Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.82 KB, 18 trang )


LỜI NÓI ĐẦU

Trên cơ sở đổi mới tư duy kinh tế, những năm gần đây nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung ở nước ta đã từng bước chuyển sang kinh tế thị trường
như một đòi hỏi tất yếu của sự phát triển. Trong điều kiện cơ chế quản lý thay
đổi, khi hiệu quả sản xuất kinh doanh trở thành yếu tố sống còn của mỗi doanh
nghiệp thì các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước đã bộc lộ đầy đủ
những yếu kém và lâm vào tình trạng sa sút, khủng hoảng trầm trọng.
Vậy, làm thế nào để lập lại cấu trúc sở hữu nhà nước và cải cách khu
vực kinh tế nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả,vai trò của nó theo tinh thần các
Nghị quyết Đại hội lần thứ VI, VII của Đảng: “Chuyển một số doanh nghiệp
quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty
quốc doanh cổ phần mới, phải làm thí điểm chỉ đạo chặt chẽ ,rút kinh nghiệm
chu đáo trước khi mở rộng phạm vi thích hợp”?
Một trong những giải pháp có tính chiến lược để giải quyết những vấn
đề cấp thiết này là tiến hành cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước nhằm
đa dạng hoá sở hữu, đưa các yếu tố cạnh tranh lên làm động lực để tăng hiệu
quả kinh doanh và xác lập một mô hình doanh nghiệp hữu hiệu trong nền kinh
tế thị trường.
Quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước được thực hiện từ
năm 1992, trải qua gần 20 năm mở rộng và phát triển đã thu được những thành
tựu đáng kể nhưng cũng không ít vướng mắc cần những biện pháp khắc phục
kịp thời để tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp nhà
nước ở Việt Nam hiện nay.

2


Với những kiến thức tiếp cận được từ thầy cô giáo, qua các tài liệu tham khảo
hiện hành và với những cơ sở ứng dụng thực tiễn vào nền kinh tế Việt Nam


như trên, em chọn đề tài: “Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh cổ phần
hóa một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam hiện nay”. Em
muốn qua đây làm rõ:


Quy luật chung về tích tụ và tập trung tư bản, khái niệm cổ phần hóa và sự

cần thiết phải cổ phần hoá 1 bộ phận Doanh nghiệp Nhà nước.
 Tiến trình, thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế Cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta.
 Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh Cổ phần hóa một bộ phận doanh
nghiệp Nhà nước.
Bài tiểu luận của em gồm 3 mục và các tiểu mục để làm rõ được mục đích
nghiên cứu nêu trên:
I: Một số vấn đề lý luận chung về Cổ phần hóa Doanh nghiệp Nhà nước
II: Thực trạng Cổ phần hóa Doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
III: Phương hướng và các giải pháp đẩy mạnh Cổ phần hóa một bộ phận
Doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian tới.
Với kiến thức Kinh tế chính trị còn chưa hoàn thiện nên bài tiểu luận của em
không tránh khỏi những sai sót, chính vì vậy rất mong nhận được sự góp ý
chân thành của các bạn và thầy cô.
Hà nội, tháng 11 năm 2016

3


NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1. Quy luật chung về tích tụ và tập trung tư bản:

Trong quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa, quy mô của tư bản tăng
lên thông qua quá trình tích tụ và tập trung tư bản. Tích tụ và tập trung tư bản
có quan hệ mật thiết với nhau, tạo tiền đề cho nhau phát triển. Nếu như tích tụ
tư bản gia tăng quy mô và sức mạnh của tư bản cá biệt bằng cách tư bản hóa
giá trị thặng dư ngay trong chính phạm vi của giá trị tư bản ấy thì tập trung tư
bản gia tăng quy mô của tư bản cá biệt bằng cách liên kết hoặc sát nhập các tư
bản cá biệt có sẵn trong xã hội với nhau. Ảnh hưởng qua lại của hai quá trình
này làm tối đa hóa tốc độ cạnh tranh, dẫn đến sự tập trung hay sát nhập của
các tư bản cá biệt diễn ra nhanh hơn.
2. Khái niệm Cổ phần hoá:
Để tìm hiểu khái niệm Cổ phần hoá, trước hết cần phân biệt hai khái
niệm riêng rẽ là Cổ phần hoá và Tư nhân hoá.
Tư nhân hoá "là sự biến đổi tương quan giữa Nhà nước và thị trường
trong đời sống kinh tế của một nước theo hướng ưu tiên thị trường", cụ thể là
quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu từ Nhà nước sang tư nhân đồng thời
chuyển các lĩnh vực kinh doanh sản xuất từ Nhà nước độc quyền sang cho tư
nhân đảm nhiệm theo nguyên tắc thị trường .
Như vậy, Cổ phần hoá là một khái niệm hẹp hơn tư nhân hoá, là một
trong nhiều cách để tư nhân hoá một phần tài sản của Doanh nghiệp Nhà
nước.

4


Về hình thức: Cổ phần hoá là việc Nhà nước bán một phần và toàn bộ
giá trị cổ phần hoá của mình trong các xí nghiệp cho các đối tượng tổ chức và
tư nhân trong và ngoài nước hoặc cho các bộ quản lý, công xưởng của xí
nghiệp bằng đấu giá công khai và thông qua thị trường chứng khoán để thành
công ty TNHH và công ty cổ phần.
Về thực chất: Cổ phần hoá là phương thức thực hiện xã hội hoá sở hữu,

của hình thức kinh doanh một chủ với sở hữu Nhà nước trong doanh nghiệp
thành công ty cổ phần, với nhiều chủ sở hữu để tạo mô hình doanh nghiệp phù
hợp với nền kinh tế thị trường, đầu tư, yêu cầu của nền kinh doanh hiện đại.
3. Sự cần thiết phải Cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp Nhà nước:
3.1. Cổ phần hoá là xu hướng chung ở nhiều nước:
Trong những năm 1980, quá trình chuyển đổi sở hữu Nhà nước đã trở
thành hiện tượng kinh tế chủ yếu trên toàn thế giới. Chỉ tính từ năm 1984 1991, trên thế giới đã có 250 tỷ USD tài sản Nhà nước đem bán. Làn sóng Cổ
phần hoá được khởi đầu từ Vương quốc Anh cuối những năm 1970 với hàng
chục xí nghiệp quốc doanh được Cổ phần hoá đến năm 1991 Nhà nước thu
được 34 tỷ bảng. Quá trình này đã lần lượt chuyển ra các nước công nghiệp
phát triển đến các nước đang phát triển với nhiều hình thức phong phú. Hiện
nay, Cổ phần hoá được lựa chọn nhiều nhất và trở thành hiện tượng phổ biến
trên toàn thế giới.
Việc Doanh nghiệp Nhà nước nước ta Cổ phần hoá chứng tỏ đang hội
nhập cùng với nền kinh tế thế giới và Cổ phần hoá là một đòi hỏi khách quan
khi Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước
và vẫn theo con đường xã hội chủ nghĩa.

5


3.2. Xuất phát từ thực trạng hoạt động kém hiệu quả của Doanh
nghiệp Nhà nước
Các Doanh nghiệp Nhà nước được hình thành trong cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp kéo dài hàng chục năm, trên cơ sở nguồn vốn cấp phát của
ngân sách Nhà nước và do đó tất cả hoạt động đều chịu sự kiểm soát và chi
phối trực tiếp của Nhà nước. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, thì cả
một khu vực kinh tế Nhà nước đồ sộ, cồng kềnh bộc lộ tất cả những yếu kém
về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chấp vá, không
đồng bộ và xơ cứng trong việc thích ứng với cơ chế mới.

Các Doanh nghiệp Nhà nước từ lâu đã không được đặt trong môi trường
cạnh tranh, do đó chậm đổi mới công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Chế độ bao cấp bù lỗ tràn lan làm cho hạch toán kinh tế trong các doanh
nghiệp Nhà nước chỉ là giả tạo, sản xuất không tính chi phí, như hiện tượng lãi
giả, lỗ thật lại hết sức phổ biến.
Tổ chức bộ máy trong các doanh nghiệp Nhà nước về sở hữu trong
doanh nghiệp không rõ ràng, việc phân phối về tính chất không dựa trên
nguyên tắc phân phối theo lao động mà mang nặng tính bình quân, ngoài ra
đội ngũ cán bộ với kiến thức và trình độ quản lý không phù hợp, thiếu năng
động.
Như vậy tình trạng kém hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước làm
cho nền kinh tế không thể phát triển được, chế độ quan liêu bao cấp kìm hãm
sự phát triển lực lượng sản xuất, đẩy nền kinh tế vào khủng hoảng. Do đó khi
ở sang nền kinh tế thị trường, phát triển Nhà nước kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần thì việc Cổ phần hoá một bộ doanh nghiệp Nhà nước là cần thiết
và cấp thiết.

6


3.3. Xuất phát từ sự thay đổi nhận thức về vai trò chủ đạo của kinh tế
Nhà nước
Hội nghị TW Đảng lần thức VI tháng 3/1989 đã nêu rõ vai trò chủ đạo
của kinh tế Nhà nước không phải có mặt với tỷ trọng lớn ở tất cả mọi ngành
mà chỉ chiếm giữa những vị trí then chốt trong nền kinh tế giải pháp được đặt
ra để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đưa
ra là: tập trung nguồn lực phát triển có hiệu quả kinh tế Nhà nước trong những
lĩnh vực doanh nghiệp Nhà nước, thực hiện tốt chủ trương Cổ phần hoá và đa
dạng hoá sở hữu đối với những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần n/giữ
100% vốn.

3.4. Cổ phần hoá là sự lựa chọn tốt nhất của các Doanh nghiệp
* Chế độ Cổ phần là sản phẩm tất yếu của xã hội hoá sản xuất và của
nền kinh tế thị trường.
Là một hình thức quyền tư sản, chế độ cổ phần là biểu hiện hình thức
vận hành ở góc độ quan hệ sản xuất của sự xã hội hoá sản xuất, theo cách nói
của Mác nó là "tư bản xã hội", tư bản tự nó vốn dựa trên phương thức sản xuất
xã hội và đòi hỏi phải có sự tập trung xã hội về tư liệu sản xuất và sức lao
động, ở đây trực tiếp mang hình thái tư bản xã hội (tư bản của những cá nhân
trực tiếp liên hiệp lại với nhau), Mác coi đó là "hình thái quá độ từ phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sang phương thức sản xuất tập thể" là "sự phủ
định", là “hình thức phủ định cao nhất" đối với tư bản tư nhân.
* Doanh nghiệp Nhà nước áp dụng chế độ cổ phần hoá sẽ có lợi cho
giải phóng và thuận lợi sản xuất được thể hiện.
- Phân định ranh giới rành mạch về quan hệ về quyền tư sản tức là
quyền sở hữu cuối cùng. Như vậy doanh nghiệp sẽ thực sự là sản xuất kinh
doanh.
7


- Thể hiện sự thống nhất về vai trò song trùng vừa là người lao động
vừa là người sở hữu. Khi đó quyền lợi của công nhân sẽ gắn chặt với vận
mệnh của công ty. Vì vậy giúp cho công nhân và công ty trở thành một khối
vững chắc, đoàn kết.
- Tách quyền sở hữu ra khỏi quyền kinh tế. Nó cho phép chuyên môn
hoá các chức năng quản lý, sử dụng các nhà quản lý chuyên nghiệp, nâng cao
sức cạnh tranh của Doanh nghiệp đồng thời tạo cơ chế phân bổ rủi ro đặc thù.
- Cổ phần hoá giúp cho việc khơi thông nguồn vốn xuyên khu vực kết
hợp các yếu tố sản xuất xuyên khu vực, vì vậy mà gắn chặt việc xây dựng và
mở rộng thị trường vốn. Ngoài ra Cổ phần hoá giúp ích cho việc mở của thị
trường và thu hút nguồn vốn nước ngoài.

Từ kinh nghiệm của nhiều nước và phân tích trên cho thấy Cổ phần hoá
Doanh nghiệp Nhà nước là quá trình phát triển tiến lên phù hợp với quy luật
của thời đại, có lợi cho việc phát triển lực lượng sản xuất xã hội hoá hiện đại
hoá phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Bởi vậy mà Cổ
phần hoá là bộ phận Doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta là cần thiết, tạo tiền đề
cho sự phát triển đất nước thành một trong những quốc gia có nền kinh tế phát
triển hiện đại.

8


II. THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở
VIỆT NAM
1. Tiến trình Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta
Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta trải qua một quy trình
bốn bước, được quy định theo Nghị định số 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998
về chuyển Doanh nghiệp Nhà nước sang Công ty cổ phần.
Bước 1: Chuẩn bị Cổ phần hoá.
Bước 2: Xây dựng phương án Cổ phần hoá.
Bước 3: Duyệt và triển khai thực hiện phương án Cổ phần hoá.
Bước 4: Công ty cổ phần đăng ký kinh doanh với sở kế hoạch và đầu tư
cấp tỉnh và làm lễ ra mắt.
Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta được bắt đầu từ những
năm 90, đã trải qua các thời kỳ thí điểm đến thời kỳ mở rộng cổ phần hóa và
đa dạng hoá các hình thức sở hữu, mô hình tổ chức quản lý của các doanh
nghiệp nhà nước .
1.1. Thời kỳ thứ nhất - bước đầu thực hiện cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước
Thời kỳ này, thực hiện quyết định số 202/CT của Thủ tướng Chính phủ,
các bộ, các ngành đã hướng dẫn doanh nghiệp nhà nước đăng ký thực hiện thí

điểm chuyển sang Công ty cổ phần. Trên cơ sở số lượng doanh nghiệp nhà
nước đã đăng ký, chủ tịch Hội đồng bộ trưởng đã ra quyết định số 203/CT
ngày 8-6-1992 chọn 7 doanh nghiệp nhà nước do Chính phủ chỉ đạo thí điểm
chuyển thành Công ty cổ phần:

9


- Nhà máy xà bông (Thuộc liên hiệp Công ty bột giặt miền Nam, Tổng Công

hoá chất II, Bộ công nghiệp nặng).
- Nhà máy diêm Thống Nhất (thuộc liên hiệp sản xuất – xuất nhập khẩu giấy

gỗ diêm, Bộ công nghiệp nhẹ).
- Xí nghiệp nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc (thuộc Công ty chăn nuôi và

thức ăn gia súc I, Bộ Nông nghiệp và công nghệ thực phẩm).
-

Xí nghiệp chế biến gỗ Long Bình (thuộc Tổng Công ty dịch vụ, sản xuất và
xuất nhập khẩu lâm sản 3, Bộ lâm nghiệp).

-

Công ty vật tư tổng hợp Hải Hưng (thuộc Tổng Công ty kinh doanh và chế
biến lương thực Hà Nội, ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội).

-

Xí nghiệp may mặc (thuộc Công ty dệt – da – may Legamex, UBND TP.

Hồ Chí Minh).
Tuy nhiên sau thời gian làm thử, 7 doanh nghiệp Nhà nước Chính phủ
chọn thí điểm đều xin rút lui hoặc không đủ điều kiện để tiến hành cổ phần
hóa.
Trong số hơn 30 doanh nghiệp nhà nước đăng ký với Bộ Tài chính để
thực hiện cổ phần hóa thì sau hơn bốn năm thực hiện Quyết định số
202/CT có năm doanh nghiệp nhà nước chuyển thành Công ty cổ phần là:

-

Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển (Bộ giao thông vận tải).

-

Công ty cổ phần cơ điện lạnh (TP. Hồ Chí Minh)

-

Công ty cổ phần giầy Hiệp An (Bộ công nghiệp).

-

Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An (tỉnh Long An).

-

Công ty cổ phần chế biến thức ăn gia súc (Bộ Nông nghiệp).

10



1.2. Thời kỳ thứ hai - mở rộng thí điểm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước (1996 -2000)
Ngày 7/5/1996 chính phủ đã ban hành nghị định số 28/CP “về việc
chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành Công ty cổ phần”, thay thế cho
quyết định số 202/CT với những quy định cụ thể rõ ràng hơn.
Thực hiện nghị định số: 28/CP, công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước đã được quan tâm hơn cụ thể: có 30 tỉnh, thành phố, Bộ, ngành và các
tổng công ty đã đăng ký thực hiện cổ phần hóa, hơn 200 doanh nghiệp nhà
nước, nhưng đến đầu năm 1998 mới có 18 doanh nghiệp nhà nước thực hiện
cổ phần hóa, chuyển sang hoạt động theo luật Công ty với tổng số vốn là:
121384.000.000đ.
Trong số 18 công ty cổ phần có 1 công ty cổ phần nhà nước không nắm
giữ cổ phần, 17 công ty còn lại nhà nước nắm giữ cổ phần ít nhất là 18%, cao
nhất là 51%, cổ phần còn lại do cổ đông ngoài xã hội chiếm giữ.
So với yêu cầu cải cách doanh doanh nghiệp nhà nước và số lượng
doanh nghiệp nhà nước trong diện cổ phần hóa thì kết quả đạt được trong các
năm 1992 – 1998 là quá ít, tốc độ cổ phần hoá rất chậm.
Từ năm 1998 đến nay là giai đoạn thực hiện bình thường và phổ biến
đối với tất cả các doanh nghiệp nhà nước tthuộc danh sách cần phải cổ phần
hóa. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước có chuyển biến rõ rệt và đáng khích
lệ từ khi có nghị định số 44/NĐ-CP ngày 29/6/1998 của Chính phủ “về việc
chuyển doanh nghiệp nhà nước thành Công ty cổ phần”. Riêng 6 tháng cuối
năm 1998 đã cổ phần hoá được 90 doanh nghiệp nhà nước . Năm 1999 cổ cổ
phần hóa được 250 doanh nghiệp nhà nước , gấp 7 lần so với 6 năm trước đó
(1992 – 1997) cộng lại. Đến đầu năm 2000 cả nước đã cổ phần hóa được 370
11


doanh nghiệp nhà nước , và đến cuối năm 2000 cả nước đã có 523 doanh

nghiệp nhà nước chuyển thành Côn ty cổ phần chiếm 8,5% tổng số doanh
nghiệp nhà nước hiện có. Tính đến tháng 9/2001 thì cả nước đã có khoảng
700 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa . Con số này quả là đáng khích
lệ. Tốc độ thực hiện cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp nhà nước ở nước
ta gần đây đang gia tăng. nhưng so với kế hoạch được duyệt từ 150 – 200
doanh nghiệp được cổ phần hóa trong năm 1998; 400 – 500 doanh nghiệp
trong năm 1999 là 1000 doanh nghiệp cho năm 2000 thì tốc độ cổ phần hóa
hiện nay vẫn còn quá chậm.
2. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế sau gần 20 năm Cổ
phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam:
2.1. Thành tựu
Thực hiện Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước từ 1992, đến nay đã
gần 20 năm, chúng ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể.
Cổ phần hoá được hơn 2900 Doanh nghiệp Nhà nước. Đại đa số Doanh
nghiệp Cổ phần hoá đều cho rằng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và
tình hình tài chính được cải thiện đáng kể so với trước đổi khi còn là Doanh
nghiệp Nhà nước. Các chỉ tiêu như doanh thu, lợi nhuận, giá trị gia tăng, thu
nhập người lao động… đều tăng với các số liệu. Tính bình quân doanh thu
tăng 13,4%/năm, lợi nhuận trước thuế tăng trên 9,4%/năm, năng suất lao động
tăng 18,3%/năm, đầu tư tài sản cố định tăng 18,3%/năm, lương bình quân tăng
11,4%/năm, giá trị tuyệt đối phần vốn Nhà nước tại các công ty cổ phần
không những được đảm bảo mà còn tăng thêm 46,3%.
Việc Cổ phần hoá không những đã thu hút nhiều vốn từ xã hội mà còn
tạo điều kiện đổi mới công nghệ, tương đối tổ chức quản lý, nâng cao hiệu quả
hoạt động của các công ty cổ phần. Sau Cổ phần hoá, tổ chức và điều hành ở
12


công ty cổ phần đã nhận được những tác động tích cực có sự tách biệt rõ chủ
doanh nghiệp với Doanh nghiệp, giữa sở hữu và điều hành hoạt động kinh

doanh giữa điều hành và kiểm tra kiểm soát. Tổ chức của công ty được bố trí
hợp lý và tính giản giản hơn. Người lao động trở thành cổ đông nền quyền lợi
ở họ đối với công ty vừa là người chủ vừa là người lao động. Theo số liệu thì
lớn hơn 90% Doanh nghiệp được hỏi đều khẳng định tính tự chủ trong điều
hành quản lý, tinh thần trách nhiệm của cán bộ quản lý, ý thức làm việc của
người lao động.

2.2. Hạn chế
Bên cạnh nhữn thành tựu đạt được thì việc Cổ phần hoá cũng có những
hạn chế.
Tốc độ tiến hành Cổ phần hoá hoá còn chậm. Tốc độ và quy mô tiến
hành Cổ phần hoá không đồng đều giữa các ngành và các địa phương. Các
mục tiêu Cổ phần hoá chưa đạt được như mong muốn. Năm 2003 chỉ đạt 63%
kế hoạch Cổ phần hoá, 6 tháng đầu năm 2004 đạt 20% mục tiêu đề ra.
Mục tiêu là huy động vốn của toàn xã hội để phát triển Doanh nghiệp
nhưng vẫn chưa thu hút được đông đảo các nhà đầu tư. Trong số các Doanh
nghiệp đã Cổ phần hoá có khoảng 40%, số Doanh nghiệp không có cổ đông là
người ngoài Doanh nghiệp. Tính bình quân chỉ có 8% cổ đông ngoài Doanh
nghiệp. Cán bộ công nhân viên chức ở doanh nghiệp chiếm 54%, Nhà nước
chiếm 38%.
Thực chất vẫn là Cổ phần hoá khép kín, chưa thu hút được các nhà đầu
tư chiến lược. Cổ phần hoá còn mang tính chất chia phần hoá, chưa thay đổi
được cơ bản phương thức quản trị, điều hành doanh nghiệp.

13


Số lượng doanh nghiệp có vốn Nhà nước dưới 10% được Cổ phần hoá
năm 2003 tới 84% phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước Cổ phần hoá đều có
quy mô nhỏ.

Tình hình Doanh nghiệp sau Cổ phần hoá còn gặp vướng mắc về tư
cách pháp nhân trong vấn đề vay vốn, cơ chế quản lý đối với Doanh nghiệp
vẫn không thực sự được cải thiện, 2 cơ chế phân phối lợi ích vẫn còn phụ
thuộc vào quyết định của công ty cổ phần, vai trò của Nhà nước và các đoàn
thể bị buông lỏng. Việc định giá Doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều
Doanh nghiệp sau khi Cổ phần hoá chưa niêm yết cổ phiếu trên các trung tâm
giao dịch chứng khoán.
2.3. Nguyên nhân:
Nguyên nhân của những hạn chế đã được nêu ra ở trên nước ta tiến
hành Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước trong bối cảnh nền kinh tế đang
trong thời kỳ quá độ từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, trong quá trình chuyển
đổi từ kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
- Vì vậy, các cơ quan quản lý còn ít nhiều lúng túng trong quá trình điều
hành vĩ mô nền kinh tế.
- Trình độ xã hội hoá còn thật chín muồi.
- Các loại thị trường còn chưa phát triển đồng bộ.
- Trình độ dân trí và yếu tố xã hội cũng là nhân tố khách quan làm cản
trở tiến trình Cổ phần hoá.
- Sự thận trọng và hoài nghi của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
- Công tác tuyên truyền phổ biến cơ chế chính sách về Cổ phần hoá
Doanh nghiệp Nhà nước làm chưa tốt dẫn đến trình độ nhận thức của Doanh
nghiệp Nhà nước, cơ quan chủ quản, cá nhân người lao động chưa sâu.
14


- Do thói quen dựa dẫn vào cơ chế bao cấp của Nhà nước, Các nhà quản
lý và lãnh đạo các Doanh nghiệp tạo ra lực cản cho quá trình Cổ phần hoá
- Chế độ chính sách đối với Doanh nghiệp và người lao động và Doanh
nghiệp trong các Doanh nghiệp Cổ phần hoá chậm được ban hành và chưa đủ

sức hấp dẫn, chưa thoả đáng. Cơ chế chính sách chưa phù hợp. Các văn bản
pháp lý vừa thiếu vừa chồng chéo.
Như vậy, qua gần 20 năm Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước, mặc
dù đã đạt những thành tựu hết sức khả quan nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều
hạn chế, vướng mắc cản trở việc Cổ phần hoá, cản trở tiến trình phát triển
kinh tế của đất nước. Qua việc đưa ra những nguyên nhân chủ yếu của những
hạn chế ở trên, một số giải pháp xin được nêu ra ở dưới đây để đẩy nhanh
mạnh và sâu hơn nữa việc Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước để góp phần
đưa đất nền nước ta phát triển hơn, hội nhập nhanh hơn vào nền kinh tế của
thế giới.
III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CỔ PHẦN
HOÁ MỘT BỘ PHẬN DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG THỜI
GIAN TỚI
1. Phương hướng
Trong thời gian tiếp theo, việc đẩy nhanh Cổ phần hoá một bộ phận
Doanh nghiệp Nhà nước vẫn tuân theo mục tiêu của việc chuyển Doanh
nghiệp Nhà nước sang Công ty cổ phần (đựơc quy định trong Nghị định số
64/2002/NĐ-CP của Chính phủ) đó là:
- Góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh của Doanh
nghiệp
- Huy động vốn của của toàn xã
- Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của các cổ đông.
15


Bên cạnh đó, tiếp tục mở rộng diễn Cổ phần hoá Doanh nghiệp kể cả
tổng công ty Nhà nước. Nhà nước chỉ giữ cổ phần chi phối trong các Tổng
công ty, công ty cổ phần hoạt động trong những ngành, những lĩnh vực bảo
đảm diễn tiết vĩ mô và những cân đối lớn trong nền kinh tế, chỉ giữ 100% vốn
ở các doanh nghiệp hoạt động bảo đảm an ninh, quốc phòng, sản xuất, cung

ứng dịch vụ công ích thiết yếu mà chưa được cổ phần hoá.
2. Giải pháp
Để thực hiện được các phương hướng đề ra đẩy mạnh Cổ phần hoá một
bộ phận Doanh nghiệp một số biện pháp đưa ra là:
- Nâng cao hơn nữa nhận thức của cán bộ Đảng viên về sự cần thiết Cổ
phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước và vai trò quyết định của chủ sở hữu.
- Kiên quyết bằng các phương thức thị trường thực hiện xác định giá
Doanh nghiệp và bán cổ phần.
- Tăng cường chỉ đạo Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước
- Sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách đối với Cổ phần hoá Doanh
nghiệp Nhà nước.
- Phải hình thành các Doanh nghiệp lớn, các tập đoàn kinh tế lớn, đa…
nòng cốt là sở hữu Nhà nước.
- Tiến hành nhanh chóng Cổ phần hoá các ngân hàng thương mại Nhà
nước.

16


KẾT LUẬN
Doanh nghiệp Nhà nước là một bộ phận quan trọng có vai trò cốt lõi
trong hệ thống kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần. Tuy
nhiên trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, nhiều doanh
nghiệp Nhà nước với hình thức cũ đã không còn phù hợp, hoạt động sản xuất
kinh doanh chậm chạp, trì trệ, kém hiệu quả. Cổ phần hóa một bộ phận doanh
nghiệp nhà nước là một trong những biện pháp có tầm chiến lược, là một
trong những hướng đi quan trọng của quá trình cải cách doanh nghiệp nhà
nước. Cổ phần hóa nhằm thúc đẩy đổi mới cơ chế quản lý và đổi mới cơ cấu
hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần hóa còn là biện pháp quan trọng
tách Nhà nước ra khỏi doanh nghiệp, làm cho sản xuất kinh doanh ngày càng

phát triển, có hiệu quả,góp phần thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Cổ phần hóa là một vấn đề lớn của Đảng và Nhà nước ta,nhưng
đồng thời đây cũng là một vấn đề phức tạp, nó động chạm đến tình cảm rất
thiêng liêng của con người Việt Nam đã gắn với các doanh nghiệp nhà nước
trong suốt mấy chục năm qua.Vậy nên, chuyển đổi được một hình thức kinh tế
cũng là một quá trình chuyển đổi về ý thức, nhận thức của con người.
Do đó, chúng ta cần phải tiến hành từng bước chắc chắn,có sức thuyết
phục. Xử lý vấn đề này,đòi hỏi phải có nhận thức sâu sắc,có trách nhiệm cao
và có trình độ tổ chức thực hiện tốt. Báo chí có vai trò quan trọng trong việc
tuyên truyền và hướng dẫn dư luận nâng cao nhận thức cho cán bộ,nhân dân
hiểu rõ về Cổ phần hóa doanh nghiệp và tích cực ủng hộ,thực hiện thành công
quá trình này. ”Làm sao để Cổ phần hóa thực sự đem lại sức mạnh mới cho
các doanh nghiệp nhà nước ?” - Đó là điều mà toàn dân mong muốn và chờ
đợi.

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu sách báo:
1. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, NXB Chính
trị quốc gia (Hà Nội - 2010)
2. Hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện Cổ phần hoá Doanh nghiệp và đổi
mới toàn diện Doanh nghiệp, NXB Tài chính (Hà Nội 10/2003)
3. Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực
tiễn, NXB Khoa học & xã hội (Hà Nội 1996)
4. Luật Doanh nghiệp (1999)
5. Tạp chí "Phát triển kinh tế" tháng 4-2004
Tạp chí "Nghiên cứu Kinh tế" số 333 – tháng 2/2006
Tài liệu mạng

1. Tiểu luận lý luận chung về tích lũy tư bản và vận dụng lý luận đó vào thực
tiễn Việt Nam, />2. Quy luật chung của tích lũy tư bản, />%E1%BA%ADt+chung+c%E1%BB%A7a+t%C3%ADch+lu%E1%BB
%B9+t%C6%B0+b%E1%BA%A3n.htm
3. Cổ phần hóa Doanh nghiệp Nhà nước, />4. Cổ phần hóa, />%A7n_h%C3%B3a
5. Thực trạng và giải pháp />18



×