Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Quyền được bảo vệ của trẻ em ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 115 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ HƢỜNG

QUYÒN §¦îC B¶O VÖ CñA TRÎ EM
ë VIÖT NAM HIÖN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ HƢỜNG

QUYÒN §¦îC B¶O VÖ CñA TRÎ EM
ë VIÖT NAM HIÖN NAY
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp - Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS CHU HỒNG THANH

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ
và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem
xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

PHẠM THỊ HƢỜNG


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN ĐƢỢC BẢO VỆ CỦA TRẺ
EM.................................................................................................................8
1.1.

Khái niệm quyền đƣợc bảo vệ của trẻ em .................................................8

1.1.1.

Khái niệm trẻ em ...........................................................................................8


1.1.2.

Khái niệm quyền con người của trẻ em ......................................................10

1.1.3.

Định nghĩa, nội dung, hình thức, cấp độ và ý nghĩa của quyền được
bảo vệ của trẻ em .........................................................................................14

1.2.

Pháp luật quốc tế về quyền đƣợc bảo vệ của trẻ em ..............................17

1.3.

Khái quát chính sách, pháp luật về Quyền đƣợc bảo vệ của trẻ
em ở Việt Nam ...........................................................................................28

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ QUYỀN ĐƢỢC BẢO VỆ CỦA TRẺ EM Ở VIỆT
NAM ...........................................................................................................35
2.1.

Thực trạng pháp luật về quyền đƣợc bảo vệ của trẻ em ở Việt Nam .......35

2.1.1.

Quyền được bảo vệ của trẻ em trong hệ thống pháp luật Việt Nam ................35

2.1.2.


Những hạn chế chủ yếu của pháp luật về quyền được bảo vệ của trẻ em ...........55

2.2.

Thực trạng thực hiện pháp luật về quyền đƣợc bảo vệ của trẻ em
ở Việt Nam .................................................................................................57

2.2.1.

Khái quát những thành tựu chủ yếu về quyền được bảo vệ của trẻ em
ở nước ta ......................................................................................................57

2.2.2.

Những hạn chế trong thực hiện pháp luật về quyền được bảo vệ của
trẻ em ở Việt Nam .......................................................................................63


2.2.3.

Những nguyên nhân dẫn tới tình trạng vi phạm quyền được bảo vệ
của trẻ em ....................................................................................................71

Chƣơng 3: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
QUYỀN ĐƢỢC BẢO VỆ CỦA TRẺ EM Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY ............................................................................................................78
3.1.


Một số quan điểm về quyền đƣợc bảo vệ của trẻ em ở Việt Nam.........78

3.2.

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền đƣợc bảo
vệ của trẻ em ở Việt Nam..........................................................................78

3.2.1.

Sửa đổi và cụ thể hóa Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ...............78

3.2.2.

Sửa đổi Pháp luật Hình sự ...........................................................................86

3.2.3.

Xây dựng cơ quan quốc gia bảo vệ quyền trẻ em .......................................88

3.3.

Giải pháp nâng cao chất lƣợng thực hiện pháp luật bảo vệ trẻ em ......92

3.3.1.

Nâng cao nhận thức .....................................................................................92

3.3.2.

Thực hiện tốt vấn đề truyền thông trong bảo vệ quyền của trẻ em .............95


3.3.3.

Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện và áp dụng
pháp luật về quyền trẻ em, xử lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật
xâm phạm đến quyền trẻ em .......................................................................96

3.3.4.

Kết hợp sử dụng các công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội khác để hỗ
trợ cho thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em ...................................97

3.3.5.

Phát triển hệ thống Quỹ Bảo trợ trẻ em và đầu tư cơ sở vật chất thỏa
đáng cho công tác thực hiện và áp dụng pháp luật về bảo vệ quyền trẻ
em ................................................................................................................98

3.3.6.

Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, trách nhiệm của Nhà nước trong
việc thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật bảo vệ quyền trẻ em ........99

KẾT LUẬN ............................................................................................................103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................106


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS:


Bộ luật dân sự

BLHS:

Bộ luật hình sự

BLLĐ:

Bộ luật lao động

BVCS&GDTE:

Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em

CHXHCN:

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

DSGĐ&TE

Dân số gia đình và trẻ em

HNGĐ:

Hôn nhân và gia đình

LĐTB&XH:

Lao động thương binh và xã hội


MTTQ:

Mặt trận tổ quốc

NCTN:

Người chưa thành niên

TAND:

Tòa án nhân dân

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

TP.HCM:

Thành phố Hồ Chí Minh

UBBV&CSTE

Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”, “hãy dành tất cả những gì tốt đẹp nhất
cho trẻ em mà mình có” đã và đang là khẩu hiệu hành động của các quốc gia bởi
hiện nay, vấn đề quyền trẻ em đang là mối quan tâm lớn không chỉ của từng quốc

gia mà là của toàn nhân loại. Tương lai của mỗi quốc gia, dân tộc phụ thuộc nhiều
vào việc bảo vệ trẻ em. Tuy nhiên, ở nhiều nơi trên thế giới, tình trạng trẻ em phải
tự lao động kiếm sống, bị lừa gạt, bạo lực, bóc lột sức lao động và sa vào các tệ nạn
xã hội đang có chiều hướng gia tăng. Bởi vậy, hơn lúc nào hết, vấn đề quyền được
bảo vệ của trẻ em được đặt ra như một nhu cầu bức bách cần được giải quyết, nhằm
giành lại cho trẻ em các quyền được sống, quyền được học hành, vui chơi, được
chăm sóc, bảo vệ.
Trẻ em có vai trò quan trọng đối với mỗi gia đình và xã hội. Bảo vệ trẻ em là
một trong những yêu cầu đặt ra đối với mỗi quốc gia, dân tộc. Vì vậy, ngay từ thời
xa xưa, các Nhà nước phong kiến Việt Nam đã đề ra những quy định bằng pháp luật
để bảo vệ trẻ em, nhân dân cũng tự hình thành các quan hệ đạo đức, ý thức xã hội
và những phong tục tập quán tiến bộ… nhằm bảo vệ trẻ em- thế hệ tương lai của gia
đình, của đất nước. Kể từ khi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời,
việc bảo vệ trẻ em càng được coi trọng hơn nữa, trở thành vấn đề có tính chiến lược,
là mục tiêu quan trọng, nhất quán trong đường lối cách mạng Việt Nam.
Đường lối, chính sách bảo vệ trẻ em của Đảng được thể chế bằng pháp luật
của Nhà nước. Bởi vậy, trong thời gian qua, Nhà nước ta đã tích cực xây dựng và
từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm đảm bảo tính đồng bộ,
thống nhất, kịp thời điều chỉnh mọi quan hệ xã hội phát sinh, trong đó có pháp luật
về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Quán triệt quan điểm Phát triển con người,
coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển mà trẻ em là tương
lai của đất nước. Chính sách này được thể hiện bằng các Nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật trực tiếp hoặc gián tiếp… Đó là cơ

1


sở pháp lý vững chắc cho việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, tạo cơ hội cho trẻ
em phát triển toàn diện, xứng đáng là chủ nhân tương lai của đất nước.
Để thực hiện tốt nhất công tác bảo vệ trẻ em, các cấp, các ngành, các tổ chức

đoàn thể và mỗi cá nhân cần quán triệt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của nhà nước, nhận thức đầy đủ, đúng đắn về trẻ em, vị trí vai trò và quyền của trẻ
em được quy định bằng pháp luật. Từ đó có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng
của công tác bảo vệ chăm sóc trẻ em; ý thức sâu sắc nghĩa vụ, trách nhiệm của mình
để đề xuất những giải pháp, việc làm cụ thể trong thực hiện pháp luật về bảo vệ
quyền trẻ em.
Pháp luật Việt Nam đang ngày càng hoàn thiện để bảo đảm tốt nhất quyền
được bảo vệ cho trẻ em ở Việt Nam. Bởi vậy, trẻ em Việt Nam đã, đang và sẽ được
hưởng những cơ hội tốt đẹp hơn so với trước đây. Mức sống của nhiều gia đình
được cải thiện, các bậc cha mẹ có sự lựa chọn dễ dàng hơn trong việc tổ chức cuộc
sống và điều này có ảnh hưởng tích cực tới lợi ích của trẻ em. Nhận thức toàn dân
về quyền được bảo vệ của trẻ em cũng không ngừng được cải thiện. Mặc dù vậy,
vẫn còn một khảng cách khá lớn giữa nhận thức về Quyền của trẻ em, hay hẹp hơn
là quyền được bảo vệ của trẻ em với các hành động cụ thể. Có thể thấy rằng, sau
hơn 20 năm thực hiện các chương trình hành động quốc gia vì trẻ em, bên cạnh rất
nhiều thành tựu đáng ghi nhận thì những hạn chế, yếu kém của công tác bảo vệ trẻ
em cũng bộc lộ.
Vấn đề bạo lực, bóc lột sức lao động, xâm hại trẻ em những năm gần đây
diễn biến rất phức tạp, gây bức xúc trong xã hội. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến
tình trạng này. Quyền được bảo vệ của trẻ em trở thành một đề tài rất rộng và luôn
mang tính thời sự, luôn dành được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều ngành khoa
học như xã hội học, chính trị học, luật học, kinh tế học… Trong thời gian vừa qua,
đã có không ít các công trình nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài về thực hiện
pháp luật nói chung, hoặc về trẻ em và các quyền của trẻ em nói riêng. Tuy vậy, các
công trình này có một số hạn chế như chưa cập nhật đầy đủ những quy định đã được
sửa đổi bổ sung hoặc những văn bản pháp luật mới được ban hành liên quan đến quyền

2



được bảo vệ của trẻ em trong thời gian hiện nay. Đồng thời, hệ thống số liệu trong các
công trình này về công tác bảo vệ trẻ em cũng chỉ dừng ở khoảng thời gian đến các
năm 2007, 2008 và đến 2010.
Như vậy, cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào trực tiếp nghiên
cứu tiếp cận đến vấn đề quyền được bảo vệ của trẻ em Việt Nam dưới góc độ khoa
học lý luận nhà nước và pháp luật và thực tiễn trong thời gian từ 2010 đến nay.
Đó chính là lý do tác giả lựa chọn đề tài: “ Quyền được bảo vệ của trẻ em ở
Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học luật của mình. Việc nghiên cứu
đề tài vừa có ý nghĩa về mặt lý luận, vừa có giá trị thực tiễn trong giai đoạn Việt
Nam đang hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo tối đa quyền con người trong đó có
quyền của trẻ em. Tác giả hi vọng sẽ đóng góp một phần nhất định vào việc nâng
cao nhận thức về quyền được bảo vệ của trẻ em và nâng cao chất lượng pháp luật và
thực hiện pháp luật, bảo đảm quyền được bảo vệ của trẻ em ở nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trẻ em là nhóm xã hội đặc biệt, luôn chiếm được sự quan tâm rất lớn của
toàn nhân loại, trong đó có Việt Nam. Do đó có rất nhiều đề tài khoa học
nghiên cứu về các vấn đề của trẻ em nói chung và về quyền được bảo vệ của
trẻ em nói riêng. Cụ thể gồm một số các đề tài của các tác giả như: Đỗ Thị
Oanh “Thực hiện pháp luật về quyền được bảo vệ của trẻ em ở Việt Nam hiện
nay”, Luận văn thạc sỹ luật học, năm 2014; Lê Thị Phương Nga „„Pháp luật
bảo vệ quyền trẻ em ở Việt Nam hiện nay‟‟, Luận văn thạc sỹ luật học, năm
2008; “ Thực hiện và áp dụng pháp luật” của tác giả Phạm Hữu Nghị năm 2007;
“Một số vấn đề cần chú ý khi truy cứu trách nhiệm hình sự người có hành vi phạm
tội đối với người chưa thành niên” của tác giả Đỗ Thị Ngọc Tuyết, Tạp chí kiểm
sát, số 6 năm 2007; “Bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh quốc tế và các quyền
con người bằng pháp luật hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp
quyền” của tác giả Lê Cảm (chủ biên), Hà Nội, 2007; “Tài liệu tập huấn tư pháp
người chưa thành niên” của tác giả Đỗ Thị Ngọc Tuyết năm 2008; “ Quyền trẻ
em”, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh- Trung tâm nghiên cứu quyền con


3


người, Hà Nội, 2000; “Phòng ngừa người chưa thành niên làm trái pháp luật- Vấn
đề xã hộicần quan tâm”, Radda Banen- Trường Đại học Cảnh sát nhân dân, Hà
Nội, 2000; “Phòng chống buôn bán và mại dâm trẻ em”, Vũ Ngọc Bình, Hà Nội,
2002; “ Đào tạo Kiểm sát viên làm việc với người chưa thành niên phạm tội”,
Trường Cao đẳng Kiểm sát Hà Nội, Sách chuyên khảo, Hà Nội, 2002;
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu khoa học của các tập thể, cá nhân
cũng như các bài viết của các tác giả từ trước đến nay về thực hiện pháp luật nói
chung và về quyền hoặc bảo vệ quyền trẻ em nói riêng đã có nhiều đóng góp
quan trọng vào nghiên cứu lý luận và thực tiễn ở các khía cạnh khác nhau. Tuy
nhiên, có thể nói rằng, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách
đầy đủ cả những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan trực tiếp đến “Quyền được
bảo vệ của trẻ em Việt Nam”. Bởi vậy, đây là đề tài nghiên cứu đầu tiên, dựa trên
cơ sở thực trạng quy định của pháp luật về quyền trẻ em và thực trạng các hoạt
động cũng như những kết quả đạt được và những hạn chế trong việc thực hiện
pháp luật về quyền được bảo vệ của trẻ em Việt Nam hiện nay và đưa ra những
kiến nghị, giải pháp góp phần nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật để bảo vệ
quyền trẻ em ngày một tốt hơn trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
và hội nhập quốc tế hiện nay.
3. Nhiệm vụ và ý nghĩa của luận văn
Trên cơ sở phân tích quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về
quyền được bảo vệ của trẻ em và quyền được bảo vệ của trẻ em ở Việt Nam, luận văn
đánh giá chính xác, khách quan về thực hiện pháp luật và thực trạng pháp luật Việt
Nam về quyền được bảo vệ của trẻ em ở Việt Nam. Phân tích tình hình đảm bảo
quyền được bảo vệ của trẻ em ở Việt Nam hiện nay. Từ đó đề xuất một số kiến nghị,
giải pháp góp phần nâng cao pháp luật, nâng cao hiệu quả của văn bản quy phạm
pháp luật, nâng cao hiệu quả của nhà nước, cơ quan và các tổ chức, cá nhân trong
việc bảo đảm quyền được bảo vệ của trẻ em ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Xuất phát từ mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Thứ nhất: Đề tài sẽ nêu ra và phân tích rõ một số vấn đề lý luận như khái

4


niệm trẻ em, quyền trẻ em, quyền được bảo vệ của trẻ em; pháp luật quốc tế, quốc
gia về quyền được bảo vệ của trẻ em cùng ở Việt Nam.
- Thứ hai: Nêu và phân tích, đánh giá những quy định trong Hiến pháp và luật
trẻ em, luật hình sự… về quyền được bảo vệ của trẻ em Việt Nam và thực trạng áp
dụng các quy định đó ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở đó đưa ra
những nhận xét, đánh giá khách quan, tương đối toàn diện về thực trạng pháp luật và
thực hiện pháp luật về quyền được bảo vệ của trẻ em ở Việt Nam trong thời gian qua.
- Thứ ba: Một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các
văn bản quy phạm pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo đảm cho
quyền được bảo vệ của trẻ em được hiệu quả nhất.
Ý nghĩa của luận văn:
Với ý nghĩa phục vụ cho công tác nghiên cứu, với động lực tìm hiểu pháp luật
để góp một phần lý luận cho việc nhận thức đúng đắn, thống nhất về Quyền được bảo
vệ của trẻ em Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng cả
về mặt lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở
cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học quyền được bảo vệ của trẻ em Việt Nam, trong
đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn có liên quan.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là quyền được bảo vệ của trẻ em ở Việt Nam. Để làm
rõ vấn đề này, luận văn tập trung nghiên cứu pháp luật quốc tế và pháp luật Việt
Nam về vấn đề này, thực trạng thực hiện pháp luật về quyền được bảo vệ của trẻ em
Việt Nam. Các kiến nghị hoàn thiện pháp luật và những giải pháp đóng góp nâng
cao chất lượng của các quy định pháp luật cũng như nâng cao nhận thức của người
thực hiện, của công dân trong việc bảo vệ trẻ em.

Phạm vi nghiên cứu:
- Về địa điểm: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về
việc đảm bảo quyền được bảo vệ của trẻ em ở Việt Nam.
- Về thời gian: trong khoảng thời gian 6 năm (2010 – 2016).

5


5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng
Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng
và Nhà nước về chính sách hình sự, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Để thực hiện đề tài, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa
học như: phương pháp tổng hợp và phân tích, so sánh, hệ thống hóa, thống kê… kết
hợp với các tri thức khoa học của các ngành tương ứng để nghiên cứu luận văn
nhằm đạt được mục đích đặt ra.
6. Điểm mới của luận văn
Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Lần đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống tổng quát về quyền được
bảo vệ của trẻ em ở nước ta trong giai đoạn hiện nay 2010-2016.
- Phân tích, đánh giá cụ thể nhưng rất khách quan, toàn diện về thực trạng
các quy định của pháp luật về quyền được bảo vệ của trẻ em ở nước ta.
- Hệ thống hóa các quy định của pháp luật, làm rõ đặc điểm pháp lý của
quyền được bảo vệ của trẻ em ở Việt Nam.
- Luận văn góp phần nâng cao nhận thức về quyền được bảo vệ của trẻ em
được quy định bằng pháp luật quốc tế và quốc gia, từ đó nâng cao ý thức trách
nhiệm của Đảng, nhà nước, xã hội, các tổ chức, cơ quan, từng gia đình và mỗi công
dân trong việc thực hiện pháp luật về quyền được bảo vệ của trẻ em.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích không
chỉ dành cho các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng

dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên
ngành Luật hiến pháp, quyền con người tại các cơ sở đào tạo Luật. Kết quả nghiên
cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các
cán bộ thực tiễn đang công tác trong các cơ quan bảo vệ trẻ em, đồng thời là cơ sở
cho các nhà lập pháp sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành để góp phần
nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ trẻ em,từ đó tạo điều kiện cho trẻ có được môi
trường an toàn, lành mạnh để trẻ phát triển toàn diện về thể chất và tâm hồn, ươm
mầm xanh cho tương lai của đất nước.
6


7. Kết cấu của Luận Văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn có cấu trúc 3 chương cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quyền được bảo vệ của trẻ em.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về quyền được bảo
vệ của trẻ em ở Việt Nam.
Chương 3: Một số quan điểm và kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả thực hiện quyền được bảo vệ của trẻ em ở Việt Nam hiện nay.

7


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN ĐƢỢC BẢO VỆ CỦA TRẺ EM
1.1. Khái niệm quyền đƣợc bảo vệ của trẻ em
Vấn đề quyền được bảo vệ của trẻ em là một vấn đề không mới, nhưng lại là
vấn đề cần thiết trong bối cảnh Việt Nam hiện nay. Cho nên việc làm rõ thế nào là
quyền được bảo vệ của trẻ em và các khái niệm liên quan sẽ giúp có được một cái
nhìn tổng quát về quyền được bảo vệ của trẻ em ở Việt Nam và các yếu tố ảnh

hưởng đến quyền này của trẻ.
1.1.1. Khái niệm trẻ em
Trẻ em vốn được coi là một trong các nhóm xã hội dễ bị tổn thương và được
nhà nước, cá nhân và các tổ chức xã hội quan tâm bảo vệ. Từ thế kỷ XVI, ở Châu
Âu đã xuất hiện những dự án công cộng dành cho trẻ em (bệnh viện Spedale Degli
Innocenti ở Florent, Italia) [30, tr.53]… Do đó, việc xác định thế nào được gọi là trẻ
em chính là cơ sở để thực hiện và phát huy sự quan tâm đó.
Năm 1919 các tổ chức cứu trợ trẻ em của Anh và Thụy Điển ra đời nhưng vấn
đề trẻ em chỉ thực sự được quan tâm từ sau chiến tranh thế giới I (1914- 1918). Vấn
đề trẻ em cùng với các quyền trẻ em được quan tâm muộn đến như vậy trong khi
ngay từ thuở ban đầu loài người đã ý thức được rằng trẻ em cần được bảo vệ và chăm
sóc đặc biệt. Từ trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1789 của nước
Pháp cũng chưa đưa ra khái niệm quyền trẻ em mà mới dừng lại ở việc đề cập đến
quyền con người nói chung. Như vậy, quyền trẻ em chưa được đặt ra trong pháp luật.
Nguyên nhân của sự ghi nhận chậm trễ này là do đơn giản quan niệm trẻ em là tài sản
riêng của các bậc cha mẹ nhất là ở các nước phương Đông với quan niệm “cha mẹ đặt
đâu con ngồi đấy” và “con không nghe cha mẹ trăm đường con hư”.
Năm 1923 Hiến chương về quyền trẻ em được thông qua. Ngày 26/09/1924
Hội Quốc liên (tổ chức tiền thân của Liên Hợp Quốc ngày nay) đã thông qua Tuyên
ngôn Giơnevơ 1924 về quyền trẻ em do hiệp hội quốc tế các quỹ cứu trợ trẻ em
khởi thảo dựa trên cơ sở Hiến chương về quyền trẻ em năm 1923. Kể từ đây, quyền
trẻ em đã trở thành một khái niệm được khẳng định và thừa nhận.

8


Từ đó, khái niệm trẻ em đã được đề cập trong nhiều văn kiện quốc tế: Tuyên
ngôn Giơ-ne-vơ năm 1924, tuyên ngôn của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm
1959, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1968, Công ước quốc tế về
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền dân sự

và chính trị năm 1966, Công ước 138 của Tổ chức lao động quốc tế (ULO) về tuổi
tối thiểu làm việc năm 1976, Công ước về quyền trẻ em năm 1989. Trong Công ước
về quyền trẻ em năm 1989 (Convention on the Rights of the Child – CRC) – văn
kiện quốc tế cơ bản, toàn diện nhất về trẻ em tính đến thời điểm này đã định nghĩa
“Trẻ em có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể
được áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn” (Điều 1). Theo công
ước về quyền trẻ em, trẻ em do còn non nớt về trí tuệ và vì thế cần được bảo vệ và
chăm sóc đặc biệt kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi
ra đời. Sự ra đời của khái niệm quyền trẻ em đã mở rộng cơ sở của các hoạt động
bảo vệ trẻ em từ các khía cạnh đạo đức, xã hội sang khía cạnh pháp lý, bác bỏ quan
điểm trước đây coi trẻ em như những đối tượng hoàn toàn phụ thuộc, thậm chí là
một dạng “tài sản” của các bậc cha mẹ [30, tr. 54].
Như vậy, theo công ước này thì trẻ em đã được xác định là người dưới 18
tuổi (trừ trường hợp pháp luật quốc gia quy định độ tuổi sớm hơn). Vậy là Công
ước quy định vấn đề độ tuổi theo hướng mở, bởi mỗi quốc gia có quan niệm khác
nhau về trẻ em, nên độ tuổi được xác định là trẻ em cũng khác nhau; tùy vào điều
kiện kinh tế xã hội của nước mình, có thể quy định độ tuổi của trẻ em sớm hơn.
Bên cạnh khái niệm Trẻ em, Liên hợp quốc còn dùng khái niệm “Người chưa
thành niên”. Các văn bản pháp luật quốc tế khác như: Quy tắc Bắc Kinh, hướng dẫn Riat
và Quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do
thường sử dụng thuật ngữ “người chưa thành niên là những người chưa đến 18 tuổi”.
Ngoài ra, khái niệm trẻ em còn có sự khác nhau ở cách quy định độ tuổi
trong lĩnh vực cụ thể, ví dụ như ở một số văn bản, văn kiện khác nhau của một số tổ
chức thuộc Liên hiệp quốc như Quỹ dân số Liên Hiệp quốc (VNFPA), tổ chức lao
động quốc tế (ILO) và tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hiệp quốc
(UNESCO) thì trẻ em là những người dưới 15 tuổi.

9



Khái niệm trẻ em ở Việt Nam hiện nay được quy định trong nhiều văn bản
Luật và dưới luật, nhưng chưa có sự thống nhất rõ ràng, thậm chí còn chồng chéo
nhau khi định nghĩa về độ tuổi của trẻ em. Theo Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em năm 2004 thì “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi‟‟. Nhất quán với
quan điểm đó, Luật trẻ em 2016 quy định „„ Trẻ em là người dưới 16 tuổi‟‟. Theo
luật dân sự quy định người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ
18 tuổi là người chưa thành niên. Với quy định đó có thể hiểu rằng người chưa đủ
18 tuổi chưa trưởng thành, tức cũng có nghĩa là người chưa đủ 18 tuổi vẫn là trẻ em.
Theo luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 lại xác định đối tượng xử phạt hành
chính phải từ đủ 14 tuổi trở lên, cụ thể là „„ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị
xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở
lên bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính‟‟. Quy định này đồng
nghĩa với việc coi trẻ em là 14 thay vì 16 như quy định chung.
Tuy vậy, từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về trẻ em ở Việt
Nam: „„Trẻ em là người dưới 16 tuổi‟‟.
1.1.2. Khái niệm quyền con người của trẻ em
Trẻ em là con người, là thành viên của xã hội, là công dân đặc biệt của một
quốc gia, vì vậy quyền trẻ em có quan hệ chặt chẽ với quyền con người, là một bộ
phận của quyền con người. Giống như tất cả quyền của các nhóm chủ thể khác,
quyền trẻ em cũng là một vấn đề có quá trình phát triển lâu dài với sự hình thành,
tiến triển qua các thời kỳ khác nhau.
1.1.2.1. Quyền con người của trẻ em theo pháp luật Quốc tế
Trước đây, thuật ngữ Quyền trẻ em chưa thực sự được chú trọng, phải đến
đầu thế kỷ thứ XX, thuật ngữ này mới được đề cập sau một loạt biến cố quốc tế lớn;
nhất là sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918). Sự kiện này khiến
rất nhiều trẻ em ở Châu Âu bị rơi vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn như mồ côi
không nơi nương tựa, đói khát, bệnh tật,… Tình cảnh đó đã thúc đẩy việc thành lập
hai tổ chức cứu trợ trẻ em đầu tiên trên thế giới ở Anh và Thụy Điển vào năm 1919.
Đến năm 1924, Hội Quốc liên thông qua bản tuyên ngôn Geneva về Quyền trẻ em.
Đây là lần đầu tiên, vấn đề quyền trẻ em chính thức được khẳng định và thừa nhận


10


trong pháp luật quốc tế, đánh dấu bước ngoặt trong nhận thức và hoạt động bảo vệ
trẻ em trên thế giới. Năm 1948, Liên hợp quốc thông qua Tuyên ngôn thế giới về
quyền con người, trong đó khẳng định trẻ em cũng là chủ thể của quyền con người.
Năm 1959, Liên hợp quốc thông qua bản tuyên ngôn (thứ hai) về quyền trẻ em, phát
triển nội dung của Tuyên ngôn Geneva 1924. Từ năm 1959 đến những năm 80 của
thế kỷ XX, một loạt văn kiện quốc tế khác cũng được thông qua, trực tiếp hoặc gián
tiếp đề cập đến các quyền của trẻ em. Tuy vậy, các văn kiện đó không có tính chất
ràng buộc về nghĩa vụ pháp lý hoặc chưa tiếp cận từ vị thế đặc biệt và chú trọng đến
nhu cầu đặc thù của trẻ em nên tác động trên thực tế rất hạn chế. Đến năm 1989,
Liên hợp quốc thông qua Công ước quốc tế về quyền trẻ em, tính đến thời điểm
này, đây là văn kiện quốc tế cơ bản và toàn diện nhất về quyền trẻ em. Mặc dù vậy,
đây không phải là văn kiện quốc tế duy nhất về lĩnh vực này, mà còn nhiều văn kiện
khác, trong đó tiêu biểu là hai Nghị định thư không bắt buộc bổ sung CRC về sử
dụng trẻ em trong các cuộc xung đột vũ trang và về buôn bán trẻ em, bóc lột và văn
hóa phẩm khiêu dâm trẻ em…
Cùng với sự ra đời của CRC, việc thành lập Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc và
Ủy ban trẻ em của Liên hợp quốc năm 1990 cũng là một thành công to lớn trong
lịch sử bảo vệ và phát triển các quyền trẻ em. Hoạt động của các cơ quan này đã
góp phần thúc đẩy các quốc gia thành viên trong việc tôn trọng và thực thi các biện
pháp bảo đảm cho trẻ em ở những nước này được hưởng tối đa những quyền được
đề cập trong CRC.
Sự ra đời của Quyền trẻ em trong pháp luật quốc tế đã giúp mở rộng cơ sở
cho các hoạt động hỗ trợ, bảo vệ trẻ em từ các khía cạnh đạo đức, xã hội sang khía
cạnh pháp lý, bác bỏ các quan niệm trước đó cho rằng trẻ em là những đối tượng
hoàn toàn phụ thuộc vào các bậc cha mẹ.
1.1.2.2. Quyền trẻ em theo pháp luật Việt Nam

Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã
hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề trẻ em. Nghiêm
cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và các
hành vi khác vi phạm quyền trẻ em” [23, Điều 37].

11


Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 đã nói rõ quyền cơ bản và
bổn phận của trẻ em. Trong đó, quyền cơ bản của trẻ em như: Quyền được khai sinh
và có quốc tịch, quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, quyền được sống chung với cha
mẹ, quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự…
Trong văn bản Luật trẻ em mới được thông qua tháng 5 năm 2016 thay thế cho Luật
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 vẫn công nhận các quyền cơ bản của trẻ
em như vậy.
Trong các văn bản Luật hiện hành cũng có những quy định về chăm sóc,
bảo vệ, giáo dục trẻ em thống nhất với các quy định tại Hiến pháp năm 2013 và
Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em 2004 (đang còn hiệu lực); luật trẻ em (sắp
có hiệu lực).
Như vậy, quyền cơ bản của trẻ em được pháp luật Việt Nam quy định phù
hợp với những quy định của công ước quốc tế về quyền trẻ em, được cụ thể hóa
trong điều kiện hoàn cảnh quốc gia, văn hóa đặc trưng của Việt Nam.
Những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế về các quyền trẻ em
Từ năm 1924 Hội Quốc liên đã thông qua bản Tuyên ngôn về quyền trẻ em.
Bản Tuyên ngôn đã xác định:
1. Trẻ em phải được tạo mọi điều kiện để phát triển bình thường
cả về vật chất lẫn tinh thần;
2. Trẻ em bị đói phải được ăn; trẻ em ốm được săn sóc; trẻ em
phạm tội phải được cải hóa; trẻ em mồ côi, bơ vơ phải được che chở và
cứu giúp.

3. Trẻ em phải được cứu trước tiên khi có tai ương.
4. Trẻ em phải được tạo dựng để kiếm sống và phải được bảo vệ
khỏi mọi hình thức bóc lột.
5. Trẻ em phải được nuôi dạy trong lương tri và tài năng của trẻ
em phải được dành phục vụ cho đồng bào của mình.
Năm 1959, Bản Tuyên ngôn thứ hai về Quyền trẻ em được Liên Hiệp quốc
thông qua. Năm 1989 Công ước quyền trẻ em đã được thông qua. Công ước gồm 54

12


điều, tại Điều 1 Công ước đã đưa ra khái niệm trẻ em, theo đó “Trẻ em có nghĩa là
người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi
thành niên sớm hơn”.
Công ước xác lập các nguyên tắc cơ bản về quyền trẻ em xuyên suốt các điều
khoản, bao gồm:
1. Không phân biệt đối xử trong việc đảm bảo thực hiện các
quyền trẻ em.
2. Dành những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em.
3. Trẻ em có quyền xác lập, bày tỏ các ý kiến riêng của mình và
quyền đó phải được tôn trọng.
4. Những quy định trong pháp luật quốc gia hay pháp luật quốc tế
có lợi hơn cho trẻ em so với những điều khoản quy định trong công ước
sẽ được sử dụng.
Trên cơ sở bốn nguyên tắc cơ bản nêu trên, sự điều chỉnh của công ước đối
với việc bảo vệ quyền trẻ em bao gồm các nhóm quyền sau:
- Nhóm quyền được sống còn, bao gồm quyền của trẻ em được sống và
được đáp ứng những nhu cầu để tồn tại. Các nhu cầu đó gồm: mức sống đủ, có nơi
ở và được chăm sóc sức khoẻ... Nhóm quyền sống còn không chỉ bao gồm quyền
sống mà còn bao gồm các quyền có liên quan đến việc duy trì cuộc sống của trẻ em.

Không chỉ bao gồm việc bảo vệ tính mạng của trẻ khỏi bị tước đoạt, mà còn bao
gồm việc cung cấp các điều kiện nuôi dưỡng và chăm sóc.
- Nhóm quyền được phát triển: Nghĩa là trẻ em cần có những điều kiện
để phát triển đầy đủ nhất như: Quyền được hưởng giáo dục, vui chơi, tiếp cận
thông tin, tự do tín ngưỡng, tôn giáo…. Khái niệm phát triển được hiểu trên tất
cả các phương diện: thể chất, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã hội. Vì vậy, nhóm
quyền được phát triển bao gồm tất cả những quyền tạo điều kiện cho sự phát
triển những yếu tố trên.
- Nhóm quyền được bảo vệ: Nghĩa là trẻ em phải được bảo vệ chống lại tất

13


cả các hình thức lạm dụng, sao nhãng và bóc lột. Các quyền này bao gồm những
vấn đề như: bảo vệ đặc biệt cho trẻ em khỏi nạn tra tấn, lạm dụng khi vi phạm hình
sự, không bị tham gia vào các cuộc xung đột vũ trang, lao động trẻ em, nghiện ma
túy và lạm dụng tình dục….
- Nhóm quyền được tham gia: nghĩa là cho phép trẻ em đóng một vai trò
tích cực trong cộng đồng và đất nước của các em. Các quyền này bao gồm sự tự do
diễn đạt, bày tỏ quan điểm và ý kiến, được phát biểu trong những vấn đề có liên
quan đến cuộc sống của các em, được tham gia hội đoàn và tụ họp mang tính hòa
bình… Nhóm quyền tham gia không giới hạn ở cấp độ nào. Bằng nhiều hình thức,
trẻ có thể tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp qua thông tin đại chúng, hội nghị, hội
thảo. Quyền tham gia trên tư cách cá nhận hoặc tập thể. Quyền tham gia không có
nghĩa là bắt buộc các chủ thể khác phải nghe theo mọi ý kiến của trẻ, nhưng bắt
buộc các chủ thể khác phải lắng nghe và nghiêm túc xem xét các ý kiến của trẻ.
1.1.3. Định nghĩa, nội dung, hình thức, cấp độ và ý nghĩa của quyền được
bảo vệ của trẻ em
Trong 4 nhóm quyền cơ bản của trẻ em thì nhóm quyền được bảo vệ là một
trong những nhóm quyền được đề cập đến trong rất nhiều các văn kiện về quyền trẻ

em. Trong công ước CRC 1989, ngay trong lời mở đầu đã ghi nhận rất rõ ràng” do
còn non nớt về mặt thể chất và trí tuệ, trẻ em cần được bảo vệ và chăm sóc đặc
biệt”. Điều 10 công ước quốc tế về những quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm
1966 nêu rõ “ Quốc gia phải ban hành những biện pháp đặc biệt để bảo vệ và hỗ trợ
các trẻ em và thiếu niên không phân biệt tình trạng phụ hệ hay bất cứ thân trạng
nào”. Tất cả trẻ em đều được bảo vệ không phân biệt chủng tộc, màu da, giới tính,
ngôn ngữ, tôn giáo… Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản được nêu ở điều 2
công ước quốc tế về quyền trẻ em.
1.1.3.1. Định nghĩa quyền được bảo vệ của trẻ em
Trong cuộc đời hoạt động đầy cống hiến và hy sinh của mình, trẻ em luôn là
lớp “công dân đặc biệt” được Chủ tịch Hồ Chí Minh dành sự quan tâm cụ thể, sâu

14


sát. Cho dù ở vào những giai đoạn gay cấn nhất của cách mạng, cho dù bận trăm
công, nghìn việc, quan tâm đến công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là một
trong những công việc Bác thường làm, được Bác coi là quan trọng và luôn thường
trực trong suy nghĩ, hành động của Người. Chăm lo cho thế hệ trẻ, cho trẻ em được
thể hiện trong phong cách sống, trong đạo đức, trong tầm nhìn chiến lược và khoa
học của Hồ Chí Minh. Ở Người, quan điểm về bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em đã
sớm trở thành một bộ phận của tư tưởng giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội văn
minh, dân giàu, nước mạnh. Dân tộc không được giải phóng thì trẻ em không được
bảo vệ, chăm sóc, không được hưởng các quyền lợi cơ bản của mình. Đất nước
không được giàu mạnh thì trẻ em không được ấm no, hạnh phúc [47].
Trong Luật trẻ em 2016 của Việt Nam, tại khoản 1, điều 4 có giải thích:
“Bảo vệ trẻ em là việc thực hiện các biện pháp phù hợp để bảo đảm trẻ em được
sống an toàn, lành mạnh; phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi xâm hại trẻ
em; trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt” [28, Điều 4].
Từ đó có thể kết luận rằng: Quyền được bảo vệ của trẻ em là các quyền cho

phép trẻ em có được sự bảo vệ chống lại tất cả các hình thức lạm dụng, sao nhãng
và bóc lột.
1.1.3.2. Nội dung quyền được bảo vệ của trẻ em
Quyền được bảo vệ của trẻ em được ghi nhận tại CRC, chúng ta có thể nhận
thấy những quy định liên quan đến quyền được bảo vệ của trẻ em bao gồm một
nhóm các quyền được đề cập tại các điều 7, điều 9, điều 10, điều 20, điều 33, điều
34, điều 37 của công ước.
Nói về nội dung của quyền được bảo vệ của trẻ em, chúng ta có thể đề cập
đến những vấn đề về nội dung bao gồm:
- Thứ nhất: Bảo vệ trẻ em chống lại tất cả các hình thức lạm dụng
Điều này là vô cùng cần thiết bởi trẻ em là đối tượng dễ bị lạm dụng nhất.
Lạm dụng về thân thể, lạm dụng tình dục, xâm hại tinh thần, chứng kiến bạo lực gia
đình. Trẻ bị lạm dụng sẽ bị tổn hại lớn về mặt thể xác cũng như tinh thần, ảnh
hưởng tới cuộc sống cũng như tương lai của trẻ. Bảo vệ trẻ chống lại các hình thức
lạm dụng sẽ giúp trẻ có được môi trường phát triển bản thân toàn diện.

15


- Thứ hai: bảo vệ trẻ em chống lại sự sao nhãng
Không chỉ bảo vệ khỏi các hình thức lạm dụng, trẻ em còn cần được bảo vệ
chống lại sự sao nhãng. Như đã phân tích, do còn hạn chế về trí lực cũng như thể
chất nên trẻ em cần được sự quan tâm, chia sẻ, chăm sóc y tế, giáo dục… Hiện nay
tình trạng sao nhãng, bỏ mặc trẻ em là vấn đề rất đáng quan tâm. Sao nhãng, bỏ mặc
trẻ em có thể chia thành nhiều loại như: bỏ mặc về thể chất, bỏ mặc về tình cảm; bỏ
mặc về y tế; bỏ mặc về sức khỏe tâm thần; bỏ mặc về giáo dục. Những hình thức
sao nhãng này có thể sảy ra ở cả các gia đình giàu và các gia đình nghèo, những
hành vi này không chỉ ảnh hưởng tới sự hình thành phát triển về nhân cách mà còn
ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi ứng xử của trẻ em. Vì thế cần phải bảo vệ trẻ em
chống lại sự sao nhãng.

- Thứ ba: Bảo vệ trẻ em chống lại các hình thức bóc lột.
“Bóc lột trẻ em là hành vi bắt trẻ em lao động trái quy định của pháp luật về
lao động; trình diễn hoặc sản xuất sản phẩm khiêu dâm; tổ chức, hỗ trợ hoạt động
du lịch nhằm mục đích xâm hại tình dục trẻ em; cho, nhận hoặc cung cấp trẻ em để
hoạt động mại dâm và các hành vi khác sử dụng trẻ em để trục lợi” [28, Điều 4].
Hiện nay, tình trạng bóc lột trẻ em, nhất là trong lĩnh vực lao động xảy ra ở mọi
quốc gia. Chính vì vậy, việc bảo vệ trẻ chống lại các hình thức bóc lột được đặt ra là
một nhu cầu cấp thiết. Tại điều 32 CRC có quy định: trẻ em được bảo vệ không bị bóc
lột về kinh tế và không phải làm bất cứ công việc nào nguy hiểm, có hại đối với sức
khỏe hay sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tinh thần, đạo đức, hay xã hội của trẻ em.
1.1.3.3. Hình thức và cấp độ của quyền được bảo vệ của trẻ em
Từ những nội dung nêu trên về quyền được bảo vệ của trẻ em, người ta đã
xây dựng một thang thể hiện các cấp độ bảo vệ trẻ em để đánh giá hiệu quả trong
việc thực hiện quyền được bảo vệ của trẻ em.
- Cấp độ 1: Cấp độ phòng ngừa
Cấp độ phòng ngừa gồm các biện pháp bảo vệ được áp dụng đối với cộng
đồng, gia đình và mọi trẻ em nhằm nâng cao nhận thức, trang bị kiến thức về bảo vệ
trẻ em, xây dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh cho trẻ em, giảm thiểu nguy
cơ trẻ em bị xâm hại hoặc rơi vào hoàn cảnh đặc biệt.

16


- Cấp độ 2: Cấp độ hỗ trợ
Cấp độ hỗ trợ bao gồm các biện pháp bảo vệ được áp dụng đối với trẻ em có
nguy cơ bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi hoặc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nhằm kịp thời
phát hiện, giảm thiểu hoặc loại bỏ nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em.
- Cấp độ 3: Cấp độ can thiệp
Cấp độ can thiệp bao gồm các biện pháp bảo vệ được áp dụng đối với trẻ em
và gia đình trẻ em bị xâm hại nhằm ngăn chặn hành vi xâm hại; hỗ trợ chăm sóc

phục hồi, tái hòa nhập cộng đồng cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
1.1.3.4. Ý nghĩa của quyền được bảo vệ của trẻ em
Bảo vệ trẻ em là một trong những nhiệm quan trọng hàng đầu của mỗi quốc
gia, dân tộc, bởi "Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai" (UNESCO).
Tương lai của mỗi dân tộc và của toàn nhân loại phụ thuộc vào sự chăm sóc,
giáo dục thế hệ trẻ; phụ thuộc vào sức khoẻ, trí tuệ, năng lực... của thế hệ trẻ. Trong
"Thư gửi học sinh nhân ngày khai trường", Bác Hồ viết: "Non sông Việt Nam có trở
nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có được vẻ vang sánh vai các cường quốc
năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu".
Trẻ em là người sẽ quyết định tương lai, vị thế của mỗi dân tộc trên trường quốc tế.
Qua vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em, chúng ta có thể nhận ra được trình độ
văn minh và phần nào bản chất của một xã hội. Một xã hội văn minh, tiến bộ phải
coi trọng việc bảo vệ trẻ em. Không chỉ bảo vệ bằng các điều luật mà còn phải thể
hiện qua các hành động thực tiễn của quốc gia đó.
Trong xã hội mà ngày càng nhiều số trẻ em bị lạm dụng, bị bóc lột và buôn
bán vì mục đích tình dục; trẻ em lang thang cơ nhỡ; trẻ em tật nguyền; trẻ em vi
phạm pháp luật; trẻ mồ côi; trẻ em bị ruồng bỏ; trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS;
và trẻ em sống trong cảnh nghèo đói.. thì vấn đề bảo vệ trẻ em càng cần được đề
cao hơn nữa.
1.2. Pháp luật quốc tế về quyền đƣợc bảo vệ của trẻ em
Nói đến văn bản pháp luật quốc tế quan trọng về quyền trẻ em và quyền
được bảo vệ của trẻ em phải kể đến Công ước quyền trẻ em (CRC); quy tắc tối thiểu

17


của Liên Hợp Quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do; quy tắc
tiêu chuẩn tối thiểu của Liên Hợp Quốc về việc áp dụng pháp luật với người chưa
thành niên (Quy tắc Bắc Kinh); Hướng dẫn Riyadh; Hướng dẫn Tokyo năm 1990 và
các văn bản khác.

Công ước quyền trẻ em:
Các công ước quốc tế về nhân quyền, cụ thể là công ước quốc tế về quyền trẻ
em năm 1989 là công cụ pháp lý quốc tế quan trọng và hiệu quả nhất trong việc bảo
vệ các quyền của trẻ em nói chung và quyền được bảo vệ của trẻ em nói riêng. CRC
là tập hợp những quy định pháp lý quốc tế một cách toàn diện nhằm mang lại lợi ích
và bảo vệ cho trẻ em. CRC quy định các quyền con người cơ bản của trẻ em. Công
ước là văn kiện quyền con người được nhiều nước phê chuẩn nhất trong lịch sử.
Công ước bao gồm 54 điều và có bốn nguyên tắc cơ bản là:
- Trẻ em không bị phân biệt đối xử.
- Lợi ích tốt nhất của trẻ em phải được đặt lên hàng đầu trong các
chương trình nghị sự đưa ra các quyết định liên quan đến trẻ em.
- Trẻ em có quyền được sống và phát triển cả về thể chất lẫn trí tuệ.
- Trẻ em có quyền được phát biểu ý kiến của mình và ý kiến của các em
phải được tôn trọng trong các vấn đề liên quan đến các em.
Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn
CRC vào năm 1990. Khi chính phủ phê chuẩn công ước thì trẻ em được hưởng quyền
ở tất cả các giai đoạn trong cuộc đời như: Quyền được sống, được phát triển và được
bảo vệ. Bằng việc phê chuẩn công ước thì các chính phủ đã cam kết thực hiện Công
ước. Các quyền của trẻ em là những quyền cơ bản, chính đáng, là một phần trong số
các nhu cầu thiết yếu với tất cả mọi người, mọi trẻ em đều có các quyền như nhau.
Các quyền trẻ em đồng thời là trách nhiệm, nghĩa vụ của các quốc gia, vấn đề này
phải được công nhận và quy định cụ thể bằng pháp luật của mỗi quốc gia.
Công ước quy định hệ thống các quyền được bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội. Hệ thống các quyền được bảo vệ của trẻ em được
phân loại thành các quyền như sau:

18


Bảo vệ quyền khai sinh, có họ tên và có quốc tịch của trẻ em. Các công

ước quốc tế đã có những quy định cụ thể để bảo vệ quyền khai sinh và quyền có
quốc tịch của trẻ em. Trong công ước quốc tế về quyền dân sự và chính chị năm
1966 tại khoản 2 có nêu rõ: “trẻ em phải được khai sinh ngay sau khi sinh và được
đặt họ tên”. Và sau này, quyền đó lại được tái khẳng định tại Công ước CRC ngay
tại điều 7: “trẻ em phải được đăng ký khai sinh ngay lập tức sau khi sinh ra và phải
có quyền có họ tên, quyền có quốc tịch,… Quy định này khẳng định rằng, trẻ em là
một cá thể riêng biệt, một con người độc lập, bình đẳng như bất kỳ công dân nào.
Bảo đảm trẻ em không bị cách ly khỏi gia đình. Điều 9, 10, 20 – Công ước
CRC quy định, theo đó các quốc gia thành viên phải bảo vệ quyền được sống cùng
cha mẹ của trẻ em, các quốc gia phải đảm bảo rằng trẻ em không bị cách ly cha mẹ
trái ý muốn của họ, trừ khi việc cách ly là cần thiết nhưng tất cả phải vì lợi ích tốt
nhất của trẻ em. Trường hợp cần cách ly thì vẫn cần phải tôn trọng quyền của trẻ em
để duy trì những quan hệ riêng tư, được tiếp xúc với cha mẹ và có quyền được
hưởng sự bảo vệ và giúp đỡ đặc biệt của Nhà nước.
Bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực hình sự được quy định tại công ước quốc tế
về quyền dân sự và chính trị 1966 và công ước về quyền trẻ em 1989. Cụ thể trong
công ước về quyền dân sự và chính trị ghi nhận tại điều 6 rằng: án tử hình không
được tuyên với các bị cáo chưa đủ 18 tuổi khi phạm pháp; các bị cáo thiếu nhi, các
thiếu nhi phạm pháp phải được giam giữ cách biệt với người lớn, phải được đối xử
tùy theo tuổi tác và tình trạng pháp lý của các em và phải được xét xử trong thời hạn
sớm nhất (khoản 2-điều 10). Các quy định tại công ước về quyền trẻ em 1989 cũng
tương tự như vậy. Ngoài ra công ước 1989 còn có những quy định tại điều 37: đảm
bảo rằng không trẻ em nào bị đối xử hoặc bị trừng phạt tàn tệ, vô nhân đạo hay làm
mất phẩm giá; đảm bảo cho trẻ em được nhanh chóng hưởng sự giúp đỡ về pháp lý
và những sự giúp đỡ thích hợp khác… Tại điều 40 quy định: những trẻ em làm trái
pháp luật phải được đối xử theo đúng cách thức phù hợp với việc cổ vũ ý thức của
trẻ em về phẩm chất và phẩm giá, cách đối xử cũng phải tính đến lứa tuổi của trẻ và
việc đảm đương vai trò xây dựng trong xã hội của trẻ em….

19



×