Tải bản đầy đủ (.pdf) (177 trang)

Truyền thông về các loại hình nghệ thuật biểu diễn trên báo điện tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.61 MB, 177 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

LÊ THỊ THÚY HÀ

TRUYỀN THÔNG VỀ CÁC LOẠI HÌNH
NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Báo chí học

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

LÊ THỊ THÚY HÀ

TRUYỀN THÔNG VỀ CÁC LOẠI HÌNH
NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60.32.01.01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thành Lợi

Hà Nội - 2016



LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2016
Tác giả luận văn

Lê Thị Thúy Hà


LỜI CẢM ƠN
Trước hết với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi
lời cảm ơn đến các giảng viên Khoa Báo chí và Truyền thông – Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình học
tập và nghiên cứu để hoàn thành Luận văn Thạc sĩ.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Thành
Lợi đã dành nhiều thời gian tâm huyết, trực tiếp hướng dẫn tận tình, chỉ bảo
và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu đề
tài và hoàn thành bản Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã động viên,
khích lệ, sẻ chia, giúp đỡ và đồng hành cùng tôi trong quá trình học tập,
nghiên cứu
Mặc dù có nhiều cố gắng song luận văn vẫn còn nhiều thiếu sót, tác giả
rất mong nhận được sự chỉ bảo, giúp đỡ của các thầy cô, bạn bè… để luận văn
được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2016
Tác giả luận văn


Lê Thị Thúy Hà


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................... 6
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 7
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài .......................................................... 8
7. Bố cục luận văn ............................................................................................. 9
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRUYỀN THÔNG CÁC LOẠI HÌNH
NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ ................................ 10
1.1. Một số khái niệm .................................................................................... 10
1.1.1. Khái niệm về truyền thông .................................................................... 10
1.1.2. Các loại hình nghệ thuật biểu diễn ....................................................... 13
1.1.3. Một số vấn đề về báo điện tử ................................................................ 21
1.2. Báo điện tử với việc truyền thông các loại hình nghệ thuật biểu diễn .... 23
1.2.1. Vai trò của báo điện tử với việc truyền thông các loại hình nghệ thuật
biểu diễn .......................................................................................................... 23
1.2.2. Nội dung truyền thông các loại hình nghệ thuật biểu diễn trên báo điện
tử ...................................................................................................................... 27
1.3. Các hoạt động và hình thức truyền thông các loại hình nghệ thuật
biểu diễn trên báo điện tử ............................................................................. 29
1.3.1. Viết tin bài truyền thông các loại hình nghệ thuật biểu diễn................ 29
1.3.2. Lập diễn đàn trực tuyến ........................................................................ 31
1.3.3. Tường thuật trực tuyến .......................................................................... 32
1.3.4. Trò chơi – cuộc thi tương tác ................................................................ 33
1.4. Tiêu chí đánh giá hiệu quả của truyền thông các loại hình nghệ thuật

biểu diễn trên báo điện tử ............................................................................. 34


Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 35
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG TRUYỀN THÔNG VỀ CÁC LOẠI HÌNH
NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ ................................ 36
2.1. Giới thiệu về 3 trang báo điện tử .......................................................... 36
2.1.1. Báo VietNamNet .................................................................................... 36
2.1.2. Báo VnExpress ...................................................................................... 39
2.1.3. Báo Dân trí ............................................................................................ 42
2.2. Khảo sát thực trạng truyền thông về các loại hình nghệ thuật biểu
diễn trên các báo điện tử đƣợc khảo sát trong năm 2015. ........................ 46
2.2.1. Tần suất xuất hiện ................................................................................. 46
2.2.2. Về nội dung ........................................................................................... 48
2.2.3. Về hình thức thể hiện............................................................................. 53
2.3. Đánh giá hiệu quả truyền thông các loại hình nghệ thuật biểu diễn
trên báo điện tử ............................................................................................. 63
2.4. Đánh giá chung ....................................................................................... 68
2.4.1. Thành công ............................................................................................ 68
2.4.2. Hạn chế ................................................................................................. 71
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 77
Chƣơng 3. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ TRUYỀN THÔNG VỀ CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT BIỂU
DIỄN TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ ....................................................................... 78
3.1. Một số vấn đề đặt ta đối với truyền thông các loại hình nghệ thuật
biểu diễn trên báo điện tử ............................................................................. 78
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả truyền thông các loại hình nghệ thuật
biểu diễn trên báo điện tử ............................................................................. 79
3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lí báo điện tử trong truyền
thông các loại hình nghệ thuật biểu diễn ........................................................ 79



3.2.2. Nâng cao nhận thức về vai trò cũng như tần suất, hiệu quả của truyền
thông các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống .................................. 86
3.2.3. Tăng cường hợp tác, liên thông với ngành du lịch, các đơn vị nghệ
thuật, các sự kiện lớn,… để nâng cao hiệu quả truyền thông các loại hình
nghệ thuật biểu diễn trên báo điện tử ............................................................. 92
3.3. Những đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả truyền thông các
loại hình nghệ thuật biểu diễn trên báo điện tử ......................................... 97
3.3.1. Đối với Bộ Thông tin và Truyề n thông.................................................. 97
3.3.2. Đối với các cơ quan báo mạng ............................................................. 97
3.3.3. Đối với phóng viên viết mảng văn hóa – nghệ thuật .......................... 101
Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................ 102
KẾT LUẬN .................................................................................................. 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 106
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 110


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
2.1

Tên bảng

Trang

Thống kê số lượng bài viết, hoạt động truyền thông về

46


các loại hình nghệ thuật biểu diễn trên 3 báo điện tử
Vietnamnet, Vnexpress, Dân trí trong năm 2015
2.2

Thống kê nội dung bài viết, hoạt động truyền thông về

48

các loại hình nghệ thuật biểu diễn trên 3 báo điện tử
Vietnamnet, Vnexpress, Dân trí trong năm 2015
2.3

Thống kê thể loại tin bài truyền thông về các loại hình

54

nghệ thuật biểu diễn trên 3 báo điện tử Vietnamnet,
Vnexpress, Dân trí trong năm 2015
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Tên hình vẽ

Trang

Biểu đồ cơ cấu các bài viết, hoạt động truyền thông về

47

Số hiệu
hình vẽ

2.1

các loại hình nghệ thuật biểu diễn trên 3 báo điện tử
Vietnamnet, Vnexpress, Dân trí trong năm 2015
2.2

Biểu đồ cơ cấu đánh giá của công chúng về nội dung

63

truyền thông về các loại hình nghệ thuật biểu diễn trên
báo điện tử
2.3

Biểu đồ cơ cấu đánh giá của công chúng về hình thức

64

truyền thông về các loại hình nghệ thuật biểu diễn trên
báo điện tử
2.4

Biểu đồ cơ cấu mức độ phản hồi của công chúng (bình
luận trực tuyến, chia sẻ hoặc like của sau bài viết) về
các loại hình nghệ thuật biểu diễn trên báo điện tử

65


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay khi kinh tế ngày càng phát triển và các quốc
gia trên thế giới ngày càng xích lại gần nhau thì văn hoá dân tộc ngày càng trở
thành trung tâm của sự chú ý. Đặc biệt ở đất nước ta, văn hóa trở thành sợi chỉ
đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử, làm nên sức sống mãnh liệt của cộng đồng dân
tộc Việt Nam. Vì thế, Đảng và Nhà nước ta luôn coi văn hóa là nền tảng tinh
thần, động lực, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Việc quản lý nhằm bảo tồn, kế
thừa, phát triển những giá trị văn hóa dân tộc là quốc sách hàng đầu được ghi
nhận trong các bản hiến pháp. Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển giao lưu văn
hóa kinh tế, hội nhập giữa các quốc gia thì bản sắc văn hoá Việt Nam đang
đối diện với những khó khăn lớn, thậm chí có nguy cơ mai một, mất bản sắc
dân tộc. Hơn bao giờ hết nhiệm vụ giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, giữ gìn
giá trị truyền thống tốt đẹp được đặt gia cấp bách cho mỗi con người Việt
Nam và chung cho cả cộng đồng.
Một trong những thành tố quan trọng nhất, không thể thiếu được trong
bản sắc văn hóa đó chính là nghệ thuật biểu diễn. Đây là loại hình lĩnh vực
hoạt động phổ biến trong đời sống văn hóa xã hội ở nước ta, có ảnh hưởng
mạnh mẽ tới tư tưởng, tình cảm, nhận thức của nhiều người; thu hút khán giả,
tác động mạnh mẽ tới thị hiếu của người thưởng thức. Hiện nay, các loại hình
nghệ thuật biểu diễn ngày càng trở nên sinh động, phong phú, hấp dẫn... đáp
ứng kịp thời, linh hoạt đến nhu cầu khác nhau của công chúng và tạo sinh khí
và sắc thái mới cho đời sống tinh thần xã hội. Nó không chỉ là sản phẩm tinh
thần mà còn trở thành một bộ phận của kinh tế thị trường phát triển năng
động, sáng tạo. Tuy nhiên, các loại hình nghệ thuật biểu diễn này cần đi đúng
hướng chỉ đạo mà Đảng và Nhà nước đã đề ra thì mới mang lại chất lượng và
hiệu quả tốt, là những món ăn tinh thần bổ ích đến với công chúng.

1



Để các loại hình nghệ thuật biểu diễn đi đúng hướng, truyền thông của
báo chí luôn đóng một vai trò quan trọng, trong đó có báo điện tử. Mặc dù chỉ
là một kênh thông tin, nhưng báo điện tử là một phương tiện đặc biệt có hiệu
quả thực hiện chức năng văn hoá. Nó tác động mạnh mẽ đến nhận thức của
con người từ vấn đề thẩm mỹ giao tiếp, giải trí, nghệ thuật…, cũng có nghĩa
là những tác động thuận nghịch của báo đều “vọng” vào văn hoá nói chung,
bản sắc văn hoá nghệ thuật nói riêng. Mà các loại hình nghệ thuật biểu diễn là
một thành tố quan trọng trong bản sắc văn hóa. Hoạt động của truyền thông
có thể dẫn đến kết quả mâu thuẫn với nhiệm vụ thực tế của báo chí, có thể gây
ra hậu quả không lường trước được. Bởi vậy việc xem xét đánh giá về vai trò
của truyền thông đối với sự tồn tại và phát triển của văn hoá nói chung và các
loại hình nghệ thuật biểu diễn nói riêng là đòi hỏi cấp thiết cần sớm được tiến
hành. Như trên báo mạng điện tử hiện nay chủ yếu đề cập đến các loại hình
nghệ thuật biểu diễn đương đại, mà trong đó phần lớn là những bài viết về đời
tư cá nhân, scandal.... của diễn viên, ca sỹ trẻ nhằm câu khách. Nhiều trang
báo còn đưa thông tin sai sự thật, hay đưa nhiều tin theo kiểu “giật gân”, “giật
tít” để câu view. Hình thức thể hiện thì chủ yếu là tranh ảnh hay các video
clip phản cảm. Còn những bài viết về các loại hình nghệ thuật truyền thống
quá ít ỏi và chất lượng chưa tốt, cách thể hiện cũng kém hấp dẫn...
Chính vì vậy, người viết đã chọn đề tài: “Truyền thông về các loại
hình nghệ thuật biểu diễn trên báo điện tử” làm đề tài nghiên cứu, nhằm
làm rõ thực trạng cũng như có sự so sánh, đánh giá về việc báo mạng đưa
thông tin về các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống so với các loại
hình biểu diễn nghệ thuật hiện đại ra sao. Từ đó đưa ra những đề xuất kiến
nghị nhằm nâng cao chất lượng truyền thông về các loại hình nghệ thuật biểu
diễn trên báo điện tử, đi đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước “Xây dựng
và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.

2



2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong thời gian qua, đã có nhiều nghiên cứu, tài liệu,... viết về vấn đề
truyền thông các loại hình nghệ thuật biểu diễn trên báo điện tử. Trong đó, có
cả những ý kiến đánh giá cao, song cũng có ý kiến chỉ ra những hạn chế của
báo điện tử trong mảng truyền thông này.
Có thể nói, tạp chí Nghệ thuật biểu diễn là trang báo điện tử mang tính
chính thống nhất trong truyền thông về các loại hình nghệ thuật biểu diễn.
Tạp chí có một số bài viết, bài báo cáo đánh giá về vấn đề truyền thông hoạt
động biểu diễn. Trong đó, tạp chí xoáy sâu vào những mặt đã làm được, như:
việc đề cao loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống, giới thiệu một số các
gương mặt nghệ sĩ trẻ, nghệ sĩ thuộc các loại hình nghệ thuật; đăng tải bài viết
nghiên cứu, lý luận của một số nhà nghiên cứu, lý luận văn học nghệ thuật,
một số sáng tác mới và thông tin về các loại hình nghệ thuật khác. Tuy nhiên,
các bài đánh giá này chưa đi sâu vào mặt hạn chế của báo mạng.
Báo Vietnamnet lại có nhiều bài đưa ra đánh giá về báo mạng, trong đó
có bài “Thực trạng phát triển báo chí điện tử, mạng xã hội ở Việt Nam hiện
nay” (Cập nhật 14/01/2016). Bài viết khẳng định báo chí điện tử Việt Nam
đang từng bước phát huy các lợi thế công nghệ, khẳng định vị thế ngày càng
quan trọng trong hệ thống báo chí. Do đó, nó cũng đáp ứng tốt việc thông tin,
quảng bá các loại hình nghệ thuật. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nói
trên, báo chí điện tử còn không ít khuyết điểm, thiếu sót như: báo mạng không
chú ý tới loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống; mà chỉ chú ý khai thác
loại hình hiện đại. Ngay trong loại hình nghệ thuật biểu diễn hiện đại, nhiều tờ
báo còn nhiều thông tin sai sự thật, có xu hướng đưa nhiều tin theo kiểu “giật
gân”, câu khách, khai thác nhiều thông tin về các vụ án, chuyện đời tư cá
nhân,…
Đài phát thanh và truyền hình Bắc Ninh cũng cho đăng bài “Internet và
truyền thông đa phương tiện trong xu hướng phát triển của báo chí Việt
3



Nam” (Nguyễn Bùi Khiêm) nhằm khẳng định truyền thông của hình thức báo
mạng là xu hướng phát triển mang tính khách quan đáp ứng nhu cầu thông tin
của lớp công chúng mới. Nó tạo ra sự cạnh tranh và chạy đua ghê gớm cả về
việc khai thác, sử dụng và truyền bá thông tin. Cạnh tranh là động lực cho
phát triển tích cực, nhưng có thể buộc nhiều cơ quan báo chí phải chạy theo
việc hấp dẫn công chúng bằng mọi cách, chạy theo thoả mãn nhu cầu thị hiếu
tầm thường, kích động bạo lực, tính dục,…
Báo Tuổi trẻ Thành phố Hồ Chí Minh cũng nhận định về vấn đề truyền
thông nghệ thuật của báo mạng với loạt phóng sự: “Những chuyện không tử
tế”. Các tác giả đã phê phán đối với những tác phẩm báo chí chuyên đưa tin
tức giật gân, soi mói đời tư nghệ sĩ và đưa ra lời cảnh tỉnh “truyền thông
mạng phải tự vấn”.
Chung nhận định như vậy, báo Người Lao Động chỉ ra hạn chế lớn của
báo chí nói chung và báo mạng nói riêng là: báo chí hay đề cập tới nghệ thuật
biểu diễn dưới những tiêu đề, nội dung giật gân, rẻ tiền. Bài “"Playboy hóa"
báo chí: Nghệ sĩ là "con mồi"!” (Người lao động Thứ Tư, ngày 22/06/2011)
đề cập tới việc báo chí không chú ý khai thác vẻ đẹp của các tác phẩm nghệ
thuật biểu diễn mà chủ yếu đi vào soi mói đời tư của các nghệ sĩ nhằm câu
khách đọc báo.
Báo Thể Thao và Văn Hóa bằng một loạt bài viết cũng chỉ ra những sai
lệch của báo mạng trong truyền thông về nghệ thuật biểu diễn. Cụ thể loạt bài
viết trên báo Thể Thao và Văn Hóa: “"Playboy hóa" báo chí?” (Thể Thao &
Văn Hóa, thứ Sáu, ngày 17/06/2011); “"Playboy hóa" báo chí Nhu cầu &
thảm họa?” (Thể Thao & Văn Hóa thứ Bảy, ngày 18/06/2011); “"Playboy
hóa" báo chí: Những hậu quả khó lường” (Thể Thao & Văn Hóa, Chủ Nhật,
ngày 19/06/2011). Ngoài ra, còn có giao lưu trực tuyến “Xin đừng "Playboy
hóa" báo chí” với ba khách mời là: Đạo diễn Lê Hoàng; nhà báo Phạm Thanh
Hà (bút danh Camera); PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái, giảng viên Khoa Báo

4


chí và Truyền thông - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc Gia Hà Nội (Thể Thao & Văn Hóa, Thứ Bảy, ngày 21/06/2011). Và
buổi tọa đàm “Xin đừng "Playboy hóa" báo chí!” với các khách mời là: Ông
Hoàng Hữu Lượng - Cục trưởng Cục Báo Chí - Bộ Thông tin và Truyền
thông; PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái, giảng viên Khoa Báo chí và Truyền
thông - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc Gia Hà
Nội (Thể Thao & Văn Hóa, Thứ Hai, ngày 04/07/2011). Trong các bài viết và
cuộc tọa đàm này, báo Thể Thao & Văn Hóa phản ánh thực trạng báo chí Việt
Nam (trong đó có báo mạng) đua nhau đưa ra những tin hậu trường hấp dẫn,
những hình ảnh hở hang mà không hề có giá trị định hướng thẩm mĩ. Một số
bộ phận độc giả vẫn phải tiếp nhận say sưa, hào hứng. Điều này khiến cho
báo mạng đang dần trở thành công cụ quảng cáo cho tên tuổi của không ít cá
nhân thích nổi tiếng hơn là lao động nghệ thuật chân chính.
Ngoài ra, trong quá trình tìm tư liệu cho luận văn, tác giả nhận thấy có
những nghiên cứu đáng chú ý. Tiêu biểu như:
Bài viết “Những vấn đề đáng báo động trên báo điện tử Việt Nam”
(Tham luận tại Hội thảo “Lãnh đạo, quản lý báo chí điện tử trước yêu cầu
mới”) của Vinh Khang cũng khẳng định chắc chắn: báo điện tử đang chiếm
ưu thế áp đảo so với báo in. Tuy nhiên, trong mảng cung cấp thông tin nói
chung, mảng truyền thông nghệ thuật biểu diễn nói riêng; báo điện tử còn sử
dụng ngôn ngữ báo chí bừa bãi, xuất hiện tình trạng chạy theo những vấn đề
giật gân, câu khách. Liên tiếp các website tin tức ra đời trong vòng một năm
trở lại đây đều áp dụng một công thức duy nhất để lôi kéo người đọc là những
tin bài về các vụ lộ băng sex, người mẫu này hở ngực, ca sĩ kia “lộ
hàng”…Tiếp theo là báo chí Việt Nam vẫn tồn tại tình trạng xâm phạm bản
quyền nghiêm trọng.
Luận văn thạc sỹ của tác giả Trương Bích Ngọc (năm 2010) với đề tài:

“Văn hóa ứng xử của các nhà báo trực tuyến đối với thông tin Văn hóa –
5


Nghệ thuật”. Luận văn đã chỉ ra cách tiếp cận, khai thác đề tài và đưa thông
tin về Văn hóa – Nghệ thuật trên báo trực tuyến của các nhà báo.
Luận văn “Nghiên cứu "thảm họa báo mạng" trong việc thông tin về văn
hóa – nghệ thuật” (2014) của Trần Thị Như Quỳnh. Luận văn đã phân tích
hiện tượng báo mạng đi lệch hướng, làm dư luận lên tiếng cảnh tỉnh mạnh mẽ.
Các luận văn của tác giả Phạm Thị Hằng (năm 2008) với đề tài: “Nâng
cao chất lượng thông tin trên báo điện tử”, của tác giả Nguyễn Thị Bình
(năm 2006) với đề tài: “Nâng cao chất lượng báo chí Internet trong thời gian
tới” đề cập tới thực trạng và đưa ra giải pháp để nâng cao chất lượng của báo
mạng điện tử.
Những tư liệu trên đều là tài liệu hữu ích cho tác giả luận văn trong
việc nghiên cứu. Tuy nhiên, các tư liệu đó không nói sâu về vấn đề truyền
thông các loại hình nghệ thuật biểu diễn. Như vậy, sau quá trình khảo sát, tôi
nhận thấy đề tài “Truyền thông về các loại hình nghệ thuật biểu diễn trên
báo điện tử” chưa có nghiên cứu nào được tiến hành. Trong luận văn thạc sỹ
của mình, tác giả luận văn sẽ phân tích và làm rõ hơn việc truyền thông về các
loại hình nghệ thuật biểu diễn trên báo điện tử. Từ đó, đặt báo mạng vào đúng
môi trường văn hóa phù hợp với nước ta.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng truyền thông về các loại hình
nghệ thuật biểu diễn trên báo điện tử, đồng thời đưa ra những so sánh, đánh
giá giữa truyền thông về các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống với
các loại hình nghệ thuật biểu diễn đương đại trên báo điện tử. Để từ đó đưa ra
những đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả truyền thông các loại hình
nghệ thuật biểu diễn trên báo điện tử, đi đúng chủ trương của Đảng và Nhà

nước “Xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc”
6


- Nhiệm vụ:
+ Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về các loại hình nghệ thuật
biểu diễn truyền thống và đương đại cũng như việc truyền thông các loại hình
nghệ thuật biểu diễn trên báo điện tử.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng truyền thông về các loại hình nghệ
thuật biểu diễn truyền thống và hiện đại trên báo điện tử (Khảo sát trên báo
VietNamNet, VnExpress, Dân trí; trong năm 2015). Qua đó có sự so sánh rõ
nét, tương phản giữa việc truyền thông về các loại hình nghệ thuật biểu diễn
truyền thống với các loại hình văn hóa nghệ thuật đương đại trên báo mạng.
+ Làm rõ những thành công, hạn chế và nguyên nhân của nh ững thành
công, hạn chế về truyền thông các loại hình nghệ thuật biểu diễn trên báo điện
tử. Từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị để nâng cao hiệu quả truyền thông
về các loại hình nghệ thuật biểu diễn trên báo điện tử.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là việc truyền thông (từ tần số
xuất hiện, nội dung bài viết, hình thức thể hiện…) về các loại hình nghệ thuật
biểu diễn trên báo điện tử.
- Phạm vi nghiên cứu: Các tin, bài, hoạt động truyền thông về các loại
hình nghệ thuật biểu diễn trên báo VietNamNet, VnExpress, Dân trí, từ tháng
1/2015 đến tháng 12/2015.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, người viết vận dụng những phương pháp nghiên
cứu cụ thể như:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu để tìm hiểu tài liệu có liên quan đến
vấn đề lý luận và vấn đề được khảo sát, cung cấp những kiến thức phục vụ

cho nội dung nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê được vận dụng trong việc thống kê các bài viết
về truyền thông nghệ thuật biểu diễn trên báo điện tử.
7


- Phương pháp đối chiếu so sánh được vận dụng trong quá trình so sánh
giữa việc truyền thông về các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống với
các loại hình nghệ thuật đương đại trên báo điện tử.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp – đánh giá được vận dụng xuyên
suốt các chương vừa mang tính khách quan, lại vừa có ý kiến riêng của người
viết.
- Phương pháp phỏng vấn chuyên gia để đánh giá thành công và hạn
chế của việc truyền thông về các loại hình nghệ thuật biểu diễn trên báo điện
tử. Phỏng vấn 2 Tổng biên tập, 1 Phó Tổng biên tập, 7 biên tập viên và phóng
viên viết mảng văn hóa – nghệ thuật.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi Anket với đối tượng điều tra là
công chúng. Tổng cộng 100 người. Trong đó có 30 người là HS, SV; 40
người là công chức, viên chức nhà nước; còn lại 30 người là công chúng làm
ngành nghề tự do khác.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần bổ sung và phát triển hệ thống lý
thuyết về nghiên cứu truyền thông.
- Ý nghĩa thực tiễn: Bằng việc chỉ ra những thành công và hạn chế,
nguyên nhân của những thành công, hạn chế trong việc truyền thông về các
loại hình nghệ thuật biểu diễn trên báo điện tử, từ đó luận văn đã đưa ra
những đề xuất kiến nghị thiết thực nhằm nâng cao hơn chất lượng truyền
thông về các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống trên báo điện tử.
Luận văn đã góp phần phát huy vai trò của truyền thông trong việc phát triển
các loại hình nghệ thuật biểu diễn đương đại, đồng thời giữ gìn những giá trị

văn hoá của nghệ thuật biểu diễn truyền thống, theo đúng chủ trương của
Đảng và Nhà nước “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc”.

8


7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về truyền thông các loại hình nghệ thuật biểu diễn
trên báo điện tử
Chương 2: Thực trạng truyền thông về các loại hình nghệ thuật biểu diễn trên
báo điện tử
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả truyền thông về
các loại hình nghệ thuật biểu diễn trên báo điện tử

9


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRUYỀN THÔNG CÁC LOẠI HÌNH
NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm về truyền thông
Trong một xã hội không ngừng phát triển, truyền thông trở thành một
khái niệm được nhiều người biết tới. Truyền thông đã thành lĩnh vực có vai
trò to lớn trong xã hội, ảnh hưởng nhiều mặt đến đời sống con người. Truyền
thông là hoạt động truyền đạt thông tin giữa hai hoặc nhiều thành viên [5;tr5].
Nó thông qua trao đổi ý tưởng, cảm xúc, ý định, thái độ, mong đợi, nhận thức

hoặc các lệnh, như ngôn ngữ, cử chỉ phi ngôn ngữ, chữ viết, hành vi và có thể
bằng các phương tiện khác như thông qua điện từ, hóa chất, hiện tượng vật lý
và mùi vị. Truyền thông đòi hỏi phải có một người gửi, một tin nhắn, một
phương tiện truyển tải và người nhận. Thông tin liên lạc có thể xảy ra trên
những khoảng cách lớn trong thời gian và không gian. Quá trình giao tiếp
được coi là hoàn thành khi người nhận hiểu thông điệp của người gửi.
Quá trình truyền thông có thể chia thành các yếu tố cơ bản như sau
[40;tr35]:

10


– Nguồn: là yếu tố mang thông tin tiềm năng và khởi xướng quá trình
truyền thông.
– Thông điệp: là nội dung thông tin được trao đổi từ nguồn phát đến đối
tượng tiếp nhận thông tin. Ba thành tố chính của thông điệp là: ai, làm gì, để
đạt được điều gì. Thông điệp cần có tác động tới thái độ, hành vi của người
đón nhận thông điệp.
– Kênh truyền thông: là các phương tiện, con đường, cách thức chuyển tải
thông điệp từ nguồn phát đến đối tượng tiếp nhận.
– Người nhận: là các cá nhân hay nhóm người tiếp nhận thông điệp trong
quá trình truyền thông.
– Phản hồi: là thông tin ngược, là dòng chảy của thông điệp từ người nhận
trở về nguồn phát.
– Nhiễu: là yếu tố gây ra sự sai lệch thông tin trong quá trình truyền
thông.
Có nhiều cách chia các loại truyền thông. Dựa theo kênh chuyển tải thông
điệp, có thể chia thành hai loại [10; tr 20]:
Truyền thông trực tiếp: tác động tới từng cá nhân hoặc nhóm qua việc
tiếp xúc trực tiếp tại nhà, tại cơ quan, hội nghị,..Trong đó, truyền thông tới

từng cá nhân có thể tiến hành qua việc tiếp xúc tại nhà, tại cơ quan, gọi điện
thoại, gửi thư. Truyền thông tới từng nhóm có thể qua hội thảo, tập huấn,
huấn luyện, họp nhóm, tham quan, khảo sát… Truyền thông với số lượng
người lớn có thể qua những buổi biểu diễn lưu động, tham gia hội diễn, các
chiến dịch, tham gia các lễ hội, các ngày kỷ niệm. Kênh này có thể thay đổi
nhận thức và hành vi của người nhận trong suốt quá trình truyền thông song
số lượng người chịu tác động ít hơn.
Truyền thông gián tiếp và các loại truyền thông khác: tác động tới người
nhận gián tiếp qua phương tiện truyền thông đại chúng như: sách, báo, mạng,
tivi, đài, pano, áp phích, tờ rơi, phim ảnh,…. Nó có thể tác động nhanh tới số
11


đông, tạo được dư luận xã hội song không thể hỗ trợ được người nhận trong
quá trình tiếp nhận. Tuy nhiên, hiện nay, truyền thông đã có bước phát triển
mới khi vừa kết hợp tính trực tiếp vừa mang tính gián tiếp. Đây là loại truyền
thông mới qua điện thoại, hội nghị trực tuyến, truyền hình trực tuyến, tọa đàm
online,… Nó phá vỡ ranh giới của truyền thông truyền thống, tạo hiệu quả
nhanh, mạnh nhất.
Dựa theo đối tượng người nhận, phạm vi tác động; ta có thể chia thành:
truyền thông đại chúng, truyền thông nội cá nhân, truyền thông liên cá nhân,
truyền thông nhóm [10; tr 22]:
Truyền thông đại chúng với đặc điểm một chiều, giới hạn truy cập, đối
thoại phân mảnh, kênh truyền thông đại chúng (Quảng cáo truyền hình, báo
chí, bảng hiệu, tờ rơi, catalog, brochure,…) tác động đông đảo đến công
chúng trong xã hội bằng nhiều cách thể hiện khác nhau như hình ảnh, âm
thanh, chữ viết,… bằng các thông điệp dễ nhớ, dễ hiểu, dễ tiếp cận nhằm tác
động cả về lý trí và tình cảm của con người giúp nhanh chóng thuyết phục và
đạt hiệu quả cao. Truyền thông đại chúng được hiểu chung là một quá trình có
định hướng nhằm truyền đạt thông tin đại chúng tới những đối tượng mục tiêu

đại chúng bằng các phương tiện truyền thông đại chúng để phục vụ mục đích
đã được đề ra. Các loại hình của truyền thông đại chúng là: báo in, phát thanh,
truyền hình, báo điện tử, quan hệ công chúng. Mục đích chính của truyền
thông đại chúng là vận động, cho kinh doanh, các mối quan tâm của xã hội,
thông cáo báo chí và báo động khẩn cấp. Ngoài ra, nó còn dùng để giải trí.
Tuy nhiên, ta gặp một số trở ngại nhất định trong việc chọn đề tài, chọn ngôn
ngữ phù hợp, chính xác, hấp dẫn người dùng và chậm trễ trong quá trình tiếp
nhận phản hồi.
Truyền thông nội cá nhân với đặc điểm hai chiều, có sự tương tác, đối
thoại cá nhân, kênh truyền thông cá nhân (điện thoại, tin nhắn nhanh,
email,…) giúp tăng mức độ quan tâm của người xem. Tuy nhiên, loại hình
12


truyền thông cá nhân vẫn còn bất lợi khi tùy thuộc quá nhiều vào mức độ phổ
biến của internet và thiết bị truy cập nên mức độ thâm nhập của người dùng ở
các vùng lãnh thổ cũng không giống nhau.
Truyền thông liên cá nhân là dạng thức truyền thông trong đó các cá
nhân tham gia tổ chức, thực hiện việc trao đổi thông tin, suy nghĩ, tình cảm,…
nhằm tạo ảnh hưởng lẫn nhau về nhận thức, thái độ, hành vi. Đó là quá trình
thông tin, giao tiếp và liên kết cá nhân, chịu tác động và ảnh hưởng lẫn nhau.
Môi trường truyền thông dân chủ, minh bạch, công khai sẽ kích thích cá nhân
giao tiếp.
Truyền thông nhóm là dạng thức truyền thông được thực hiện và tạo ảnh
hưởng trong phạm vi từng nhóm. Nó đòi hỏi kĩ năng giao tiếp cao hơn so với
truyền thông liên cá nhân. Để đạt hiệu quả cao, các thành viên trong nhóm
phải tuân thủ các nguyên tắc làm việc chung, phải tích cực chủ động bày tỏ ý
kiến. Các thành viên cũng phải học cách tôn trọng ý kiến của nhau. Loại hình
truyền thông này là cơ sở cho sự phát triển tích cực trong xã hội.
1.1.2. Các loại hình nghệ thuật biểu diễn

Đầu tiên, chúng ta cần hiểu thế nào là nghệ thuật. Nghệ thuật, theo các
định nghĩa của Từ điển thuật ngữ văn học thì đó là “Hình thái đặc thù của ý
thức xã hội và các hoạt động của ý thức con người, một phương thức quan
trọng để con người chiếm lĩnh các giá trị tinh thần của hiện thực, nhằm mục
đích tạo thành và phát triển các năng lực chiếm lĩnh và cải tạo bản thân và thế
giới xung quanh theo quy luật của cái đẹp” [45; tr 490]. Nghệ thuật thỏa mãn
nhu cầu cảm thụ thế giới xung quanh, năng lực cảm nhận thẩm mỹ đặc trưng,
chỉ có ở con người đối với các hiện tượng, sự thật, biến cố của thế giới khách
quan với tư cách là chỉnh thể cụ thể sống động.
Nghệ thuật biểu diễn là một thành tố nằm trong nghệ thuật. Nghệ thuật
diễn xuất sân khấu với nghĩa hẹp chỉ nghệ thuật diễn của người diễn viên trên
sân khấu nhằm khắc họa nhân vật của một vở kịch bằng hành động sân khấu,
13


hàm chứa trong nó không chỉ hành động thể hiện nhân vật trong vở diễn, mà
cả khả năng, cách thức, sự phản ứng... thông qua hành động sân khấu. Sân
khấu là nghệ thuật mang tính tổng hợp cao. Theo nghĩa rộng, nghệ thuật biểu
diễn là loại hình nghệ thuật sử dụng không gian của các loại hình sân khấu để
thể hiện, truyền tải nội dung của các tác phẩm phi vật thể đến với công chúng.
Trong một tác phẩm sân khấu hội tụ giá trị văn học, diễn xuất, hội họa, âm
nhạc, múa... Nói một cách hình tượng, thì sân khấu như một cái lò luyện nên
hợp kim, từ những nguyên liệu khác nhau song liên kết với nhau bởi một số
thuộc tính cần. Tác giả Nguyễn Đức Thắng quan niệm rằng nghệ thuật biểu
diễn là: nghệ thuật tổng hợp, là một công trình tập thể [43; tr 23]. Tổng hợp vì
nó bao gồm cả giá trị văn học, hội họa, âm nhạc, vũ đạo; thể hiện ra trong câu
ca, nhạc nền, điệu bộ, dáng múa, phục trang, ánh sáng... Tập thể vì đây là
công sức góp lại của nhiều người, từ đạo diễn, tác giả, diễn viên đến nhạc sĩ...
Tác giả Hà Minh Đức thì cho rằng nghệ thuật biểu diễn là sự thể hiện sáng tạo
của nghệ sỹ trước khán giả, là tiếng nói từ trái tim đến trái tim, từ tình cảm

đến với tình cảm và trở thành một bảo tàng sống của dân tộc [17; tr 52].
Trong hệ thống văn bản luật của nhà nước cũng nêu rõ biểu diễn và tổ chức
biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp là hoạt động đưa chương trình, tiết mục,
vở diễn đến với công chúng qua sự trình diễn của diễn viên chuyên nghiệp,
thể hiện hình tượng nghệ thuật, phản ánh cuộc sống thông qua tác phẩm sân
khấu, ca múa, nhạc... Các tác phẩm sân khấu, điện ảnh, ca múa nhạc ngoài
đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần và giải trí đa dạng, nó còn góp
phần giáo dục tư tưởng, tình cảm, lối sống của công chúng.
Vì nghệ thuật biểu diễn rất đa dạng, phong phú nên nó được chia thành
nhiều loại hình nhỏ. Có nhiều cách phân loại các loại hình nghệ thuật biểu
diễn, tuy nhiên ở đây chúng tôi xin chia thành hai loại: loại hình nghệ thuật
biểu diễn truyền thống và loại hình nghệ thuật biểu diễn hiện đại.

14


1.1.2.1. Loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống
Nhắc đến nền văn hóa phong phú, đa dạng của Việt Nam không thể không
nhắc đến loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống. Các loại hình nghệ thuật
truyền thống như Tuồng, Chèo, Cải lương, Múa rối… từ lâu đã đi vào tâm
thức người Việt như sản phẩm tinh thần cần được gìn giữ. Điểm đặc biệt của
nghệ thuật biểu diễn truyền thống chính là sản phẩm tinh thần gắn với cộng
đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử,
văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng. Loại hình nghệ thuật này
không ngừng được tái tạo và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng
truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác. Có thể kể ra một
số loại hình tiêu biểu:
Múa rối nước : Múa rối thì hầu như dân tộc nào cũng có, còn múa rối
nước thì trên thế giới chỉ duy nhất Việt Nam có. Nghệ thuật múa rối nước
xuất hiện từ đời Lý (1010 - 1225). Vùng đồng bằng Bắc bộ có nhiều ao hồ.

Mặt nước những ao hồ đã trở thành sân khấu cho rối nước. Ghế ngồi của khán
giả là thảm cỏ xung quanh hồ. Ở các làng quê, múa rối nước thường được
diễn vào những dịp đón năm mới hoặc trong các lễ hội. Mỗi con rối là một tác
phẩm điêu khắc dân gian. Trong kho tàng múa rối nước Việt Nam, có 30 tiết
mục cổ truyền và hàng trăm tiết mục mới xây dựng đã làm say lòng khán giả
trong nước và quốc tế. [43; tr 28]

15


Ảnh : Một cảnh trong múa rối nƣớc

Ca trù (ả đào): Theo Công dư tiệp ký thì cuối thời nhà Hồ (1400 1470) có người ca nương họ Đào, quê ở làng Đào Đặng, huyện Tiên Lữ, tỉnh
Hưng Yên. Về sau những người làm nghề ca hát như nàng đều gọi là Ả đào.
Cũng qua nhiều tài liệu cũng như lời nghệ nhân còn lại, thì ca trù vốn là một
nghệ thuật cao sang, thường được các tao nhân mặc khách quan tâm và tham
gia cùng hát xướng. Vào thời kỳ chuyên chế của chế độ cũ, nghệ thuật ca trù
thực sự đạt đến đỉnh cao cả về nghệ thuật lẫn phương cách biểu diễn, nhưng
Đào nương, kép đàn được xã hội trân trọng, nể phục. Từ một thể loại có
nguồn gốc dân gian, do được giới quan lại, nho sĩ và cả các vua chúa ưa thích,
lại có những mối quan hệ mật thiết với dòng ca nhạc cung đình, Hát ả đào dần
được bác học hoá. Kỹ thuật hát rất tinh tế, công phu như thể ca sĩ nắn nót,
chau chuốt từng chữ. Nhạc cụ được tinh giản với sự tương phản âm sắc đã
làm tôn vẻ đẹp của từng thành phần tham gia hoà tấu. Hát ả đào là nghệ thuật
hát thơ. Nó đã từng có một hệ bài bản phong phú quy định cho từng lối hát
16


thờ, hát chơi và hát thi. Có hiểu thấu nội dung và nghệ thuật ngôn từ trong các
bài ca cùng sự biểu hiện tinh tế của các ca nữ trong sự phối hợp nhịp nhàng

với ngón đàn, khổ phách... mới thấy hết vẻ đẹp và giá trị của loại hình nghệ
thuật này. [43; tr 30]
Chầu văn: được xem như một loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền
thống độc đáo của Việt Nam. Nó gắn liền với tín ngưỡng dân gian và gắn liền
với tính tâm linh, duy tâm của cư dân nông nghiệp. Những làn điệu của chầu
văn với những tiết tấu nhanh, chững chạc, đĩnh đạc kết hợp với những điệu
Xá. Những kết cấu cơ bản của chầu văn, sự biến đổi ngẫu nhiên của làn điệu
Xá tuỳ thuộc vùng miền, các điệu hát riêng cho mỗi bài. Các bài hát trong
chầu văn, được nghe trong lúc người lên đồng vừa hát vừa múa khi ông hoàng
bà chúa nhập vào... Những buổi lên đồng, những cuộc tiếp xúc liên tục với
hàng chục nghệ nhân tên tuổi trong Nam ngoài Bắc (Lê Bá Cao, Trọng Kha,
Đức Miêng, Đặng Công Hưng...), các ông đồng đền (cụ đồng Xuân, đồng
Hải, bà Xuân, bà Phượng...), tiếp cận tư liệu của một số học giả như Đỗ
Thanh Hà, Nguyễn Văn Huyên, Toán Ánh và một số học giả người Pháp, cho
ta thấy nghệ thuật chầu văn xứng đáng được coi là tinh hoa văn hoá dân tộc.
[43; tr 33]
Chèo : Gắn với văn hoá sông nước, nghệ thuật chèo bắt nguồn từ nền
nghệ thuật dân ca các trò diễn xướng và sự hình thành từ chất liệu dân ca mà
trong đó có sự hội tụ của vài trăm làn điệu. Nghệ thuật chèo bắt đầu khởi
nguồn từ các cư dân nông nghiệp lúa nước, từ những làn điệu dân ca của
người dân lao động chân lấm tay bùn, quanh năm suốt tháng gắn liền với
đồng ruộng, sông nước và lấy cây lúa nước làm chủ đạo. Chèo thuộc loại sân
khấu tự sự (kể chuyện). Giữa người xem và người diễn có sự giao lưu khăng
khít. Người xem dễ theo dõi. Cũng như sân khấu tuồng, ở đây trống chầu giữ
vai trò đặc biệt. Trống chầu do một người có vai vế, uy tín hoặc tay sành sỏi
điều khiển, để cầm trịch buổi diễn, để tỏ ý thưởng phạt, giám định diễn xuất
17



×