỏi đất nước, mở ra thời kỳ mới- Cách mạng XHCN ở Miền
Bắc và Cách mạng dân tộc dân chủ ở Miền Nam.
Nghiên cứu các văn bản quy phạm PLHS được ban hành trong thời kỳ
này liên quan đến các tội xâm phạm tính mạng con người nói riêng và các qui
định của LHS nói chung có một số đặc điểm như sau:
- Về tội phạm, PLHS thời kỳ này chưa có quy phạm định nghĩa về tội
phạm, mà chỉ quy định những tội phạm cụ thể và các biện pháp pháp lý hình
sự áp dụng đối với chúng, nhằm phục vụ yêu cầu của cuộc kháng chiến. Chế
định đồng phạm được ghi nhận ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật hình sự,
nhưng mới chỉ được xem xét ở một số khía cạnh nhất định, vẫn chưa có quy
định về khái niệm đồng phạm. Phạm vi đồng phạm được quy định rộng, được
hiểu với nghĩa là đồng thực hành.
- Về hình phạt, các hình phạt được quy định trong thời kỳ này đã được
chia làm hai loại: Hình phạt chính và hình phạt phụ. Các hình phạt chính bao
gồm: Phạt tiền; tù có thời hạn; tù chung thân; tử hình. Các hình phạt phụ bao
gồm: Tịch thu tài sản; tước quyền công dân; phạt tiền; quản thúc. Hình phạt
tiền vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung.

9


Trong giai đoạn này, không có văn bản nào quy định riêng về tội giết
người mà tội giết người chỉ được đề cập trong các văn bản quy định về một
nhóm tội cần tập trung trấn áp để bảo vệ chính quyền, công sản và một số đối
tượng đặc biệt nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phản đế, phản phong. Theo
Điều 4, Mục 2, Sắc lệnh số 133-SL ngày 20/01/1953, trừng trị những tội xâm
phạm an ninh đối nội và an toàn đối ngoại của Nhà nước quy định:“Kẻ nào
phạm những tội vây quét, bắt, giết, tra tấn, khủng bố, hà hiếp cán bộ và nhân

dân, áp bức, bóc lột, cướp phá nhân dân, bắt phu, bắt lính, thu thuế cho địch,
sẽ tuỳ tội nặng nhẹ mà xử phạt như sau: Bọn chủ mưu, tổ chức, chỉ huy sẽ bị
xử tử hình hoặc chung thân; … ”; Điều 6 Sắc lệnh số 151-SL, ngày 12/4/1953,
trừng trị địa chủ chống pháp luật quy định:“Địa chủ nào phạm một trong
những tội sau đây: Cấu kết với đế quốc, ngụy quyền, gián điệp thành lập hay
cầm đầu những tổ chức, những đảng phái phản động để chống Chính phủ, phá
hoại kháng chiến, làm hại nhân dân, giết hại nông dân, cán bộ và nhân viên…
thì sẽ bị phạt tù từ 10 năm đến chung thân hoặc xử tử hình…”
Trong giai đoạn này, hành vi xâm phạm tính mạng của con người được
quy định dưới nhiều hình thức khác nhau như: Ám sát, giết hại, cố ý giết
người… Như Điều 1, Sắc lệnh số 27- SL, ngày 28/02/1946 trừng trị các tội
bắt cóc, tống tiền và ám sát quy định: “Những người phạm tội bắt cóc, tống
tiền, ám sát sẽ bị phạt từ 2 năm đến 10 năm tù và có thể bị xử tử”; Khoản 1,
Điều 6 Sắc lệnh số 151-SL ngày 12/4/1953 trừng trị địa chủ chống pháp luật
quy định địa chủ nào phạm một trong những tội sau đây thì sẽ bị phạt tù từ 10
năm đến chung thân hoặc xử tử hình: Cấu kết với đế quốc, ngụy quyền, gián
điệp thành lập hay cầm đầu những tổ chức, những đảng phái phản động để
chống Chính phủ, phá hoại kháng chiến, làm hại nhân dân, giết hại nông dân,
cán bộ và nhân viên; Điểm 3 của Thông tư số 442-TTg ngày 19/01/1955 quy
định: Cố ý giết người phạt tù từ 5 năm đến 20 năm, nếu có trường hợp nhẹ thì
có thể hạ xuống đến 1 năm, giết người có dự mưu có thể phạt đến tử hình.

10


Quy định về tội giết người trong giai đoạn này đã có sự phân hóa
TNHS cũng như trong đường lối xử lí người phạm tội giết người và thể hiện
rõ nguyên tắc nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, người hoạt động đắc lực,
gây hậu quả nghiêm trọng…; khoan hồng đối với những người bị cưỡng bức,
lừa gạt…Điều 4, Mục 2, Sắc lệnh số 133-SL ngày 20/01/1953 trừng trị những

tội xâm phạm an ninh đối nội và an toàn đối ngoại của Nhà nước quy định:
“Kẻ nào phạm những tội vây quét, bắt, giết, tra tấn, khủng bố, hà hiếp cán bộ

và nhân dân, áp bức, bóc lột, cướp phá nhân dân, bắt phu, bắt lính, thu thuế
cho địch, sẽ tùy tội nặng nhẹ mà xử phạt như sau: a) Bọn chủ mưu, tổ chức,
chỉ huy sẽ bị xử tử hình hoặc chung thân; b) Bọn hoạt động đắc lực làm hại
nhiều người sẽ bị phạt tù từ 10 năm trở lên; c) Những kẻ phạm các tội trên
mà tội trạng tương đối nhẹ, sẽ bị phạt tù từ 10 năm trở xuống ; Điều 6 Sắc
lệnh số 151-SL ngày 12/4/1953 trừng trị địa chủ chống pháp luật quy định:
Những kẻ bị cưỡng bức hay bị lừa gạt mà phạm tội thì tùy tội nặng nhẹ, thái
độ hối lỗi của họ mà sẽ bị phạt tù từ 10 năm trở xuống.
Về đường lối xử lí, người phạm tội xâm phạm tính mạng con người mà
tập trung ở tội giết người đã được mở rộng với nhiều loại và mức hình phạt có
tính chất nghiêm khắc khác nhau. Như tại Điểm 3, Thông tư số 442-TTg ngày
19/01/1955 quy định: Cố ý giết người phạt tù từ 5 năm đến 20 năm, nếu có
trường hợp nhẹ thì có thể hạ xuống đến 1 năm, giết người có dự mưu có thể
phạt đến tử hình. Đối với hình phạt bổ sung, được quy định và áp dụng đối
với người phạm tội giết người nhằm hỗ trợ cho hình phạt chính và mở thêm
khả năng pháp lí cho toà án có thể lựa chọn hình phạt phù hợp với tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và nhân thân người phạm tội.
Điều 6 Sắc lệnh số 151-SL ngày 12/4/1953, trừng trị địa chủ chống pháp luật
quy định: Địa chủ nào phạm một trong những tội sau đây: Cấu kết với đế
quốc, ngụy quyền, gián điệp thành lập hay cầm đầu những tổ chức, những

11


đảng phái phản động để chống Chính phủ, phá hoại kháng chiến, làm hại nhân
dân, giết hại nông dân, cán bộ và nhân viên;… thì sẽ bị phạt tù từ 10 năm đến
chung thân hoặc xử tử hình, phải bồi thường thiệt hại cho nông dân, bị tịch

thu một phần hay tất cả tài sản.
* Thời kỳ 1954-1975:
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền
Bắc hoàn toàn được giải phóng, miền Nam bị đế quốc Mỹ và bọn tay sai
thống trị. Miền Bắc tiến hành cách mạng XHCN, quyết tâm phát triển đi lên
để trở thành hậu phương vững chắc cho cách mạng cả nước, đặc biệt là hỗ trợ
miền Nam tiến hành cách mạng dân tộc, dân chủ đánh đổ đế quốc Mỹ và tay
sai, thực hiện mục tiêu giành lại độc lập tự do, thống nhất nước nhà.
Nghiên cứu PLHS nước ta trong thời kỳ này cho thấy có nhiều tiến bộ
thể hiện ở một số đặc điểm chung như sau:
Về tội phạm, đối với trẻ em có sự khoan hồng, chiếu cố; dưới 14 tuổi
thì không đưa ra Tòa án xét xử; từ 14 tuổi đến 18 tuổi, nếu trường hợp phạm
pháp cần thiết phải đưa ra xét xử thì có châm chước; riêng đối với người
phạm tội từ 14 tuổi đến 16 tuổi thì chỉ xét xử trong những trường hợp phạm
tội nghiêm trọng. Quy định tiến bộ này tiếp tục được ghi nhận trong BLHS
năm 1985 và BLHS năm 1999 sau này.
Về khái niệm lỗi, tuy chưa được chính thức ghi nhận trong các văn bản
quy phạm pháp luật hình sự nhưng trong các văn bản của ngành Tòa án đã có
sự phân biệt giữa các hình thức lỗi: Cố ý trực tiếp, cố ý gián tiếp, vô ý vì quá
tự tin và vô ý vì cẩu thả. Về lỗi cố ý, từ thực tiễn xét xử loại tội giết người
đã đưa ra khái niệm lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp. Theo đó, trong tội
giết người có hai hình thức lỗi là cố ý- có sự cố ý trực tiếp khi can phạm thấy
rõ rằng hành động của mình sẽ có hậu quả làm chết người khác, và chính vì
mong muốn cho hậu quả đó xảy ra nên đã có hành vi. Lỗi cố ý gián tiếp: Can

12


phạm không mong muốn nạn nhân chết, nhưng biết rằng hành vi của mình có
nhiều khả năng làm nạn nhân chết mà vẫn cứ làm và không trông mong vào

một điều kiện cụ thể nào có thể ngăn chặn cho hậu quả đó đừng xảy ra. Ý
thức chủ quan của can phạm là ý thức mặc kệ không quan tâm đến việc nạn
nhân sống hay chết. Về lỗi vô ý được đề cập đến các hành vi: “Thiếu tinh
thần trách nhiệm vi phạm quy tắc lao động, gây thiệt hại nghiêm trọng về
người và tài sản”.
Định nghĩa pháp lý về các giai đoạn thực hiện tội phạm chưa được
ghi nhận chính thức trong các văn bản quy phạm PLHS thời kỳ này, nhưng
trong các văn bản của ngành Tòa án cũng đã đề cập các giai đoạn: Âm mưu
phạm tội; Chuẩn bị phạm tội; Phạm tội chưa đạt; Tội phạm hoàn thành.
Xuất phát từ việc phòng chống tội phạm phản cách mạng – là nhóm tội rất
nghiêm trọng cần phải trấn áp ngay từ khi kẻ phạm tội bắt đầu biểu hiện ý
nghĩ phản cách mạng nên hình thành khái niệm về “âm mưu phạm tội” - là
giai đoạn đầu của việc tiến hành các tội phản cách mạng.
Các văn bản quy phạm PLHS thời kỳ này đối với tội xâm phạm tính
mạng con người (giết người) đã đề cập đến khái niệm chuẩn bị phạm tội.
Theo Bản tổng kết số 452-HS2 ngày 10-8-1970 của TANDTC: Muốn gọi là
có dự mưu, việc chuẩn bị kế hoạch giết người của can phạm phải được suy
nghĩ tương đối kỹ càng trước khi bước vào hành động.
Tương tự như giai đoạn chuẩn bị phạm tội, giai đoạn phạm tội chưa đạt
và tội phạm hoàn thành cũng chỉ được đề cập đối với tội giết người trong văn
bản trên: Tội giết người hoàn thành khi người bị nạn chết. Đối với trường hợp
giết người, nhưng không chết, nên thống nhất gọi là giết người chưa đạt; trong
trường hợp này tuy giết người chưa đạt, nạn nhân không chết, nhưng can phạm
cho là đã làm hết mọi việc cần thiết để giết người và tưởng nạn nhân đã chết.
Cùng với sự phát triển của khoa học LHS, khái niệm đồng phạm đã bắt

13


đầu xuất hiện trong các sách báo pháp lý, các báo cáo tổng kết của ngành Tòa

án. Phạm tội có tổ chức lần đầu tiên được đề cập trong Thông tư số 442-TTg
ngày 19-1-1955 của Thủ tướng Chính phủ nhưng thế nào là "có tổ chức" thì
chưa được giải thích.
Nhìn chung trong giai đoạn này có các văn bản PLHS tiêu biểu như:
- Sắc lệnh số 267 ngày 15/6/1956 về trừng trị âm mưu và hành động
phá hoại tài sản nhà nước, hợp tác xã và tài sản riêng của công dân;
- Pháp lệnh ngày 30/10/1967 trừng trị tội phản cách mạng…
Để thực hiện đường lối mà Đảng ta đề ra trong giai đoạn từ năm 1955
đến năm 1976, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và TANDTC đã
ban hành nhiều văn bản hướng dẫn đường lối xử lý tội giết người như: Chỉ thị
số 1025-TATC ngày 15/6/1960 của TANDTC về đường lối xử lí tội giết
người vì mê tín; Chỉ thị số 01-NCCS ngày 14/3/1963 của TANDTC về xử lí
tội giết trẻ sơ sinh; Bản chuyên đề tổng kết thực tiễn xét xử loại tội giết người
ban hành kèm theo Công văn số 452-HS2 ngày 10/8/1970 của TANDTC về
thực tiễn xét xử tội giết người; Báo cáo tổng kết công tác toàn ngành năm
1975 của TANDTC; Công văn số 37 và 38-NCPL ngày 16/01/1976 của
TANDTC; Sắc luật số 03-SL ngày 15/3/1976 của Hội đồng Chính phủ cách
mạng lâm thời và Thông tư số 03-SL-BTP-TT ngày 15/4/1976 của Bộ Tư
pháp hướng dẫn thi hành Sắc luật số 03 nói trên quy định các tội phạm và
hình phạt trong đó có tội giết người với nội dung: Phạm tội cố ý giết người thì
bị phạt tù từ 15 năm đến tù chung thân hoặc bị xử tử hình. Trường hợp có tình
tiết giảm nhẹ thì mức hình phạt có thể thấp hơn.
Có thể nói, các quy định về tội xâm phạm tính mạng con người trong
các văn bản pháp luật của Nhà nước ta giai đoạn này đã kế thừa những thành
tựu lập pháp hình sự (LPHS) của giai đoạn trước trong việc phân hoá TNHS
cũng như trong đường lối xử lí người phạm tội xâm phạm tính mạng con
người. Cụ thể như:

14



- Giết người kèm theo một trong những tình tiết tăng nặng đặc biệt sau
đây thì có thể bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình:
Giết người có dự mưu; giết người để che giấu hoặc để dễ dàng thực hiện một
tội phạm khác; giết người kèm theo hiếp dâm, cướp của hay một tội phạm
nghiêm trọng khác; giết người một cách cực kì man rợ; giết nhiều người…
- Giết người kèm theo tình tiết giảm nhẹ đặc biệt sau đây thì bị phạt
thấp hơn 15 năm tù: Giết người trong tình trạng tinh thần bị kích động một
cách mạnh mẽ và đột xuất do hành vi sai trái nghiêm trọng của nạn nhân.
- Giết người trong những trường hợp thông thường, không có tình tiết
tăng nặng cũng không có tình tiết giảm nhẹ thì bị phạt tù từ 5 năm đến 20 năm.
So với giai đoạn trước, quy định về tội xâm phạm tính mạng con người
trong giai đoạn này đã có sự phát triển đáng kể trong việc phân hoá TNHS
cũng như trong đường lối xử lí người phạm tội. Cụ thể là:
- Nhiều tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ được bổ sung thêm
trong giai đoạn này. Nhưng điểm đáng chú ý nhất là lần đầu tiên LHS có sự
phân biệt tình tiết tăng nặng chung với tình tiết tăng nặng đặc biệt và tình tiết
giảm nhẹ chung với tình tiết giảm nhẹ đặc biệt.
- Những tình tiết tăng nặng đặc biệt được quy định trong tội giết người
gồm: Giết người vì động cơ đê hèn hoặc có tính chất côn đồ; giết phụ nữ mà
biết là có mang; giết người bằng thủ đoạn nguy hiểm có thể làm chết nhiều
người; giết người trong khi được giao nhiệm vụ công tác hoặc vì nạn nhân thi
hành nhiệm vụ; can phạm có nhân thân rất xấu.
- Những tình tiết giảm nhẹ đặc biệt được quy định trong tội giết người
gồm: Giết người trong tình trạng bị nạn nhân ngược đãi, áp bức tàn tệ; giết
người vượt quá phạm vi phòng vệ cần thiết; giết trẻ em mới đẻ; giết người vì
mê tín; giết người hủi, người điên, người tàn tật, giết trẻ em vì sợ bị lây bệnh
hoặc để khỏi phải nuôi nấng khổ sở trong hoàn cảnh khốn quẫn về kinh tế.

15



- Những tình tiết tăng nặng thông thường được quy định trong tội giết
người gồm: Giết người với lỗi cố ý trực tiếp; giết người có tổ chức; giết người
có sự lợi dụng chức vụ, chuyên môn, nghề nghiệp, vũ khí được giao phó; giết
người gây ảnh hưởng chính trị xấu một cách rõ rệt…
- Những tình tiết giảm nhẹ thông thường được quy định trong tội
giết người gồm: Giết người có sự đồng tình của nạn nhân; can phạm là vị
thành niên…
Lần đầu tiên, đường lối xử lí người phạm tội giết người được quy định
một cách rõ ràng trong LHS như khi nào thì có thể và nên áp dụng hình phạt
tử hình, khi nào thì có thể áp dụng án treo, cần xét xử như thế nào khi vừa có
tình tiết tăng nặng đặc biệt, vừa có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt. Cụ thể là:
- Áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm tội giết người trong
trường hợp tập trung nhiều tình tiết tăng nặng đặc biệt hoặc chỉ một tình tiết
tăng nặng đặc biệt nhưng rất nghiêm trọng, nhân thân can phạm xấu, không
có tình tiết giảm nhẹ hoặc không có tình tiết giảm nhẹ đáng kể.
- Áp dụng án treo đối với người phạm tội giết người trong trường hợp:
Giết trẻ mới đẻ trong hoàn cảnh gặp nhiều khó khăn về mọi mặt; giết người
hủi, người điên, người tàn tật trong những hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, với
động cơ chủ yếu là muốn tránh khổ sở cho người bị nạn; một số trường hợp
cộng phạm nhẹ.
- Khi vừa có tình tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt cần
đánh giá đúng đắn tính chất và mức độ nguy hiểm của mỗi tình tiết tăng nặng
và giảm nhẹ, cần so sánh, đối chiếu để thấy được ảnh hưởng qua lại giữa các
tình tiết đó với nhau, trên cơ sở đó mà ấn định mức án cho thích hợp. Mức án
này có thể xuống dưới mức tối thiểu của khung hình phạt nặng mà cũng có
thể cao hơn mức tối đa của khung hình phạt nhẹ.

16



* Thời kỳ từ năm 1975 đến trước khi ban hành BLHS năm 1985:
Sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, tình hình đất nước gặp phải
nhiều khó khăn, nhất là phải đối phó với hai cuộc chiến tranh ở biên giới Tây
Nam và biên giới phía Bắc. Công tác quản lý xã hội ở miền Nam còn nhiều
bỡ ngỡ. Một số phần tử xấu đã lợi dụng tình hình này để tiến hành các hoạt
động phạm tội rất dã man, tàn bạo như: Giết nhiều người, giết người đốt xác
phi tang, giết người kèm theo cướp của hay hiếp dâm. Để hàn gắn vết thương
chiến tranh, lập lại trật tự xã hội, việc thống nhất pháp luật cũ và xây dựng
pháp luật mới là nhiệm vụ cấp bách. Căn cứ vào Nghị quyết ngày 02/7/1976
của Quốc hội khoá VI, kỳ họp thứ nhất, Hội đồng Chính phủ đã thu thập ý
kiến của các ngành và đã chủ trương: Những văn bản pháp luật hiện hành ở
hai miền đều được áp dụng chung trong cả nước vì đều là xuất phát từ đường
lối, chính sách của Đảng. Đối với các tỉnh phía Nam, những Sắc luật mới
được ban hành cũng như những văn bản pháp luật khác của Chính phủ cách
mạng lâm thời vẫn tiếp tục được áp dụng. Nhưng nếu có điều khoản nào đã
được quy định một cách quá tổng quát, thì có thể và cần thiết phải vận dụng
luật lệ đã được thi hành ở miền Bắc. Đối với vấn đề nào mà ở miền Nam
trước đây chưa có luật lệ mà miền Bắc đã có, thì vận dụng luật lệ đang được
thi hành ở miền Bắc, nhưng phải xem xét vận dụng vào tình hình, đặc điểm
của miền Nam cho phù hợp. Đối với miền Bắc, các vấn đề nào mà miền Bắc
chưa có hoặc tuy đã có nhưng chưa thích hợp mà miền Nam đã có và tiến bộ
hơn thì áp dụng luật lệ ở Miền Nam.
Nhìn chung, trước tình hình cách mạng mới của đất nước, LHS cũng có
nhiều đổi mới quan trọng. Tuy nhiên, nhiệm vụ chủ yếu, xuyên suốt từ sau giải
phóng đến nay của pháp LHS là bảo vệ vững chắc Nhà nước XHCN, chế độ
XHCN, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện để
Nhà nước ta thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước.


17


Tiêu biểu trong công tác LPHS thời kỳ từ năm 1975 đến trước năm
1985 là Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/3/1976 quy định các tội phạm và hình
phạt. Sắc luật gồm 4 chương, 12 điều, quy định 7 loại tội phạm: Tội phản
cách mạng; Tội xâm phạm tài sản công cộng; Tội xâm phạm đến thân thể và
nhân phẩm của công dân; Tội phạm kinh tế; Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn
và tội hối lộ; Tội xâm phạm tài sản riêng của công dân; Tội xâm phạm đến
trật tự công cộng, an toàn công cộng và sức khỏe của nhân dân. Các qui định
này tiếp tục được hoàn chỉnh, bổ sung thành nhiều chương trong phần các tội
phạm của BLHS năm 1985 và 1999 sau này như các chương: Tội xâm phạm
an ninh quốc gia; tội xâm phạm tính mạng sức khỏe con người; tội xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế và chức vụ…
Về tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con
người, Sắc luật số 03/SL ngày 15/3/1976 nêu 5 tội thuộc nhóm tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người là tội giết người, tội
vô ý làm chết người, tội cố ý gây thương tích, tội vô ý gây thương tích nặng
và tội hiếp dâm. Còn các tội khác chỉ được nêu chung chung là các tội khác
xâm phạm thân thể và nhân phẩm của người dân.
Theo Sắc lệnh số 03/SL và hướng dẫn của TANDTC, quá trình xét xử
những trường hợp giết người sau đây sẽ bị tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Giết người có tổ chức; Giết người một cách trắng trợn, công khai trước mặt
người khác; Giết người gây khủng khiếp trong nhân dân; Giết người với thủ
đoạn tàn khốc; Giết nhiều người; Giết người vì tư thù, tư lợi; Giết người để
che giấu khuyết điểm, tội lỗi của mình; Giết người để cướp của.
Những trường hợp giết người được giảm nhẹ TNHS: Giết người mà
nạn nhân là Ngụy cũ, trước đây thực sự có tội ác đối với bị cáo hoặc thân
nhân của bị cáo, nay bị cáo quá uất ức đã giết nạn nhân; Giết người mà nạn
nhân phạm tội trộm cắp, đánh bạc, buôn lậu… khi bị xét hỏi đã tự ý bỏ chạy.


18


Những trường hợp giết người bị tăng nặng TNHS được cập nhật phát
điển hóa trong các BLHS sau này (Khoản 1, Điều 93 BLHS) còn đối với các
trường hợp giảm nhẹ hầu như không còn phù hợp nên ít được áp dụng, chỉ đề
cập một số nội dung tại Điểm đ, Khoản 1, Điều 46 và Điều 95, BLHS.
1.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành BLHS năm 1985 đến trước khi ban
hành BLHS năm 1999
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV, V,
nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành được những thành tựu
quan trọng trên một số lĩnh vực, cải biến được một phần cơ cấu của nền
kinh tế – xã hội, tạo ra những cơ sở đầu tiên cho sự phát triển mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, đất nước đã gặp phải không
ít khó khăn, nổi lên là sự chủ quan, duy ý chí, duy trì quá lâu mô hình kinh
tế bao cấp; nóng vội xây dựng một quan hệ sản xuất không phù hợp với trình
độ của lực lượng sản xuất nên không thực hiện được mục tiêu đã đề ra, dẫn
đến tình hình kinh tế – xã hội và đời sống nhân dân không được cải thiện và
phát triển như mong muốn; pháp chế xã hội chủ nghĩa chậm được tăng
cường; pháp luật, kỷ cương bị buông lỏng. Mặt khác, các văn bản quy phạm
PLHS đơn hành không thể hiện được toàn diện, đầy đủ CSHS của Đảng và
Nhà nước ta.
Xuất phát từ tình hình trên, việc ban hành BLHS là vấn đề trở nên cấp
bách, có tính tất yếu, khách quan và cấp thiết; có ý nghĩa góp phần thực hiện
các chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Chính quyền,
bảo vệ nhân dân và đảm bảo an ninh trật tự. Đáp ứng yêu cầu đó, phát huy
ưu điểm, khắc phục khuyết điểm của các chủ trương, CSHS trước đó, ngày
27/6/1985, Quốc hội khoá 7, tại kỳ họp thứ 9 đã thông qua BLHS 1985 và
chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/1986. Từ năm 1986 đến năm 1997 đã

bốn lần bổ sung.

19


BLHS năm 1985 là bộ luật đầu tiên của Nhà nước cộng hòa XHCN Việt
Nam. Nếu PLHS thời kỳ trước đó là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật
hình sự đơn hành, thì việc pháp điển hóa về hình sự lần này đánh dấu bước
tiến bộ vượt bậc về kỹ thuật LPHS ở nước ta.
BLHS năm 1985 gồm hai phần: Phần chung và Phần các tội phạm, tổng
cộng 20 chương với 280 điều thì các tội xâm phạm tính mạng con người được
qui định tại Chương II phần các tội phạm cụ thể. Ngoài ra, còn một số tội
phạm khác được qui định ở các chương khác của BLHS như tội khủng bố, tội
xâm phạm sức khỏe, xâm phạm sở hữu tài sản, các tội xâm phạm an toàn, trật
tự công cộng, trật tự quản lý hành chính…
Chế độ ta xác định con người là vốn quý nhất, quyết định sự tồn tại và
phát triển của xã hội. Đối với con người, tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Vì vậy, BLHS năm 1985, sau khi
quy định các tội xâm phạm an ninh quốc gia tại chương I nhằm bảo vệ các
quan hệ xã hội có tầm quan trọng đặc biệt, đảm bảo cho sự tồn tại và phát
triển của các quan hệ xã hội khác, đã quy định các tội xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người ngay tại chương II nhằm bảo vệ
các quan hệ xã hội quan trọng đó.
Theo BLHS năm 1985, các tội xâm phạm tính mạng con người được
qui định từ Điều 101 đến Điều 108, bao gồm các tội: Tội giết người; Tội giết
người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; Tội xâm phạm tính mạng
hoặc sức khoẻ của người khác trong khi thi hành công vụ; Tội vô ý làm chết
người; Tội bức tử; Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát; Tội cố ý không
giúp người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.
Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI

của Đảng, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã giành được
những thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Đời sống chính trị, kinh tế,

20


×