Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

CHỦ NGHĨA mác – LÊNIN, tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về CÔNG tác dân vận QUA các tác PHẨM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.8 KB, 18 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP
MÔN CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN QUA CÁC TÁC PHẨM
Câu 1: Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, sự phát triển và con
đường thể hiện vai trò ấy trong tác phẩm “Gia đình thần thánh” của K. Marx
& F. Engels
Câu 2: Nguyên tắc tuyên truyền, vận động quần chúng trong tác phẩm “Sửa
đổi lối làm việc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh?
Câu 3: Những tư tưởng chủ yếu về giai cấp vô sản trong tác phẩm “Gia đình
thần thánh” của Mác- Ăngghen?
Câu 4. Phân tích khái niệm dân vận, nội dung, phương pháp công tác dân vận
và nghệ thuật công tác dân vận trong tác phẩm “Dân vận” của Chủ tịch Hồ
Chí Minh.

TRẢ LỜI
Câu 1: Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, sự phát triển và con
đường thể hiện vai trò ấy trong tác phẩm “Gia đình thần thánh” của K. Marx
& F. Engels
Quần chúng nhân dân là: cộng đồng người có cùng lợi ích căn bản, liên
kết thành tổ chức với cùng người lãnh đạo để giải quyết những vấn đề kinh tế chính trị - xã hội của thời đại họ. Trong đó hạt nhân là các tầng lớp lao động sản
xuất.
QCND gồm:
- Các tầng lớp lao động sản xuất. Đây là thành phần hạt nhân của QCND.
- Tầng lớp chống lại giai cấp thống trị.
- Tầng lớp thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
Con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử nhưng không phải theo phương thức
hành vi đơn lẻ, rời rạc, cô độc của mỗi con ngưới mà theo phương thức liên kết
những con người thành sức mạnh cộng đồng xã hội có tổ chức, có lãnh đạo của
những cá nhân hay các tổ chức chính trị, xã hội nhất định nằm giải quyết các
nhiệm vụ lịch sử trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa của xã hội - cộng
đồng đó chính là quần chúng nhân dân.


Trong suốt quá trình phát triển của xã hội loài người, quần chúng nhân dân
luôn khẳng định vai trò to lớn cua mình trong lịch sử, trong việc tổ chức, phát triển
xã hội và tạo nên lịch sử. Vai trò ấy không chỉ được thừa nhận qua thực tế mà còn


được đúng kết thành lý luận, tư tưởng tại tác phẩm Gia đình thần thánh – một tác
phẩm kinh điển của Chủ nghĩa Mác – Lenin.
Tác phẩm GIA ĐÌNH THẦN THÁNH hay là PHÊ PHÁN SỰ PHÊ PHÁN
CÓ TÍNH PHÊ PHÁN là tác phẩm đầu tiên do K. Marx và F. Engels cộng tác viết
ra vào khoảng tháng 9 đến tháng 11/1844 và xuất bản vào tháng 2/1845 ở
Frankfurt. (Lúc đầu, Tên đầy đủ của tác phẩm này là "Gia đình thần thánh hay phê
phán sự phê phán có tính phê phán. Chống Bruno Bauer và đồng bọn")
"Gia đình thần thánh" là tên gọi hài hước đặt cho anh em Bauer và bọn theo
đuôi họ tụ tập quanh tờ “Báo văn học phổ thông". Bauer và nhóm của y đã vứt bỏ
"xu hướng cấp tiến năm 1842", rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan tầm thường và
thối nát, cổ động cho thứ "lý luận" chủ trương rằng: chỉ có những cá nhân kiệt xuất
tức kẻ thể hiện "tinh thần", "sự phê phán thuần tuý" mới là người sáng tạo ra lịch
sử, động lực của tiến bộ xã hội là ở hoạt động tinh thần của những nhà phê phán
xuất sắc, còn quần chúng, nhân dân dường như chỉ là nhân dân chỉ là những kẻ mu
muội, một chất liệu thiếu sức sống, là vật trở ngại trong quá trình lịch sử.
Chính bởi thế, Marx và Engels đã viết ra tác phẩm này nhằm bóc trần tư
tưởng phản động có hại đó, bác bỏ anh em Bauer và những người khác thuộc phái
Hegel trẻ (hoặc phái Hegel tả); bảo vệ quan điểm duy nhất mới và cộng sản chủ
nghĩa của mình đồng thời cũng phê phán cả triết học duy tâm của chính Hegel.
Qua tác phẩm "Gia đình thần thánh", hai ông đã đề ra những tư tưởng cơ bản
của chủ nghĩa duy vật lịch sử, như: vai trò quyết định của sản xuất vật chất đối với
tiến trình phát triển của xã hội loài người, vai trò sáng tạo ra lịch sử của quần
chúng nhân dân lao động, khẳng định vai trò, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai
cấp vô sản và chỉ ra rằng, chính địa vị của giai cấp vô sản trong xã hội tư sản hiện
đại đã quy định vai trò, sứ mệnh đó.

Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, sự phát triển và con
đường thể hiện vai trò ấy được thể hiện trong tác phẩm “Gia đình thần
thánh” như sau:
1. Vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử, vai trò ấy
ngày càng tăng lên trong tiến trình lịch sử
Trên cơ sở chỉ ra sai lầm của anh em Bauer và những người thuộc phái
Hegel trẻ rằng: phái này đã không nhìn thấy vai trò sáng tạo lịch sử của quần
chúng nhân dân, cho rằng động lực duy nhất cho tiến bộ của nhân loại không phải
là nhân dân, nhân dân không có vai trò gì trong lịch sử phát triển nhân loại, động
lực ấy là “sự phê phán có tính chất phê phán”, tức là sự phê phán xã hội của nững
người biết phê phán, đó là những trí thức lỗi lạc, những trí thức này chính là anh
em nhà Bauer, Marx và Angghen khẳng định: mọi nhiệm vụ của lịch sử đều do
quần chúng giải quyết, chính quần chúng nhân dân mới là người sáng tạo ra lịch
sử, là lực lượng quyết định sự phát triển lịch sử của nhân loại và vai trò ấy ngày
càng tăng lên trong tiến trình lịch sử.
Theo quan điểm duy vật lịch sử của Mác và Ăngghen, hoạt động chính trị xã hội là của con người, của quần chúng nhân dân, quần chúng nhân dân là chủ thể


sáng tạo chân chính ra lịch sử, lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử. Do
đó, lịch sử trước hết và căn bản là lịch sử hoạt động của quần chúng nhân dân trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
2. Quần chúng nhân dân đứng lên giải phóng mình không phải chỉ trong tư
tưởng mà trong thực tiễn hành động.
Đây là luận điểm quan trọng, thể hiện rõ quan điểm duy vật về lịch sử của
Mác và Ăngghen. QCND có vai trò quyết định sự phát triển lịch sử của nhân loại,
song để lịch sử phát triển, QCND phải đứng lên tự giải phóng mình khỏi ấp bức
bóc lột của giai cấp thống trị trong các thời đại lịch sử. Đây là nhiệm vụ, là sứ
mệnh lịch sử của QCND, không ai có thể làm thay được. Đặc biệt, hai ông khẳng
định rằng:
Quần chúng nhân dân đứng lên giải phóng mình không phải chỉ trong tư tưởng,

giải phóng tư tưởng của mình khỏi các tư tưởng phản động của các giai cấp thống
trị, bóc lột. Quan trọng hơn, nhân tố quyết định sự giải phóng QCND là họ phải
đứng lên hành động thực tiễn, tham gia vào các phong trào cách mạng do các lực
lượng chính trị tiến bộ, tiên phong lãnh đạo.
Những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mac khẳng định con đường, cách thức
sáng tạo và quyết định sự phát triển của QCND không gì khác hơn là hoạt động
lịch sử: “Hoạt động lịch sử càng lớn lao thì do đó, quần chúng, mà hoạt động lịch
sử đó là sự nghiệp của mình, cũng sẽ lớn lên theo”
Thực tiễn lịch sử và sự phát triển nhân loại đã minh chứng vai trò quyết
định lịch sử của quần chúng nhân dân được bằng ở các nội dung sau:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản suất cơ bản của xã hội, trực
tiếp sản xuất ra của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Con người muốn tồn tại phải có các điều kiện vật chất cần thiết, mà những nhu cầu
đó chỉ có thể đáp ứng được thông qua sản xuất. Lực lượng sản xuất cơ bản là dông
đảo quần chúng nhân dân lao động bao gồm cả lao động chân tay và lao động trí
óc. Hoạt động sản xuất của quần chúng nhân dân là điều kiện cơ bản để quyết định
sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng
xã hội, không có cuộc chuyển biến cách mạng nào mà không là hoạt động đông
đảo của quần chúng nhân dân. Họ là lực lượng cơ bản của cách mạng, đóng vai trò
quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng xã hội. Bởi vậy, nhân dân lao động
là chủ thể của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội, đóng vai trò là động lực cơ
bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
Thứ ba, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hoá tinh
thần. Quần chúng nhân dân đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của khoa học,
nghệ thuật, văn học, đồng thời áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động thực
tiễn.
Tóm lại, với những luận điểm sắc bén trong tác phẩm GIA ĐÌNH THẦN
THÁNH, Mác và Ăngghen đã khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân
dân trong lịch sử, QCND chính là chủ thể sáng tạo và làm nên lịch sử, là lực lượng



quyết định sự phát triển của lịch sử nhân loại. Sự phát triển và con đường thể hiện
vai trò ấy không gì khác hơn là hoạt động lịch sử, là hành động thực tiễn, là quá
trình đấu tranh tự giải phóng tư tưởng và bản thân mình khỏi sự áp đặt, áp bức, bóc
lột.
Câu 2: Nguyên tắc tuyên truyền, vận động quần chúng trong tác phẩm
“Sửa đổi lối làm việc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh?
Trả lời
* Một số khái niệm:
1- Quần chúng nhân dân: kế thừa và phát triển tư tưởng Mác - Lê nin về quần
chúng nhân dân, theo Chủ tịch HCM “Quần chúng nhân dân bao gồm cả dân tộc
Việt Nam, là đồng bào Việt Nam, gồm các giai cấp, các tầng lớp, các lứa tuổi, các
dân tộc, các tôn giáo,… nhưng khi xem xét ở góc độ là chủ thể cách mạng và lực
lượng cách mạng thì Người lại cho rằng: Quần chúng cách mạng là công nông, còn
học trò, nhà buôn, đièn chủ,…là bầu bạn cách mệnh của công nông”
2- Công tác vận động quần chúng:
- Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi
một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để
thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và đoàn thể đã
giao cho".
- Theo quan điểm của Đảng ta “Công tác quần chúng của Đảng là hoạt động
lãnh đạo của Đảng, bao gồm các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, tập
hợp, hướng dẫn và tổ chức của Đảng đối với quần chúng nhằm phát huy quyền làm
chủ của quần chúng nhân dân, huy động tối đa lực lượng toàn dân, thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn”
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác Dân vận hay vận động quần chúng
là một hệ thống những quan điểm, phương thức dân vận được thấm nhuần trong cả
cuộc đời và trong các tác phẩm của Người. Ngay từ những ngày đầu dấn thân vào
sự nghiệp cách mạng, Người đã thấy được vai trò, sức mạnh to lớn của nhân dân

và Người sớm khẳng định: quần chúng nhân dân là gốc của sự nghiệp cách mạng;
cách mạng là việc chung của cả dân chúng. Vì vậy, công tác tuyên truyền, vận
động quần chúng tham gia vào phong trào cách mạng là một nhiệm vụ hết sức
quan trọng và đây là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên
phải tìm cách thuyết phục, thu hút quần chúng nhân dân cùng tham gia thì cách
mạng mới thành công.
Theo quan điểm của Người về nguyên tắc tuyên truyền, vận động quần chúng
được thể hiện trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” viết vào năm 1947, bao gồm
các nội dung sau:
Môt là, phải lấy dân làm gốc, gắn bó mật thiết với nhân dân, luôn tin ở dân
và sức mạnh của quần chúng.
Theo Người, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội là
sự nghiệp của toàn dân Việt Nam chống lại kẻ thù của dân tộc và giai cấp là chủ
nghĩa tư bản đế quốc cướp nước và tay sai của chúng. Trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, Hồ Chí Minh luôn lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh.
Quan điểm "lấy dân làm gốc" xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người.
Với lực lượng đông đảo có tổ chức và với phương pháp cách mạng bạo lực của


quần chúng, Hồ Chí Minh đã phát huy sức mạnh dân tộc, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại đưa Cách mạng tháng Tám 1945 và hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn. Thực tiễn lịch sử
đã khẳng định, mối liên hệ mật thiết, gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân là
vấn đề có ý nghĩa sống còn với Đảng và cách mạng Việt Nam; mối liên hệ đó đã
không ngừng được củng cố, tăng cường và phát triển qua mọi giai đoạn của cách
mạng. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Người đã khẳng định: “sự lãnh đạo
trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải trong quần chúng ra, trở lại nơi
quần chúng”.
Dưới ngọn cờ độc lập, tự do của Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo,
nhân dân ta đã “thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng”,

sẵn sàng hy sinh, chịu đựng gian khổ, ủng hộ, bảo vệ Đảng. Đây chính là cội
nguồn sức mạnh của Đảng và nguồn sức mạnh ấy đã góp phần làm nên thắng lợi
của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Khi đất nước đã giành được độc lập, giữa muôn vàn khó khăn, thử thách của sự
nghiệp kháng chiến và kiến quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn đội ngũ cán
bộ, đảng viên: “Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này: Dân rất tốt. Lúc họ
đã hiểu thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không
sợ. Nhưng trước hết phải chịu khó tìm đủ cách giải thích cho họ hiểu rằng: những
việc đó là vì lợi ích của họ mà họ phải làm”. Người khẳng định, chỉ có lấy dân làm
gốc, gắn bó với nhân dân, “Đảng mới lắng nghe được ý kiến của nhân dân, những
phê bình đóng góp của nhân dân, thậm chí cả những chê cười oán trách của dân
nữa”. Vì vậy, “Làm việc gì có quần chúng tham gia bàn bạc, khó mấy cũng trở nên
dễ dàng và làm được tốt… Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó trăm lần dân
liệu cũng xong”. Quan điểm này đã được Đảng ta, trong quá trình lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng luôn thấm nhuần và thực hiện.
Trong suốt trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược, hướng về Đảng, về Chủ tịch Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta đã không chỉ huy động và phát huy mọi nguồn
lực của mình, che chở, đùm bọc cán bộ, đảng viên, mà còn không tiếc máu xương
vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Sự góp sức, góp công và cả tính mạng của nhân dân
chính là cội nguồn của mọi thắng lợi của quân và dân ta trên các mặt trận chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội và giáo dục... là minh chứng sinh động trong thực tiễn:
Càng gian nan, thử thách, nguồn sức mạnh nội sinh của Đảng càng được củng cố
và tăng cường.
Hai là, phải hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tất cả vì lợi ích của giai cấp công nhân và dân
tộc, Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân
dân, giải phóng dân tộc. Toàn thể cán bộ, đảng viên đã phấn đấu, hy sinh vì lợi ích
của nhân dân. Đã có biết bao cán bộ, đảng viên anh dũng hy sinh trong lao tù đế
quốc, trên chiến trường chống ngoại xâm để mang lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho

nhân dân. Đảng viên đã trở thành tấm gương sáng để nhân dân noi theo, phấn đấu.
Nhân dân tin vào Đảng, đi theo Đảng, thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng, thừa nhận
Đảng là của chính mình.


Từ nhân dân mà ra, Đảng đã chăm lo phục vụ lợi ích của nhân dân, ngày càng
gắn bó với nhân dân và chính quan hệ mật thiết ấy tạo nên sức mạnh của Đảng và
toàn dân tộc. Mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân là mối quan hệ hai chiều gắn
bó, tương hỗ như một lẽ tự nhiên. Nhân dân cần có Đảng lãnh đạo thì mới có
hướng đi đúng đắn và cách mạng mới giành được thắng lợi. Đảng cần có dân để có
sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn, để có năng lực chèo lái con thuyền cách
mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp,
của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích nào khác... Tất cả đường lối, phương châm,
chính sách... của Đảng đều chỉ nhằm nâng cao đời sống của nhân dân...”. Người
cũng chỉ ra rằng: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ
là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”. Sự thống nhất giữa mục tiêu và lợi ích
của Đảng với mục tiêu, lợi ích, nguyện vọng của nhân dân là cơ sở nền tảng vững
chắc của mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Bằng việc đoàn kết, tập hợp, tổ chức và lãnh đạo toàn dân vượt qua muôn vàn
khó khăn, thách thức, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã từng bước thực hiện
mục tiêu, lý tưởng của mình: giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước; đưa cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội; thực hiện đường lối đổi mới đạt được những thành
tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Những thắng lợi vĩ đại và thành tựu to lớn của cách
mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là CT HCM đã làm cho
quần chúng nhân dân càng thêm tin yêu, gắn bó với Đảng, thừa nhận sự lãnh đạo
của Đảng - lãnh tụ duy nhất, đáng tin cậy của mình, tạo nên nguồn sức mạnh to lớn
đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
Ba là, phải luôn chăm lo xây dựng chính quyền thực sự “của dân, do dân, vì

dân”.
Ngay sau khi ra đời, để thực hiện mục tiêu, lý tưởng đem lại độc lập, tự do cho
Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân, Đảng ta đã đề ra mục tiêu, nhiệm vụ đầu tiên là
phải giành được chính quyền. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành
cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 thành công, đánh đổ chính quyền thực
dân và phong kiến, xây dựng chính quyền của nhân dân. Lần đầu tiên trong lịch sử,
nhân dân ta được làm chủ đất nước. Cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên (6/1/1946) và
việc nhân dân tham gia xây dựng Hiến pháp năm 1946 là biểu hiện tập trung nhất
quyền làm chủ đất nước của nhân dân Việt Nam.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền thì một trong những kênh liên hệ quan trọng
nhất giữa Đảng với nhân dân là thông qua mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân
dân. Vì vậy, Đảng ta luôn coi việc lãnh đạo, xây dựng, tăng cường, kiện toàn Nhà
nước là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và để Nhà nước là cơ quan quyền lực
của nhân dân, phục vụ lợi ích của nhân dân thì tất cả mọi cán bộ, công chức, viên
chức trong bộ máy Nhà nước đều là “đầy tớ, công bộc” của dân…
Quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà dân không
hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”, Đảng đã chăm lo
xây dựng bộ máy nhà nước bảo đảm trong sạch vững mạnh, đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức có đầy đủ phẩm chất và năng lực, toàn tâm, toàn ý phụng sự Tổ
quốc, phục vụ nhân dân; đồng thời, lãnh đạo Nhà nước xây dựng hệ thống pháp


luật, ban hành và thực hiện có hiệu quả các quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính
sách chiến lược nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, bảo đảm quốc phòng, an ninh, góp phần xây
dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, không ngừng nâng cao vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác dân vận của các cấp chính quyền có nhiều
chuyển biến tích cực. Cán bộ, công chức, viên chức ngày càng sâu sát cơ sở, gần
dân, đổi mới tác phong công tác, phục vụ nhân dân. Các cơ quan nhà nước, cán bộ,

công chức, viên chức thường xuyên giữ mối liên hệ chặt chẽ với nhân dân; tôn
trọng, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; đồng thời, thực hiện tốt
công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham
nhũng, vô trách nhiệm, xâm hại tới lợi ích của đất nước, của nhân dân... Nhờ đó,
quan hệ gắn bó giữa Đảng và nhân dân được củng cố tăng cường.
Bốn là, phải không ngừng luôn củng cố và phát huy nguồn sức mạnh nội
lực của quần chúng nhân dân
Là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc,
Đảng chỉ có thể làm tròn sứ mệnh lịch sử “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy
tớ thật trung thành” của mình khi kiên trì nguyên tắc gắn bó mật thiết với nhân
dân, tổ chức và lãnh đạo nhân dân. Sẽ là xa nhân dân, thậm chí mất nhân dân nếu
mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức cơ sở Đảng không nhận thức sâu sắc về vai trò
và tầm quan trọng mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân.
Chủ tịch Hồ chí Minh đã nhiều lần căn dặn: Cán bộ là nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng, làm cán bộ tức là suốt đời làm “công bộc”, “đầy tớ” thật
trung thành của nhân dân. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã tập trung đề cập đến phương pháp, phong cách làm việc của người cán bộ,
mà thực chất là sửa đổi lề lối quan hệ với nhân dân. Người đã đặt nhân dân là đối
tượng trọng tâm của việc sửa đổi lối làm việc. Bác Hồ rất quan tâm đến việc giáo
dục, bồi dưỡng phẩm chất, tác phong của người cán bộ cách mạng, cán bộ dân vận
bởi điều đó có ý nghĩa rất quan trọng đến sự thành bại của cách mạng.
Nắm vững những nguyên tắc và quan điểm vận động cách mạng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tin tưởng sâu sắc vào sức mạnh sáng tạo lịch sử của quần chúng, Hồ
Chí Minh dốc lòng dốc sức vào việc động viên và tổ chức những lực lượng cách
mạng to lớn của nhân dân. Tuyên truyền, giáo dục và tổ chức quần chúng cũng là
nhằm mục đích hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Để thực hiện mục tiêu đó, Đảng và Bác đã chỉ đạo vừa thành lập Mặt trận mang
tính chất một tổ chức quần chúng có hệ thống tổ chức từ Trung ương đến địa
phương, lại vừa tổ chức các hình thức khác đa dạng, phong phú để tập hợp quần
chúng. Người thường xuyên nhấn mạnh nhiệm vụ của những người cách mạng là

phải làm cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ để nâng cao được trách nhiệm làm
chủ, nâng cao được ý thức trách nhiệm chăm lo xây dựng nhà nước của mình.
Hồ Chí Minh khẳng định việc nước là việc chung, mỗi người đều phải có trách
nhiệm "ghé vai gánh vác một phần", quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với
trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi người dân. Trong quá trình tiến hành sự nghiệp
cách mạng, việc huy động sức dân luôn là yếu tố hàng đầu để giành được thắng lợi.


Nhưng cùng với khai thác sức dân, đòi hỏi phải bồi dưỡng sức dân, chăm lo đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ làm công tác vận động quần chúng phải óc
nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm và phải thật thà nhúng tay
vào việc, phải làm việc một cách thật sự, phải cùng lao động, cùng chiến đấu, lăn
vào cuộc sống hàng ngày của quần chúng để thực hiện thắng lợi các mục tiêu của
cả dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu người làm dân vận khéo là phải biết vận
động tất cả nhân dân cùng tham gia các phong trào cách mạng. Quán triệt tư tưởng
của Bác, Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội trong Điều lệ, quy chế, quy
định của mình đều đề ra tiêu chuẩn bắt buộc cán bộ, đảng viên phải vừa là người
lãnh đạo, vừa là “đầy tớ”, “công bộc” của dân; không ngừng rèn luyện phẩm chất,
đạo đức, lối sống, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, đồng thời chịu sự
giám sát của nhân dân.
* Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc tuyên truyền, vận động
quần chúng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay:
Thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tuyên
truyền, vận động quần chúng, về phát huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng
nhân dân trong quá trình tiến hành cách mạng. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng ta luôn phát huy trí tuệ và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, gắn bó máu
thịt với nhân dân để xây dựng, phát triển đất nước. Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ XI đã khẳng định: “Thật sự phát huy dân chủ, giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ
cương, đoàn kết thống nhất, gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy

quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng”. Theo đó, một
mặt, Đảng phải thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, coi đây
là một chủ trương mang tầm chiến lược của Đảng. Mặt khác, Đảng phải luôn chăm
lo đầy đủ đến lợi ích, đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân; thực hiện an
sinh xã hội, công bằng xã hội và đi liền cùng đó phải kịp thời chống các tệ nạn
quan liêu, tham nhũng, làm giàu bất chính, xâm phạm lợi ích của nhân dân; đồng
thời, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải không ngừng rèn luyện và “nâng cao đạo đức
cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, học tập và làm theo tấm gương cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, giản dị của Bác Hồ.
Những năm qua, thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Đảng ta
đã ban hành Quy định những điều đảng viên không được làm, Quy định về đảng
viên công tác ở các cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp phải thường xuyên
giữ mối liên hệ với chi ủy, đảng ủy cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công
dân nơi cư trú. Bên cạnh đó, Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh” và các phong trào thi đua yêu nước đã tạo ra những chuyển biến
tích cực trong xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, rèn luyện bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách gần dân, đồng thời tăng cường
hiệu quả công tác giám sát của quần chúng nhân dân đối với cán bộ, công chức,
đảng viên. Nhờ vậy, mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân không ngừng
được giữ vững và tăng cường, góp phần củng cố niềm tin, yêu của nhân dân với
Đảng.
Những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và công
cuộc đổi mới, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc là sự hiện thực hóa những chủ trương,


đường lối và sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của Đảng ta. Đảng đã khơi dậy và phát
huy trí tuệ và sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, gắn bó máu thịt với nhân
dân tạo nên cội nguồn sức mạnh to lớn đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn, thách
thức. 85 năm qua, nhưng bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng trong xây
dựng, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc vẫn còn mang tính lý luận và thực

tiễn sâu sắc. Bài học đó, đã và đang được Đảng ta vận dụng sáng tạo trong công
cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Trong giai đoạn mới, để Đảng
ta mãi trường tồn cùng dân tộc, “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần
đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng
ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân”.
Câu 3: Những tư tưởng chủ yếu về giai cấp vô sản trong tác phẩm “Gia
đình thần thánh” của Mác- Ăngghen?
Tác phẩm GIA ĐÌNH THẦN THÁNH hay là PHÊ PHÁN SỰ PHÊ PHÁN
CÓ TÍNH PHÊ PHÁN là tác phẩm đầu tiên do K. Marx và F. Engels cộng tác viết
ra vào khoảng tháng 9 đến tháng 11/1844 và xuất bản vào tháng 2/1845 ở
Frankfurt. (Lúc đầu, Tên đầy đủ của tác phẩm này là "Gia đình thần thánh hay phê
phán sự phê phán có tính phê phán. Chống Bruno Bauer và đồng bọn")
"Gia đình thần thánh" là tên gọi hài hước đặt cho anh em Bauer và bọn theo
đuôi họ tụ tập quanh tờ “Báo văn học phổ thông". Bauer và nhóm của y đã vứt bỏ
"xu hướng cấp tiến năm 1842", rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan tầm thường và
thối nát, cổ động cho thứ "lý luận" chủ trương rằng: chỉ có những cá nhân kiệt xuất
tức kẻ thể hiện "tinh thần", "sự phê phán thuần tuý" mới là người sáng tạo ra lịch
sử, động lực của tiến bộ xã hội là ở hoạt động tinh thần của những nhà phê phán
xuất sắc, còn quần chúng, nhân dân dường như chỉ là nhân dân chỉ là những kẻ mu
muội, một chất liệu thiếu sức sống, là vật trở ngại trong quá trình lịch sử.
Chính bởi thế, Marx và Engels đã viết ra tác phẩm này nhằm bóc trần tư
tưởng phản động có hại đó, bác bỏ anh em Bauer và những người khác thuộc phái
Hegel trẻ (hoặc phái Hegel tả); bảo vệ quan điểm duy nhất mới và cộng sản chủ
nghĩa của mình đồng thời cũng phê phán cả triết học duy tâm của chính Hegel.
Qua tác phẩm "Gia đình thần thánh", hai ông đã đề ra những tư tưởng cơ bản
của chủ nghĩa duy vật lịch sử, như: vai trò quyết định của sản xuất vật chất đối với
tiến trình phát triển của xã hội loài người, vai trò sáng tạo ra lịch sử của quần
chúng nhân dân lao động, khẳng định vai trò, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai



cấp vô sản và chỉ ra rằng, chính địa vị của giai cấp vô sản trong xã hội tư sản hiện
đại đã quy định vai trò, sứ mệnh đó.
Trước tiên cần hiểu thế nào là giai cấp vô sản, theo Ph.Ăngghen định
nghĩa :"Giai cấp vô sản là 1 giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng việc bán
lao động của mình, chứ không phải sống bằng lợi nhuận của bất cứ tư bản nào, đó
là 1 giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ, sống và chết toàn bộ sự sống còn của họ
đều phụ thuộc vào số cầu về lao động, tức là vào tình hình chuyển biến tốt hay xấu
của công việc làm ăn, vào những biến động của cuộc cạnh tranh không gì ngăn cản
nổi".
Những tư tưởng chủ yếu về giai cấp vô sản trong tác phẩm được thể hiện:
Thứ nhất, vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản với tư cách là lực
lượng lao động chủ yếu và dẫn đầu cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trong tương
lai.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận giải và chỉ rõ, trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản
đã hình thành và phát triển, trong quần chúng nhân dân, thì lực lượng hùng mạnh,
tiến bộ và quan trọng nhất là giai cấp vô sản. Đồng thời, hai Ông chứng minh luận
điểm nổi tiếng của mình, là giai cấp vô sản có sứ mệnh lịch sử toàn thế giới, đó là
người lật đổ chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội tiến bộ, không có người bị áp bức,
bóc lột và kẻ áp bức, bóc lột, đưa lịch sử nhân loại phát triển đến đỉnh cao nhất.
Đây là đóng góp rất to lớn và đặc biệt quan trọng của C.Mác và Ph.Ăngghen cho
nhân loại.
C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định, giai cấp vô sản có sứ mệnh lịch sử toàn
thế giới, đó là lực lượng chủ yếu tác động vào thực tiễn và dẫn đầu các cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa trong tương lai.
C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Trái lại, với tư cách là giai cấp vô sản, giai cấp
vô sản buộc phải thủ tiêu bản thân mình, do đó tiêu diệt cả cái mặt đối lập của nó tức là chế độ tư hữu - đang chi phối nó và làm cho nó thành giai cấp vô sản. Đấy là
mặt phủ định của sự đối lập, là sự không yên ổn bên trong bản thân sự đối lập, là
chế độ tư hữu bị tiêu diệt và đang tự tiêu diệt.



Như vậy, trong phạm vi toàn bộ sự đối lập, người tư hữu là mặt bảo thủ,
người vô sản là mặt phá hoại. Từ người thứ nhất nảy sinh ra hành động nhằm duy
trì sự đối lập, từ người thứ hai, nảy sinh ra hành động nhằm xoá bỏ sự đối lập”.
Sứ mệnh, vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản được C.Mác và
Ph.Ăngghen chứng minh khá đầy đủ ở các khía cạnh, chi tiết, phương diện rất sâu
sắc, thuyết phục:
- Vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản do những điều kiện kinh tế xã hội quy định, họ là lực lượng đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
- Giai cấp vô sản có sứ mệnh, nhiệm vụ thủ tiêu chế độ tư hữu, đây là điều tất
yếu; giai cấp vô sản đã ý thức về nhiệm vụ đó. Bởi vì, sống trong xã hội tư bản
trong giai cấp vô sản, con ngừời đã bị tước mất bởi chế độ tư hữu bởi giai cấp tư
sản và các thế lực phản động. Họ trở thành phi nhân tính.
- Giai cấp vô sản đứng lên tự giải phóng mình, đồng thời giải phóng toàn thể
nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột, giải phóng toàn thể nhân loại. Đây là quan
điểm về lực lượng đồng minh chặt chẽ, lâu dài, hùng mạnh của giai cấp vô sản
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa được C.Mxsc và Ph.Ăngghen đưa ra.
- Giai cấp vô sản đứng lên tự giải phóng mình và giải phóng nhân loại phải
tập trung vào tiêu diệt mọi điều kiện sinh hoạt phi nhân tính. Bởi vì, những điều
kiện sinh hoạt này, là nguyên nhân chủ yếu nhất, làm cho giai cấp vô sản và những
người lao động trong xã hội tư bản trở thành phi nhân tính.
- Giai cấp vô sản dần dần đoàn kết lại, ngày càng rộng rãi tạo nên sức mạnh to
lớn thực hiện thắng lợi chống áp bức bóc lột.
Thứ hai, quá trình đấu tranh của giai cấp vô sản phát triển dần từ tự phát
đến tự giác
C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ, do bị áp bức, bóc lột nặng nề, giai cấp vô sản
bắt đầu liên kết, thống nhất với nhau để chống lại giai cấp tư sản và chế độ hiện
tồn. Sự liên kết ấy, dần dần phát triển rộng lớn, sức mạnh của sự liên kết giai cấp
vô sản ngày càng lớn, việc đấu tranh của họ chống giai cấp tư sản ngày càng phát
triển và có hiệu quả.



C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Giai cấp vô sản đang thi hành bản án mà chế độ
tư hữu, trong khi đẻ ra giai cấp vô sản, đã làm ra cho mình, cũng giống như nó
đang thi hành bản án mà lao động làm thuê, trong khi sản xuất ra sự giàu có cho
kẻ khác và sự khốn cùng cho bản thân, đã làm ra cho mình. Sau khi thắng lợi, giai
cấp vô sản dù sao cũng không thể nào trở thành mặt tuyệt đối của xã hội, vì rằng
chỉ có sự tiêu diệt và tiêu diệt mặt đối lập của mình thì nó mới giành được thắng
lợi. Với thắng lợi của giai cấp vô sản, bản thân giai cấp vô sản và mặt đối lập chi
phối nó là chế độ tư hữu, đều tiêu von”.
C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Nếu như tính cách con người là do hoàn cảnh
tạo nên thì do đó phải làm cho hoàn cảnh hợp với tính người”.
Thứ ba, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, lợi ích của giai cấp vô sản thống
nhất với lợi ích của quảng đại quần chúng
C.Mác và Ph.Ăngghen phân tích và khẳng định, đối với giai cấp vô sản, lần
đầu tiên trong lịch sử nhân loại, đây là giai cấp tiên tiến nhất, lợi ích của họ hòa
làm một với lợi ích của quảng đại quần chúng. Theo nghĩa này, nó mạng tính chất
lợi ích của con người nói chung.
C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Nếu như tính cách con người là do hoàn cảnh
tạo nên thì do đó phải làm cho hoàn cảnh hợp với tính người”.
Thứ tư, giai cấp vô sản không chỉ sáng tạo ra của cải vật chất mà còn sáng
tạo ra của cải tinh thần. C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ giai cấp vô sản, lực lượng to
lớn làm việc trong các công xưởng, nhà máy lớn của tư sản và trong các lĩnh vực
khác, họ làm ra khối lượng đồ sộ của cải vật chất và những sản phẩm tinh thần cho
xã hội.
Đối với xây dựng thế giới quan vô sản và chuẩn bị về tư tưởng chính trị cho
sự ra đời của Đảng Cộng sản. Tác phẩm này, đã góp phần quan trọng vào việc xây
dựng, phát triển thế giới quan vô sản của C.Mác và Ph.Ăngghen và trang bị thế
giới quan này, cho giai cấp vô sản trong cuộc dấu tranh chống giai cấp tư sản.
Đồng thời, tác phẩm còn chuẩn bị về tư tưởng chính trị cho sự ra đời của Đảng
Cộng sản đầu tiên trên thế giới - Liên Đoàn những người cộng sản.



Đối với thời đại ngày nay và với Đảng ta. Tác phẩm cung cấp cho những
người cộng sản và những người tiến bộ trên thế giới phương pháp đấu tranh chống
lại những tư tưởng quan điểm phản động, phi mácxít. Tác phẩm vẫn còn nguyên
giá trị và có ý nghĩa lớn đối với Đảng ta trong chống lại những luận điểm, tư tưởng
của các thế lực thù địch của chiến lược "diễn biến hòa bình". Đồng thời, cung cấp
những chỉ dẫn về xây dựng Đảng ta về tư tưởng chính trị, củng cố, phát triển thế
giới quan vô sản trong thời đại ngày nay.

Câu 4. Phân tích khái niệm dân vận, nội dung, phương pháp công tác dân
vận và nghệ thuật công tác dân vận trong tác phẩm “Dân vận” của Chủ tịch
Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó có tư tưởng về dân vận một bộ phận hết sức quan trọng trong toàn bộ di sản vô giá mà Người để lại cho
Đảng và nhân dân các dân tộc ở nước ta. Có thể nói, tư tưởng dân vận của Hồ Chí
Minh không những chứa đựng tinh thần trọng dân, thương dân, hết lòng chăm lo
lợi ích của nhân dân, nhận rõ sức mạnh của nhân dân, mà còn chỉ ra nội dung và
phương thức vận động, tập hợp nhân dân.
Tư tưởng đó được thể hiện rất rõ trong tác phẩm “Dân vận”, Dân vận là bài báo
được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết vào ngày 15-10-1949 dưới bút danh X.Y.Z đăng trên
Báo Sự thật, số 120, ngày 15-10-1949. Đây là thời điểm có những chuyển biến mới,
đòi hỏi công tác vận quần chúng của Đảng phải đi vào chiều sâu, cụ thể, thiết thực
nhằm động viên tối đa sức người, sức của cho kháng chiến.
Về khái niệm “Dân vận”: "Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một
người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực
hành những công việc Chính phủ và Đoàn thể giao cho".
Từ khái niệm trên, ta thấy:



- Chủ thể tiến hành CTDV: Hồ Chí Minh chỉ rõ ai (lực lượng) làm công tác dân
vận là: “tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ
chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh,v.v.) đều phải phụ trách dân vận”.Như vậy, lực
lượng làm công tác dân vận không chỉ là những người chuyên trách công tác này, mà
rất đông đảo, với nhiều tổ chức, cá nhân cùng tham gia. Đó chính là sức mạnh nói
chung, trên các phong trào cách mạng nói chung, trên các mặt trận và lĩnh vực cụ thể
nói riêng, trong đó có lĩnh vực dân vận.
Lực lượng làm công tác dân vận là lực lượng của cả hệ thống chính trị - trước hết
là của chính quyền. Điều ấy có nghĩa là, tất cả cán bộ chính quyền đều phải làm dân
vận. Đây là đặc điểm nổi bật của công tác dân vận khi Đảng ta có chính quyền. Chính
quyền của ta là công cụ chủ yếu của nhân dân. Chính quyền không những chỉ phải
làm dân vận mà còn có nhiều điều kiện làm công tác dân vận thuận lợi hơn.
- Đối tượng CTDV là nhân dân (con người), “không để sót một người dân
nào”.
- Mục đích công tác dân vận là tập hợp, thu hút mọi tầng lớp nhân dân tham gia
cách mạng, thực hiện đại đoàn kết toàn dân. Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách
mạng là vấn đề đoàn kết, tập hợp được đông đảo nhân dân. Đảng dù vĩ đại đến
mấy cũng chỉ là một bộ phận của nhân dân. Người nếu lên một luận đề như một
chân lý: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì
việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”.
Về nội dung công tác dân vận:
Đoàn kết, “vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân” để “thực hành
những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho là
nội dung cơ bản của công tác dân vận.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: Cách mạng thì phải đoàn kết dân chúng bị áp
bức để đánh đổ cả cái giai cấp áp bức mình, chứ không phải chỉ nhờ 5, 7 người giết
2,3 anh vua, 9, 10 anh quan là được. Người kêu gọi:
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công.



Tư tưởng đoàn kết của chủ tịch Hồ Chí minh rất triệt để, được thể hiện rất rõ
ràng: Đoàn kết góp thành lực lượng. Đoàn kết trong tổ chức, trong phong trào cách
mạng của quần chúng, ngay cả khi thực hiện một khẩu hiệu cách mạng.
Về phương thức tiến hành công tác dân vận:
Phải tiến hành, trước hết từ cơ sở, nắm chắc và vận động nhân dân từ cơ sở.
“Dân vận không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền
đơn, chỉ thị mà đủ”, mà phải:
Phải cho dân biết: Quyền làm chủ của nhân dân, đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước, thông tin thời sự, chính sách, cán bộ lãnh đạo, quản lý mình.
Giải thích cho dân hiểu: "Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một
người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái
làm cho kỳ được".
Bày cách cho dân làm: "phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân,
cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ
chức toàn dân ra thi hành". Và "Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc,
khuyến khích dân".
Tiến hành kiểm tra, kiểm soát: "Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo
lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng".
Quán triệt phương thức nêu trên của Người, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
của Đảng đã đút thành phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Về nghệ thuật (phong cách) công tác dân vận:
Hồ Chí Minh đưa ra những yêu cầu rất cụ thể với cán cán bộ dân vận. Người đúc
kết thành 12 từ: Đó là “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”.
- Óc nghĩ: Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao trí tuệ và yêu cầu về sự “động não” của
người làm công tác dân vận.
Người muốn khẳng định, công tác dân vận không chỉ là những thao tác cụ thể,
những công thức có sẵn mà bản thân nó là một khoa học - khoa học về con
người, một nghệ thuật - nghệ thuật tiếp cận và vận động con người, phải dày công



tìm tòi suy nghĩ để phân tích chính xác tình hình nhân dân, vận dụng sáng tạo lý luận
vào thực tiễn sinh động để vận động nhân dân có hiệu quả.
- Mắt trông: Là quan sát mọi sự việc, hiện tượng từ thực tiễn phong trào cách
mạng của quần chúng, để “trăm nghe không bằng một thấy”. Với sự nhạy cảm, tinh tế
trong quan sát, kết hợp với “óc nghĩ” xác định được đúng, sai, nhận rõ bản chất và
hiện tựợng của từng sự việc, từng vấn đề để làm đúng, tham mưu kịp thời cho Đảng
và Nhà nước để có cách giải pháp đúng đắn kịp thời đưa phong trào của quần chúng
đi đúng hướng. Ở điểm này, Hồ Chí Minh muốn nhắc nhở cán bộ, đảng viên làm
công tác dân vận phải thường xuyên sâu sát cơ sở. Vì chỉ có sát cơ sở mới có thể
“thấy” mọi sự việc, vấn đề. Theo đó, muốn vận động quần chúng một cách thiết thực,
muốn làm tốt vai trò tham mưu phải “mục sở thị” được các sự việc và vấn đề liên
quan đến công tác dân vận.
- Tai nghe: là một phương pháp khoa học của công tác dân vận, theo Hồ Chí
Minh cũng với “óc nghĩ”, “mắt trông”, người làm công tác dân vận còn phải đồng
thời nắm bắt kịp thời các thông tin từ quần chúng. Đòi hỏi phải biết nghe dân nói, từ
đó mà hiểu được những tâm tư, nguyện vọng chính đáng của dân; loại trừ những
thông tin thiếu chân thực, chính xác. Nghe dân nói, cũng là để biết dân đã hiểu gì,
hiểu đến mức như thế nào, đã làm như thế nào và làm được đến đâu. Về bản thân,
mình cũng thấy được những gì cần phải bổ sung, điều chỉnh khi thực hiện công tác
dân vận.
- Chân đi: là yêu cầu gắn với cơ sở, một đòi hỏi bức thiết, luôn đặt ra đối với cán
bộ dân vận, đây cũng là một yếu tố chống căn bệnh quan liêu, hành chính, làm việc
theo kiểu giấy tờ của các cơ quan. Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực luôn luôn
hướng về cơ sở và gắn bó với cơ sở. Sinh thời, dù bận trăm công, nghìn việc nhưng
chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn dành thời gian đi cơ sở để khảo sát tình hình thực tế,
lắng nghe ý kiến của dân và trực tiếp tháo gỡ những khó khăn nẩy sinh trong dân.
Xuống với dân như về gia đình mình, người tuyệt đối không muốn “cờ rong, trống
mở” xe đưa xe đón.Nhiều lần người đến thăm cơ sở nhưng không báo trước. người
hết sức nghiêm khắc với bệnh tô vẽ, thổi phồng thành tích dẫn tới lừa dân, hại dân,

dối trên, lừa dưới của một số cán bộ mắc bệnh thành tích.


- Miệng nói: Là thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, nhất là tuyên tuyền
miệng, một hình thức tuyên truyền không thể thiếu của người làm CTDV. Người cán
bộ dân vận phải thường xuyên có trách nhiệm tuyên truyền, cổ động nhân dân thực
hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, pháp luật, văn hóa, xã hội và an ninh quốc
phòng... Theo Người, để dân hiểu, dân tin, dân ủng hộ và làm theo thì công tác tuyên
truyền miệng phải đúng và phải khéo. Nói với với dân phải đơn giản, rõ ràng, thiết
thực và cụ thể, tránh mệnh lệnh, hơn thế, còn phải có thái độ mềm mỏng; đối với
người già, các bậc lão thành phải cung kính, lễ độ, với đồng chí, đồng bào phải đúng
mực, nghiêm trang, với nhi đồng phải thương yêu, quý mến.
- Tay làm: là thể hiện quan niệm học đi đôi với hành, là gương mẫu, làm gương
trước cho quần chúng. Nếu nói là để dân nghe, thì làm là để dân thấy, dân tin, dân học
làm theo. Lời nói đi đôi với hành động là một yêu cầu, một phương pháp hết sức quan
trọng đối với cán bộ nói chung, cán bộ làm công tác dân vận nói riêng. Sinh thời, Hồ
Chí Minh đặc biệt quan tâm đến hai mặt của một vấn đề này. Người từng có hàng loạt
bài viết, bài nói phê phán những cán bộ, đảng viên “nói không đi đôi với làm”, “nói
hay mà làm dở” hoặc “đánh trống bỏ dùi”. Người chỉ rõ “cán bộ, đảng viên phải
gương mẫu, phải thiết thực, miệng nói, tay làm để làm gương cho nhân dân. Nói hay
mà không làm thì nói vô ích”.
Như vậy: “Mắt trông, tai nghe, chân đi” là yêu cầu sát cơ sở, sát thực tế, đến với
nhân dân để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân mà giúp dân giải quyết các
công việc cụ thể, đề xuất chính sách hoặc điều chỉnh chính sách cho phù hợp, vận
động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách.
“Miệng nói, tay làm” là phong cách quan trọng nhất hiện nay, “phải thật thà
nhúng tay vào việc”, không được nói một đằng, làm một nẻo, miệng thì vận động
người khác nhưng mình thì không làm hoặc làm ngược lại. Bác cũng nghiêm khắc
phê phán “bệnh nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh”.Đây cũng thể hiện sự nhất quán
trong tư tưởng và hành động thường ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh.

"Óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm" là có sự thống nhất,
hòa quyện chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau. Đó có thể coi cẩm nang về phương


pháp dân vận cho tất cả cán bộ, đảng viên trong công tác dân vận. Là nghệ thuật để
cán bộ, đảng viên thực hiện “Dân vận khéo”.
Bài báo “Dân vận” của Hồ Chí Minh có thể coi là “cương lĩnh dân vận” của
Đảng cộng sản Việt Nam có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, cần thiết trong mọi
giai đoạn cách mạng. Thể hiện rất rõ tư tưởng trọng dân và tin dân, phong cách quần
chúng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Là cở sở lý luận để Đảng, Nhà nước ta đề ra các
chủ trương, chính sách về công tác Dân vận.



×