Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Thành tố chỉ bộ phận cơ thể người trong thành ngữ, tục ngữ thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (994.07 KB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

LÊ THỊ THU THỦY

THÀNH TỐ CHỈ BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƢỜI
TRONG THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ THÁI

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ

SƠN LA, NĂM 2015

i


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

LÊ THỊ THU THỦY

THÀNH TỐ CHỈ BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƢỜI
TRONG THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ THÁI
Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 60220102

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Bùi Thanh Hoa

SƠN LA, NĂM 2015


ii


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến
TS. Bùi Thanh Hoa, đã tận tình hƣớng dẫn, động viên tôi trong suốt quá
trình thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Đào tạo sau đại học,
Phòng khảo thí và đảm bảo chất lƣợng giáo dục Trƣờng Đại học Tây Bắc nơi
tôi đang công tác đã giúp đỡ, động viên, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để
tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đồng nghiệp đã động viên,
ủng hộ và giúp đỡ nhiệt tình trong quá trình học tập, nghiên cứu, để tôi hoàn
thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Sơn La, ngày tháng năm 2015
Học viên

Lê Thị Thu Thủy

iii


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dƣới sự
hƣớng dẫn nghiên cứu khoa học của TS. Bùi Thanh Hoa. Các số liệu, kết
quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chƣa từng có ai công bố trong
bất kỳ một công trình nào khác .

Học viên


Lê Thị Thu Thủy

iv


DANH MỤC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
BPCTN ........................................................................... bộ phận cơ thể ngƣời
TTCBPCTN ................................................. thành tố chỉ bộ phận cơ thể ngƣời

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Tần số xuất hiện của các thành tố chỉ BPCTN .............................. 38

v


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 2
2.1. Đối tƣợng ................................................................................................ 2
2.2. Phạm vi ................................................................................................... 2
3. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 2
4. Tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................... 4
4.1. Tƣ liệu ..................................................................................................... 4
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu ......................................................................... 4
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 5
5.1. Mục đích ................................................................................................. 5
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 5

6. Những đóng góp của luận văn .................................................................... 5
7. Bố cục của luận văn.................................................................................... 6
CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÍ THUYẾT .............................................................. 7
1.1. Nghĩa của từ ............................................................................................ 7
1.1.1. Khái niệm ............................................................................................. 7
1.1.2. Các thành phần nghĩa của từ ................................................................ 9
1.1.2.1. Ý nghĩa biểu vật.............................................................................. 10
1.1.2.2. Ý nghĩa biểu niệm ........................................................................... 11
1.1.2.3. Ý nghĩa biểu thái ............................................................................. 11
1.1.3. Sự chuyển nghĩa của từ ....................................................................... 11
1.1.4. Nghĩa biểu trƣng ................................................................................ 19
1.2. Khái quát về các từ chỉ bộ phận cơ thể ngƣời ........................................ 21
1.2.1. Tìm hiểu về các BPCTN ..................................................................... 21
1.2.2. Tìm hiểu về thành tố chỉ BPCTN trong thành ngữ, tục ngữ ............... 23

vi


1.3. Khái quát về dân tộc Thái vùng Tây Bắc ............................................... 25
1.3.1. Tổng quan về ngƣời Thái vùng Tây Bắc ............................................. 25
1.3.2. Một vài nét về đặc trƣng văn hoá dân tộc Thái vùng Tây Bắc ............. 27
1.4. Khái quát về thành ngữ, tục ngữ dân tộc Thái vùng Tây Bắc ................. 29
1.4.1. Khái niệm ........................................................................................... 29
1.4.2. Về nội dung ........................................................................................ 30
1.4.3. Về nghệ thuật ..................................................................................... 33
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ............................................................................... 34
CHƢƠNG II: ĐẶC ĐIỂM CỦA THÀNH TỐ CHỈ BỘ PHẬN CƠ THỂ
NGƢỜI TRONG THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ THÁI ................................ 36
2.1. Hoạt động của thành tố chỉ bộ phận cơ thể ngƣời trong thành ngữ, tục
ngữ dân tộc Thái........................................................................................... 37

2.1.1. Số lƣợng và tần số xuất hiện của các thành tố chỉ bộ phận cơ thể
ngƣời ............................................................................................................ 37
2.1.2. Đặc điểm phân bố các thành tố chỉ bộ phận cơ thể ngƣời trong thành
ngữ, tục ngữ Thái ......................................................................................... 42
2.2. Khả năng kết hợp của các thành tố chỉ bộ phận cơ thể ngƣời với các từ
loại ............................................................................................................... 43
2.2.1. Các thành tố chỉ bộ phận cơ thể ngƣời kết hợp với danh từ................. 43
2.2.1.1 Các thành tố chỉ bộ phận cơ thể ngƣời kết hợp với danh từ cụ thể .... 44
2.2.1.2 Các thành tố chỉ bộ phận cơ thể ngƣời kết hợp với những danh từ trừu
tƣợng ............................................................................................................ 45
2.2.2. Các thành tố chỉ bộ phận cơ thể ngƣời kết hợp với động từ ................ 46
2.2.2.1. Thành tố chỉ bộ phận cơ thể ngƣời kết hợp với động từ chỉ vận động
di chuyển ...................................................................................................... 46
2.2.2.2. Thành tố chỉ bộ phận cơ thể ngƣời kết hợp với các động từ tác động ... 47
2.2.3. Các thành tố chỉ bộ phận cơ thể ngƣời kết hợp với tính từ .................. 48

vii


2.2.3.1. Các thành tố chỉ bộ phận cơ thể ngƣời kết hợp với các tính từ chỉ đặc
trƣng của màu sắc ......................................................................................... 48
2.2.3.2. Các thành tố chỉ bộ phận cơ thể ngƣời kết hợp với tính từ chỉ phẩm
chất của sự vật, thực thể ............................................................................... 48
2.2.3.3. Các thành tố chỉ bộ phận cơ thể ngƣời kết hợp với tính từ đặc trƣng
thuộc tính vật lí ............................................................................................ 49
2.2.4. Các thành tố chỉ bộ phận cơ thể ngƣời kết hợp với số từ ..................... 50
2.2.5. Nhận xét chung................................................................................... 51
2.3. Ý nghĩa và giá trị biểu trƣng của các thành tố chỉ bộ phận cơ thể ngƣời
trong thành ngữ, tục ngữ Thái ..................................................................... 51
2.3.1. Ý nghĩa và giá trị biểu trƣng của “Hua”, (đầu, thủ) ............................ 56

2.3.2. Ý nghĩa và giá trị biểu trƣng của từ “Nả” (mặt) .................................. 58
2.3.3. Ý nghĩa và giá trị biểu trƣng của từ “Mữ” (tay) .................................. 62
2.3.4. Ý nghĩa và giá trị biểu trƣng của từ “Tin” (chân) ................................ 64
2.3.5. Ý nghĩa và giá trị biểu trƣng của từ “Xảy” (lòng) ............................... 66
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ............................................................................... 69
CHƢƠNG III: ĐẶC TRƢNG TƢ DUY VÀ VĂN HÓA CỦA NGƢỜI
THÁI THỂ HIỆN QUA THÀNH TỐ CHỈ BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƢỜI
TRONG THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ THÁI............................................... 71
3.1. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa ................................................. 71
3.1.1. Khái niệm về văn hóa ......................................................................... 71
3.1.2. Ngôn ngữ và văn hóa có mối quan hệ gắn bó với nhau ....................... 74
3.1.3. Đặc trƣng văn hóa dân tộc đƣợc biểu hiện trong ý nghĩa của từ .......... 77
3.2. Đặc trƣng văn hóa dân tộc của ngƣời Thái thể hiện qua ngữ nghĩa của các
thành tố chỉ bộ phận cơ thể ngƣời trong thành ngữ ....................................... 79
3.2.1. Đặc trƣng văn hóa dân tộc biểu hiện ở ngữ nghĩa của biểu trƣng ........ 82
3.2.2. Đặc trƣng văn hóa thể hiện ở cách nhận xét, đánh giá về con ngƣời ... 88

viii


3.2.2.1. Thành tố chỉ bộ phận cơ thể biểu trƣng cho hình thức bên ngoài của
con ngƣời (phạm vi hình dáng bề ngoài của con ngƣời) ............................... 89
3.2.2.2. Thành tố chỉ bộ phận cơ thể ngƣời biểu trƣng cho thế giới nội tâm của
con ngƣời ..................................................................................................... 91
3.2.2.3. Các thành tố chỉ bộ phận cơ thể thể hiện văn hoá ứng xử của con
ngƣời ............................................................................................................ 91
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 ............................................................................... 96
KẾT LUẬN ................................................................................................. 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 100


ix


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Về thành ngữ, tục ngữ từ trƣớc đến nay đã có rất nhiều bài viết, công
trình nghiên cứu. Xuất phát từ các góc độ, khuynh hƣớng và phƣơng pháp tiếp
cận khác nhau, những bài viết, những công trình đó đã cung cấp những cái nhìn
mới mẻ, đa diện hơn về thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt. Có thể nói, thành ngữ, tục
ngữ là mảnh đất đã đƣợc cày xới nhiều và cũng đã thu đƣợc nhiều thành tựu.
Thế nhƣng theo tôi, việc tìm hiểu đặc trƣng văn hóa – ngôn ngữ trong thành ngữ,
tục ngữ vẫn có thể bàn luận thêm, nghiên cứu sâu hơn và toàn diện hơn.
Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa ngày càng đƣợc các nhà ngôn
ngữ học quan tâm. Ngƣời ta nhận thấy rằng việc nghiên cứu ngôn ngữ thƣờng
xuyên đòi hỏi phải thuyết minh những ý nghĩa do văn hóa xã hội quyết định,
và ngƣợc lại, việc nghiên cứu những ý nghĩa những khía cạnh khác nhau của
văn hóa đòi hỏi phải thuyết minh những khía cạnh khác nhau của văn hóa đòi
hỏi sự hiểu biết những khía cạnh khác nhau của nền văn hóa đó.
Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa đƣợc thể hiện ở nhiều cấp độ nhƣ
ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Từ vựng thể hiện rõ nhất mối quan hệ này.
Nghiên cứu hàm nghĩa văn hóa trong từ vựng là một lĩnh vực đã và đang
đƣợc nghiên cứu ở Việt Nam. Song với nhu cầu tìm về bản sắc văn hóa dân
tộc, nhu cầu giao lƣu văn hóa – ngôn ngữ và nhu cầu hội nhập trong thời đại
hội nhập toàn cầu hóa hiện nay, nghiên cứu hàm nghĩa văn hóa trở thành một
trong những nhiệm vụ quan trọng.
Ở đây tôi sẽ đi xem xét các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể ngƣời trong thành
ngữ, tục ngữ Tiếng Việt nói chung và thành ngữ, tục ngữ dân tộc Thái nói
riêng. Vì trong nhận thức của chúng tôi, thành ngữ, tục ngữ là một đơn vị
ngôn ngữ đồng thời là một thành tố văn hóa nên nó mang trong mình những
đặc trƣng dân tộc. Tìm hiểu, khảo sát giải mã các thành tố chỉ bộ phận cơ thể


1


ngƣời trong thành ngữ, tục ngữ dân tộc Thái, chúng ta sẽ thấy đƣợc những
đặc trƣng văn hóa ngôn ngữ - văn hóa của ngƣời Thái với nhiều loại hình
ngôn ngữ và văn hóa khác nhau, thấy đƣợc sự giống và khác nhau trong quan
niệm, liên tƣởng ngôn ngữ của ngƣời Thái.
Vì những lí do trên, tôi chọn “Thành tố chỉ bộ phận cơ thể ngƣời trong
thành ngữ, tục ngữ Thái” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tƣợng
Luận văn khảo sát, phân tích đặc điểm hoạt động và ngữ nghĩa của các
từ chỉ bộ phận cơ thể ngƣời trong tiếng Thái.
2.2. Phạm vi
Phạm vi khảo sát của luận văn tập trung vào các từ - thành tố chỉ bộ phận
cơ thể ngƣời trong thành ngữ và tục ngữ Thái (tiếng Thái gọi chung là
“quám”, chỉ lời nói có vần đƣợc truyền lại từ đời trƣớc).
3. Lịch sử vấn đề
Trong những năm gần đây, nhiều nhà ngôn ngữ học đã quan tâm nghiên
cứu hàm nghĩa văn hóa thể hiện qua ngôn ngữ . Nhiều luận văn thạc sĩ, tiến sĩ
đã tập trung nghiên cứu vấn đề này.
Trƣớc hết phải kể đến luận văn Thạc sĩ của Mã Thị Hiển với đề tài “Ý
nghĩa biểu trƣng của từ chỉ bộ phận cơ thể ngƣời trong thành ngữ Tiếng Việt”.
Trong công trình này tác giả nghiên cứu khá kĩ về đặc trƣng tƣ duy và văn
hóa của ngƣời Việt thể hiện qua từ ngữ ngữ chỉ bộ phận cơ thể ngƣời trong
thành ngữ tiếng Việt.
Tiếp theo là luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Bảo với đề tài “Ngữ nghĩa
của từ ngữ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt (so với tiếng Anh)”. Trong
công trình này, Nguyễn Thị Bảo đã nghiên cứu khá kĩ về ngữ nghĩa văn hóa

của từ ngữ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt, có sự so sánh với các từ
ngữ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Anh.

2


Tiếp đến là luận án Tiến sĩ của Nguyễn Thanh Tùng với đề tài “Tìm
hiểu đặc trƣng ngôn ngữ - văn hóa của nhóm từ chỉ động thực vật trong
tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)”. Trong công trình này Nguyễn Thanh
Tùng có một tầm nhìn khá bao quát về từ chỉ động – thực vật trong tiếng
Việt. Ông tiến hành so sánh chúng với tiếng Anh trong từ điển giải thích
và trong thành ngữ, tục ngữ, tìm ra những nét tƣơng đồng và dị biệt để từ
đó thấy đƣợc đặc trƣng ngôn ngữ - văn hóa của hai loại hình ngôn ngữ và
văn hóa khác biệt nhau.
Các nhà ngôn ngữ học có tên tuổi cũng quan tâm nghiên cứu vấn đề văn
hóa – ngôn ngữ và để lại công trình có giá trị. Đặc biệt đáng kể nhất là hai
công trình: “Tìm hiểu đặc trƣng văn hóa – dân tộc của ngôn ngữ và tƣ duy ở
ngƣời Việt (trong sự so sánh với những dân tộc khác)” của Nguyễn Đức Tồn và
“Tiến tơi xác lập vốn từ vựng văn hóa Việt” của Nguyễn Văn Chiến.
Trong công trình của mình GS.TS Nguyễn Đức Tồn đã trình bày khá cặn
kẽ về đặc trƣng văn hóa dân tộc của ngôn ngữ và tƣ duy ở ngƣời Việt trong sự
đối chiếu, so sánh với tiếng Nga về các đặc điểm định danh, ngữ nghĩa của
tên gọi động vật, thực vật, bộ phận cơ thể ngƣời. Ở công trình này ông cũng
đã dành một số trang để nói về biểu trƣng của một số tên gọi bộ phận cơ thể
ngƣời trong tiếng Việt vv…
Trong “Tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hóa Việt”, Nguyễn Văn Chiến
đã trình bày khá chi tiết về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, xác lập
vốn từ vựng thể hiện vốn văn hóa của ngƣời Việt nhƣ “ nƣớc”, các từ biểu thị
mô hình kinh tế - xã hội lúa nƣớc cổ truyền Việt Nam, các từ chỉ quan hệ thân
tộc và các từ xƣng hô trong tiếng Việt, nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể, … Về các

từ chỉ bộ phận cơ thể, tác giả đã xuất phát từ góc nhìn văn hóa học để tìm
những “mật mã”, ngôn ngữ trong tổ chức cấu trúc hệ thống các đơn vị từ
vựng tiếng Việt biểu thị bộ phận cơ thể… Những công trình ấy là bƣớc đi rất

3


chắc chắn trong lĩnh vực nghiên cứu, ngữ nghĩa, đƣa ra đƣợc những vấn đề
cần đƣợc giải quyết, những vấn đề cơ bản mang tính khái quát.
Luận văn của tôi tiếp tục hƣớng nghiên cứu ngữ nghĩa cụ thể mà các nhà
Việt ngữ học đi trƣớc đã vạch ra, bằng việc đi sâu vào đặc điểm kết hợp, chức
năng, nội dung ý nghĩa của từ tiếng Việt. Từ đó, rút ra đặc trƣng tƣ duy - văn
hóa của ngƣời Thái thông qua một phạm vi từ vựng cơ bản hẹp: thành tố chỉ
bộ phận cơ thể ngƣời trong thành ngữ, tục ngữ dân tộc Thái.
4. Tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Tƣ liệu
Tƣ liệu phục vụ cho nghiên cứu trong luận văn đƣợc thống kê dựa vào
những cuốn tài liệu sau:
- Từ điển Thái – Việt. (Hoàng Trần Nghịch – Tòng Kim Ân Nxb khoa
học xã hội, 1991).
- Những lời nói có vần ông cha truyền lại. (Hoàng Trần Nghịch – Hội
văn học nghệ thuật – các dân tộc thiểu số Việt Nam 2005, và qua cả đời sống
thực tiễn của dân tộc Thái).
- Thành ngữ, tục ngữ dân tộc Thái. (Phan Kiến Giang – Lò Văn Pánh,
Nxb VHDT, 2010).
- Tục ngữ Thái giải nghĩa của Quán Vi Miên (NXB Dân trí)
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp so sánh đối chiếu để xác định tỉ lệ, tần số xuất hiện của
các thành tố chỉ bộ phận cơ thể ngƣời trong thành ngữ, tục ngữ dân tộc Thái.
- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp. Dựa vào kết quả thống kê, so sánh,

đối chiếu, chúng tôi tiến hành phân tích các ý nghĩa và giá trị biểu trƣng của
các thành chỉ bộ phận cơ thể ngƣời trong thành ngữ, tục ngữ dân tộc Thái. Từ
đó rút ra đặc trƣng tƣ duy và sắc thái văn hóa của ngƣời dân tộc Thái.

4


5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Mục đích
Thực hiện đề tài: “Thành tố chỉ BPCTN trong thành ngữ, tục ngữ Thái”
ngƣời viết hƣớng đến những mục đích sau:
- Tìm ra mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá trên cứ liệu từ ngữ chỉ
BPCTN trong thành ngữ, tục ngữ dân tộc Thái. Góp phần làm rõ thêm nguyên
lý ngôn ngữ phản ánh văn hoá.
- Tìm hiểu đặc trƣng ngôn ngữ - văn hoá của ngƣời Việt và ngƣời Thái
qua các thành tố chỉ BPCTN trong thành ngữ, tục ngữ dân tộc Thái.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn đề ra các nhiệm vụ sau:
- Xác lập khung lý luận liên quan đến nghiên cứu.
- Tìm hiểu đặc điểm cấu tạo, thuộc tính ngữ pháp của các từ chỉ bộ phận
cơ thể ngƣời đƣợc sử dụng trong thành ngữ, tục ngữ dân tộc Thái.
- Bƣớc đầu tìm hiểu đặc trƣng văn hóa và tƣ duy của ngƣời Thái qua
việc sử dụng các thành tố chỉ bộ phận cơ thể ngƣời trong thành ngữ, tục ngữ
dân tộc Thái.
6. Những đóng góp của luận văn
Việc nghiên cứu đề tài có những ý nghĩa lí luận và thực tiễn sau:
Về mặt lí luận
Kết quả nghiên cứu về “Thành tố chỉ bộ phận cơ thể ngƣời trong thành
ngữ, tục ngữ Thái” góp phần làm sáng tỏ văn hóa, tƣ duy của ngƣời Thái qua
việc sử dụng các từ chỉ bộ phận cơ thể ngƣời.

Tăng cƣờng tri thức về ngôn ngữ văn hóa dân tộc Thái.
Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể ứng dụng và vận dụng trong việc

5


giải thích ý nghĩa các thành ngữ, tục ngữ có từ chỉ bộ phận cơ thể ngƣời.
Hiểu biết thêm về bản sắc văn hóa ngƣời Thái.
7. Bố cục của luận văn
Chƣơng I: Cơ sở lý thuyết
Chƣơng II: Đặc điểm của thành tố chỉ bộ phận cơ thể ngƣời trong thành
ngữ, tục ngữ dân tộc Thái.
Chƣơng III: Đặc trƣng tƣ duy và văn hóa của ngƣời Thái thể hiện qua
thành tố chỉ bộ phận cơ thể ngƣời trong thành ngữ, tục ngữ dân tộc thái.

6


CHƢƠNG I
CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1. Nghĩa của từ
Nghĩa của từ là một trong những khái niệm quan trọng nhất của ngôn
ngữ học. Lƣỡng phân ngôn ngữ, ta nhận ra hai mặt của nó: mặt biểu hiện (âm
thanh) và mặt đƣợc biểu hiện (nội dung). Nghĩa của từ thuộc về mặt thứ hai.
Nghĩa của từ không chỉ là cái riêng cho từng từ mà còn là cái chung cho
những từ cùng loại. Để hiểu đƣợc từ, chúng ta cần nắm đƣợc cả cái riêng và
cái chung của nghĩa của từ. Nhƣ vậy, chúng ta mới hiểu đƣợc cái tinh tế trong
từ và mới hiểu đƣợc những đặc trƣng về tƣ duy, đặc điểm văn hóa của những
cộng đồng ngôn ngữ nhất định.

1.1.1. Khái niệm
Kế thừa các thành tựu nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học trên thế
giới, ở Việt Nam vấn đề nghĩa của tín hiệu ngôn ngữ đƣợc rất nhiều các tác
giả quan tâm. Tác giả Nguyễn Văn Tu trong cuốn “Từ và vốn từ hiện đại” đã
hệ thống các quan niệm khác nhau về nghĩa [[46]; 93 - 97]. Theo đó, tác giả
đã chia các quan niệm khác nhau này theo 7 khuynh hƣớng chính (1) Nghĩa là
đối tƣợng: Theo quan điểm này thì mối quan hệ giữa từ và đối tƣợng là rất
khăng khít. Mỗi từ phải có một nghĩa và mỗi sự vật phải có một tên; (2)
Nghĩa là biểu tƣợng: Nghĩa của từ không quan hệ trực tiếp với đối tƣợng mà
chính là biểu tƣợng của nó. Nghĩa đƣợc coi một cách máy móc là tổng hợp
những biểu niệm; (3) Nghĩa của từ là khái niệm; (4) Nghĩa của từ là quan hệ
giữa tín hiệu và đối tƣợng; (5) Nghĩa là chức năng của tín hiệu – từ; (6) Nghĩa
của từ là bất biến thể của thông tin; (7) Nghĩa là phản ánh hiện thực: Nghĩa
của từ đƣợc coi là sự phản ánh của vật khách quan vào trong ý thức của ngƣời
ta. Tác giả Đỗ Hữu Châu trong cuốn “Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt” đã
khẳng định: Cái gọi là nghĩa của từ không phải là một khối phân hóa mà đƣợc

7


xem là một “vi hệ thống” chia thành nhiều lớp nghĩa. Thứ nhất là lớp nghĩa bao
gồm những yếu tố cố định, chung cho mọi thành viên trong xã hội và đã đi vào
mạng quan hệ ngữ nghĩa của từ vựng tức là đã cấu trúc hóa. Lớp nghĩa này lại
đƣợc chia thành nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp. Thứ hai là lớp nghĩa xã hội tâm lí (còn gọi là nghĩa liên hội, nghĩa liên tƣởng) là những nghĩa chƣa cố định,
mang tính chất lâm thời, cá nhân [[3]; 96 - 129]. Tác giả Đỗ Việt Hùng trong
cuốn “Nghĩa của tín hiệu ngôn ngữ” cũng khẳng định: Nghĩa của ngôn ngữ
thuộc phạm trù tinh thần, khó xác định, và để tìm ra nghĩa của tín hiệu ngôn
ngữ, tác giả đã đƣa ra các khái niệm: ý, nghĩa và ý nghĩa [[26]; 23 - 71].
Về khái niệm nghĩa của từ, có nhiều quan niệm khác nhau. Một số ngƣời
cho nghĩa của từ là sự vật hay hiện tƣợng mà biểu thị. Quan niệm phổ biến hơn

thì “đồng nhất nghĩa với khái niệm logic hay biểu tƣợng tâm lí có liên hệ với từ
ấy” [[17]; 119]. Nhiều tác giả cũng lí giải nghĩa của từ bằng cách quy nó về
mối quan hệ giữa từ và đối tƣợng hoặc quy về “quan hệ nhƣng không phải là
quan hệ giữa từ và đối tƣợng mà là quan hệ giữa từ và khái niệm, biểu tƣợng”
[[18]; 120 -160].
Theo F.de.Saussure, nghĩa là: “quan hệ giữa cái biểu hiện và cái đƣợc
biểu hiện, trong đó cái biểu hiện không phải là bản thân tổ hợp ngữ âm cụ thể
mà là hình ảnh tâm lí của nó và cái đƣợc biểu hiện của tƣ tƣởng” [[13]; 122].
Moris (đại diện cho quan niệm của những ngƣời theo chủ nghĩa hành vi)
thì cho nghĩa của từ là “khả năng hành động có sẵn, là sự sẵn sàng hành động
theo một phƣơng thức nhất định do các từ gây nên” [[17]; 121].
Theo Nguyễn Thiện Giáp: “ Nghĩa của từ (cũng nhƣ các đơn vị ngôn ngữ
khác) là quan hệ của từ với cái gì đó nằm ngoài bản thân nó” [17; 78].
Vũ Đức Nghiệu quan niệm: “Nghĩa của từ là những liên hệ đƣợc lập
trong nhận thức của chúng ta, giữa từ với những cái mà nó(từ) chỉ ra (những
cái mà nó làm tín hiệu cho)” [[8]; 167].

8


Đối với Đỗ Việt Hùng: “Nghĩa của từ là một thực thể tinh thần có quan
hệ ổn định với hình thức từ” [[9]; 195].
Từ một số nhận định trên, chúng ta thấy đa số các nhà nghiên cứu đều quan
niệm nghĩa của từ là những liên hệ. Tuy nhiên, đó không phải là những liên hệ
logic tất yếu mà là những liên hệ phản ánh, mang tính qui ƣớc, đƣợc xây dựng
bởi những cộng đồng ngƣời bản ngữ. Nhƣ chúng ta đã biết, ngôn ngữ là hệ thống
tín hiệu đặc biệt với chức năng cơ bản của nó là phƣơng tiện giao tiếp. Tín hiệu
bao giờ cũng có tính hai mặt: mặt biểu hiện và mặt đƣợc biểu hiện. Tín hiệu chỉ
là tín hiệu khi nó có nghĩa. Nghĩa của từ không tồn tại trong ý thức, trong bộ óc
con ngƣời. Điều này ngụ ý rằng: trong ý thức, trong bộ óc của con ngƣời, chỉ tồn

tại sự hiểu biết về nghĩa của từ chứ không phải là nghĩa của từ. Vậy nghĩa của từ
tồn tại trong từ, nói rộng ra là tồn tại trong hệ thống ngôn ngữ. Nghĩa của từ phản
ánh những đặc trƣng chung, khái quát của sự vật, hiện tƣợng do con ngƣời nhận
thức đƣợc trong đời sống thực tiễn tự nhiên và xã hội.
1.1.2. Các thành phần nghĩa của từ
Từ có liên hệ với nhiều nhân tố, nhiều hiện tƣợng. Bởi thế, nghĩa của từ
không phải chỉ có một thành phần, một kiểu loại. Các nhà nghiên cứu cho
rằng: nghĩa của từ là tập hợp một số thành tố nhất định chứ không phải là một
khối “không phân hóa”. Trong từ vựng, các từ đồng thời đảm nhiệm các chức
năng: chức năng biểu vật, chức năng định danh, chức năng biểu niệm, chức
năng ngữ pháp (gọi chung là hoạt động ngữ pháp trong của từ).
Tuy có sự phân biệt ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp của từ, nhƣng
chúng có mối quan hệ với nhau rất chặt chẽ. Chỉ có thể biết đƣợc khả năng
hoạt động ngữ pháp của từ khi biết đƣợc ý nghĩa từ vựng của từ, ngƣợc lại
nhờ vào hoạt động ngữ pháp của từ trong câu cụ thể, ta có thể xác định đƣợc
đắc điểm ý nghĩa của từ vựng của từ.

9


Tùy theo các chức năng mà từ chuyên đảm nhiệm, trong ý nghĩa của từ
có những thành tố sau:
- Ý nghĩa biểu vật ứng với chức năng biểu vật
- Ý nghĩa biểu niệm ứng với chức năng biểu niệm
- Ý nghĩa biểu thái ứng với chức năng biểu thái
Tập hợp ba thành phần nghĩa trên đƣợc gọi chung là ý nghĩa từ vựng. Ý
nghĩa từ vựng thƣơng đƣợc đặt trong thế đối lập với thành tố ý nghĩa ngữ
pháp (ứng với chức năng ngữ pháp). Ý nghĩa từ vựng là ý nghĩa riêng cho
từng từ, ý nghĩa ngữ pháp là ý nghĩa chung, đồng loạt cho nhiều từ. Khi nói
về nghĩa của từ ngƣời ta thƣờng phân biệt các thành phần nghĩa sau đây:

1.1.2.1. Ý nghĩa biểu vật
Là liên hệ giữa từ với sự vật (hoặc hiện tƣợng, thuộc tính hành động mà
nó chỉ ra. “Ý nghĩa biểu vật là thành phần nghĩa của từ liên quan đến sự vật
hoặc phạm vi sự vật trong thế giới mà từ gợi ra khi ta tiếp xúc với nó” [27;
199]. Ý nghĩa biểu vật bắt nguồn từ các sự vật trong thế giới khách quan, thế
giới vật chất tồn tại khách quan bên ngoài con ngƣời, có tác động vào thị giác
con ngƣời. Biểu vật có thể hiện thực hoặc phi hiện thực, hữu hình hay vô
hình, có bản chất hoặc phi vật chất. Sự chia cắt thế giới khách quan sẽ ứng với
nghĩa của từ của các dân tộc khác nhau là khác nhau. Điều đó cho thấy tƣ duy
mỗi cộng đồng là khác nhau, ví dụ trong tiếng Việt để chỉ hành động “ tự cho
vào cơ thể thức nuôi sống” có từ ăn, còn để chỉ hành động “đƣa chất lỏng vào
miệng rồi nuốt” có từ uống. Trong khi đó, trong tiếng Thái Kin để chỉ chung
cho hoạt động ăn, uống, bú.
Khi ngôn ngữ thực hiện hoạt động hành chức, ý nghĩa biểu vật của từ là
cơ sở để các từ thực hiện chức năng chiếu vật của mình.

10


1.1.2.2. Ý nghĩa biểu niệm
Là liên hệ giữa từ với ý (hoặc ý nghĩa, ý niệm). Cái ý đó ngƣời ta gọi là
cái biểu niệm hoặc biểu niệm (sự phản ánh các thuộc tính của biểu vật vào
trong ý thức của con ngƣời).
“Ý nghĩa biểu niệm là phần nghĩa của từ liên quan đến hiểu biết về ý
nghĩa biểu vật của từ” [27; 200].
Nghĩa biểu niệm là một cấu trúc bao gồm các nét nghĩa tƣơng ứng với
thuộc tính của sự vật, các nét nghĩa có quan hệ quy định lẫn nhau, có tính độc
lập tƣơng đối. Đối với từ vựng – ngữ nghĩa học, cái quan trọng nổi lên hàng
đầu là nghĩa biểu niệm. Trong quan niệm về nghĩa của từ, mối liên hệ đƣợc
chúng ta nhắc tới chính là mối liên hệ chỉ xuất, mối liên hệ phản ánh; cho nên

nghĩa biểu niệm cũng có thể đƣợc hiểu là sự phản ánh – biểu vật trong ý thức
con ngƣời, đƣợc tiến hành bằng từ.
1.1.2.3. Ý nghĩa biểu thái
Đó là quan hệ của từ với thái độ chủ quan, cảm xúc của ngƣời nói.
“Ý nghĩa biểu thái là phần nghĩa của từ liên quan đến thái độ, cảm xúc,
cách đánh giá” [27; 215].
Nghĩa biểu thái có vai trò trong việc định hƣớng cách dùng từ. Đại bộ
phận các từ trong ngôn ngữ là không có yếu tố gợi cảm. Giá trị gợi cảm của
khách quan đối với tập biến thể ngƣời nói. Còn thể hiện ở những nhóm đồng
nghĩa, những biến thể ngữ âm của một từ (ví dụ: so sánh các từ chết, bỏ mạng,
hi sinh, có phần ý nghĩa biểu thái khác nhau).
1.1.3. Sự chuyển nghĩa của từ
Sự phát triển ngữ nghĩa là kết quả của quá trình chuyển nghĩa của từ.
Đây là nguyên nhân dẫn đến hiện tƣợng nhiều nghĩa của từ. Sự chuyển nghĩa của
từ đƣợc rất nhiều các nhà ngôn ngữ học trong và ngoài nƣớc nghiên cứu. Theo
chúng tôi nhận định, hầu hết các công trình nghiên cứu về sự chuyển nghĩa của

11


từ đều bàn đến các nội dung nhƣ: nguyên nhân của sự chuyển nghĩa, các phƣơng
thức chuyển nghĩa, mối quan hệ giữa nghĩa cũ và nghĩa mới,….
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ
học trong và ngoài nƣớc bàn về sự chuyển nghĩa của từ. Các nhà nghiên cứu
theo khuynh hƣớng này đã trả lời câu hỏi ý nghĩa của từ đã nảy sinh nhƣ thế
nào trong lịch sử. Họ cho rằng kết quả của quá trình chuyển nghĩa đƣợc bảo
lƣu trong ý nghĩa mới của từ [37; 10 - 26]. Các tác giả cũng đƣa ra các nhận
định khác nhau về các hình thức phát triển nghĩa của từ.
Tác giả Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn “Cơ sở ngôn ngữ” và “Từ vựng
học tiếng Việt” đã trình bày khá chi tiết về hiện tƣợng chuyển nghĩa của từ.

Ông gọi đó là hiện tƣợng chuyển đổi nghĩa của từ. Trong cả hai cuốn sách
này, tác giả đã trình bày cụ thể và chi tiết về sự chuyển nghĩa của từ ở các nội
dung: nguyên nhân của sự chuyển nghĩa, các hƣớng chuyển nghĩa, kết quả
của sự chuyển nghĩa [18; 221 - 223]. Tác giả Đỗ Hữu Châu trong cuốn “Từ
vựng ngữ nghĩa tiếng Việt” cũng đã trình bày khá tỉ mỉ về sự chuyển nghĩa
của từ tiếng Việt. Tác giả cũng khẳng định sự chuyển nghĩa của từ là nguyên
nhân của hiện tƣợng từ nhiều nghĩa, giữa các nghĩa khác nhau trong từ nhiều
nghĩa có mối liên hệ với nhau bởi một nét nghĩa nào đó. Tác giả gọi nét nghĩa
chung đó là nét nghĩa cơ sở. Nét nghĩa cơ sở có vai trò quan trọng trong việc
phân biệt từ nhiều nghĩa và từ đồng âm [[3]; 139]. Ngoài ra, nghiên cứu về sự
chuyển nghĩa của từ, còn phải kể đến các công trình nghiên cứu của các tác
giả khác nhƣ: Bùi Minh Toán với “Từ trong hoạt động giao tiếp tiếng Việt”
[42; 65]; tác giả Nguyễn Đức Tồn với “Đặc trƣng văn hóa - dân tộc của
ngôn ngữ và tƣ duy” [46; 73]; tác giả Đỗ Việt Hùng với “Bản chất của tín
hiệu ngôn ngữ” [26; 71]. Trong các công trình nghiên cứu của mình, hầu
hết các tác giả đều đề cập đến hiện tƣợng chuyển nghĩa của từ tiếng Việt
qua các dẫn chứng thuyết phục. Tác giả Nguyễn Đức Tồn trong cuốn

12


“Đặc trƣng văn hóa – dân tộc của ngôn ngữ và tƣ duy” đã trình bày các kết
quả nghiên cứu về đặc điểm của quá trình chuyển nghĩa của trƣờng từ vựng
chỉ động vật, thực vật, bộ phận cơ thể ngƣời (so sánh giữa tiếng Việt và tiếng
Nga). Tác giả đã thống kê số lƣợng chuyển nghĩa, các phƣơng thức chuyển
nghĩa để tìm ra đặc trƣng tƣ duy ngôn ngữ của dân tộc [46; 97].
Khi nghiên cứu về sự chuyển nghĩa của từ trong các ngôn ngữ, các nhà
ngôn ngữ học trong và ngoài nƣớc đặc biệt chú ý tới các phƣơng thức chuyển
nghĩa của từ. Đa số các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học đều khẳng định, ngôn
ngữ có hai phƣơng thức chuyển nghĩa cơ bản dựa trên quy luật liên tƣởng của

con ngƣời đó là phƣơng thức chuyển nghĩa ẩn dụ và phƣơng thức chuyển
nghĩa hoán dụ.
Phƣơng thức chuyển nghĩa ẩn dụ cũng là một vấn đề quan trọng đƣợc
các nhà Việt ngữ học quan tâm. Các công trình nghiên cứu về ẩn dụ ở Việt
Nam có thể chia thành ba hƣớng chính: Ẩn dụ từ vựng, ẩn dụ tu từ và ẩn dụ
trong ngôn ngữ học tri nhận. Ba hƣớng này đƣợc nghiên cứu đan xen. Nói
chung, cũng theo lịch sử phát triển, ẩn dụ đƣợc nghiên cứu nhƣ một biện pháp
tu từ, là hình thức phát triển nghĩa của từ vựng rồi sau đó mới đƣợc nghiên
cứu nhƣ công cụ tri nhận thế giới của con ngƣời. Trong luận văn của mình,
chúng tôi quan tâm đến ẩn dụ từ vựng là phƣơng thức của sự phát triển ngữ
nghĩa và ẩn dụ tri nhận – bản chất của con đƣờng phát triển ngữ nghĩa. Bàn về
ẩn dụ từ vựng, nhà nghiên cứu Nguyễn Lân cho rằng “Ẩn dụ cũng là một cách
ví nhƣng không cần dùng đến những tiếng để so sánh nhƣ: tựa, nhƣ, tƣờng,
nhƣờng, bằng [31; 53]. Nguyễn Văn Tu khi nghiên cứu về ẩn dụ cũng đƣa ra
khái niệm: “Ẩn dụ là sự so sánh “cô đọng” mà ở đó ta thấy rõ sự tƣơng đồng
cụ thể và bằng trực giác” [47; 165 – 167]. Tác giả cũng đƣa ra cách phân loại
ẩn dụ với ba loại chính là: ẩn dụ cùng hình, từ cụ thể đến trừu tƣợng và ẩn dụ
chuyển đổi cảm giác. Cái gọi là “ẩn dụ cùng hình” chính là tiểu loại ẩn dụ lấy

13


tên các bộ phận của ngƣời để đặt tên cho những sự vật khác (Chẳng hạn: đầu
đƣờng, đầu dòng, đầu năm,… Mũi thuyền, mũi kim, mũi Né); dùng tên của
động vật, thực vật để gọi bộ phận của ngƣời (cánh tay, lá phổi, lá gan, quả
tim,…). Ông cũng nhắc đến các tiểu loại ẩn dụ giàu sắc thái biểu cảm và có
tính chất trang trí rõ rệt hơn nhƣ ẩn dụ đi từ trừu tƣợng đến cụ thể hay ẩn dụ
chuyển đổi cảm giác “việc chuyển từ cụ thể đến trừu tƣợng là việc luôn luôn
xảy ra trong tiếng Việt. Hiện tƣợng này càng tăng thêm khả năng diễn tả của
từ, làm cho nghĩa của từ thêm sâu sắc và cho tƣ tƣởng thêm tốt đẹp [47; 93].

Theo quan niệm của Đỗ Hữu Châu: “Ẩn dụ là cách gọi một sự vật này bằng
tên một sự vật khác, giữa chúng có mối liên hệ tƣơng đồng. Ẩn dụ là một
phƣơng tiện có khả năng trong việc sáng tạo những nghĩa trừu tƣợng xuất
phát từ nghĩa cụ thể” [[3]; 96]. Nhƣ vậy, điều đáng chú ý trong quan niệm này
là tác giả Đỗ Hữu Châu cũng coi ẩn dụ nhƣ là một phƣơng thức chuyển nghĩa
có khả năng chuyển các nghĩa cụ thể của từ sang nghĩa trừu tƣợng (ví dụ nhƣ
các từ: chua chát, ngọt, mặn, nặng nhẹ,…) và theo ông sự chuyển biến ý
nghĩa nhiều khi không chỉ dựa vào sự giống nhau về hình thức mà còn dựa
vào sự giống nhau về chức năng của hai đối tƣợng. Đặc biệt, ông còn chỉ ra
khả năng sáng tạo của ẩn dụ.
Ẩn dụ tri nhận đƣợc dẫn nhập và nghiên cứu chuyên sâu trong công trình
“Ngôn ngữ học tri nhận (ghi chép và suy nghĩ)” của tác giả Trần Văn Cơ.
Trong công trình này, các quan điểm của ngôn ngữ học thế giới về ẩn dụ, ẩn
dụ tiền tri nhận và ẩn dụ tri nhận đã đƣợc khái quát hệ thống. Tác giả đã đƣa
đến cho ngƣời đọc một cái nhìn toàn diện về ẩn dụ cũng nhƣ tình hình nghiên
cứu về ẩn dụ trên thế giới và ở Việt Nam, đặc biệt ẩn dụ tri nhận.
Nhƣ vậy, các công trình nghiên cứu về ẩn dụ trong và ngoài nƣớc từ
trƣớc đến nay đều tập trung vào định nghĩa ẩn dụ mà ít chú trọng đến cơ chế chu trình chuyển nghĩa của từ ngữ để tạo ra ẩn dụ là ẩn dụ hóa. Ẩn dụ hóa là

14


một quá trình động, quá trình này tạo ra sản phẩm là ẩn dụ. Không có ẩn dụ
hóa thì không có ẩn dụ. Tác giả Nguyễn Đức Tồn trong bài viết “Bản chất của
ẩn dụ” đã chỉ ra: “Mặc dù ẩn dụ luôn đƣợc coi là một loại so sánh ngầm
nhƣng chỉ có một loại và cũng chỉ có một tiểu loại so sánh mới có thể làm cơ
sở cho ẩn dụ. Theo chúng tôi, đó là tiểu loại đặc biệt – tiểu loại so sánh đồng
nhất trong kiểu loại so sánh ngang bằng. Về logic, thì chỉ có sự đồng nhất
hoặc tƣơng đồng hoàn toàn mới cho phép có thể dùng cái này thay cho cái kia
đƣợc. Cơ sở của ẩn dụ chính là sự đồng nhất hóa ngầm. Muốn hiểu đƣợc ẩn

dụ phải hiểu đƣợc sự đồng nhất hay đẳng nhất hóa ấy” [45; 466]. Tác giả
cũng đề cập đến bản chất của ẩn dụ tri nhận từ góc nhìn: sự loại suy, sự hiểu
biết từ sự vật A sang sự vật B khi đồng nhất hóa A và B. Sự xác lập rõ ràng
nội hàm khái niệm ẩn dụ nhƣ vậy giúp chúng ta tránh đƣợc cách hiểu chung
chung, đơn giản về ẩn dụ là về ẩn dụ chỉ đơn giản là sự so sánh ngầm.
Về phƣơng thức chuyển nghĩa hoán dụ, thuật ngữ hoán dụ có nguồn gốc
từ tiếng Hy Lạp metonymia có ngĩa chiết tự là sự đổi tên gọi hay cải danh
[Dẫn theo 45, 505]. Nguyễn Lân giải thích hoán dụ “là phƣơng thức chuyển
đổi tên gọi, cách sử dụng từ ngữ ở nghĩa chuyển của từ đa nghĩa bằng cách
thay tên gọi của sự vật này bằng sự vật khác theo quan hệ tiếp cận của hai sự
vật; hai sự vật liên quan với nhau về một khía cạnh nào đó có thể đƣợc định
danh bởi một từ. Cơ sở của hoán dụ là các quan hệ giữa các phạm trù riêng rẽ
của hiện thực đƣợc phản ánh trong nhận thức của con ngƣời và đƣợc định
hình bằng ý nghĩa của từ. Các quan hệ đó có thể là quan hệ giữa các sự vật,
quá trình hoạt động, con ngƣời, vị trí, thời gian, sự kiện” [[31]; 96]. Đỗ Hữu
Châu xác định: “Hoán dụ là hiện tƣợng chuyển hóa về tên gọi - tên của một
đối tƣợng này đƣợc chuyển sang gọi sự vật khác dựa trên quan hệ liên tƣởng
tiếp cận” [[4]; 52]. Sau này, ông định nghĩa cụ thể hơn: “Phƣơng thức hoán dụ
là phƣơng thức lấy tên gọi A của X để gọi tên Y nếu X và Y đi đôi với nhau
trong thực tế khách quan [[6]; 145].
15


Nguyễn Thiện Giáp giải thích: “Ngƣợc lại với ẩn dụ, hoán dụ là hiện
tƣợng chuyển tên gọi từ sự vật hiện tƣợng này sang sự vật hiện tƣợng khác
dựa trên mối quan hệ logic giữa các sự vật hoặc hiện tƣợng ấy” [21; 165].
Theo A.A. Rephormatsky, “Hoán dụ là sự chuyển tên gọi đƣợc thực hiện
không phải dựa trên sự giống nhau của các đặc trƣng bên trong hay bên ngoài
của sự vật có trƣớc và sự vật mới mà dựa trên tính kế cận, nghĩa là liền kề
nhau trong không gian hay thời gian”. Nhƣ vậy, khi bàn về bản chất của hoán

dụ, dựa trên ba tiêu chí so sánh: cơ sở của sự đồng nhất hóa các sự vật hiện
tƣợng, sự chuyển đổi theo lối loại suy các đặc điểm thuộc tính về sự vật hiện
tƣợng, sự đồng nhất và tƣơng đồng giữa các sự vật hiện tƣợng. Tác giả
Nguyễn Đức Tồn đã định nghĩa: “Hoán dụ là phép thay thế tên gọi của hai sự
vật, hiện tƣợng,… khác loại (khác phạm trù) dựa trên cơ sở sự đồng nhất hóa
chúng do chúng luôn cùng xuất hiện cặp đôi với nhau trong thực tế khách
quan [45; 508].
Tóm lại, nhƣ tác giả đã trình bày, có thể thấy ẩn dụ và hoán dụ là vấn đề
trung tâm của ngôn ngữ nói chung và của từ vựng học nói riêng. Các nhà
nghiên cứu trong và ngoài nƣớc đều coi ẩn dụ và hoán dụ là cách định danh thứ
cấp của ngôn ngữ dựa trên quan hệ liên tƣởng của con ngƣời. Đây là những cơ
sở lý thuyết rất quý báu để tác giả thực hiện đề tài này. Tuy nhiên, vấn đề về
con đƣờng phóng chiếu, nét văn hóa dân tộc chi phối quá trình chuyển nghĩa ẩn
dụ và hoán dụ thì chƣa đƣợc quan tâm đúng mức trong các công trình nghiên
cứu. Vì vậy, tìm hiểu con đƣờng phóng chiếu nét văn hóa qua chuyển nghĩa ẩn
dụ và hoán dụ nói chung và qua sự phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ chỉ bộ
phận cơ thể ngƣời nói riêng là một việc làm có ý nghĩa thiết thực.
Nguyên nhân của sự chuyển nghĩa
Bàn về sự chuyển nghĩa của từ, các nhà khoa học cũng đề cập đến vấn đề
nguyên nhân của sự chuyển nghĩa. Trong lịch sử ngôn ngữ học, các nhà

16


×