Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Điều tra ban đầu bệnh nhân điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc methadone tại một số tỉnh miền núi phía bắc việt nam năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (732.89 KB, 81 trang )

CỤC PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS

BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI CẤP CƠ SỞ

Tên đề tài:
ĐIỀU TRA BAN ĐẦU BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN CÁC CHẤT
DẠNG THUỐC PHIỆN BẰNG THUỐC METHADONE TẠI MỘT SỐ TỈNH
MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM NĂM 2014

Chủ nhiệm đề tài: TS. Phạm Đức Mạnh
Đồng chủ nhiệm đề tài: PGS.TS. Lê Thị Hương
Cơ quan thực hiện đề tài: Viện Đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng,
Trường Đại học Y Hà Nội
Cơ quan quản lý đề tài: Cục Phòng, chống HIV/AIDS
Mã số đề tài:

Hà Nội, 12/2014
1


ĐẶT VẤN ĐỀ
Điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện (CDTP) bằng thuốc
Methadone là việc sử dụng thuốc, kết hợp với liệu pháp tư vấn và hành vi để
điều trị toàn diện cho người sử dụng ma túy (SDMT) . Trên thế giới, nhiều
nghiên cứu đã chứng minh điều trị bằng Methadone có hiệu quả trong việc
làm giảm sử dụng heroin , , , ,, dự phòng lây nhiễm HIV , , tăng tuân thủ điều
trị ARV và giảm tỷ lệ tử vong cho những bệnh nhân tham gia điều trị
Methadone .
Tại nước ta, chương trình điều trị bằng Methadone được triển khai thí điểm
tại Hải Phòng và TP Hồ Chí Minh từ năm 2008. Cho đến nay chương trình đã
được triển khai rộng rãi tại 32 tỉnh, thành phố. Một số nghiên cứu tại Việt


Nam chỉ ra rằng chương trình điều trị Methadone có hiệu quả trong việc làm
giảm các hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV [6], cải thiện chất lượng cuộc sống
và sức khỏe cho những người nghiện ma tuý được điều trị thay thế bằng
Methadone , [31],.
Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới, để liệu pháp điều trị Methadone
mang lại lợi ích tối đa, độ bao phủ của chương trình cần đạt được mức tối
thiểu là 20% đến 30% [10]. Tại Việt Nam, khi tỷ lệ này vượt mức 40% thì
dịch HIV ở nhóm người nghiện chích ma túy (NCMT) sẽ được khống chế và
giảm [6]. Tuy nhiên, cho đến nay tại Việt Nam mới chỉ điều trị được khoảng
25.000 người sử dụng ma túy (SDMT) tại 41 tỉnh thành phố trong cả nước.
Trong thời gian qua việc điều trị Methadone gặp khó khăn tại một số địa
phương do thuốc từ nguồn viện trợ và được nhập khẩu nên không chủ động
nguồn thuốc, giá thành cao và việc triển khai chương trình còn phụ thuộc quá
nhiều vào nguồn lực đầu tư, viện trợ , , . Chương trình còn gặp khó khăn do
thiếu nhân lực thực hiện và thủ tục hành chính còn phức tạp . Những khó
khăn này sẽ ảnh hưởng tới độ bao phủ và tính bền vững của chương trình tại
Việt Nam trong tương lai, nhất là ở các vùng khó khăn, miền núi như miền
núi phía Bắc.
Các tỉnh miền núi phía Bắc thường có điều kiện kinh tế, địa lý khó khăn nên
tỷ lệ người nghiện chích ma túy còn cao, khả năng tiếp cận với dịch vụ y tế,
dịch vụ chăm sóc sức khỏe còn nhiều bất cập. Hơn nữa, các tỉnh miền núi
phía Bắc thường có đường biên giới dài; tình hình vận chuyển, buôn bán và
sử dụng ma túy trên địa bàn diễn ra hết sức phức tạp và khó kiểm soát làm
cho công tác điều trị bằng Methadone gặp nhiều thách thức. Tuy nhiên, hiện
nay lại có ít các nghiên cứu về chương trình điều trị bằng Methadone, đặc biệt
là ở các vùng miền núi của cả nước nói chung và các tỉnh miền núi phía Bắc
nói riêng. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “Điều tra ban đầu
về bệnh nhân mới điều trị bằng thuốc Methadone trong dự phòng HIV
tại một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam năm 2014”. Kết quả nghiên
cứu sẽ là cơ sở đánh giá hiệu quả chương trình điều trị nghiện các chất dạng

2


thuốc phiện (CDTP) bằng thuốc Methadone trong tương lai tại các tỉnh miền
núi thuộc vùng này, với các mục tiêu cụ thể như sau:
1. Mô tả kiến thức và hành vi phòng chống HIV/AIDS của bệnh nhân mới
điều trị bằng thuốc Methadone tại một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt nam
năm 2014.
2. Mô tả tình trạng sức khoẻ và chất lượng cuộc sống có liên quan tới sức
khoẻ của bệnh nhân mới bắt đầu tham gia điều trị bằng thuốc Methadone tại
một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam năm 2014.

3


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Các khái niệm cơ bản về điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng
thuốc Methadone và HIV/AIDS:
1.1.1. Các khái niệm cơ bản về điều trị nghiện CDTP bằng thuốc Methadone:
Chất ma tuý là các chất gây nghiện được quy định trong các danh mục do
Chính phủ ban hành.
Chất dạng thuốc phiện (opiats, opioid) là tên gọi chung cho nhiều chất như
thuốc phiện, morphine, heroin, methadone, buprenorphine, LAAM… có biểu
hiện lâm sàng tương tự và tác động vào cùng điểm tiếp nhận tương tự ở não.
Người nghiện ma túy là người sử dụng chất ma tuý và bị lệ thuộc vào các
chất này.
Dung nạp là tình trạng đáp ứng của cơ thể với một chất, được biểu hiện bằng
sức chịu đựng của cơ thể ở liều lượng nhất định của chất đó. Khả năng dung
nạp phụ thuộc vào cơ địa và tình trạng của cơ thể. Khi khả năng dung nạp
thay đổi, cần thiết phải thay đổi liều lượng của chất đã sử dụng để đạt được

cùng một hiệu quả.
Hội chứng cai là trạng thái phản ứng của cơ thể khi cắt hoặc giảm chất ma tuý
đang sử dụng ở những người nghiện ma tuý. Biểu hiện lâm sàng của hội
chứng cai khác nhau phụ thuộc vào loại ma tuý đang sử dụng.
Cai nghiện là ngừng sử dụng hoặc giảm đáng kể chất ma túy mà người
nghiện thường sử dụng (nghiện) dẫn đến việc xuất hiện hội chứng cai và vì
vậy người bệnh cần phải được điều trị.
Nhiễm độc hệ thần kinh trung ương cấp là một tình trạng bệnh lý liên quan
tới việc sử dụng một chất gây nghiện với liều lượng vượt quá khả năng dung
nạp của người bệnh, dẫn tới sự biến đổi bất thường về ý thức, hành vi, cũng
như các hoạt động tâm thần khác của người sử dụng. Tình trạng nhiễm độc
này rất khác nhau ở mỗi người, phụ thuộc vào chất gây nghiện sử dụng, liều
lượng, tình huống sử dụng, đường sử dụng và độ dung nạp với CDTP của
người sử dụng.
Quá liều là tình trạng sử dụng một lượng chất ma túy lớn hơn khả năng dung
nạp của cơ thể ở thời điểm đó, đe dọa tới tính mạng của người sử dụng nếu
không được cấp cứu kịp thời.
Sử dụng chất gây nghiện hợp pháp là việc sử dụng chất gây nghiện được pháp
luật cho phép, vì mục đích chữa bệnh, theo chỉ định chuyên môn.
4


Lạm dụng chất gây nghiện là việc sử dụng chất gây nghiện không đúng chỉ
định chuyên môn, quá liều qui định, và (hoặc) thời gian cho phép.
Kê đơn methadone là việc thầy thuốc cho y lệnh điều trị methadone trong hồ
sơ bệnh án.
Cơ sở điều trị thay thế nghiện các CDTP bằng thuốc methadone trong hướng
dẫn này gọi tắt là cơ sở điều trị methadone.
1.1.2. Các kiến thức cơ bản liên quan đến HIV/AIDS.
1.1.2.1.Định nghĩa về HIV và AIDS.

Theo qui định tại Điều 2 của Pháp lệnh phòng chống nhiễm virus gây ra hội
chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS): HIV (Human
Immunodeficiency Virus) là loại virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch
mắc phải ở người. AIDS (Acquired Immune Deficiency Syndrome) là giai
đoạn cuối của quá trình nhiễm HIV gây tổn thương hệ thống miễn dịch của
cơ thể, làm cho cơ thể không còn khả năng chống lại các tác nhân gây bệnh
và dẫn đến chết người [2].
Hiện nay, nhờ sự phát triển, tiến bộ của khoa học, kỹ thuật mà HIV/AIDS đã
được hiểu sâu sắc và rõ ràng hơn. Theo đó, HIV (Human Immunodeficiency
Virus) là virus suy giảm miễn dịch ở người, có khả năng gây hội chứng suy
giảm miễn dịch mắc phải (AIDS), một tình trạng làm hệ miễn dịch của con
người bị suy giảm cấp tiến, tạo điều kiện cho những nhiễm trùng cơ hội và
ung thư phát triển mạnh làm đe dọa đến mạng sống của người bị nhiễm .
AIDS là viết tắt của Tiếng Anh (Acquered Immuno Deficiency Syndrome) có
nghĩa là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải, viết tắt theo tiếng Pháp là
SIDA (Syndrome de Immuno Deficience Acquise), dùng để chỉ giai đoạn
cuối của quá trình nhiễm HIV/AIDS. Ở giai đoạn này hệ thống miễn dịch của
cơ thể đã suy yếu nên người nhiễm HIV dễ dàng mắc bệnh như ung thư, viêm
phổi, lao, viêm da, lở loét toàn thân hay suy kiệt, nặng dần dẫn đến cái chết .
1.1.2.2. Các thời kỳ, giai đoạn và triệu chứng biểu hiện của nhiễm HIV
Hiện nay, người nhiễm HIV được chia ra làm 4 thời kỳ mắc bệnh .
- Thời kỳ cửa sổ (phơi nhiễm): Thời kỳ này rất dễ lây lan cho người khác vì
số lượng virus trong máu rất cao, nhưng chưa có kháng thể. Người bệnh
thường bị sốt, viêm họng, nổi hạch, nhức đầu, khó chịu, phát ban. Do không
có triệu chứng đặc hiệu nên thầy thuốc thường hay chuẩn đoán chung là
nhiễm siêu vi. Vì vậy, nếu sau khi quan hệ tình dục không an toàn (hay một
sự cố nào gây nghi ngờ nhiễm HIV), bệnh nhân cần xét nghiệm máu (kỹ thuật
5



PCR) tìm ARN của HIV. Kháng thể kháng HIV xuất hiện trong máu muộn
hơn, sau 6 tuần (thông thường là 3 tháng) mới xét nghiệm tìm kháng thể.
- Thời kỳ nhiễm không triệu chứng: Số lượng tế bào T4 giảm, nhưng lượng
T4 không giống nhau ở mỗi người và sự giảm lượng T4 cũng không tỉ lệ
thuận với mức độ nặng của bệnh. Lượng kháng nguyên tăng lên phản ánh sự
nhân lên của virus mà hệ thống miễn dịch của cơ thể không khống chế được.
- Thời kỳ nhiễm có triệu chứng, giai đoạn sớm: Việc chuyển giai đoạn thể
hiện qua các triệu chứng: sốt, vã mồ hôi về đêm, tiêu chảy mãn tính (do HIV
xâm nhập tế bào ở niêm mạc ruột), nổi hạch và đau đầu. Có thể có sarcome
Kaposi xuất hiện sớm. Bắt đầu mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội như: nhiễm
nấm Candida albicans ở niêm mạc miệng, nhiễm khuẩn hô hấp, viêm nha
chu.
- Thời kỳ nhiễm có triệu chứng, giai đoạn muộn: Số lượng tế bào T4 ngày
càng giảm thì khả năng mắc bệnh cơ hội ngày càng tăng. Khi T4 còn 200 tế
bào/µL máu thì dễ bị viêm phổi và viêm màng não do Toxoplasma gondii, khi
còn 100 tế bào/µL máu thì dễ bị nhiễm nhiều loại: Mycobacterium
tuberculosis, nấm Candida albicans ở thực quản, viêm phổi do Herpes virus
và nhiều loại khác.
1.1.2.3. Các con đường lây truyền HIV/AIDS chủ yếu trong cộng đồng.
Vì HIV có nhiều trong máu, tinh dịch, âm đạo của người bị nhiễm nên HIV
chủ yếu lây qua 3 con đường chính:
-Qua hoạt động tình dục: đây được coi là phương thức lây truyền HIV quan
trọng và phổ biến nhất trên thế giới. Khoảng 70-80% tổng số người nhiễm
HIV trên toàn cầu là bị lây nhiễm qua con đường này. Quan hê tình dục sẽ gia
tăng lây nhiễm lên rất nhiều nếu một bên có bệnh lây truyền qua đường tình
dục khác. Liên quan chặt chẽ với lây truyền HIV qua con đường này là cách
thức và số lần hành vi tình dục, như không dùng bao cao su, tình dục quá độ
và tình dục với quá nhiều bạn tình.
-Qua đường máu: đầu tiên phải kể đến tiêm chích ma túy. Tiêm chích ma túy
làm lây truyền HIV gặp ở rất nhiều nơi trên thế giới. Số người tiêm chích ma

túy bị nhiễm HIV rất cao (chiếm 10-50% hoặc cao hơn nữa trong tổng số
người nhiễm HIV). Ngoài ra, truyền máu và các chế phẩm của máu đóng vai
trò quan trọng trong lây truyền HIV nếu các ngân hàng máu không thực hiện
nghiêm túc việc truyền máu an toàn. Cán bộ y tế tiếp xúc trực tiếp với máu
nhiễm HIV và vật sắc nhọn đâm vào da có thể bị nhiễm tới 0,5%.
- Mẹ bị nhiễm HIV truyền cho con lúc mang thai hoặc sinh nở: Phụ nữ nhiễm
virus HIV nếu sinh con sẽ có khả nǎng khoảng 30% là con nhiễm HIV theo
mẹ, có nghĩa là cứ 100 bà mẹ nhiễm HIV sinh con thì có khoảng 30 trẻ bị
6


nhiễm. Virus HIV có thể lây sang trẻ qua nhau thai khi trẻ còn nằm trong
bụng mẹ, qua máu và chất dịch của mẹ khi sinh, và một số nhỏ lây qua sữa
mẹ khi mẹ cho bé bú. Trẻ sơ sinh bị nhiễm HIV thường không sống được quá
ba nǎm.
1.2. Một số đặc điểm dịch tễ học và tình hình nhiễm HIV tại Việt Nam
Theo thống kê của Bộ Y tế vào tháng 4/2010, tổng số trường hợp nhiễm HIV
còn sống là 164.788, số người mắc AIDS còn sống khoảng 37.498.tổng số
trường hợp đã chết do AIDS: 45.564. Trong số đó, có 85% là nam, 57% do
tiêm chích ma túy. Báo cáo cho thấy, đa số người nhiễm HIV/AIDS mới được
phát hiện ở lứa tuổi còn trẻ (nhóm tuổi từ 20-39 chiếm tới 90%). Khoảng 5%
PNBD có xét nghiệm HIV dương tính. Tuy nhiên, Tổ chức Y tế thế giới ước
lượng rằng ở Việt Nam có tới hơn 80% trường hợp nhiễm HIV không được
báo cáo và 77% là lây truyền qua đường tình dục .
Theo báo cáo “Tổng kết công tác phòng, chống HIV/AIDS năm 2013 và định
hướng kế hoạch năm 2014”, tính đến hết 30/11/2013, tức là sau khoảng hơn 3
năm so với thống kê của Bộ Y tế vào 4/2010, các con số liên quan đến HIV
đã có sự tăng lên khá lớn. Số lũy tích các trường hợp báo cáo hiện nhiễm HIV
là 216.254 trường hợp, số bệnh nhân AIDS là 66.533 và đã có 68.977 trường
hợp tử vong do AIDS. Riêng trong 11 tháng đầu năm 2013, cả nước xét

nghiệm phát hiện mới 11.567 trường hợp nhiễm HIV, trong đó 5.493 bệnh
nhân AIDS và 2.097 người tử vong do AIDS. Tỷ lệ nhiễm HIV toàn quốc
theo báo cáo giám sát là 248/100.000 dân. Điện Biên vẫn là tỉnh có tỷ lệ
nhiễm HIV trên 100.000 dân cao nhất cả nước (1029), tiếp đến là Thành phố
Hồ Chí Minh (682), thứ 3 là Thái Nguyên (632). So sánh tỷ lệ nhiễm
HIV/100.000 dân theo khu vực thì thấy tỷ lệ tại miền Đông Nam Bộ cao nhất
cả nước (408/100.000), khu vực miền núi phía Bắc đứng thứ hai với
357/100.000 dân mắc HIV.

7


Biểu đồ 1.1: số phát hiện HIV/AIDS-tử vong qua các năm và so sánh
tỷ lệ nhiễm HIV/100.000 dân của cả nước và các khu vực.
Phân bố người nhiễm HIV theo giới: tỷ lệ nam giới nhiễm HIV chiếm 67,5%,
cao hơn gấp 2 lần so với nữ giới, nữ giới chiếm 32,5%, không thay đổi so với
cùng kỳ năm trước. Ngoài ra, theo dõi qua các năm tỷ lệ nhiễm HIV tăng dần
trong nhóm nữ giới.

Biểu đồ 1.2: Phân bố người nhiễm HIV theo giới và năm
Phân bố nhiễm HIV mới phát hiện trong năm 2013 chủ yếu vẫn tập trung ở
nhóm tuổi từ 20-39, chiếm tới 79% tổng số người nhiễm. So sánh qua các
năm, tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm tuổi từ 30-39 có xu hướng tăng dần. vào
cuối năm 2012, tỷ lệ người nhiễm HIV ở nhóm tuổi 30-39 tuổi chiếm tỷ lệ
cao nhất với 44,6% và trong năm 2013 tỷ lệ này là 45,1% trong khi tỷ lệ
người nhiễm HIV trong nhóm 20-29 tuổi có xu hướng giảm, đến cuối năm
2012 tỷ lệ người nhiễm HIV trong nhóm 20-29 tuổi chiếm 35,1% và trong
năm 2013 tỷ lệ là 32,9%. Cùng với đó tỷ lệ người nhiễm HIV trong nhóm 4049 tuổi cũng có xu hướng tăng chậm đến hết năm 2012 tỷ lệ người nhiễm
HIV trong nhóm này là 12,2% và trong năm 2013 tỷ lệ là 13,7%


Biểu đồ 1.3: phân bố tỷ lệ nhiễm HIV theo nhóm tuổi và năm .
8


Nếu xem xét phân bố người lây nhiễm HIV theo đường truyền thì tỷ lệ người
nhiễm HIV được phát hiện lây truyền qua đường tình dục ngày càng gia tăng
trong khi lây truyền qua đường máu có xu hướng giảm. Trong năm 2013, số
người lây truyền qua đường tình dục chiếm tỷ lệ cao nhất 45% tiếp đến số lây
truyền qua đường máu chiếm 42,4%, tỷ lệ nhiễm HIV lây truyền từ mẹ sang
con 2,4%, vẫn có 10,1% tỷ lệ người nhiễm HIV không rõ đường lây truyền.
Theo kết quả có được từ Hệ thống giám sát trọng điểm (GSTĐ) HIV (được
triển khai từ năm 1994 tại 10 tỉnh/thành phố. Hệ thống này đã được mở rộng,
tới năm 2013 có 41 tỉnh/thành phố tham gia, chương trình GSTĐ được thực
hiện trên nhóm phụ nữ bán dâm (PNBD), người tiêm chích ma túy (TCMT),
nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM), bệnh nhân nam mắc STI, bệnh nhân
lao, phụ nữ mang thai và thanh niên khám tuyển nghĩa vụ quân sự) cho thấy
rằng: Chiều hướng nhiễm HIV trong nhóm NCMT giảm dần qua các năm. Tỷ
lệ nhiễm HIV trong nhóm nam NCMT tại khu vực miền Bắc có xu hướng
giảm dần qua các năm nhưng vẫn cao hơn so với tỷ lệ chung của toàn quốc. Ở
nhóm phụ nữ bán dâm, tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong năm 2013 là 2,6% (giảm
0,1% so với năm 2012). Tỷ lệ này tại khu vực miền Bắc mặc dù có xu hướng
giảm nhưng vẫn ở mức cao so với tỷ lệ chung của toàn quốc. Phân tích chiều
hướng nhiễm HIV trong nhóm phụ nữ bán dâm qua các năm cho thấy tỷ lệ
tăng lên nhanh chóng từ 0,6% năm 1994 lên 5,9% năm 2012. Trong giai đoạn
2002 đến 2010, tỷ lệ có sự biến động không ổn định, tuy nhiên trong 3 năm
trở lại đây, tỷ lệ này có xu hướng giảm dần. Ngoài ra, tuy tỷ lệ nhiễm HIV
trong nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới vẫn ở mức thấp so với các đối
tượng còn lại nhưng lại đang có xu hướng tăng nhẹ.
Vậy nhìn chung, tình hình lây nhiễm HIV trong nước ta vẫn đang tồn tại
nhiều vấn đề phức tạp, đồng thời cũng đang nổi lên những vấn đề mới cần

giải quyết.
1.3. Chương trình điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện
bằng thuốc Methadone:
1.3.1. Lịch sử điều trị Methadone
Methadone là một chất dạng thuốc phiện (CDTP) tổng hợp có tác dụng kéo
dài được sản xuất với mục đích ban đầu là làm thuốc giảm đau trong Chiến
tranh thế giới thứ II. Methadonecó tác dụng dược lý tương tự như các CDTP
khác (đồng vận) nhưng không gây nhiễm độc hệ thần kinh trung ương và
không gây khoái cảm ở liều điều trị, có thời gian bán huỷ dài (trung bình là
24 giờ) nên chỉ cần sử dụng 1 lần trong 1 ngày là đủ để không xuất hiện hội
chứng cai. Methadone có độ dung nạp ổn định nên ít phải tăng liều khi điều
trị lâu dài .

9


Năm 1964, tại New York, bác sỹ Marie Nyswander và Vincent Dole nghiên
cứu về thuốc điều trị cho những người nghiện heroin, họ phát hiện ra
methadone giúp người bệnh của họ ngừng sử dụng heroin và hầu như không
bị tăng liều khi dùng trong thời gian dài, do đó liệu pháp điều trị duy trì bằng
thuốc methadone ra đời . Tiếp sau đó các nước cũng bắt đầu sử dụng
methadone trong điều trị giảm tác hại của nghiện chất: như Hồng Kông bắt
đầu đưa methadone vào điều trị năm 1972, tiếp sau đó vào năm 1979 là Thái
Lan. Sau năm 2000, có rất nhiều nước đã áp dụng điều trị methadone, trong
đó có nhiều nước ở khu vực Đông Nam Á như Indonexia (2003), Trung Quốc
(4/2004), Malayxia (10/2005), Đài Loan (2006), Việt Nam (2008),…
1.3.2.Biện pháp điều trị bằng thuốc Methadone
Theo Cơ quan điều trị lạm dụng ma túy và rượu Hoa Kỳ (SAMHSA), điều trị
thay thế hay còn gọi là điều trị hỗ trợ bằng thuốc là việc sử dụng thuốc, kết
hợp với liệu pháp tư vấn và hành vi để điều trị toàn diện cho người sử dụng

ma tuý. Các nghiên cứu chỉ ra rằng khi điều trị rối loại nghiện ma túy, sự kết
hợp giữa thuốc và liệu pháp hành vi là biện pháp điều trị hiệu quả và thành
công nhất. Còn theo Bộ Y tế Việt Nam, điều trị thay thế nghiện các CDTP
bằng thuốc methadone là một điều trị lâu dài, có kiểm soát, giá thành rẻ, được
sử dụng theo đường uống, duới dạng siro nên giúp dự phòng các bệnh lây
truyền qua đường máu như HIV, viêm gan B, viêm gan C, đồng thời giúp
người bệnh phục hồi chức năng tâm lý, xã hội, lao động và tái hoà nhập cộng
đồng . Ðiều trị methadone chỉ áp dụng với người nghiện CDTP (heroin) mà
không áp dụng với những trường hợp nghiện rượu, thuốc lá, benzodiazepine
và ma túy tổng hợp dạng amphetamine .
Trong những thập kỷ đầu tiên sau khi ra đời, phương thức điều trị
methadone được coi là một biện pháp điều trị tạm thời nhằm mục đích cuối
cùng là giảm liều và bệnh nhân sẽ ngừng sử dụng methadone một cách hoàn
toàn. Ngày nay, điều trị duy trì methadone không còn được coi là một biện
pháp trị liệu tạm thời nữa mà là một biện pháp điều trị lâu dài, thường là suốt
đời. Như vậy nếu bệnh nhân thỉnh thoảng có một đợt dùng lại heroin (hoặc
các chất ma túy khác) là bằng chứng chứng tỏ sự thất bại của liệu pháp điều
trị bằng methadone.Việc tái sử dụng ma túy là một chỉ số đánh giá mức độ
tuân thủ điều trị của bệnh nhân tham gia điều trị Methadone. Đã có nhiều
nghiên cứu cho thấy rằng đối với nhiều bệnh mạn tính như bệnh tim mạch,
cao huyết áp hay đái tháo đường thì mức độ tuân thủ điều trị thường ở mức
thấp.
Hiện nay trên thế giới cũng như ở Việt Nam, việc điều trị thay thế nghiện các
CDTP bằng thuốc methadone nhằm 3 mục đích chủ yếu sau: 1, Giảm tác hại
do nghiện các CDTP gây ra như: lây nhiễm HIV, viêm gan B, viêm gan C do
sử dụng chung dụng cụ tiêm chích, tử vong do sử dụng quá liều các CDTP và
hoạt động tội phạm; 2. Giảm sử dụng các CDTP bất hợp pháp, giảm tỷ lệ
10



tiêm chích CDTP; 3. Cải thiện sức khoẻ và giúp người nghiện duy trì việc
làm, ổn định cuộc sống lâu dài, tăng sức sản xuất của xã hội.
1.3.3. Lợi ích, ưu điểm và nhược điểm của điều trị Methadone với người
bệnh.
Điều trị methadone mang rất nhiều lợi ích cho bệnh nhân, cụ thể như:






Tác dụng liên tục và kéo dài;
Chi phí thấp;
Hợp pháp;
Dễ sử dụng bằng đường uống.
Ðược cung cấp các dịch vụ hỗ trợ khác như: tư vấn tâm lý, chăm
sóc sức khỏe và các hình thức hỗ trợ khác.
• Giảm nguy cơ quá liều heroin
Ðiều này có nghĩa với những người không thể từ bỏ heroin, methadone là
thuốc có độ an toàn cao và giúp người bệnh dần dần hồi phục khỏi trạng thái
nghiện .
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra ưu điểm của điều trị duy trì bằng thuốc
methadone là có thể giúp người nghiện heroin: 1, Dừng sử dụng hoặc giảm
đáng kể luợng heroin sử dụng; 2, Dừng tiêm chích heroin (hoặc giảm đáng kể
tần suất tiêm chích và giảm nguy cơ lây nhiễm các bệnh lây truyền qua đường
máu và nguy cơ quá liều); 3, Cải thiện tình trạng sức khỏe, dinh duỡng; 4,
Dừng các hành vi phạm pháp liên quan đến việc kiếm tiền mua heroin; 5, Cải
thiện và ổn định quan hệ với gia đình; 6, Có công việc ổn định hơn và học tập
tốt hơn. Ðiều đó có nghĩa là khi tham gia chương trìnhmethadone, bệnh nhân
có cơ hội tiếp cận với nhiều dịch vụ ytế và xã hội khác. Do đó, họ sẽ ít phải

chịu áp lực trong cuộc sống, giảm nguy cơ sử dụng và cuối cùng không dùng
heroin nữa.
Tuy nhiên, nhược điểm của điều trị bằng methadone cũng có khá nhiều, đó là:
1, Bệnh nhân phải cam kết đến cơ sở diều trị hàng ngày để uống thuốc; 2,
Khó thực hiện các chuyến đi, các kỳ nghỉ xa khỏi nơi cơ trú; 3, Có thể gặp
các tác dụng phụ ảnh hưởng đến sức khỏe; 4, Vẫn bị lệ thuộc vào thuốc cho
đến khi kết thúc chương trình điều trị. Methadone là một thuốc có tác dụng
mạnh và có thể nguy hiểm nếu dùng không đúng cách. Nó cũng có thể gây
tình trạng quá liều khi sử dụng quá nhiều methadone .
1.3.4. Các chính sách liên quan và tình hình điều trị thay thế nghiện các chất
dạng thuốc phiện bằng Methadone tại nước ta.
Điều trị thay thế bằng Methadone còn là một lĩnh vực còn khá mới ở Việt
Nam. Chương trình điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc
11


Methadone đã được triển khai thí điểm tại thành phố Hải Phòng và thành phố
Hồ Chí Minh với 06 cơ sở điều trị từ tháng 4/2008. Ngay sau đó, vào tháng
10/2008, Bộ Y tế đã ra quyết định số 4230/QĐ-BYT về việc ban hành tiêu chí
lựa chọn doanh nghiệp dược phẩm tham gia sản xuất thuốc methadone tại
Việt Nam để phục vụ cho đề án thí điểm này. Ngày 15/11/2012, Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 96/2012/NĐ-CP về điều trị nghiện các chất dạng
thuốc phiện bằng thuốc thay thế. Ngay sau khi Chính phủ ban hành Nghị định
số 96/2012/NĐ-CP, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 12/2013/TT-BYT ngày
12/4/2013 về việc hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 96. Cũng
theo nội dung của hai văn bản này, trong giai đoạn tiếp theo, chương trình
Methadone có thể được mở rộng với tốc độ nhanh hơn, cứ mỗi quận/huyện có
trên 250 người nghiện chích ma túy thì UBND tỉnh/thành phố phải thành lập
cơ sở điều trị Methadone. Liên quan đến cơ sở điều trị methadone này thì vào
ngày 15/10/2013, Bộ Y tế đã có công văn số 6544/BYT-KH-TC về việc

hướng dẫn thực hiện khung giá dịch vụ điều trị nghiện các chất dạng thuốc
phiện tại các cơ sở điều trị nghiện CDTP quy định tại Nghị định số
96/2012/NĐ-CP. Sở Y tế các tỉnh/thành phố cần căn cứ theo công văn này để
xác định khung giá chi tiết của từng dịch vụ khi thực hiện xã hội hóa chương
trình Methadone tại địa phương. Trong năm 2013, nhiều tỉnh trên cả nước đã
triển khai đồng bộ “Dự án điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng
thuốc Methadone mô hình xã hội hóa” theo chỉ thị của chính phủ với mục tiêu
mở rộng và duy trì hiệu quả của chương trình điều trị bằng methadone. Với
các hoạt động chỉ đạo cụ thể như vậy, tính đến ngày 30/11/2013, trên toàn
quốc đã có 75 cơ sở điều trị Methadone được triển khai và dự kiến sẽ còn
nhiều hơn nữa các cơ sở điều trị Methadone được mở trong tương lai gần.Tuy
vậy cho đến nay, Việt Nam cũng mới chỉ điều trị được khoảng 17.000 người
nghiện tại 32 tỉnh, thành phố trong cả nước. Trong khi đó, mục tiêu mà Chính
phủ và Nhà nước đề ra là cuối năm 2015 sẽ điều trị cho khoảng 80.000 người
nghiện ma túy tại 30 tỉnh, thành phố. Nhà nước rất quan tâm đến vấn đề này,
cụ thể là vào ngày 20/6/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số
1008/QĐ-TTg về việc giao chỉ tiêu bệnh nhân được điều trị thay thế nghiện
các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone năm 2014 và 2015.Thêm
vào đó, để thực hiện được mục tiêu đặt ra trong bối cảnh nguồn tài trợ tài
chính quốc tế đang rút dần và sẽ rút hẳn khỏi nước ta vào năm 2015, vào
ngày 31/10/2014, Thủ tướng chính phủ đã ra chỉ thị số 32/CT-TTg về đẩy
mạnh điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế. Trong
văn bản này đã nêu rõ trách nhiệm của từng đơn vị trong công tác điều trị
methadone chung của cả nước: như UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW
cần rà soát, cập nhật số lượng người nghiện chất dạng thuốc phiện để lập kế
hoạch, cân đối thu chi từ đó thực hiện chương trình tốt hơn; Bộ Y tế thì cần
đôn đốc, chỉ đạo thành lập các cơ sở điều trị methadone, kết hợp cùng với Bộ
tài chính, Bộ Công an trong thực hiện các hoạt động khác .

12



Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới, để liệu pháp điều trị này có thể
mang lại lợi ích tối đa, độ bao phủ của Chương trình cần đạt được mức tối
thiểu là 20% đến 30% [10]. Nhận xét của Chuyên gia y tế Việt Nam cũng cho
biết khi độ bao phủ điều trị nghiện bằng thuốc Methadone vượt mức 40% thì
dịch HIV ở nhóm người nghiện chích ma túy được khống chế và giảm [6].
Bởi vậy, Nhà nước cần có thêm nhiều biện pháp cụ thể, rõ ràng hơn nữa để
đạt được mục tiêu này.
1.3.5. Những ưu điểm và hạn chế trong công tác điều trị Methadone tại Việt
Nam
- Ưu điểm:
Chương trình điều trị Methadone tại Việt Nam có nhiều ưu điểm rõ rệt. Ưu
điểm đầu tiên phải kể đến là từ khi được triển khai thí điểm tại Hải Phòng và
Thành phố Hồ Chí Mình, chương trình đã nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của
nhân dân, đặc biệt là những người bị nhiễm HIV và người thân, gia đình của
họ. Chương trình đã và đang từng bước được triển khai trên diện rộng. Điều
trị Methadone luôn hướng tới những đối tượng dễ bị tổn thương trong cộng
đồng và các đối tượng chính sách, điều đó đã cho thấy chính sách nhân đạo rõ
ràng, mang tính nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta. Minh chứng thể
hiện rõ việc này là hoạt động triển khai mô hình điều trị nghiện các dạng chất
thuốc phiện bằng thuốc thay thế methadone trong các trại giam, tạm giam và
trường giáo dưỡng cho phạm nhân (Cục Y tế-Bộ Công An đã phối hợp với
Cục Phòng, chống HIV/AIDS - Bộ Y tế xây dựng kế hoạch triển khai thí
điểm điều trị nghiện các dạng thuốc phiện bằng methadone trong trại giam,
tạm giam).
- Hạn chế:
Mặc dù, chương trình điều trị bằng thuốc Methadone triển khai trên thực tiễn
có hiệu quả, được dư luận xã hội đánh giá cao kết quả điều trị, nhưng việc
triển khai chương trình vẫn gặp khó khăn bất cập trong việc mở rộng quy mô

và nâng cao chất lượng điều trị. Trong thời gian đầu mới triển khai, theo các
chuyên gia y tế, việc điều trị bằng thuốc methadone gặp nhiều trở ngại do
thiếu thuốc . Vì thực tế, trong giai đoạn đầu triển khai chương trình, toàn bộ
thuốc sử dụng cho việc điều trị đều dược nhập khẩu từ nước ngoài, thủ tục
nhập khẩu thuốc mất nhiều thời gian nên trong thời gian đầu triển khai có sự
hạn chế tăng bệnh nhân cũng như mở rộng chương trình. Ngoài ra, thuốc
methadone nằm trong danh mục thuốc gây nghiện, việc phân phối, cấp phát
và bảo quản thuốc phải thực hiện theo những quy định rất chặt chẽ cũng là
một yếu tố ảnh hưởng đến việc mở rộng chương trình.
Hạn chế khác của chương trình điều trị methadone tại nước ta là hiện nay,
chương trình này còn quá phụ thuộc vào những nguồn lực đầu tư, viện trợ từ
nước ngoài, nhà nước chưa nắm thế chủ động về tài chính. Tại Hải Phòng, có
13


tới 80-90% nguồn lực là từ các tổ chức nước ngoài tài trợ cho chương trình
phòng chống HIV/AIDS bao gồm cả methadone. Tuy nhiên từ năm 2013, một
số nhà tài trợ đã rút khỏi Hải Phòng (CESVI, PSI, NAV…), một số nhà tài trợ
khác (Quỹ hỗ trợ khẩn cấp cho phòng, chống AIDS của Tổng thống Hoa Kỳ PEPFAR, Ngân hàng Thế giới - WB, Quỹ Toàn cầu (chiếm tới 80% kinh phí
tài trợ) đã thông báo cắt giảm kinh phí hỗ trợ đến năm 2015. Mặc dù vậy,
theo các chuyên gia điều hành chương trình, hiện tại, các tổ chức quốc tế đã
cắt giảm tới 95% kinh phí cho chương trình. Chỉ còn tổ chức PEPFAR (Mỹ)
cam kết tài trợ cho 2 điểm (An Dương, An Lão) và Quỹ toàn cầu tài trợ cho 9
điểm còn lại . Chính bởi vậy, nước ta sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi nguồn
viện trợ quốc tế bị cắt giảm hoàn toàn. Thêm vào đó, theo Nghị định số
96/2012NĐ-CP của Chính phủ quy định về điều trị các chất dạng thuốc phiện
bằng methadone thì ngân sách nhà nước đảm bảo toàn bộ cho các đối tượng
bắt buộc cai nghiện tập trung và 5 đối tượng chính sách (thương binh, bệnh
hiểm nghèo, nghèo, cận nghèo, người cô đơn) , mà thực tế, đối tượng này lại
chiếm một tỷ lệ rất ít trong những người điều trị. Điều này có nghĩa là phần

lớn những người còn lại sẽ phải chịu gánh nặng rất lớn nếu viện trợ bị cắt.
Theo tính toán của Viện vệ sinh dịch tễ Trung ương, chỉ có 40% bệnh nhân
đang điều trị methadone ở Hải Phòng mong muốn tham gia chương trình với
điều kiện phải chi trả ở mức đóng góp thấp nhất, khoảng 450.000 đồng/tháng
(tức 15.000 đồng/ngày), 60% còn lại cho biết sẽ từ bỏ chương trình nếu mức
quá cao, ngoài khả năng của họ .
Theo thông tin từ Bộ Y tế, một hạn chế nữa là các địa phương gặp khó khăn
về nhân lực, không có đủ biên chế để bố trí cho các cơ sở điều trị
methadone. Lý do là vì mức lương hiện tại của nhân viên là chưa thỏa đáng
(1.500.000đồng/tháng cho nhân viên tại Hải Phòng) cho công việc kéo dài
liên tục tất cả các ngày trong năm. Trong khi, chính sách cho các nhân viên
này còn nhiều hạn hẹp nên nhiều người không tha thiết với công việc và
không muốn gắn bó dài lâu. Cùng với đó, do thiếu sự đồng thuận, phối hợp
chặt chẽ giữa các bộ, ngành liên quan như Bộ Y tế, Bộ Lao động Thương
binh và Xã hội, Bộ Công An, nên ngân sách đầu tư cho chương trình
Methadone chưa được thỏa đáng và tài chính phân bổ giữa các Bộ cũng chưa
hiệu quả. Ngoài ra, thủ tục hành chính để đưa người nghiện vào điều trị bằng
Methaodone vẫn còn chưa thuận lợi và phức tạp, trong đó có việc phải có xác
nhận của chính quyền địa phương là không thuộc đối tượng phải đưa đi cai
nghiện bắt buộc . Không chỉ vậy, chương trình điều trị methadone được triển
khai chậm và hiệu quả thấp ở các địa bàn xa xôi, hẻo lánh, ở các vùng khó
khăn, miền núi do nhiều lý do như giao thông khó khăn, phong tục tập quán
lạc hậu tại địa phương, người dân chưa có ý thức tự giác và nhận thức chưa
đầy đủ về lợi ích, hiệu quả mà việc điều trị này mang lại.
Nhìn chung, điều trị bằng methadone tại nước ta đã đạt được hiệu quả đáng
kể, nhưng những kết quả này lại khó có thể tồn tại được bền vững vì các khó
14


khăn và hạn chế nêu trên. Vậy vậy, Chính phủ và Nhà nước cần có các biện

pháp chính sách hữu hiệu hơn để giải quyết những hạn chế nhằm nâng cao
chất lượng và duy trì chương trình điều trị Methadone cho bệnh nhân nghiện
chất dạng thuốc phiện.
1.4. Các nghiên cứu về điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng thuốc
Methadone trên thế giới và Việt Nam.
1.4.1. Các nghiên cứu trên thế giới.
Các nghiên cứu trên Thế giới chủ yếu tập trung vào đánh giá hiệu quả và các
yếu tố ảnh hưởng đến kết quả điều trị nghiện CDTP bằng thuốc Methadone.
Các kết quả cho thấy điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc Methadone có
hiệu quả trong việc làm giảm lây nhiễm HIV và các hậu quả do sử dụng ma
túy gây ra.
Trên thế giới, điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc Methadone (gọi tắt là
điều trị thay thế bằng Methadone) được triển khai tại Mỹ từ năm 1965 . Đây
là một giải pháp mới trong hoạt động can thiệp dự phòng lây nhiễm HIV mà
đã được triển khai trên 80 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới như Úc, Mỹ,
Hà Lan, Ấn Độ, Thái Lan, Myanmar, Trung Quốc, Hồng Kông… Toàn thế
giới đã có trên 1.000.000 người được điều trị thay thế. Chương trình điều trị
methadone đã góp phần giảm đáng kể tội phạm, giảm sự lây truyền HIV
trong nhóm người nghiện ma tuý và từ nhóm người nghiện ma tuý ra cộng
đồng. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh chương trình có hiệu quả trong việc
làm giảm sử dụng heroin ,,,,, dự phòng lây nhiễm HIV ,, tăng tuân thủ điều trị
ARV và giảm tỷ lệ tử vong trong số những bệnh nhân tham gia điều trị
Methadone .
Tại các nước đã phát triển, nhiều nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng có đối
chứng, nghiên cứu dọc thời gian và quan sát đã được thực hiện và chỉ ra rằng
Methadone có kết quả: 1) giảm sử dụng chất dạng thuốc phiện phi pháp, 2)
giảm hành vi có liên quan đến tiêm chích ma túy, 3) giảm hành vi phạm pháp,
4) giảm tử vong do quá liều, và 5) giảm nguy cơ dùng lại bơm kim tiêm làm
lan tràn HIV/AIDS , .
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã nghiên cứu về kết quả điều trị thay thế bằng

methadone tại các nước mới triển khai chương trình methadone từ đầu thập
niên 2000 như ở Trung quốc, Thái Lan, Indonesia . Trên các tạp chí chuyên
đề, và trên các diễn đàn quốc tế như Hội nghị AIDS 2011 Busan, các nhà
nghiên cứu Trung quốc, Thái Lan, Indonesia cũng đã báo cáo hiệu quả của
điều trị thay thế tình trạng nghiện chất dạng thuốc phiện trong lĩnh vực
HIV/AIDS và dự phòng tại một số các nước đang phát triển hoặc đang
chuyển đổi (developing and transitional economies) ở châu Á, Đông Âu. Tiêu
chí đánh giá của các nghiên cứu này đều tập trung vào 5 yếu tố kể trên .
15


Nghiên cứu vào giữa thập kỷ 80 của Ball JC và Ross A về hiệu quả của việc
điều trị thay thế bằng Methadone cho thấy 77% bệnh nhân ngừng sử dụng
Heroin bằng đường tiêm chích trong 6 tháng đầu tiên tham gia điều trị, sau 4
đến 5 năm điều trị tỷ lệ bệnh nhân ngừng sử dụng Heroin tăng lên tới 92%,
96% bệnh nhân báo cáo không dùng ma túy tổng hợp và 83% bệnh nhân
không dùng Cocaine .
Chương trình Methadone cũng làm giảm các hành vi nguy cơ làm lây nhiễm
HIV như tiêm chích ma túy, sử dụng chung bơm kim tiêm, có nhiều bạn tình
hay bán dâm . Điều trị thay thế bằng Methadone đường uống làm giảm nguy
cơ lây nhiễm HIV trong nhóm người nghiện các CDTP do giảm việc tiêm
chích, giảm tỷ lệ sử dụng chung BKT. Nghiên cứu tại Mỹ cho thấy người
NCMT không được điều trị bằng Methadone có tỷ lệ huyết thanh dương tính
với HIV tăng từ 21% tới trên 51% sau 5 năm theo dõi; với nhóm người
NCMT được điều trị bằng Methadone, tỷ lệ này chỉ tăng từ 13% đến 21%.
Metzger DS và cộng sự đã tiến hành một nghiên cứu trong 18 tháng về nhóm
người SDMT có HIV âm tính tham gia điều trị Methadone và không điều trị
Methadone, kết quả cho thấy sau 18 tháng, tỷ lệ có HIV dương tính trong
nhóm bệnh nhân điều trị Methadone là 3,5% và tỷ lệ này ở nhóm không được
điều trị Methadone là 22% ,.

Tỷ lệ tử vong ở người nghiện Heroin tham gia điều trị thay thế bằng
Methadone thấp hơn ở nhóm người không được điều trị bằng Methadone từ 3
đến 4 lần tùy theo nghiên cứu. Theo nghiên cứu của Trường Y tế công cộng,
đại học Nam Trung, Trung Quốc, chất lượng cuộc sống của những người
tham gia điều trị cũng được cải thiện rõ rệt, sức khoẻ thể chất và sức khoẻ
tâm thần là những lĩnh vực được cải thiện đáng kể nhất trong những người
nghiện ma tuý được điều trị thay thế bằng Methadone. Bên cạnh đó,
Methadone cũng giúp bệnh nhân hồi phục khả năng lao động và cải thiện các
mối quan hệ trong xã hội, . Đặc biệt, điều trị thay thế bằng Methadone cho
thấy rõ hiệu quả về mặt kinh tế. Theo kinh nghiệm quốc tế, chương trình điều
trị thay thế bằng Methadone sẽ giúp cộng đồng tiết kiệm được từ 7 đến 10 lần
các chi phí liên quan đến luật pháp, hành pháp, y tế, xã hội, bảo hiểm, hải
quan v.v…,.
Như vậy, các nghiên cứu trên Thế giới cho thấy điều trị nghiện các CDTP
bằng thuốc Methadone có hiệu quả trong việc làm giảm nguy cơ lây nhiễm
HIV và các hậu quả do sử dụng ma túy gây ra.
Ngoài các nghiên cứu về hiệu quả của chương trình điều trị Methadone, trên
thế giới cũng có nhiều nghiên cứu tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến việc
tiếp tục sử dụng Heroin trên bệnh nhân đang điều trị bằng thuốc Methadone.
Thuốc Methadone tương tác với thuốc kháng virus ARV, khi sử dụng cả 2
loại thuốc thì thuốc ARV sẽ làm giảm nồng độ thuốc Methadone trong máu .
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy mối tương quan giữa liều sử dụng Methadone
16


và hành vi sử dụng ma túy: bệnh nhân sử dụng liều Methadone càng cao thì
càng giảm khả năng sử dụng ma túy trong quá trình điều trị . Bệnh nhân càng
tham gia lâu vào chương trình điều trị Methadone thì tính tuân thủ của bệnh
nhân càng giảm . Bệnh nhân tuân thủ điều trị kém thì khả năng tái nghiện
càng cao .

1.4.2. Các nghiên cứu tại Việt Nam
1.4.2.1. Các nghiên cứu về hiệu quả chương trình điều trị Methadone:
Cho tới nay, các nghiên cứu về chương trình Methadone được thực hiện ở
Việt Nam chủ yếu tập trung vào đánh giá hiệu quả của chương trình, có ít
nghiên cứu về kiến thức, thái độ và thực hành của những người tham gia điều
trị Methadone về phòng chống HIV/AIDS.
Các nghiên cứu tại Việt nam cũng cho thấy hiệu quả tương tự như nhiều
nghiên cứu trước đó trên thế giới, đó là việc giảm SDMT bất hợp pháp, tăng
khả năng lao động, giảm chi tiêu cho việc mua ma túy và giảm hành vi sai
phạm và cải thiện sức khỏe thể chất, tâm thần.
Kết quả nghiên cứu tại Hải Phòng và TP Hồ Chí Minh trong giai đoạn thí
điểm tại 6 cơ sở điều trị Methadone hoạt động từ tháng 4/2008 cho thấy, sau
3 và 6 tháng theo dõi việc sử dụng heroin và các hành vi nguy cơ lây nhiễm
HIV giảm đi đáng kể. Đánh giá thang điểm Chất lượng sống của Tổ chức Y
tế Thế giới tăng lên: về thể chất (81 so với 69), tâm lý (69 so với 56) và xã
hội (56 so với 50). Tỉ lệ người tham gia điều trị có việc làm tăng từ 55% lên
66% (p=0,028). Chi phí ước tính của chương trình methadone là 15.000 –
20.000 VNĐ/người bệnh/ngày. Tuy nhiên, tất cả 06 cơ sở điều trị tham gia
nghiên cứu này đều cung cấp dịch vụ miễn phí [6].
Báo cáo gần đây nhất của tỉnh Điện Biên cũng đã cho thấy nhiều kết quả khả
quan về hiệu quả của chương trình. Sau 3 năm triển khai chương trình điều trị
Methadone tại Điện Biên cho thấy chỉ còn 7,3% người sử dụng ma túy không
thường xuyên, tỷ lệ bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt là 78,5%; hầu hết các bệnh
nhân đánh giá về chương trình điều trị Methadone và đánh giá chất lượng
hoạt động của cơ sở điều trị Methadone là tốt và rất tốt (>98%).
Nghiên cứu của Hoàng Đình Cảnh và Nguyễn Thanh Long vào năm 2009 cho
biết rằng, điều trị bằng Methadone đã đem lại nhiều kết quả khả quan. Cụ thể,
từ khi bắt đầu điều trị đến thời điểm 2009, chưa có bệnh nhân nào xuất hiện
các tác dụng phụ nghiêm trọng. Tác dụng phụ hay gặp nhất là táo bón (61%),
các triệu chứng khác như suy giảm tình dục, mất ngủ, buồn nôn… chiếm tỷ lệ

thấp (10%). Tuy nhiên, các triệu chứng này lại nhanh chóng mất đi theo thời
gian điều trị của bệnh nhân. Chưa có bệnh nhân nào bị tử vong do tác dụng
phụ của thuốc. Ngoài ra, tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm bệnh nhân trước điều
trị là 37,6% tại thời điểm năm 2008, đến năm 2009, tỷ lệ này đã giảm rất rõ
17


rệt. Thêm vào đó, trước thời gian điều trị Methdone có 24% bệnh nhân tại
Hải Phòng và 44% bệnh nhân tại TP Hồ Chí Minh sử dụng chung bơm kim
tiêm, nhưng đến thời điểm nghiên cứu lại không còn. Tỷ lệ bệnh nhân sử
dụng bao cao su khi quan hệ tình dục ở bệnh nhân điều trị bằng Methadone
tăng lên đáng kể (tăng lên khoảng 19% trong khoảng thời gian trước và sau
điều trị Methadone). Bệnh nhân còn được cải thiện về thể chất: 390 bệnh
nhân được nghiên cứu tăng khoảng 2-4 kg sau 3 tháng điều trị (chiếm
74,8%); 114 bệnh nhân thất nghiệp tìm được việc làm sau 6 tháng điều trị,
chứng tỏ rằng khi tham gia vào chương trình điều trị bằng Methadone, các
bệnh nhân đó đã quan tâm hơn đến bản thân và gia đình mình .
Tác giả Vũ Văn Công trong nghiên cứu của mình ở Hải Phòng năm 2009, cho
thấy rằng điều trị thay thế bằng thuốc Methadone đã đem lại hiệu quả với việc
giảm tỷ lệ sử dụng ma túy và dùng chung bơm kim tiêm trong cộng đồng
người nghiện chất ma túy: tỷ lệ bệnh nhân phụ thuộc vào ma túy giảm rõ rệt,
số ngày trung bình bệnh nhân dùng Heroin trước khi vào điều trị Methadone
so với sau điều trị Methadone 30 ngày, 30-60 ngày và trên 60 ngày là 29,1;
12,4; 2,3 và 0,5. Tỷ lệ bệnh nhân trước khi vào điều trị MMT sử dụng chung
bơm kim tiêm khi chích ma túy là 24% đã giảm xuống còn 12,7% chỉ sau 3
tháng điều trị. Bệnh nhân tái hòa nhập được với cuộc sống cộng đồng, bệnh
nhân tìm được việc làm là 15,3% .
Tuy nhiên, nghiên cứu của Vũ Việt Hưng lại chỉ ra rằng, nhiều bệnh nhân có
xu hướng từ bỏ điều trị do họ thấy rằng Methadone có tác dụng gây nghiện
như Heroin. Bệnh nhân cảm thấy khó chịu khi bị các tác dụng phụ như ra mồ

hôi, hay khô miệng làm họ thấy chán ăn. Tác dụng phụ của Methadone đã
ảnh hưởng đến tâm lý của một số bệnh nhân đang điều trị: nghi ngại về thuốc
ảnh hưởng đến sức khỏe của họ và ngoài ra, bệnh nhân cảm thấy khó khăn và
ngại với việc hằng ngày phải đi đến cơ sở y tế để uống thuốc . Tuy nhu cầu
điều trị methadone tại huyện Từ Liêm là rất lớn, họ nhận thức được tham gia
là giúp bản thân, người thân và gia đình, nhưng việc tiếp cận chương trình
của họ lại gặp phải nhiều khó khăn, cản trở: đó là vì tâm lý của chính người
nghiện lo ngại về thủ tục vì phải có xác nhận của công an; họ sợ phải đi cai
nghiện bắt buộc; sợ bị ảnh hưởng đến công việc, học tập khi tham gia; một số
khác lại chưa tin tưởng vào điều trị, sợ nghiện methadone. Ngoài ra, còn do
yếu tố là một số gia đình thiếu kiến thức về điều trị methadone. Tại địa
phương, thiếu đi công tác truyền thông về chương trình, thời gian chờ đợi xét
duyệt lâu làm nhiều người không thể tham gia vào chương trình.

18


1.4.3. Các nghiên cứu về kiến thức, thái độ và thực hành của người nghiện
chích ma túy được điều trị bằng thuốc Methadone.
Hiện nay, tại nước ta, có rất nhiều các nghiên cứu về kiến thức, thực hành của
người nghiện ma túy, tuy nhiên nghiên cứu liên quan đến kiến thức, thái độ
và thực hành của những người nghiện ma túy đang được điều trị bằng thuốc
methadone là rất ít, phần lớn vấn đề này chỉ được tìm hiểu bằng cách lồng
ghép vào một dự án nào đó, chứ hầu như chưa có sự tập trung chuyên biệt
riêng.
Về kiến thức, trong nghiên cứu “Mô tả thực trạng cung cấp dịch vụ y tế
chương trình dùng thuốc thay thế methadone can thiệp trong nhóm nghiện
chích ma túy tại thành phố Hà Nội” năm 2012, các tác giả đã cho thấy nhóm
đối tượng nghiên cứu còn thiếu hiểu biết về nguyên nhân cũng như nguy cơ
lây nhiễm HIV/AIDS: như với câu hỏi luôn sử dụng BCS đúng cách khi

QHTD dự phòng lây nhiễm HIV là 86,3%, còn khi QHTD đường hậu môn
phòng được lây nhiễm HIV tỷ lệ trả lời đúng chỉ là 59,5%, 72% trả lời đúng
câu hỏi dùng chung BKT khi TCMT làm tăng nguy cơ nhiễm HIV; còn với
các câu hỏi khác, tỷ lệ có kiến thức đúng chỉ từ 67,3%-72,3% .
Một nghiên cứu khác vào năm 2013 đã chỉ ra rằng so với trước can thiệp thì
tỷ lệ đối tượng NCMT hiểu biết đúng về nguy cơ lây nhiễm HIV đã tăng lên
rõ rệt: hiểu biết về nguy cơ nhận máu truyền tăng từ 10,3% lên 15,3%, hiểu
biết về tiêm chích ma túy tăng từ 58,5% lên 64,5%... Ngoài ra, hiểu biết của
người NCMT về triệu chứng của các bệnh lây truyền qua đường tình dục đã
cải thiện đáng kể.
Về mặt nhận thức, thái độ của bệnh nhân cũng có sự chuyển đổi sau khi được
điều trị methadone. Trong một nghiên cứu của Nguyễn Anh Quang (2013),
cho thấy tỷ lệ đối tượng thay đổi nhận thức lợi ích khi tham gia chương trình
methadone đã tăng lên khá nhiều (từ 57,3% lên 91,5%). Người điều trị ngày
càng có thái độ hợp tác và tin tưởng hơn vào phương pháp điều trị này, một
phần là vì hiệu quả mà điều trị bằng methadone đã mang lại, phần khác chính
là nhờ những thay đổi trong thái độ của nhân viên y tế và quy trình điều
trị.Người bệnh hài lòng hơn với quy trình xét nghiệm, thời gian nộp đơn và
quy trình tiếp đón bệnh nhân. Thêm vào đó là sự hài lòng về thời gian tiếp
đón bệnh nhân (tăng từ 2,5% lên 3,5%), về thái độ làm việc của bác sỹ tăng
từ 2,7% lên 3,3%. Nghiên cứu khác vào năm 2012 cũng cho nhận định tương
tự khi đa số bệnh nhân hiện đang được điều trị cho biết họ rất hài lòng và hài
lòng với các dịch vụ đón tiếp bệnh nhân, thái độ bác sỹ làm việc, thái độ của
nhân viên tư vấn… Tuy vậy, vẫn còn khoảng 1% bệnh nhân có góp ý thêm.
Nhưng nhìn chung, hầu hết bệnh nhân cho rằng, về mặt tổng thể thì chương
trình điều trị thay thế nghiện các chất CDTP bằng methadone hữu ích với bản
thân họ, đáp ứng được mong muốn của bệnh nhân .
19



Ngoài kiến thức và thái độ thì hành vi của các bệnh nhân cũng thay đổi khá
rõ. Trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Anh Quang và cộng sự vào năm
2012 cho thấy sau khi điều trị duy trì có tới 98,7% người NCMT có QHTD
với vợ/bạn tình trong 1 tháng trở lại đó. Trong khi, hành vi sử dụng BCS
thường xuyên khi quan hệ thì có tỷ lệ trước điều trị là 97,8%, cao hơn sau khi
điều trị là 77,2%. Trước khi điều trị methadone, có 8,3% bệnh nhân tại Hà
Đông và Từ Liêm cho biết có hành vi sử dụng chung bơm kim tiêm. Trong
quá trình điều trị thì không còn trường hợp nào còn sử dụng chung nữa. Mặc
dù chưa có đủ bằng chứng để kết luận hiệu quả của điều trị Methadone giúp
bệnh nhân thay đổi hành vi dùng chung bơm kim tiêm, tuy nhiên có thể thấy
việc giảm tần suất tiêm chích ma túy cũng đã góp phần hạn chế khả năng
dùng chung bơm kim tiêm, ngay cả trong nhóm những bệnh nhân vẫn tiếp tục
tiêm chích. Thêm vào đó, có sự thay đổi tích cực trong việc sử dụng BCS với
PNBD trước và sau điều trị: tỷ lệ người bệnh có sử dụng BCS tăng lên từ
83,4% lên 87,9% . Tỷ lệ sử dụng BCS được cải thiện đặc biệt có ý nghĩa
trong dự phòng lây truyền HIV từ quần thể có tiêm chích ma túy sang các
nhóm quần thể khác.
Nghiên cứu của một số tác giả thuộc Trung tâm phòng chống HIV/AIDS Hà
Nội năm 2013 cho thấy những thay đổi trong một các hành vi của đối tượng
NCMT. Một là tần suất tiêm chích ma túy trong 1 tháng qua của những đối
tượng này đã giảm dần.Trong đó, mức độ NCMT 2-3 lần. ngày giảm từ
53,3% xuống 45,5%, tần suất tiêm chích trên 3 lần/ngày giảm từ 6% xuống
3,2%. Thêm nữa, tỷ lệ đối tượng không bao giờ sử dụng chung BKT trong 1
tháng trở lại đã tăng từ 93,9% lên 94,7%. Nếu vào năm 2012 có tới 7,8%
bệnh nhân cho biết có sử dụng chung BKT thì đến thời điểm năm 2013, tỷ lệ
này đã giảm rất rõ rệt (chỉ còn 0,3%).
Nhìn chung, các nghiên cứu này đã cho thấy những thay đổi khá rõ nét theo
hướng tích cực về các mặt kiến thức, thái độ và thực hành của bệnh nhân khi
được tham gia điều trị methadone. Đây là một tín hiệu đáng mừng, tạo động
lực hơn cho không chỉ người bệnh nghiện ma túy tiếp tục điều trị methadone

lâu dài, mà còn giúp cho các hoạt động liên quan đến điều trị nghiện các chất
dạng thuốc phiện bằng methadone sẽ phát triển sâu và rộng hơn trong thời
gian tới.
1.5. Tình hình nhiễm HIV và hoạt động triển khai chương trình điều trị
nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại các
tỉnh miền núi phía Bắc:
1.5.1. Tình hình nhiễm HIV tại các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta.
Các tỉnh miền núi phía Bắc thuộc vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ có vị trí
địa lý khá đặc biệt, là khu vực giáp ranh nhiều nước nên đây được xem như
một vùng trọng điểm về kinh tế, văn hóa, xã hội cần được quan tâm và phát
20


triển hiện nay. Mặc dù đã được Nhà Nước và Chính phủ quan tâm về mọi
mặt, giúp đời sống của nhân dân nơi đây có nhiều chuyển biến tích cực, tuy
vậy, sự đầu tư, xây dựng vẫn còn gặp phải nhiều khó khăn, bất cập chưa có
hướng giải quyết. Do địa hình hiểm trở nên việc đi lại,giao lưu buôn bán, sinh
hoạt kinh tế xã hội còn khó khăn, đặc biệt ảnh hưởng cho giao thông vận tải
và hoạt động y tế tại các tuyến cơ sở. Nhiều người dân tộc thiểu số trình độ
học vấn còn chưa cao nên khả năng tiếp cận để học hỏi kiến thức, kinh
nghiệm đang là vấn đề đặt ra hàng đầu. Đa số ở các tỉnh này, tập quán sản
xuất còn mang nặng tính tự nhiên từ xa xưa như hái lượm, phát rẫy làm
nương, chăn nuôi theo tập quán cũ lạc hậu, công cụ sản xuất thô sơ, thiếu
thốn, thiếu đất hoặc chưa có đất canh tác sản xuất. Sự lạc hậu đã dẫn đến tình
trạng yếu kém, đặt ra vô vàn khó khăn và thách thức cho các tỉnh miền núi
phía Bắc, không chỉ về kinh tế mà còn ảnh hưởng lên cả hệ thống Y tế.
Trong mảng y tế ở những năm gần đây, vấn đề sử dụng ma túy, lây nhiễm
HIV/AIDS lại đang có xu hướng tăng cao. Dù tình hình về tỉ lệ nghiện chích
ma túy có chững lại tuy nhiên số lượng người nhiễm HIV/AIDS vẫn tăng lên
hàng năm và vẫn giữ một mức độ đáng quan tâm. Theo số liệu thống kế của

Cục phòng chống HIV/AIDS, số lượng bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS hiện
đang tăng cao tại các tỉnh miền núi phía Bắc. Nếu như vào năm 2012, trong
10 tỉnh có tỷ lệ người nhiễm HIV cao nhất nước có tới 7 tỉnh thuộc miền núi
phía Bắc như Thái Nguyên, Sơn La, Điện Biên… thì vào năm 2013, riêng ở
khu vực này hiện đã có 8/10 tỉnh có số người nhiễm HIV/AIDS cao nhất cả
nước. Trong đó, Điện Biên là tỉnh có tỷ lệ người nhiễm HIV cao nhất so với
tất cả các tỉnh thành trên cả nước (với tỷ lệ nhiễm HIV lên tới 980/100.000
người dân), hay tại Sơn La, năm 2000 mới có khoảng 4.000 người nghiện có
hồ sơ quản lý thì tới năm 2008 đã phát hiện trên 16.000 người nghiện và nếu
kể cả số nghi nghiện thì con số trên lên tới 23.000 người. Cũng theo số liệu
thống kê vào tháng 11/2013, nhìn chung khu vực miền núi phía Bắc có tỷ lệ
nhiễm HIV/100.000 dân rất cao, đứng thứ 2 cả nước (357/100.000), chỉ đứng
sau miền Đông Nam Bộ (408/100.000).
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới tình hình nhiễm HIV cao ở các tỉnh miền
núi phía Bắc: Một là do đặc điểm về địa lý (khu vực vùng sâu, vùng xa, giáp
biên với nhiều nước) nên tình hình buôn bán và sử dụng ma túy ở khu vực
này diễn biến rất phức tạp. Trình độ dân trí thấp, đa phần người dân ở khu
vực miền núi lại là người dân tộc thiểu số nên việc tiếp cận với thông tin về
dự phòng lây nhiễm HIV cũng như tiếp cận với chương trình can thiệp giarm
tác hại còn hạn chế (như không được tiếp cận với chương trình bơm kim
tiêm, bao cao su). Thứ hai là do người dân tại các tỉnh này vẫn trồng cây
thuốc phiện tại nhiều khu vực miền núi địa bàn khó tiếp cận nên đây cũng là
nguyên nhân làm gia tăng số người nghiện do thiếu hiểu biết và sử dụng
chính những sản phẩm thuốc phiện mà mình trồng được. Hầu hết các tỉnh
miền núi phía Bắc là các tỉnh nghèo nên không có đủ khả năng và nguồn lực
21


để triển khai các biện pháp dự phòng chống AIDS và cung cấp dịch vụ phòng
chống AIDS tới từng hộ dân, nên nguy cơ lây nhiễm HIV cũng tăng so với

các địa bàn khác trong cả nước.
1.5.2. Hoạt động điều trị methadone tại các tỉnh miền núi phía Bắc.
Kể từ khi chương trình điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc
Methadone được triển khai thí điểm ở nước ta từ tháng 4/2008 tại Thành phố
Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh ở miền núi phía Bắc đã thực
hiện rất tích cực các hoạt động của chương trình.Tại tỉnh Điện Biên, Chương
trình điều trị Methadone được triển khai từ năm 2011.Từ tháng 3/2011 đến
nay, tỉnh Điện Biên đã triển khai 05 cơ sở điều trị thay thế nghiện các chất
dạng thuốc phiện bằng Methadone, tổng số bệnh nhân tham gia điều trị tại
các cơ sở Methadone tính đến tháng 6/2014 là 1.339 bệnh nhân, độ bao phủ
đạt 14% số người nghiện chích trong tỉnh. Trong khoảng thời gian tiếp theo
của năm 2014 tỉnh Điện Biên sẽ triển khai 8 cơ sở điều trị và 7 cơ sở cấp phát
thuốc Methadone (trong đó có 5 cơ sở cũ), điều trị cho 3.040 người bệnh.
Mục tiêu vào năm 2015, duy trì 8 cơ sở điều trị và thành lập mới 14 cơ sở cấp
phát thuốc Methadone, nâng tổng số cơ sở cấp phát thuốc Methadone trong
toàn tỉnh lên 21 cơ sở, điều trị cho 4.400 bệnh nhân tại các huyện Điện Biên,
Điện Biên Đông, Tuần Giao, Mường Chà, Mường Ảng, Tùa Chùa, thị xã
Mường Lay và thành phố Điện Biên Phủ . Ngoài ra, báo cáo của “Hội nghị sơ
kết, đánh giá kết quả thực hiện Dự án điều trị nghiện các chất dạng thuốc
phiện bằng thuốc Methadone xã hội hóa trên địa bàn tỉnh Lào cai” vào tháng
8/2014 cho biết, sau gần 1 năm triển khai Chương trình, tỉnh đã có 500 hồ sơ
đăng kí tự nguyện, cơ sở tiếp nhận và điều trị cho 340 bệnh nhân, biến động
giảm 30 và hiện đang điều trị 310 người bệnh. Trong đó, 221/310 bệnh nhân
đã được chuyển vào giai đoạn duy trì ổn định đạt 71,29%, còn 99 người tiếp
tục trong giai đoạn điều chỉnh liều, tỉ lệ bỏ điều trị là 3,5% . Tại tỉnh Thái
Nguyên, báo cáo của sở Y tế tỉnh cho biết, sau 3 năm triển khai hoạt động
điều trị Methadone, hiện toàn tỉnh có khoảng 1.500 người đang điều trị
methadone tại 6 huyện, thành thị trên địa bàn tỉnh, tức lượng người điều trị
Methadone đã tăng gần gấp 3 lần so với thời điểm mới triển khai năm 2011
(566 người). Chương trình đã đem lại những hiệu quả rõ rệt khi bởi sau điều

trị, tỷ lệ bệnh nhân còn sử dụng ma túy đã giảm từ 100% xuống còn 37,6%
trong nhóm bệnh nhân điều trị dưới 6 tháng và 9,1% trong nhóm bệnh nhân
điều trị trên 6 tháng; tình hình sức khỏe của bệnh nhân được cải thiện hơn.
Tỉnh Yên Bái cũng là một tỉnh đang có nhiều kế hoạch triển khai, đẩy mạnh
thêm các hoạt động điều trị methadone trên địa bàn tỉnh. Cơ sở điều trị
methadone đầu tiên thuộc Trung tâm phòng, chống HIV/AISD tại Yên Bái
bắt đầu khởi liều Methadone và chính thức hoạt động từ tháng 9/2013. Việc
điều trị thay thế cainghiện các chất dạng thuốc phiện bằng methadone tại
Trung tâm phòng chống HIV/AIDS của Sở Y tế tỉnh Yên Bái ban đầu đã cho
kết quả rất khả quan. Hiện cơ sở điều trị này có 114 bệnh nhân được điều trị.
22


Trong đó có 4 người vì các lý do khác nhau phải ngừng điều trị, còn lại 110
bệnh nhân đang được điều trị và đã có tới 70 bệnh nhân đã ổn định liều,
không bị tái nghiện, không bị hội chứng cai hành hạ, không sử dụng heroin
nữa. Ngày 24/3/2014, Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái Quyết định số 361/QĐUBND về việc phê duyệt Dự án” Triển khai điều trị thay thế nghiện các chất
dạng thuốc phiện bằng Methadone tại Trung tâm y tế thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh
Yên Bái”,triển khai băng hoạt động khởi liều đầu tiên điều trị cho 16 bệnh
nhân nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone. Ngoài ra, nhằm mục
đích đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dự phòng và điều trị nghiện nhằm
giảm tác hại của nghiện ma túy, kiềm chế gia tăng người nghiện mới, góp
phần đảm bảo trật tự, an toàn xã hội và nâng cao sức khỏe cho nhân dân, hỗ
trợ người nghiện tái hòa nhập cộng đồng, vừa qua, Chủ tịch UBND tỉnh Yên
Bái đã phê duyệt Đề án đổi mới công tác cai nghiện ma túy tỉnh Yên Bái đến
năm 2020 với rất nhiều mục tiêu cụ thể như: Phấn đấu 50% cán bộ chính
quyền các cấp và 50% người dân ở độ tuổi trưởng thành hiểu biết cơ bản về
nghiện ma túy, các biện pháp điều trị nghiện; trong giai đoạn 2014-2015, Yên
Bái phấn đấu 50% cán bộ dự phòng và điều trị nghiện được đào tạo kiến thức
cơ bản về điều trị nghiện; 50% cán bộ làm công tác tư vấn về dự phòng và

điều trị nghiện được đào tạo và được cấp chứng chỉ; 60% cán bộ y tế công tác
tại các cơ sở điều trị nghiện có văn bằng chứng chỉ theo quy định về điều trị
nghiện. Bên cạnh đó, nâng tỷ lệ số người nghiện được điều trị so với số người
nghiện có hồ sơ quản lý từ trên 30,0% hiện nay lên 50% vào năm 2015 và
nâng số người nghiện được điều trị thay thế bằng Methadone lên 1.200 vào
năm 2015. Tăng tỷ lệ người nghiện hoà nhập cộng đồng có việc làm đạt 40%
vào năm 2015. Ngoài ra, các tỉnh khác thuộc khu vực miền núi phía Bắc như
Bắc Kạn, Cao Bằng,… cũng đã và đang thực hiện tích cực chương trình điều
trị methadone cho bệnh nhân nghiện ma túy trên địa bàn tỉnh mình.
Nhìn chung, việc điều trị HIV/AIDS cũng như cai nghiện ma túy đang được
các chuyên gia, các nhà nghiên cứu thực hiện trên quy mô rộng khắp mỗi
năm. Nghiên cứu của Bộ Y tế năm 2009 đã đưa ra những hiệu quả rất khả
quan của chương trình methadone trong giai đoạn thí điểm. Tuy nhiên những
kết quả này chưa thể hiện được hết những đặc điểm riêng biệt theo từng vùng,
miền nói chung và của các tỉnh miền núi phía Bắc nói riêng. Chính bởi vậy,
cần thiết phải có một nghiên cứu tập trung phân tích sâu về hiệu quả của
chương trình methadone đối với các tỉnh miền núi phía Bắc, nơi những điều
kiện về kinh tế xã hội còn khó khăn, có nhiều đồng bào dân tộc là người
nghiện ma túy lâu năm và có tỉnh có số người nhiễm HIV trong cả nước (ví
dụ tỉnh Điện Biên). Từ đó sẽ góp phần tìm ra các giải pháp hạn chế tối đa
việc tiếp tục sử dụng chất dạng thuốc phiện trong nhóm bệnh nhân tham gia
điều trị, góp phần nâng cao chất lượng điều trị và giảm thiểu hậu quả do việc
tiếp tục sử dụng ma túy gây ra.

23


CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân nghiện chất dạng thuốc phiện bắt đầu tham gia điều trị bằng thuốc

methadone tại thời điểm nghiên cứu tại một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt
Nam.
Tiêu chuẩn lựa chọn: đối tượng nghiên cứu cần đáp ứng được các tiêu chí
sau:
- Là người bệnh bắt đầu tham gia điều trị (trong vòng 3 tháng) tại thời điểm
nghiên cứu trong năm 2014.
- Tự nguyện và đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Có đủ sức khỏe về thể chất và tinh thần để tham gia nghiên cứu
Tiêu chuẩn loại trừ:
- Những đối tượng không đủ sức khỏe để tham gia nghiên cứu
- Những đối tượng không đồng ý tham gia nghiên cứu…..
2.2. Địa bàn nghiên cứu:
Địa điểm nghiên cứu: tại các cơ sở Methadone của một số tỉnh miền núi phía
Bắc Việt Nam bao gồm: Điện Biên, Lai Châu và Yên Bái.
Miền núi và trung du phía Bắc Việt Nam bao gồm 15 tỉnh: Hà Giang, Cao
Bằng, Lào Cai, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Tuyên Quang, Yên Bái,
Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình.
Trong số các tỉnh này, một số tỉnh có nền kinh tế phát triển hơn, địa bàn giao
thông đi lại cũng thuận tiện hơn như Bắc Giang, Quảng Ninh. Trong khuôn
khổ nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu muốn tập trung tìm hiểu đặc điểm ban
đầu của nhóm nghiện chích ma túy tham gia điều trị nghiện bằng thuốc
Methadone tại các tỉnh miền núi nghèo, địa bàn đi lại có nhiều khó khăn.
Ngoài ra, do nghiên cứu được tiến hành trong thời gian ngắn, việc lựa chọn tất
cả các tỉnh triển khai chương trình methadone thuộc khu vực địa lý này vào
nghiên cứu là điều rất khó thực hiện. Nhóm nghiên cứu đã căn cứ trên tiêu chí
về địa bàn nghiên cứu, tình hình nghiện chích ma túy và tình hình nhiễm HIV
của các tỉnh cũng như căn cứ theo số lượng bệnh nhân tham gia điều trị bằng
thuốc Methadone tăng trong 5 tháng trước khi tiến hành nghiên cứu để chọn ra
ba tỉnh: Điện Biên, Lai Châu và Yên Bái làm địa bàn cho nghiên cứu này.
Các cơ sở điều trị được lựa chọn vào nghiên cứu là toàn bộ các cơ sở điều trị

thuộc địa bàn 03 tỉnh trên và có bệnh nhân mới trong thời gian thực hiện
24


nghiên cứu.
2.3. Thiết kế nghiên cứu:
Nghiên cứu mô tả cắt ngang
2.4. Thời gian nghiên cứu:
Tháng 10/2014 – 12/2014
2.5. Mẫu và phương pháp chọn mẫu
2.5.1. Cỡ mẫu:
Sử dụng công thức tính cỡ mẫu áp dụng cho nghiên cứu cắt ngang được
tính theo công thức sau:

Trong đó:
- n cỡ mẫu tối thiểu nghiên cứu
- Z (1−α / 2) là hệ số tin cậy, với mức xác suất 95% (= 1,96).
- p là tỷ lệ bệnh nhân bắt đầu tham gia điều trị nghiện bằng thuốc
Methadone nhiễm HIV, ước lượng p =22,5% [31].
-d : sai số tuyệt đối (ước tính là 0,05)
Áp dụng công thức tính cỡ mẫu trên, nhóm nghiên cứu đã tính ra cỡ mẫu
tối thiểu cho nghiên cứu này là: 267 bệnh nhân điều trị methadone, dự phòng
20% không tham gia đầy đủ hoặc từ chối tham gia nghiên cứu sẽ tiến hành
phỏng vấn 300 bệnh nhân bắt đầu tham gia điều trị Methadone. Như vậy
trong nghiên cứu này, nghiên cứu tại 3 tỉnh nên mỗi tỉnh triển khai nghiên
cứu, nhóm nghiên cứu đã lựa chọn ít nhất 100 bệnh nhân tham gia điều trị
thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc methadone, riêng tỉnh
Yên Bái là 101 bệnh nhân. Thực tế đã lựa chọn tổng cộng 301 bệnh nhân tại 3
tỉnh (phần kết quả nghiên cứu)
2.5.2. Phương pháp chọn mẫu

Việc tuyển chọn đối tượng tham gia nghiên cứu được tiến hành theo phương
pháp chọn mẫu thuận tiện đối với người bệnh bắt đầu nhận điều trị tại cơ sở
điều trị methadone và tự nguyện tham gia vào nghiên cứu.
25


×