LỊCH SỬ MỸ THUẬT
( Tìm hiểu một số loại hình nghệ thuật qua các thời kỳ)
A/. MỸ THUẬT THỜI LÝ
*. Đặc điểm mỹ thuật thời Lý
1. Nghệ thuật kiến trúc.
Trên cơ sở" thức kiến trúc Đông Sơn" đã hoàn chỉnh trong thời Bắc thuộc,
nhân dân ta lại tiếp thu Phật giáo và đi kèm với nó là việc xây dựng chùa tháp.
Hẳn trình độ xây dựng của thợ Việt có tay nghề cao, nên thái thú Tôn Tú đã
bắt hơn nghìn thợ thủ công Giao Chỉ đưa về Bắc để giúp vua Ngô xây dựng
kinh đô Kiến Nghiệp. Ngay khi đất nước giành được độc lập, công việc hàng
đầu là phải " an cư" và cũng để thể hiện diện mạo nhà nước, nên sau khi đã
định đô thì phải dựng đô.
1.1. Kiến trúc thành Thăng Long
Nếu Ngô Vương Quyền mở đầu nên chính thống, để có chỗ làm việc ngay
đã dùng lại kinh đo Cổ Loa vốn xây dựng từ hơn nghìn năm trước; Đinh Tiên
Hoàng thống nhất đất nước xây dựng kinh đô Hoa lư ở gần quê hương có núi
sông hiểm trở, và vua Lê Đại Hành vừa thắng ngoại xâm vẫn cần đến Hoa Lư
để thủ thế, thì vua Lý Thái Tổ với hoài bão xây dựng một quốc gia đàng
hoàng, sau khi hỏi ý kiến và được quần chúng đồng tình, đã quyết định xây
dựng kinh đô mới là Thăng Long.
Kinh thành Thăng Long được khởi dựng từ mùa thu năm 1010 đến mùa
xuân năm 1011 xong cơ bản, về sau được bổ xung vào năm 1029 và 1203.
Với dấu tích hiện còn bờ đê và những đoạn thành cao, nối lại cho vòng thành
khép kín dài trên 20km, được xây dựng ở vị trí trung tâm của đất nước nơi
giữa đồng bằng, các núi sông lớn đều chầu về, dễ dàng liên hệ với cả nước
bằng đường bộ hoặc bằng đường thuỷ, có thể tấn công hay phòng ngự đều
thuận lợi, từng được khai thác từ đầu thời đại đồ đồng và đến thế kỷ X đã trở
thành trung tâm kinh tế – văn hoá " muôn vật cực kỳ giàu tịnh đông vui".
Vòng thành đất đắp trên là giới hạn hoàn bộ kinh thành cũng là phòng thành
chống lụt và ngăn địch từ xa mới tới. Bốn phía có bốn ngôi đền thờ các vị
thần bảo hộ cho kinh thành : phía Nam có đền Kim Liên thờ Cao Sơn đại
vương là thần núi, phía Tây có đền Voi Phục thờ Linh Lang đại vương là thần
sông. Các thần núi, thần sông là linh khí đất nước, và do đó Núi Sông chính là
biểu hiện củaTổ Quốc. Phía Đông có đền Bạch Mã thờ thần Ngựa Trắng là
biểu trưng của mặt trời, được tiếp nhận từ văn hoá ấn Độ, phía Bắc có đền
Quán Thánh thờ Huyền Thiên Trần Vũ có nguồn gốc từ văn hoá Trung Hoa có
tài trừ ma quỷ.
Bên trong phòng thành chia làm hai phần lồng nhau là Hoàng thành và khu
dân cư ngăn cách bởi bức tường xây gạch, mở bốn cựa về bốn phía mang các
tên nhằm cầu phúc cho dân tộc : cửa Tường Phù ở phía đông, cửa Quang
Phúc ở phía tây, cửa Đại Hưng ở phía nam và cửa Diệu Đức ở phía bắc. Trong
hoành thành, ngay lần mới xây dựng đầu đã có trung tâm là điện Càn
Nguyên làm nơi vua coi chầu, hai bên phải trái có các điện Tập Hiền và Giảng
Võ là nơi làm việc của vua. Phía sau dựng điện Long An và Long Thuỵ làm
chố nhà vua nghỉ ngơi, hai bên phải trái có điện Nguyệt Minh và điện Nhật
Quang.Phía sau là các cung Thuỷ Hoa và Long Thuỵ để cung nữ ở. Năm 1029
làm lại điện Càn Nguyệt và bị sét đánh, đổi tên là điện Thiên An, hai bên phải
trái có điện Diên Phúc và Tuyên Đức, phía đông có điện Văn Minh và phía tây
có điện QuảngVũ, hai bên có gác chuông để dân kêu việc thì đánh. Trước
thềm rồng có lầu Chính Dương ở trên điện Phụng Thiên để báo giờ giấc.
Đằng sau xây điện Trường Xuân, bên trên có lầu Long Đồ để ngắm cảnh.
Giữa điện Thiên An và điện Trường Xuân là dựng điện Thiên Khánh để vua
nghe chính sự. Đợt xây dựng năm 1203 xây một loạt cung điện ở phía tây
tẩm điện, có cả ao nuôi cá dưỡng ngư nước thông với dòng sông. Lần bổ
sung này, các cung điện được " chạm trổ trang sức khéo léo, công trình thổ
mộc đẹp đẽ xưa chưa từng thấy" ( Việt sử lược). Trong Hoàng thành còn có
đài Chúng Tiên lợp ngói vàng và ngói bạc, có chùa Hưng Thiên với quả
chuông bằng 310 lạng vàng, chùa Vạn Tuế, chùa Chân Giáo và nhiều hồ
ao, vườn ngự để vừa tôn cảnh trí vừa điều hoà khí hậu, đảm bảo môi trường
xanh, đẹp.
Ngoài Hoàng thành là nơi sinh hoạt cảu đủ tầng lớp xã hội, về cơ bản cũng
quy hoạch theo bốn phía. Phía bắc có hồ Dâm Đàm ( Hồ Tây) là thắng cảnh
nổi tiếng với đền Đồng Cổ tổ chức hội Thề hàng năm, đền Quáng Thánh,
cung Từ Hoa để công chúa cùng các cung nữ trồng dâu nuôi tằm, có các làng
hoa Nhật Chiêu, Nghi Tàm, Quảng Bá cung cấp hoa cho kinh thành. Phía nam
có phủ đệ của các thái tử, hoang tử và quan lại, doanh trại của quân đội, Văn
miếu và trường Quốc Tử Giám, chùa Thắng nghiêm với lầu Thiên Phật và quả
chuông 800 lạng bạc, đàn Xã Tắc để cầu được mưa và đàn Hoàn Khâu để tế
giáo, có trường bắn để đua ngựa, bắn cung và tập võ. Phía Đông là nơi buôn
bán nhộn nhịp, có hồ Lục Thuỷ với tháp Báo Thiên là đài chiến thắng, sông
Hồng thường mở hội đua thuyền. Phía Tây là khu nông nghiệp, có 13 trại mới
được khai thác, nhiều dinh thự trên những gò đồi, các vua Lý thường tổ chức
lễ mừng sinh nhật ở đây.
Khi thành Thăng Long khi xây dựng đã bám theo thuyết phong thuỷ, coi sông
To Lịch là con rồng vươn mình từ sông Nhuệ, ngoi lên sông Hồng đón ánh
dương và nhận nước, có rốn là núi Nùng tập trung khí thiêng, có chân đạp
vào hồ Trúc Bạch và hồ Gia Ngư.
Trong Hoàng thành các cung điện đều hướng tâm vào nơi vua coi chầu, phân
bố cân đối hai bên. Ngoài Hoàng thành, mỗi hạng dân ( sĩ – nông – công –
thuông ) có một hku vực hoạt động riêng, khu nào cũng đan xen nhiều thắng
cảnh và di tích, nhiều sinh hoạt văn hoá của triều đình.
1.2. Kiến trúc tôn giáo
Kiến trúc Phật giáo thời Lý được thư tịch nói đến nhiều và một số nơi còn
để lại dấu tích chùa tháp, mà tháp mới là công trình trung tâm.
a. Tháp phật
Tháp thời Lý là đền thờ phật giáo, trong lòng có pho tượng Phật như tháp
phật Tích, tháp Chương Sơn, tháp Tường Long Riêng tháp chùa Báo Thiên
với tên Đại Thắng Tư Thiêm lại mang tư cách đài chiến thắng báo công với
trời.
Tháp vốn từ kiến trúc trải rộng diễn biến thành kiến trúc cao tầng bình diện
vuông, tầng dưới các cửa có tượng Kim Cương đứng trấn giữ. Các tầng càng
lên cao càng thu nhỏ dần, theo những hình tháp in trên gạch và tháp thời
Trần thì chiều cao tháp thường bằng chu vi chân tháp. Một số tháp đã khai
quật có cạnh chân dài từ 8m đến hơn 19m, như thế tháp có thể cao từ hơn
30 m đến hơn 70m, phù hợp với tháp cảu BảoThiên được sử cũ ghi là cao vài
mươi trượng và văn học xây dựng thành hình tượng cột trụ chống trời. Nền
móng tháp phải vững chắc, xây tường dầy và dất cấp, trong nền trộn đất sét
với sỏi đá. Các tháp thờ Phật thường có số tầng lẻ biểu thị sự phát triển, dấu
tích hiện vật và thư tịch cho biết thương là 5 – 7 – 9 thậm chí 13 tầng, riêng
tháp đài Chiến thắng có số tầng chắn ( 12 hay 30 tầng) lại biểu thị sự ổn
định. Vật liệu xây tháp rất phong phú, tuỳ tháp mà thuần gạch, thuần đá
hoặc xem kẽ gạch với đá, cả đồng nữa, có cả tháp gốm men. Mặt ngoài tháp
được khắc rạnh, những hình rồng, vòng sánh đức phật. Những bộ phận nhô
ra được gắn tượng người chim, và kết thúc đỉnh tháp có tượng người tiên
bưng mâm ngọc. Những cây tháp này hoà vào thiên nhiên mà vẫn nổi trội, là
điểm tựa tâm linh cảu mọi người.
b. Chùa
Thời Lý dựng nhiều chùa nhưng không ngồi nào còn đến nay, một số ít chỉ
để lại nền móng ( như các chùa phật Tích, Vĩnh Phúc, chùa Dạm ở Bắc Ninh,
chùa Bà Tấm ở Hà Nội, chùa Hương Lãng ở Hưng Yên, chùa Long Đọi ở Hà
Nam ), số khác chỉ sót ít di vật (như chùa Chèo ở Bắc Giang, chùa Kim
Hoàng và chùa Thầy ở Hà Tây, chùa Sùng Nghiêm Diêm Thánh ở Thanh
Hoá), chùa Một Cột ( Hà Nội) đến thời Nguyễn đã làm lại thu nhỏ rất nhiều,
chỉ có thể biết qua thư tịch và ý đồ kiểu thức kiến trúc. Nhà Lý chia các chùa
trong nước làm ba loại là Đại – Trung và Tiểu danh lam, dựa trên cơ sở số
ruộng và số người giúp việc nhàchùa, song dưới góc độ nghệ thuật có thể
chia làm bốn loại:
- Chùa dựng trên một cột: Sử cũ cho hay Thăng Long có " Lầu chuông một
cột, sáu cạnh, hình hoa sen " trong điện Linh Quang, chùa Linh Xứng (Thanh
Hoá) có toà sen trối lên mặt nước, trong có tượng Ngũ Trí Như Lai sắc vàng
rực rỡ". Đặc biệt chùa Một Cột tức Diên Hựu tự được bia và sử cũ miêu tả:
chùa được dựng giữa hai lần hồ, có hành lang bao quanh và cầu cong đi vào,
riêng cây cột đã cao tới mười trượng chạm đủ ngàn cách sen. Đỉnh cột dựng
ngôi chùa mang hình bông sen là " y theo mưu mới, lại đưa vào dấu tích
xưa". Dấu tích xưa là là kiểu nhà mái tròn khắc trên trống đồng Đông Sơn, là
cây hương dựng trên đầu trụ, là cái chòi trên cành cây Trên cơ sở đó đã
sáng tạo theo mưu mới là giấc mơ cảu vua Lý Thái Tông được Quan Âm dắt
lên đài sen. Truyền rằng riêng cây cột đá đã cao hơn 20m, vậy ngôi chùa trên
đó phải lớn và toàn cảnh rất rộng.
- Chùa kiêm hành cung: loại chùa này gắn với hoàng gia, thường được nhà
vua ghé thăm, để lên chùa, tổ chức cùng quân thần đối cảnh làm thơ. Được
xây ở nơi thắng cảnh, gần với núi sông ngoạn mục, chiếm cả vạt núi, đồng
thời cũng hay có tháp phật để trải rộng lại vươn cao.Hình điêu khắc ở những
chùa này phổ biến là rồng để vừa gợi nguồn nước vừa tượng trưng cho vua.
Tiêu biểu là các chùa Phật Tích, Tường long, Long Đọi, Chương Sơn.
- Chùa gắn với cả quý tộc và dân làng : Các bà Hoàng thương tham gia đóng
góp, có thể dựng ở các sườn núi ( như chùa Vĩnh phúcm chùa Tĩnh Lự ở Bắc
Ninh) nhưng phổ biến là ở cánh bãi đầu làng ( như chùa Bà Tấm ở Hà Nội,
chùa Hương Lãng ở Hưng Yên), mặt bằng khá rộng, điều khắc không có hình
rồng, thường có tượng con sấu trên thành bậc cửa và sư tử đội toà sen mà
dân gian gọi là " ông Sấm" gắn liền với việc cầu đảo cần cho nông nghiệp lứa
nước.
- Chùa làng: dựng ở cùng quê hẻo xóm núi ít người qua lại ( như chùa Chèo ở
Bắc Giang, chùa Kim Hoàng ở Hà Tây), quy mô nhỏ, dấu vết còn lại hiếm hoi,
không được thư tịch đề cập. Có thể lúc đầu đây chỉ là thảo am hay mái đá.
Đôi khi có sự tham gia cảu quy tộc nhưng ở miền núi khuất nẻo.
Kiến trúc chùa thời Lý tuy không còn, song thư tịch đương thời đôi khi có
miêu tả, chẳng hạn bia chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh cho biết : cầu nhà
cong cong như cầu vồng nhô ra sau cơn mua tạnh, mái đắp uyên ương xập
xoè múa lượn trong gió, nóc nhà uốn như chim trí xoè cánh, hình phạm trên
đầu như phượng múa lại chầu, mái cong lấp lánh dưới nắng và hiên quanh co
trước gió, hành lang bao quang tường vách sạch bụi Lại sắm chiếc giường
cho khách lỡ đường nghỉ trọ, còn xây bếp núc giúp người phương tiện. Thực
là cảnh chùa ngăn nắp, tượng phật trang nghiêm.
Kết hợp dấu tích còn lại với thư tịch, ta thấy tháp thời Lý có quy mô lớn, được
xây dựng ở nơi cảnh trí đẹp, kết hợp thắng cảnh ở danh lam tạo ra một tổng
thể kiến trúc sơn thuỷ hữu tình bố cục cấn đối, hoà nhập với môi trường để
hài hoà với tự nhiên và nâng quy mô lên nhiều lần. Những công trình này gắn
với quý tộc cũng gắn với toàn dân, cầu chúc hoàng đồ củng cố và nhân dân
an lạc.
2. Nghệ thuật điêu khắc
Bia chùa Phân Tích cho biết tại đây năm 1057 vua Lý Thánh Tông dựng cây
tháp cao ngàn trượng trong tháp có pho tượng bằng đá thếp vàng cao 6
thước, trước thềm bày mười con thú cũng bằng đá. Một số chùa thời Lý cũng
có bia đề cập tới tượng tròn và chạm khắc trang trí.
2.1. Tượng tròn
Tượng tròn thời Lý hiện còn có tượng Phật, Kim Cương người chim và
tượng thú. Mỗi loại còn được vài pho
a. Tượng phật Thế Tôn
Các chùa Phật Tích, Ngô Xá ( Chương Sơn) và Kim Hoàng đều chỉ để lại
mỗi chùa một pho tượng Phật. Các chùa Thầy, chùa Chèo và chùa Sùng
Nghiêm Diên Thánh không còn tượng nhưng còn bệ tượng và toà sen thích
hợp với một pho tượng Phật ngồi trên.Các chùa Một Cột, Long Đọi, Linh Xứng
được văn bia xác nhận có tượng Phật.
Tượng Phật chùa Phật Tích vốn được gọi là đức Thế Tôn ở thế ngồi thiền cao
1m85 ( tương đương 6 thước thời Lý). Phần bệ không còn nguyên và đã làm
lại toà sen cao thêm 0m84 nữa, vốn xưa ở trong lòng tháp và được thếp
vàng. Đã từ lâu phần sơn thếp bong hết để lộ đầy đủ phần lõi được chạm rất
cẩn thận và hoàn chỉnh. Tượng được bố cục theo khối nón vững vàng, ngồi
thiền khuỳnh hai đầu gối, lưng thẳng đứng, mắt hơp cúi xuống, do đó từ trên
cao có sự giao cảm với các Phật tử đang chiếm bái. Toàn thân tượng khuôn
trong đường viền khép kín, nhưng do mảng khối óng chuốt nên cứ chập chờn
– nhất là khi được chiếu sáng. Tượng mang vẻ đẹp quý phái cảu người phụ
nữ Việt Nam. Mặt trái xoan, cổ cao 3 ngấn, thân hình dong dỏng, mình mỏng.
Đỉnh đầu có nhục kháo nhô cao, tóc xoăn, tai dài là những quý tướng. Đôi
mắt đăm chiêu khép hở, cặp lông mày thanh cong giao tế nhị, các ngón tay
thon thả. Tấm áo dài óng ả có đường gân cuộn xoáy ở bả vai phải, rồi lượn
theo các nếp áo như trôi chảy vào không gian, chỉ đọng lại ở thân mình vì bị "
vướng". Tượng được tạo bằng những mảng khối óng mượt, đường nét minh
triết, từng chi tiết tao nhã và trí tụê. Tất cả toát lên vẻ đẹp cổ điển về một
tâm hồn từ bi, vị tha. Khối tượng tính lặng, trang nghiêm nhưng được đặt
trên toà sen nửa khối cầu lại toạ ấn tượng chao đảo. Toà sen này làm lại ở
thời sau, hơi nhỏ so với khuỳnh chân ngồi thiền. Đối chiếu với bức bệ tượng
các chùa khác cùng thời kỳ dưới toà sen còn thiếu khối tượng sư tử hay đôi
lân chầu ngọc. Phần dưới cùng là bệ bát giác khối nón gồm nửa dưới là
những lớp sóng vừa dàn ra lại vươn lên, từng đợt mênh mông vô tận, nửa
trên là hai tầng bậc cấp thu vào, có mặt nằm chạm hoa dây như cúc cuống
hoa có người bé tí leo trèo, có mặt đứng chạm rồng rắn thoắt đuôi nhau,
Ngược với khôi tượng trơn, phần bệ phủ kín hoa văn với kỹ thuật tỉ mỉ, chính
xác như chạm vàng bạc.
Chùa Ngô Xá ở chân núi cũng có pho tượng Phật đưa từ phế tích tháp
Chương Sơn ở đỉnh núi xuống, lớn bằng người thực, cấu tạo chung giống như
tượng chùa Phật Tích, nhưng khuôn mặt thực hơn với người Việt ( long mày
không giao nhau, mũi hơi gãy, mặt hơi xếch, tai không chảy). Tượng Phật
chùa Kim Hoàng bị mất đầu, thân hình cso thô hơn tượng Phật Tích một chút
nhưng về tổng quát lại rất gần gũi.
b. Tương Kim Cương
Thư tịch nói rõ bốn cựa tháp chùa Báo Thiên có bốn cặp tượng Kim Cương
trấn giữ. Tượng Kim Cương chùa phật Tích dược đưa về Bảo Tàng Lịch Sử
Việt Nam. Tượng Kim Cương chùa Long Đọi còn 6 pho gắn vào tường chùa, là
tượng tròn nhưng sau lưng gắn liền vào đá tấm. Tượng to băng người thực,
đẹp khoẻ mạnh, dáng ung dung cương nghị, khuôn mặt đồn hậu, là võ tướng
nhưng không ở các thế võ, cơ bắp thả lỏng, đứng nghiêm chống kiếm trước
bụng, trên y phục được chạm nhưng bông hoa nhiều cánh xoè nở gây cảm
giác toàn thân tượng như phập phồng thở. Tấm đá nền sau tượng, ở diềm
đứng chạm các ô tròn hoa sen to và nối với nhau bằng hình người bé ti trong
ô tròn nhỏ.
c. Tượng người chim
Trong phế tích các tháp Phật Tích, Long Đọi và Chương Sơn đã tìm được
một số tượng người chim vốn xưa đậu trên những đấu chạc dưới các tâng
mái. Đây là nhân vật thần thoại, nửa trên là người nhưng ngoài đôi tay còn
thêm đôi cánh, nửa dưới hoàn toàn là chim. ở Long Đọi, người chim đánh
chũm choẹ, còn ở Phật Tích có người chim đánh trống cơm, có người chim
gẩy đàn nguyệt. Là nhân vật thần thoại song từng phần lại rất thực, hoạt
động nghệ thuật sôi nổi, nét mặt tập trung vào âm thanh cảu những nhạc cụ
đang biểu diễn, đôi canh cũng như vỗ theo và những túm lông đuôi uốn lượn
bay lên mềm mại. Có thể xem đây là những nhạc công thiên thần.
d. Tượng thú
Nếu ở bệ tượng Phật thường có tượng sư tử đội toà sen mà dân gian gọi là
" ông Sấm", thì ở thềm tầng bậc thứ 2 cảu chùa Phật Tích có 5 cặp tượng thú
dàn thành một hành ngang hai bên cửa đối nhau.
ông Sấm ở chùa Bà Tấm chỉ có phần đầu, hai con đội chung một toà sen, ở
thế nằm cao 1m, rộng 1m36, còn ở chùa Hương Lãng (Hưng Yên) chỉ có một
con chạm cả phần đuôi, dài 2m30 còn phần đầu như ở chùa Bà Tấm. Hình
dáng là con sư tử phủ phục đội toà sen, trán có chữ Vương là chúa rừng
xanh. Ngoài những lông xù cuộn xoáy, dọc chân và quanh mép còn có hang
hoa văn dấu hỏi tựa nhau, quang miệng có những bông hoa nhiều cánh,
phần đuôi được trang trí rất kỹ, có lẽ do sư tử gầm như tiếng sấm, lại cũng
do ước vọng cần mưa nên địa phương gọi sư tử là " ông Sấm"
Còn 5 cặp tượng thú chùa Phật Tích, từ giữa toả ra là sư tử – voi – trâu – tê
giác – ngựa, tất cả đều to bằng trâu ngựa thực và đều nằm trên toà sen, là
những con vật thiêng cảu thế giới nhà Phật.
Tượng và bệ liền khối đá. Trang trí phần bệ đáng chú ý hơn cả là con vật
thần thoại gần giống như người nhưng đươi lại uốn lượn như mình rồng,
chạm tinh tế, thống nhất phong cách nghệ thuật Lý. Song phần tượng, cả 5
loại thú đề là những con vật thực, từ con vật rất thân thuộc ( trâu) đến
những con vật hầu như không có ở Việt Nam ( sư tử) nhưng đều được chạm
rất thực, khối hình to mập, dáng khoẻ chắc, cso phần xa với phong cách Lý
mà đến thời Trần mới phát triển.
2.2. Chạm khắc trang trí
Trong điêu khắc Lý đặc biệt phải kể đến mảng chạm nổi trên đá với sự tinh
khéo như chạm vàng, bạc. ở đây nổi lên một số đề tài là rồng, nhạc công, vũ
nữ và hoa lá.
a. Hình rồng rắn
Có một số con rồng rất lớn, thân đuôi ra dài vài mét ( như ở cột đá chùa
Dạm, đế bia chùa Long Đọi và chùa Chương Sơn, trong ao rồng cảu Phật
Tích), song phần lớn là những con rồng nhỏ dài mười phân nằm trong một số
đồ án gọn xinh theo các hình tròn, thoi, chữ nhật, lá đề, nửa lá đề nhưng
luôn thống nhất về cấu tạo : đầu to với bờm tóc mượt bay, răng nanh cuộn
xoắn với môi trên lại có thêm đường viền thành chiếc mào phập phồng như
ngọn lửa, mũi như đoạn vòi co dãn, lông mày cuộn vòng lên cả hai đầu và
cạnh đó là hình trang trí chứ S không bao giờ thiếu vắng, là dấu hiệu về
nguồn nước.
Thân rồng tròn trịa, dài nhỏ, uốn thắt túi thoăn thoắt như chiếc lò xo ẩn
tàng sức bật mạnh, cứ thế thu nhỏ về đuôi, nếu không để ý đến chân thì
không phân biệt được thân với đuôi, dọc lưng có đường vây nhưng vảy cá và
dưới bụng là dãy nếp gấp như bụng rắn để dễ di chuyển. Rồng có 2 chân
trước mọc lệch chố và2 chân sau mọc cùng chố, chân sau cũng dài hơn hẳn,
chân nào cũng như múa rất dẻo, mỗi chân có ba ngón với móng cong nhịn
sắc như của chim. Một số người quên gọi là rồng giun, nhưng ngay ở đương
thời người xưa đã nhiều lần gọi là long xà tức là rồng rắn, lấy con rắn làm cơ
bản rồi thêm vào một số hoạ tiết khác, làm cho con vật thần thoại mà thân
thuộc như con vật thực. Nền rồng là mây trời nhưng cũng có khí là hoa lá.
Trong cấu tạo, con rồng có cả yếu tố âm và dương, nó lưỡng cư và lương
tĩnh, tuy đã gần với triều đình, nhưng về bao quát vẫn là con vật biểu trưng
nguồn nước, là chố dựa của cư dân nông nghiệp trồng cấy lúa nước, cảu cư
dân gắn vận mệnh với sông nước, và phần nào cũng nhắc nhở nguồn gốc
dân tộc và con rồng cháu tiên. Hình rồng Lý là hình trạng trí đạm chất Việt
Nam, có tiếp nhận mộ số yếu tố văn hoá Đông Sơn và văn hoá phương Nam,
rất khác rồng Trung Quốc trước và cùng thời với nó.b. Nhạc công và vũ nữ
Chùa Phật Tích có một số chân tảng đá kê cột cảu thời Lý được dừng lại,
mặt trên chạm thành bông sen nở xoè nhiều cánh, còn bốn mắt bên là bốn
dàn nhạc giống nhau.
Mỗi mặt chân cột là một băng ngang dài 73cm cao 13cm, người xưa tạo ra
một khung hình cách mép gần 1cm, trong đó viền hai bên và phái trên là dải
dấu móc tựa lưng nhau như cách hoa, còn viền phía dưới là dải song hai loại
chồng chất như ở bệ tượng Phật, giành ra khoang giữa dài 70cm cao 9,5cm
để chạm dàn nhạc : chính giữa là một vòng sáng lá đề bên trong có vài bông
hoa như hoa cúc, tất cả được đặt trên một bông sen, hẳn là hình tượng trưng
cho đức Phật. Hai bên có mười nhạc công chia đôi, dàn thành hàng ngang
múa tiến vào vòng sáng, động tác múa thống nhất nhưng tay lại biểu diễn
những nhạc cụ khác nhau, từng cặp từ hai đầu vào giữa là trống cơm và
trống da, đàn nguyệt và nhị, tiêu và sáo, đàn tranh và đàn thập lục, cặp
phách nở và chập. Từng người đều chân thấp chân cao, mình uốn vặn ba
khúc, từ búi tóc cao và cổ chân còn toát ra nhưng dải lụa bay lượn nhịp
nhàng, phục trang đẹp gọn làm nổi các đường lượn của thân thể tròn lẳn.
Bức chạm đông người mà không che khuất nhau, ai cũng ở chính diện với độ
lớn bằng nhau, ở đây như có cả tính dân chủ công đồng làng xã.
Đề tài vũ nữ còn được thể hiện ở tay vịn thành bậc cửa tháp Chương Sơn, cả
2 mặt giống nhau : lớp trên chạm bảy vũ nữ, lớp dưới chạm băng hoa. Băng
hoa mặt trong chia ra các ô tam giác vuông cân để ứng với các đầu bậc thì
để trơn, và do đó bức chạm phải để dốc 450 hình người mới đứng. Băng hình
vũ nữ cao 0m27 và dài 2m15, từng hình đều to, rõ và dáng chung như các
nhạc công Phật Tích nhưng hai tay đaư lên cao dâng hiến, tay trước cầm cả
hoa và lá sen cuộn tròn.
c. Hình hoa lá
Trên nhiều mặt phẳng cảu kiến trúc và của bệ tượng người xưa thường
chạm hoa lá theo từng băng dài, phần lớp là cúc sen đan xen nhau. Dây hoa
với nhữg lá nhỏ toả về hai bên là chung cho cả hai thứ hoa, uốn lượn bao lấy
từng bông hoa tròn. Hoa được cách điệu nhưng có thể nhận ra sen và cúc, có
khi chỉ là hoa cúc nhưng nhìn góc độ khác nhau, đều lớn như nhau. Hai loại
hoa này thường được gán cho hai tính chất thanh cao ( sen) và ẩn sĩ ( cúc),
song trong văn hoá tâm linh nó còn mang ý nghĩa sâu sắc hơn. Nhà thơ Trần
Nguyên Đán ở thời Trần đã nhận ra ở hoa cúc có khí mạnh và tài năng cảu
trời đất, nó coi thường cả uy của sương và sự lấn của tuyết.
- Cúc còn tượng trưng cho mặt trời để đôi rồng chầu vào, là biểu hiện của khí
dương. Còn sen ở nước,cả trong Phật thoại và triết lý dân gian đều xem là
dấu hiệu yếu tố âm, gợi hình mặt trăng. Hình chạm hai thứ hoa này đan xen
nhau còn là sự hoà hợp âm dương để tạo phúc cho cuộc sống cả xã hội, và
do đó gắn với cuống hoa thường có hình người bé tí trèo sống động.
3. Nghệ thuật hội hoạ
Trang thời Lý cách ngày nay rất xa, thường vẽ trên tường vách cảu công trình
kiến trúc, một số tranh độc lập có thể vẽ trên gỗ hoặc giấy, vải nên rất khó
bảo quản và bảo dưỡng. Tường đổ, nhà cháy, nấm mốc, nắng mưa do
con người và thời tiết gây ra đã cướp đi tất cả. Tuy nhiên, qua thư tịch có thể
chút ít về tranh, và một phần hình vẽ trên gốm có thể cho biết thêm yếu tố
hội hoạ đương thời.
Thư tịch xưa cho hay các vua Lý " ở trên lầu bốn tầng Tất cả cung điện
ở Thăng Long đều sơn son, cột vẽ rồng, hạc và tiên nữ". Các chùa lại
càng hay dùng tranh vẽ để trang trí và giáo dục Phật tử. Chùa Phật Tích có "
cung sơn điện vẽ san sát trong núi" có " cung Quảng vẽ hoạ nhi hồng" có "
góc cao vẽ sao ngưu và sao đẩu sáng láng". Nếu những hình vẽ trên chủ yếu
để trang trí, thì ở một số chùa khác lại mang rõ ý nghĩa giáo dục, chẳng hạn
bia chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn ( Thanh Hoá) dựng khi khánh thành
chùa cho biết: " Quang tường thuê vẽ dung nghi đẹp đẽ của cực quả mười
phương, cùng với mọi hình tướng biến hoá muôn hình vạn trạng không sao
kể xiết".
Với nho giáo, Nhà nước ngay khi xây Văn Miếu đã cho vẽ chân dung 72 người
học trò ngoan và giỏi của Khổng Tử để các sĩ tử noi theo. Chữ Hán với bố cục
khối vuông, được viết đẹp cũng là những bức trang chữ thuộc loại " thư hoạ".
Thư tịch cho biết vua Lý Nhân Tông " viết bút lông rất khéo, chữ như rồng
múa phượng lượn, phép theo tay nghọc của ngài như chim loan vòng, chim
thước nhảy". Trong thời gian ở ngôi, nhà vua đã nhiều lần đi thăm các chùa
và viết chữ ban cho để khắc vào bia.
Nhưng hình vẽ trên đều đã mất, nhưng trên gốm men ngọc của thời này còn
giữ được một số hình khắc chìm, tức vẽ bằng vật cứng khi xương gốm mới
làm xong, sau đó tô men và nung. Những hình vẽ này thường chỉ là hoa lá,
đôi khi có cả chuồn chuồn, ong, bướm và em bé nữa, chưa thành bức tranh,
nhưng cho thấy các yếu tố hội hoạ, nó bắt nguồn từ cuộc sống và được thể
hiện một cách hiện thực.
Mặc dù nhà Lý quản lý đất nước sau khi thoát khỏi Bắc thuộc đã hơn 70
năm, sog hầu như không được thừa hưởng thành quả mỹ thuật của các triều
Ngô - Đinh – Tiền Lê. Nhưng mỹ thuật Lý vừa xuất hiện đã đạt được vẻ đẹp
cổ điển chuẩn mực, nó là biểu hiện cảu ý thức muốn xây dựng một quốc gia
đàng hoàng có nền văn hoá riêng, nên trên cái nền xã hội thái bình thịnh trị,
được Phật giáo gợi hứng đã biết sáng tạo trên cơ sở sự hứng khởi của đất
nước, khai thác yếu tố thích hợp từ trong vốn cổ Đông Sơn và qua giao lưu lại
tiếp nhận một phần thành quả của các nền văn hoá láng giềng. Đó là hướng
đi đúng, tạo phẩm chất nghệ thuật cao cho mỹ thuật Lý.