Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Nhu cầu được hỗ trợ của người chăm sóc bệnh nhân HIV AIDS (nghiên cứu trường hợp người chăm sóc tại khoa truyền nhiễm bệnh viện đa khoa đống đa, hà nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

LÊ THỊ THÙY LIÊN

NHU CẦU ĐƢỢC HỖ TRỢ CỦA
NGƢỜI CHĂM SÓC BỆNH NHÂN HIV/AIDS
(Nghiên cứu trường hợp người chăm sóc tại Khoa Truyền nhiễm Bệnh viện Đa
khoa Đống Đa, Hà Nội)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Công tác xã hội

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

LÊ THỊ THÙY LIÊN

NHU CẦU ĐƢỢC HỖ TRỢ CỦA
NGƢỜI CHĂM SÓC BỆNH NHÂN HIV/AIDS
(Nghiên cứu trường hợp người chăm sóc tại Khoa Truyền nhiễm Bệnh viện Đa
khoa Đống Đa, Hà Nội)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Văn Quyết

Hà Nội – 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sỹ với đề tài “Nhu cầu được hỗ trợ của người
chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS” (Nghiên cứu trường hợp người chăm sóc tại Khoa
Truyền nhiễm Bệnh viện Đa khoa Đống Đa, Hà Nội) là công trình nghiên cứu của
riêng cá nhân tôi và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực.
Ngày 10 tháng 11 năm 2015
Tác giả luận văn

Lê Thị Thùy Liên


LỜI CÁM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn: “Nhu cầu được hỗ trợ của người
chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS (Nghiên cứu trường hợp người chăm sóc tại khoa
Truyền nhiễm Bệnh viện Đa khoa Đống Đa, Hà Nội)”, bên cạnh sự nỗ lực của bản
thân, không thể không kể đến sự giúp đỡ rất nhiệt tình và sự động viên to lớn từ
phía các Thầy giáo, Cô giáo Khoa Xã hội học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Bệnh viện Đa khoa Đống Đa, từ gia đình, bạn bè đã giúp đỡ tôi thực hiện
hoàn thành nghiên cứu của mình.
Trước hết tôi xin gửi lời cám ơn chân thành và sâu sắc nhất đến PGS.TS
Phạm Văn Quyết đã tận tình hướng dẫn tôi từ những bước đi đầu tiên khi xây dựng
đề cương cho đến khi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin gửi lời cám ơn tới đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế Bệnh viện Đa khoa
Đống Đa cũng như những người chăm sóc bệnh nhân đã tạo mọi điều kiện thuận lợi
giúp cho tôi hoàn thành quá trình nghiên cứu một cách tốt nhất.

Đồng thời, tôi xin gửi lời cám ơn chân thành và sâu sắc tới các Thầy Cô giáo
trong Khoa Xã hội học, gia đình đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình thực hiện
nghiên cứu.
Tuy đã có nhiều nỗ lực, nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất
định.Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự đóng góp quí báu của Thầy Cô giáo và các
bạn để luận văn được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cám ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2015
Tác giả

Lê Thị Thùy Liên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................5
1.Lý do chọn đề tài ......................................................................................................5
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu .................................................................................6
3. Ý nghĩa của nghiên cứu........................................................................................16
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu ......................................................................16
5. Phạm vi nghiên cứu ...............................................................................................17
6. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................17
7. Câu hỏi nghiên cứu ...............................................................................................18
8. Giả thuyết khoa học ..............................................................................................18
9. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................18
NỘI DUNG CHÍNH ................................................................................................21
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực thực tiễn của nghiên cứu ................................21
1.1. Các khái niệm công cụ .....................................................................................21
1.1.1. HIV/AIDS ........................................................................................................21
1.1.2. Người chăm sóc là người thân trong gia đình bệnh nhân. .............................21
1.1.3. Nhu cầu ...........................................................................................................22

1.1.4. Công tác xã hội ...............................................................................................23
1.1.5. Nhân viên Công tác xã hội ..............................................................................24
1.2. Một số lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu ................................................25
1.2.1. Lý thuyết nhu cầu của Abraham Maslow ........................................................25
1.2.2. Lý thuyết vai trò ..............................................................................................27
1.3. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu ..........................................................................28
1.3.1. Tổng quan đặc điểm địa bàn thành phố Hà Nội .............................................28
1.3.2. Tổng quan đặc điểm bệnh viện đa khoa Đống Đa, Hà Nội ............................30
Chƣơng 2: Hoạt động và nhu cầu đƣợc hỗ trợ của ngƣời chăm sóc bệnh nhân........32
2.1. Thực trạng hoạt động chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS của ngƣời chăm sóc
bệnh nhân .................................................................................................................32
2.1.1. Đặc điểm của người chăm sóc bệnh nhân ......................................................32
2.1.2. Công việc của người chăm sóc .......................................................................37
1


2.1.3. Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động chăm sóc bệnh nhân của người
chăm sóc gia đình ......................................................................................................41
2.2.Thực trạng về nhu cầu đƣợc hỗ trợ của ngƣời chăm sóc bệnh nhân
HIV/AIDS.................................................................................................................54
2.2.1. Nhu cầu hỗ trợ tài chính và cơ sở vật chất .....................................................55
2.2.2. Nhu cầu hỗ trợ tâm lý ......................................................................................58
2.2.3. Nhu cầu nâng cao kiến thức về bệnh HIV và kỹ năng chăm sóc……………...64
2.2.4. Các nhu cầu khác ............................................................................................66
Chƣơng 3: Công tác xã hội trong việc hỗ trợ nhu cầu của ngƣời chăm sóc bệnh
nhân HIV/AIDS. ......................................................................................................68
3.1. Vai trò của nhân viên xã hội trong việc hỗ trợ nhu cầu của ngƣời chăm sóc
bệnh nhân HIV/AIDS tại khoa truyền nhiễm Bệnh viện Đa khoa Đống Đa, Hà
Nội. ............................................................................................................................68
3.2. Một số khuyến nghị về giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động hỗ trợ ngƣời

chăm sóc bệnh nhân HIV của Nhân viên xã hội................................................... 72
KẾT LUẬN ..............................................................................................................78
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................80
PHỤ LỤC .................................................................................................................84

2


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Đặc điểm của người chăm sóc (%) ..........................................................32
Bảng 2.2: Nguồn cung cấp kiến thức về bệnh HIV/AIDS cho người chăm sóc (%) ......36
Bảng 2.3: Công việc của người chăm sóc (%) ..........................................................38
Bảng 2.4: Những khó khăn của người chăm sóc gia đình (%) .................................47
Bảng 2.5: Nhu cầu hỗ trợ của người chăm sóc (%) ..................................................54
Bảng 3.1: Mức độ hài lòng của người chăm sóc khi nhận được sự hỗ trợ như sau: ........73

3


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
HIV:

(Human Immunodeficiency Virus)

Tên một loại virut gây suy giảm miễn dịch
AIDS:

(Aquired ImmunoDeficiency Syndrome)

Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người – giai đoạn cuối của quá trình

nhiễm HIV
ARV:

(Anti-retroviral)

Thuốc kháng virut HIV

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Loài người đang phải đối mặt với HIV/AIDS, một đại dịch có sức tàn phá
chưa từng thấy trong lịch sử. HIV/AIDS là một nguy cơ lớn đối với loài người, đối
với các quốc gia, đối với các dân tộc, đối với mỗi gia đình và đối với mỗi người,
HIV/AIDS đang là hiểm họa hàng đầu về việc gây ra chết chóc, nghèo đói lạc lậu,
ảnh hưởng đến nhiều thế hệ các quốc gia, dân tộc. Từ khi đại dịch xuất hiện, theo
thống kê của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), đã có khoảng 78 triệu người nhiễm HIV
trên thế giới, trong đó ước tính 50% đã tử vong. Tại Việt Nam, HIV/AIDS cũng
đang là căn bệnh gây nhức nhối cho toàn xã hội. Tính đến tháng 6/2015, số người
nhiễm HIV còn sống được báo cáo là khoảng 227.000 trường hợp với trung bình
12.000 - 14.000 ca nhiễm mới mỗi năm và đã có khoảng 75.000 người tử vong do
AIDS được báo cáo, tính ra trung bình mỗi ngày nước ta có 20 người nhiễm HIV
mới. [2]
Những người trực tiếp chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS không ai khác chính là
các bác sỹ, y tá, nhân viên y tế, một bộ phận không nhỏ người làm công tác xã hội,
…và không thể thiếu sự chăm sóc của những người thân trong gia đình người bệnh.
Những đối tượng này có nguy cơ bị phơi nhiễm HIV rất cao. Ông Hoàng Đình Cảnh,
Phó Cục trưởng Cục Phòng chống HIV/AIDS (Bộ Y tế), cho biết báo cáo người bị tai
nạn rủi ro nghề nghiệp phơi nhiễm HIV trên toàn quốc (gồm 63 tỉnh thành và các bộ

ngành) năm 2014 cho thấy có 951 người tập trung chủ yếu ở nhóm cán bộ y tế, công
an, nhân viên xã hội...Trong số này, có 853 người được khám tư vấn có nguy cơ và
được điều trị dự phòng bằng thuốc ARV [2]. Những nỗ lực của 19 y-bác sĩ ở Bệnh
viện Phụ sản Hà Nội giúp bệnh nhân hồi sinh đã được ngành y tế động viên khen
thưởng. Nhưng sau vụ việc này, rất nhiều lo ngại và là một hồi chuông cảnh báo đối
với sự an toàn của những người chăm sóc bệnh nhân HIV. Tuy nhiên nhân viên y
tế, nhân viên xã hội còn nhận được sự điều trị miễn phí khi họ làm việc có nguy cơ
phơi nhiễm HIV hay bản thân họ đã được trang bị những kiến thức, kỹ năng chăm
sóc người bệnh, còn những người chăm sóc gia đình bệnh nhân HIV thì hoàn toàn
không. Người chăm sóc gia đình là người chăm sóc bệnh nhân hàng ngày và bên
5


cạnh bệnh nhân trong suốt quá trình điều trị bệnh nhưng họ chưa nhận được sự quan
tâm của cộng đồng xã hội.
Thực tế cho thấy, người chăm sóc gia đình gặp rất nhiều khó khăn: vấn đề
kinh tế, thời gian, kiến thức, kỹ năng, nguy cơ lây nhiễm… đặc biệt là những khó
khăn về tâm lý. Họ không những lo lắng, căng thẳng, đau xót, mặc cảm mà họ còn
gặp phải sự kỳ thị, xa lánh của xã hội. Đây là đối tượng cần được sự quan tâm, trợ
giúp của cộng đồng nói chung và của các lĩnh vực chuyên môn trong đó có Công
tác xã hội. Trợ giúp người chăm sóc đáp ứng nhu cầu chính là gián tiếp tác động
tích cực đến quá trình điều trị của bệnh nhân.
Cho đến nay ở Việt Nam chưa có đề tài nào nghiên cứu về nhu cầu của
người chăm sóc gia đình bệnh nhân HIV/AIDS. Các nghiên cứu chỉ đề cập đến nhu
cầu, khó khăn của người chăm sóc là các nhân viên y tế và đưa ra các hỗ trợ, can
thiệp mang tính chuyên môn Công tác xã hội. Xuất phát từ thực tế trên, nhằm giúp
đỡ những người chăm sóc gia đình bệnh nhân HIV/AIDS đáp ứng những nhu cầu
nảy sinh trong quá trình chăm sóc người bệnh, đồng thời cung cấp cho họ những
kiến thức, kĩ năng để họ tăng năng lực ứng phó trước những vấn đề họ gặp phải, chỉ
ra vai trò và nhiệm vụ của Nhân viên Công tác xã hội trong bệnh viện. Tôi lựa chọn

đề tài nghiên cứu: “Nhu cầu được hỗ trợ của người chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS
(Nghiên cứu trường hợp người chăm sóc tại Khoa Truyền nhiễm Bệnh viện Đa khoa
Đống Đa, Hà Nội)”.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Trong nhiều năm nay đã có nhiều nghiên cứu về bệnh HIV/AIDS và cách
chăm sóc người bệnh HIV/AIDS, trong đó bao gồm cả các nghiên cứu liên quan
đến người chăm sóc bệnh nhân. Đây là vấn đề thu hút nhiều nhà nghiên cứu từ các
lĩnh vực với các cách nhìn khác nhau. Mỗi ngành nghề lại nghiên cứu những chủ
đề, hướng tiếp cận, phương pháp nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên mục đích chung
của các nghiên cứu này là nhằm giúp cho bệnh nhân và người chăm sóc bệnh nhân
giảm thiểu được tối đa những khó khăn mà họ gặp phải trong quá trình đấu tranh
chống lại căn bệnh thế kỷ.
2.1. Các nghiên cứu đối tƣợng ngƣời chăm sóc là nhân viên y tế
6


Nhân viên y tế là những người hàng ngày chăm sóc, điều trị cho các bệnh
nhân HIV/AIDS, điều đó cũng có nghĩa là hàng ngày họ sẽ phải đối mặt với các rủi
ro, tai nạn lây nhiễm từ bệnh nhân. Dù đã có nhiều chế độ bảo hiểm rủi ro nghề
nghiệp nhưng có lẽ điều đó vẫn ít ỏi so với những vất vả, nguy hiểm mà các nhân
viên y tế trực tiếp chăm sóc điều trị cho bệnh nhân HIV/AIDS. Bàn về vấn đề này,
có khá nhiều nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước về chăm sóc bệnh nhân
HIV, đối tượng người chăm sóc là nhân viên y tế. Các nghiên cứu đề cập đến vai
trò, nhu cầu, khó khăn, thách thức mà họ gặp phải trong quá trình chăm sóc, điều trị
cho bệnh nhân HIV/AIDS.
Nghiên cứu của nhóm tác giả, Sagoe-Moses C, Pearson RD, Perry J, Jagger
J:(8/2014), Rủi ro đối với nhân viên y tế ở các nước đang phát triển, cũng đề cập
đến những rủi ro mà nhân viên y tế gặp phải khi chăm sóc, điều trị cho bệnh nhân
HIV/AIDS, họ không những có nguy cơ lây nhiễm mà tâm lý lúc nào cũng lo sợ. Ở
các nước đang phát triển thì các rủi ro nhiều hơn do họ còn ít được trang bị kiến

thức, kỹ năng, thái độ và thực hành. Số nhân viên y tế ở các nước đang phát triển
phải điều trị phơi nhiễm nhiều hơn và chế độ phụ cấp rủi ro nghề nghiệp của họ
cũng thấp hơn các nước phát triển. [35]
Nhiễm với HIV là một rủi ro nghề nghiệp cho nhân viên y tế, đặc biệt là các
bác sĩ, trong khi điều trị của bệnh nhân. Do vậy công tác dự phòng sau phơi nhiễm
HIV (PEP) là có hiệu quả trong việc ngăn ngừa lây nhiễm HIV tiềm năng sau tai
nạn. Nghiên cứu của nhóm tác giả, Ekundayo, Ogbaini (2004): “Kiến thức, thái độ
và thực hành của nhân viên y tế trong dự phòng phơi nhiễm sau lây nhiễm
HIV/AIDS, trong bệnh viện Đại học Benin city - Nigeria”, đăng trên tạp chíQuốc tế
về Nghiên cứu Cộng đồng. Mục tiêu của nghiên cứu này là để đánh giá kiến thức,
thái độ và thực hành sau phơi nhiễm HIV. Nghiên cứu được tiến hành trên 187 bác
sỹ, kết quả cho thấy đa số (66%) số người được hỏi có kiến thức tốt về HIVPEP. 95% được khuyên HIV-PEP, 85% cho biết họ sẽ đưa PEP nếu vô tình tiếp xúc
nguy cơ lây nhiễm. 47,4% số người được hỏi đã tiếp xúc với PEP. Lý do không
dùng PEP gồm thiếu thông tin về các chính sách về HIV-PEP và sợ sự kỳ

7


thị. Nghiên cứu đã đưa ra đề xuất cần nâng cao kiến thức cho nhân viên y tế trong
việc chăm sóc cho bệnh nhân HIV/AIDS, đặc biệt là dự phòng phơi nhiễm. [30]
Những vấn đề kỳ thị liên quan đến HIV/AIDS đã xuất hiện từ giữa những
năm 1980 và đến nay hơn hai thập kỷ đã trôi qua, xã hội vẫn còn tiếp tục kỳ thị
những ai bị nhiễm hoặc nghi ngờ bị nhiễm, thậm chí cả những người có liên quan
đến HIV/AIDS. Điều dưỡng là những người gần gũi để chăm sóc cho những người
mắc căn bệnh này, nhưng chính họ cũng không thoát khỏi sự phân biệt đối xử của
xã hội. Nhóm tác giả, Trương Minh Hoàng Oanh, Cao Ngọc Nga, Ria LohuisHeesink với nghiên cứu: “ Quan niệm của điều dưỡng đối với việc chăm sóc người
nhiễm HIV tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới Thành phố Hồ Chí Minh”(2010), đăng
trên tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, với mục tiêu nghiên cứu tìm hiểu quan
niệm của điều dưỡng về việc chăm sóc cho người nhiễm HIV/AIDS và xác định
những yếu tố ảnh hưởng đến công việc chăm sóc bệnh nhân của những người điều

dưỡng này. Việc nhiễm HIV, mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội, tình trạng của bệnh
nhân và bị người nhà bệnh nhân đe doạ là những nguyên nhân chính khiến cho điều
dưỡng phải lo sợ.HIV đã gây nhiều ảnh hưởng lên cuộc sống cá nhân của người
điều dưỡng mà đặc biệt là những người điều dưỡng trẻ. Những điều dưỡng lâu năm
hầu như đã được tập huấn kiến thức về HIV nhiều, trong khi nhân viên trẻ thì chưa.
Môi trường làm việc cũng có một số thuận lợi cũng như khó khăn đã ảnh hưởng đến
công việc chăm sóc bệnh nhân của các điều dưỡng viên chuyên chăm sóc bệnh nhân
HIV này. Nghiên cứu đóng góp kiến nghị là cần tạo một môi trường làm việc an
toàn, cung cấp kiến thức chăm sóc và có cái nhìn đồng cảm với nhân viên điều
dưỡng nói riêng, nhân viên y tế chăm sóc cho bệnh nhân HIV/AIDS nói chung. [15]
Đăng trên tạp chí “AIDS và cộng đồng” có rất nhiều bài viết về tập huấn
cách chăm sóc và điều trị HIV/AIDS cho đối tượng là người nhiễm HIV/AIDS, và
nhân viên y tế. Điển hình là bài viết: “Huyện Thuận Châu (Sơn La): Tập huấn chăm
sóc người nhiễm HIV/AIDS” đăng trên số 2/2013 của tác giả Đăng Anh. Buổi tập
huấn diễn ra 3 ngày, các học viên đã được cung cấp các kiến thức cơ bản về các
bệnh thường gặp ở người nhiễm HIV/AIDS: tiêu chảy, ho, sốt, suy kiệt, lao…cũng
như cách chăm sóc tinh thần, cơ thể cho người bệnh. Các buổi tập huấn, là một buổi
8


hoạt động hữu ích giúp cho người nhiễm HIV/AIDS, nhân viên y tế biết được cách
chăm sóc, hỗ trợ tâm lý, xử trí với các dấu hiệu của bệnh. [1]
Công việc nhân viên y tế chăm sóc và điều trị cho bệnh nhân phải đối mặt
với nhiều áp lực, khó khăn. Đặc biệt là những nhân viên y tế chăm sóc, điều trị cho
bệnh nhân HIV/AIDS mang nguy cơ rủi ro nghề nghiệp. Do vậy, không phải nhân
viên y tế nào cũng hài lòng với công việc mà mình đang làm. Nhóm tác giả Nguyễn
Hữu Thắng, Nguyễn Duy Luật, Ngô Thu Hương với nghiên cứu “Sự hài lòng của
nhân viên Y tế chăm sóc và điều trị HIV/AIDS tại một số bệnh viện tỉnh Hòa Bình
năm 2013 đăng trên tạp chí Y học và dự phòng”. Nghiên cứu cắt ngang kết hợp
định tính và định lượng nhằm mô tả mức độ hài lòng đối với công việc của nhân

viên y tế trong chăm sóc và điều trị HIV/AIDS tại một số bệnh viện của tỉnh Hòa
Bình năm 2013. Tổng cộng 123/143 nhân viên y tế tham gia nghiên cứu định lượng
bằng cách tự điền theo bộ câu hỏi của Paul E. Spector hiệu chỉnh. Kết quả nghiên
cứu định lượng: Mức độ hài lòng với công việc chăm sóc và điều trị HIV/AIDS của
nhân viên y tế là trung bình, tỷ lệ nhân viên y tế hài lòng chiếm 56,9%, thấp nhất là
yếu tố quy chế cơ quan (chỉ có 20,3% nhân viên y tế hài lòng) và chỉ khoảng 1/3
nhân viên y tế hài lòng đối với yếu tố khen thưởng, tiền lương và phúc lợi ngoài
lương. Kết quả nghiên cứu định tính trên 37 nhân viên y tế cho thấy các yếu tố ảnh
hưởng đến việc chưa hài lòng là phúc lợi, hợp đồng lao động, thiếu trang thiết bị, e
sợ lây nhiễm. Kết quả nghiên cứu cung cấp những bằng chứng khoa học, góp phần
chỉ ra được sự hài lòng của nhân viên y tế với công việc chăm sóc bệnh nhân
HIV/AIDS, và đưa ra những khuyến nghị để tăng thêm phúc lợi, quyền lợi cho
những nhân viên y tế làm những công việc có tính rủi ro cao.[16]
2.2. Các nghiên cứu đối tƣợng ngƣời chăm sóc là ngƣời thân trong gia đình.
Nếu như nhân viên y tế khi chăm sóc bệnh nhân họ đặt trách nhiệm nghề
nghiệp, chuyên môn kiến thức lên hàng đầu thì người thân của bệnh nhân họ lại đặt
tình thương lên trên hết. Trong gia đình nếu có người không may mắc bệnh nan y
nào đó, những người thân trong gia đình không chỉ đối mặt với các vấn đề về tài
chính, thời gian...mà còn là nỗi đau xót khi phải chứng kiến những cảnh người thân

9


của mình đang đau đớn chống chọi lại với bệnh tật. Đặc biệt đối với người thân
chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS, họ còn gặp khó khăn về kiến thức, kĩ năng để tránh
lây nhiễm cho bản thân, và tâm lý kỳ thị của cộng đồng. Bàn về vấn đề này, có một
số nghiên cứu trong và ngoài nước, các nghiên cứu đã phần nào chỉ ra những khó
khăn, nhu cầu, vai trò của người chăm sóc là người thân bệnh nhân HIV/AIDS.
Chỉ ra những khó khăn mà người chăm sóc là người thân gia đình phải đối
mặt khi chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS. Nghiên cứu của Van Empelen P (2005),

“Các tác động của HIV đối với gia đình Copenhegen, văn Phòng khu vực Châu
Âu”, đã cho kết quả, người chăm sóc họ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn: vấn đề
tài chính, lo âu, mất mát, sự kỳ thị…Những người chăm sóc là người thân trong gia
đình họ cũng có tâm lý bất ổn, chán nản, căng thẳng, mặc cảm không kém gì người
nhiễm HIV/AIDS.[37]
Wight RG.Precursive (2000) với nghiên cứu: “Nguy cơ trầm cảm của người
chăm sóc gia đình”, nghiên cứu cho thấy người thân trong gia đình người nhiễm
HIV/AIDS đối mặt với nguy cơ cao mắc bệnh trầm cảm. Người chăm sóc họ phải
chịu những căng thẳng, lo hãi, tâm lý luôn trong trạng thái bất an, mặc cảm…họ
không dám nhắc đến, sợ hãi khi nói chuyện với người khác về HIV/AIDS. Hơn thế,
người chăm sóc luôn chịu áp lực, không khí không vui vẻ trong gia đình, những
tranh chấp, mâu thuẫn xảy ra khi họ phân công chăm sóc người thân nhiễm
HIV/AIDS.[38]
Hai nghiên cứu trên đã cùng đề cập đến những khó khăn của người chăm sóc
bệnh nhân HVI/AIDS. Điểm đáng chú ý mà hai nghiên cứu này đã đóng góp là
người chăm sóc là người thân của bệnh nhân HIV/AIDS họ không chỉ khó khăn
trong tài chính, tâm lý căng thẳng, buồn chán… mà họ còn phải đối mặt với sự kỳ
thị, ái ngại của những người xung quanh. Chúng ta vần thường chỉ quan tâm đến đối
tượng có trở ngại tâm lý mặc cảm tự ti đó là người bệnh mà không biết rằng người
chăm sóc gia đình HIV/AIDS họ cũng phải đối mặt với thách thức đó.
Nghiên cứu của Warner JE (1992) “Sự tham gia của người chăm sóc gia
đình với bệnh nhân mắc bệnh nan y” đã chỉ ra người chăm sóc gia đình có vai trò

10


quan trọng trong quá trình điều trị cho bệnh nhân mắc căn bệnh nan y như ung thư
và HIV/AIDS. Mục tiêu của nghiên cứu là trợ giúp các thành viên trong gia đình
làm tốt công việc chăm sóc và cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
Đồng thời, cần tăng khả năng ứng phó với các cơn đau và giảm tâm lý căng thẳng

cho bệnh nhân[37]
Hoạt động chăm sóc hỗ trị và điều trị cho người nhiễm HIV/AIDS được coi
là trọng tâm của chương trình phòng chống sự lan tràn của đại dịch. Chăm sóc, hỗ
trợ, điều trị lam giảm đau đớn về thể chất, tinh thần, giúp kéo dài cuộc sống, tăng
cường chất lượng cuộc sống cho người nhiễm HIV/AIDS. Tác giả Vũ Công Thảo
với luận án nghiên cứu: “Thực trạng và đánh giá hiệu quả hoạt động chăm sóc, hỗ
trợ điều trị bệnh nhân HIV/AIDS tại các phòng khám ngoại trú người lớn ở ba tỉnh
Việt Nam, 2009 – 2010”, đã cho thấy vai trò quan trọng của người thân của người
nhiễm HIV/AIDS trong việc chăm sóc họ vượt qua bệnh tật. Kết quả người chăm
sóc, hỗ trợ chính cho bệnh nhân HIV/AIDS chủ yếu là vợ/chồng, tiếp là bố/mẹ,
anh/chị/em. Tỷ lệ bệnh nhân được chăm sóc, hỗ trợ từ người thân sau 12 tháng can
thiệp, điều trị thuốc kháng virut ARV đều tăng hơn trước can thiệp. Tỷ lệ được vợ
chồng can thiệp tăng cao nhất: 41,5% tăng lên 67,6%. Kết quả của nghiên cứu cho
thấy được vai trò đắc lực, quan trọng của người chăm sóc là người thân trong gia
đình bệnh nhân HIV/AIDS trong quá trình điều trị.[20]
Một nghiên cứu khác đề cập trực tiếp đến “Đáp ứng nhu cầu hỗ trợ của
những người chăm sóc gia đình trong chăm sóc giảm nhẹ: những thách thức cho
các chuyên gia y tế” do Đại học Melbourne (2004). Cụ thể: Chăm sóc cho một
người thân hấp hối đòi hỏi những người chăm sóc là người thân trong gia đình có
nhiều nhu cầu cần được đáp ứng liên quan với vai trò người chăm sóc của họ.
Nhưng những nhu cầu này lại chưa được đáp ứng đúng mức. Thông thường, những
người chăm sóc bệnh nhân chết vì bệnh HIV/AIDS đã thông báo rằng họ cần hỗ trợ
nhiều hơn và thông tin từ các chuyên gia chăm sóc sức khỏe. Hơn nữa, một số bác
sĩ lâm sàng và các nhà nghiên cứu chăm sóc giảm nhẹ đã kêu gọi can thiệp để tăng
cường sự hỗ trợ cung cấp cho những người chăm sóc gia đình. Tuy nhiên, trước khi
các nhà nghiên cứu có thể phát triển và thử nghiệm can thiệp chăm sóc giảm nhẹ
11


trực tiếp cho các gia đình lại gặp phải những rào cản về vấn đề này. Nghiên cứu

hướng đến phá bỏ rào cản, giải quyết những nhu cầu của người chăm sóc, để từ đó
có sự can thiệp hiệu quả hơn với quá trình điều trị của bệnh nhân.[33]
Nghiên cứu “Đánh giá sự chăm sóc và can thiệp để giảm thiểu những căng
thẳng và gánh nặng của người chăm sóc gia đình” (Đại học Utah, 2008) chỉ ra
rằng: sự đa dạng và cường độ của các vai trò chăm sóc cũng có thể dẫn đến căng
thẳng và gánh nặng chăm sóc. Sử dụng các biện pháp can thiệp để giảm căng thẳng
và gánh nặng cho những người chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS là nhiệm vụ quan
trọng. Nghiên cứu là một đánh giá quan trọng và tổng hợp của các bằng chứng về
các công cụ đánh giá và các biện pháp can thiệp nhằm giảm căng thẳng chăm sóc và
gánh nặng HIV/AIDS. Nghiên cứu cũng chỉ ra được những hạn chế về số lượng các
can thiệp hướng đến đối tượng là những người chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS.[32]
Người nhiễm HIV/AIDS họ không chỉ chịu những nỗi đau thể xác về bệnh
mà còn mang tâm lý mặc cảm tự ti, buồn chán…Người chăm sóc nhất là người thân
của bệnh nhân HIV/AIDS đóng vai trò quan trọng trong việc nâng đỡ về mặt tinh
thần cho người bệnh. Trong cuốn sách “Hỗ trợ tâm lý cho người nhiễm HIV/AIDS”
của tác giả Mai Thị Việt Thắng và Đào Thị Thanh Phương, đã chia sẻ những kinh
nghiệm, là công cụ trong công tác tư vấn và hỗ trợ tâm lý cho người nhiễm
HIV/AIDS. Đây là cuốn sách hữu ích cho người chăm sóc gia đình giúp họ nắm bắt
tâm lý người nhiễm HIV/AIDS để có kỹ năng xoa dịu nỗi đau tinh thần cho người
bệnh.[21]
Nếu như cuốn sách “Hỗ trợ tâm lý cho người nhiễm HIV/AIDS” giúp cho
người thân của người nhiễm HIV/AIDS cách chăm sóc tinh thần để bệnh nhân vượt
qua được các mặc cảm tâm lý thì Đỗ Hồng Ngọc (2001) trong cuốn sách “Cẩm
nang phòng chống AIDS và chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS tại gia đình”, là cuốn
cẩm nang hữu ích cho người nhiễm HIV/AIDS và thân nhân của họ biết được cách
xử trí, chăm sóc các triệu chứng của bệnh. Từ trang 56 đến trang 72 của cuốn sách,
tác giả chia sẻ thông tin, hướng dẫn cụ thể về cách chăm sóc người nhiễm
HIV/AIDS như: các con đường lây nhiễm, cách phòng tránh lây nhiễm trong gia
đình, các vấn đề sức khỏe, cách xử trí các triệu chứng, cơn đau của người nhiễm
12



HIV/AIDS… Tác giả cũng cho rằng người nhiễm HIV/AIDS hoàn toàn có thể sống
chung và nhận được sự chăm sóc yêu thương của các thành viên trong gia đình.[13]
Mô hình chăm sóc giảm nhẹ và người chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS ít
nhiều được tác giả Nguyễn Thị Xuyến (2006) đề cập đến trong cuốn sách: “Hướng
dẫn chăm sóc giảm nhẹ đối với người bệnh ung thư và HIV/AIDS (NXB Y
học2007). Nội dung cuốn sách cung cấp kiến thức về cách chăm sóc, bệnh nhân ung
thư và HIV/AIDS, đặc biệt chương III có đề cập đến “Chăm sóc tâm lý xã hội cho
người bệnh và người chăm sóc” [23]
Chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS đòi hỏi người chăm sóc là người thân
trong gia đình cần phải có kiến thức, kỹ năng về bệnh HIV/AIDS để vừa chăm sóc
chu đáo cho người bệnh vừa phòng tránh nguy cơ lây nhiễm cho chính bản thân
mình. Tuy nhiên, thực tế có nhiều thân nhân của bệnh nhân HIV/AIDS không được
huấn luyện cách chăm sóc cũng như cách phòng tránh lây nhiễm HIV/AIDS từ
người bệnh và đã có nhiều thân nhân bị tai nạn phơi nhiễm được theo dõi, dự phòng
tại các bệnh viện điều trị HIV/AIDS. Để giảm được những rủi ro đáng tiếc mà thân
nhân của người bệnh HIV/AIDS gặp phải trong quá trình chăm sóc, thì cần cung
cấp chọ những kiến thức và kỹ năng về bệnh, cách chăm sóc một cách an toàn. Tác
giả Võ Minh Quang, Nguyễn Trần Chính với nghiên cứu:“Kiến thức, thái độ, thực
hành về phòng ngừa lây nhiễm HIV của thân nhân bệnh nhân AIDS tại Bệnh viện
Nhiệt Đới thành phố Hồ Chí Minh 2005”(đăng trên tạp chí Y học thành phố Hồ Chí
Minh, tập 10, số 1-2006) đã chỉ ra rằng số thân nhân chăm sóc bệnh nhân
HIV/AIDS có kiến thức, thái độ, thực hành đúng khi chăm sóc là rất hạn chế. Cụ thể
nghiên cứu thực hiện trên 384 thân nhân bệnh nhân AIDS điều trị tại bệnh viện
Bệnh Nhiệt đới năm 2005 về kiến thức, thái độ, thực hành phòng ngừa lây nhiễm
HIV. Kết quả cho thấy chỉ có 17,5%, 19,5%, 4,7% thân nhân có kiến thức đúng,
thái độ đúng và thực hành đúng về phòng ngừa lây nhiễm HIV trong khi chăm sóc
bệnh nhân. Những tỉ lệ rất thấp so với thực tế mong muốn ghi nhận đặc biệt trên
những người sống tại Thành phố Hồ Chí Minh, tuổi 41-60, trình độ học vấn thấp

(dưới cấp 2) và những người mới bắt đầu chăm sóc bệnh nhân (< 1 tháng). Thông
tin từ nhân viên y tế rất có giá trị, tuy nhiên chỉ có 15% thân nhân tiếp cận được. Có
13


đến 37% thân nhân chưa biết gì về HIV/AIDS phải chăm sóc bệnh nhân. Có 3,4%
thân nhân đã bị tai nạn phơi nhiễm HIV trong khi chăm sóc bệnh nhân mà không xử
trí phòng bệnh phù hợp. Nghiên cứu đã chỉ ra còn rất nhiều người thân không tự
nguyện, có thái độ ghê sợ bị lây bệnh, nhiều người thân chăm sóc còn không thực
hành đúng qui định chăm sóc như rửa tay xà phòng sau khi chăm sóc bệnh
nhân…Chính vì thế, có nhiều trường hợp người nhà trong quá trình chăm sóc bị tai
nạn phơi nhiễm và nguyên nhân chủ yếu là do thiếu kiến thức, kỹ năng chăm sóc
người bệnh HIV/AIDS.[18]
Nhìn chung, các bài viết, các công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập đến
những khía cạnh, mức độ khó khăn nhất định, vai trò mà những người chăm sóc
bệnh nhân là các nhân viên y tế, người nhà bệnh nhân HIV/AIDS gặp phải. Chưa có
đề tài nghiên cứu sâu về nhu cầu và việc đáp ứng nhu cầu của người chăm sóc bệnh
nhân HIV/AIDS.
2.3. Các nghiên cứu về vai trò của Nhân viên Công tác xã hội trong bệnh viện.
Một bước phát triển lớn cho nghề Công tác xã hội đó là ngày 25/3/2010 Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 32 về việc phê duyệt Đề án phát triển
nghề Công tác xã hội giai đoạn 2010-2020, trong đó đã xác định rõ mục tiêu, nội
dung hoạt động nhằm phát triển Công tác xã hội trở thành một nghề ở Việt Nam
bao hàm hệ thống các chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ, các ngạch viên chức và
nhân viên Công tác xã hội. Đồng thời đưa ra phương pháp, nhiệm vụ đào tạo nguồn
nhân lực nhân viên Công tác xã hội từ trung cấp, cao đẳng, đại học, thạc sỹ, tiến sỹ
trong các lĩnh vực khác nhau. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc hình thành
và phát triển nghề Công tác xã hội trong các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung
cũng như trong lĩnh vực Y tế ở nước ta.
Trong ngành Y tế, những năm gần đây, tại một số bệnh viện tuyến Trung

ương cũng đã triển khai hoạt động Công tác xã hội với sự tham gia của đội ngũ
nhân viên y tế kiêm nhiệm và tình nguyện viên nhằm hỗ trợ thầy thuốc trong phân
loại bệnh nhân, tư vấn, giới thiệu dịch vụ chuyển tiếp, hỗ trợ chăm sóc người
bệnh… góp phần làm giảm bớt khó khăn trong quá trình tiếp cận và sử dụng dịch
vụ khám chữa bệnh. Một số mô hình tổ chức hoạt động Công tác xã hội trong bệnh
14


viện và tại cộng đồng cũng đã được hình thành trong thực tiễn như: phòng Công tác
xã hội, phòng Chăm sóc khách hàng, tổ Từ thiện xã hội… thuộc bệnh viện hay
nhóm công tác xã hội tham gia hỗ trợ người có HIV/AIDS, bệnh nhân tâm thần,
giúp phục hồi chức năng tại xã/phường…Tuy nhiên, hoạt động Công tác xã hội
trong Ngành hiện mới chỉ mang tính tự phát, chưa được điều chỉnh bởi các văn bản
mang tính pháp lý. Đội ngũ cán bộ tham gia hoạt động chủ yếu mới chỉ có nhiệt
huyết và kinh nghiệm, chưa được đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức, kỹ năng nên
thường thiếu tính chuyên nghiệp, hiệu quả hoạt động chưa được như mong đợi. Bởi
vậy, việc xây dựng “Đề án phát triển nghề Công tác xã hội trong ngành Y tế giai
đoạn 2011-2020” số 2514/QĐ-BYT của Bộ Y Tếlà hết sức cần thiết nhằm cụ thể
hóa Quyết định số 32 của Thủ tướng Chính phủ vào thực tiễn của ngành Y tế góp
phần giải quyết những nhu cầu bức thiết trong chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ nâng cao
chất lượng dịch vụ cũng như làm gia tăng sự hài lòng của người dân khi sử dụng
dịch vụ Y tế.[2]
Viết về vai trò của Nhân viên xã hội trong bệnh viện Đặng Kim Ly với bài
viết: “Định hướng vai trò của Nhân viên xã hội trong bệnh viện ở Việt Nam hiện
nay” (đăng trong kỷ yếu hội thảo quốc tế-2012) đã chỉ ra vai trò của Nhân viên
Công tác xã hội trong hệ thống bệnh viện ở Việt Nam, trong đó nêu rõ những khó
khăn về cung cấp các dịch vụ tại các cơ sở y tế và lợi thế của việc xuất hiện Nhân
viên Công tác xã hội trong bệnh viện.[11]
Bài viết: “Công tác xã hội bệnh viện theo cách nhìn công tác xã hội chuyên
nghiệp và quản lý bệnh viện” của Phạm Huy Dũng và Phạm Huy Tuấn Kiệt (đăng

trên kỷ yếu hội thảo quốc tế: 20 năm khoa Xã hội học, thành tựu và thách thức –
2011) đã chỉ rõ những việc của nhân viên công tác xã hội trong bệnh viện chuyên
nghiệp có thể đảm nhận và lý do cần và không cần nhân viên xã hội trong bệnh viện
chuyên nghiệp từ góc nhìn của người đào tạo vào công tác quản lý bệnh viện. Tác
giả chỉ ra rằng, Nhân viên Công tác xã hội có thể tham gia vào nhiều khâu trong
khám, chữa bệnh và trong công tác chăm sóc bệnh nhân trong bệnh viện, từ khâu
khám đến tiếp bệnh nhân nhập viện cho đến khâu chuẩn bị cho bệnh nhân xuất viện.

15


Tác giả không đề xuất một mô hình công tác xã hội trong bệnh viện cụ thể mà chỉ
đề nghị triển khai dần một số hoạt động công tác xã hội trong bệnh viện.[5]
Cho đến nay chưa có nghiên cứu nào về người chăm sóc bệnh nhân
HIV/AIDS từ góc độ Công tác xã hội tại Việt Nam. Chính vì thế nghiên cứu này
muốn đi tìm hiểu sâu về bối cảnh Việt Nam hiện tại những người chăm sóc bệnh
nhân HIV/AIDS gặp phải những khó khăn gì? Có nhu cầu gì? Và cần được hỗ trợ
như thế nao? Vai trò của Nhân viên Xã hội trong việc giúp họ giải quyết những khó
khăn đó như thế nào?
3. Ý nghĩa của nghiên cứu
3.1. Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu “Nhu cầu được hỗ trợ của người chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS
(Nghiên cứu trường hợp người chăm sóc tại khoa Truyền nhiễm Bệnh viện Đa khoa
Đống Đa, Hà Nội)” sử dụng một số lý thuyết Công tác xã hội, lý giải một số vấn đề
trong thực tiễn thông qua việc tìm hiểu và phân tích các nhu cầu cần hỗ trợ của
người chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS giúp họ vượt qua được những khó khăn gặp
phải. Điển hình như: thuyết nhu cầu, thuyết vai trò…vận dụng các kiến thức và kỹ
năng can thiệp trong Công tác xã hội nhằm được ứng dụng trong quá trình nghiên
cứu, củng cố sâu sắc hơn những hiểu biết về các lý thuyết và các phương pháp, kỹ
năng Công tác xã hội đã được thực hành.

3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu phân tích và làm rõ nhu cầu của người chăm sóc bệnh nhân
HIV/AIDS và nhu cầu đó đã được đáp ứng như thế nào? Từ đó đưa ra những giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động hỗ trợ người chăm sóc.
Nghiên cứu chỉ ra rằng không chỉ có bệnh nhân HIV/AIDS, mà người chăm
sóc bệnh nhân cũng có những nhu cầu cần được can thiệp và hỗ trợ từ phía Nhân
viên Công tác Xã hội.
Kết quả cũng góp phần vào việc hoàn thiện và phát triển mô hình chăm sóc
giảm nhẹ cho bệnh nhân HIV/AIDS. Bởi hỗ trợ tâm lý xã hội cho bệnh nhân và
người chăm sóc cũng là một phần cơ bản trong chăm sóc giảm nhẹ.
4. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
16


4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Nhu cầu cần hỗ trợ của người chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS.
4.2. Khách thể nghiên cứu
+Người chăm sóc bệnh nhân: Người chăm sóc là người thân trong gia đình.
+Bệnh nhân HIV/ AIDS
+Các bác sỹ điều dưỡng tại bệnh viện tham gia điều trị cho bệnh nhân
+Nhân viên y tế kiêm đảm nhận công việc là Nhân viên Xã hội đang làm
việc trong bệnh viện
5. Phạm vi nghiên cứu
+Phạm vi không gian: Khoa Truyền nhiễm Bệnh viện Đa khoa Đống Đa, Hà Nội
+Phạm vi thời gian: Từ tháng 3/2015 – 7/2015
+Phạm vi nội dung: Người chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS bao gồm rất
nhiều thành phần khác nhau: người chăm sóc là người thân trong gia đình, các nhân
viên y tế, các người được thuê chăm sóc bệnh nhân…Tuy nhiên trong phạm vi đề
tài này chỉ tập trung nghiên cứu tìm hiểu nhu cầu cần hỗ trợ của người chăm sóc là
người thân trong gia đình bệnh nhân HIV/AIDS đang chăm sóc bệnh nhân ở bệnh

viện trong thời gian nghiên cứu. Từ đó đưa ra các giải pháp hỗ trợ phù hợp.
Trong thời điểm tác giả làm nghiên cứu (từ tháng 3/2015 đến tháng 7/2015)
có khoảng gần 2000 người bệnh được điều trị thuốc ARV miễn phí hàng tháng, có
27 người bệnh điều trị ngoại trú, và 42 bệnh nhân HIV/AIDS. Tổng số người chăm
sóc bệnh nhân là người thân trong gia đình (vợ/chồng, bố/mẹ, anh/chị/em, con
cái…) là 53 người, người chăm sóc được thuê không có người nào.
6. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu tìm hiểu và phân tích nhu cầu của người chăm sóc là người thân
trong gia đình bệnh nhân HIV/AIDS, nhằm giúp cho những Nhân viên Xã hội làm
trong lĩnh vực y tế hiểu rõ hơn nhu cầu của người chăm sóc. Từ đó có những giải
pháp thích hợp trợ giúp họ, đồng thời gián tiếp thúc đẩy quá trình điều trị của bệnh
nhân được hiệu quả hơn.
6.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
17


Làm rõ các khía cạnh lý thuyết về nhu cầu của của người chăm sóc bệnh
nhân, đặc biệt người chăm sóc là người thân trong gia đình bệnh nhân HIV/AIDS.
Nhận diện đặc điểm của người chăm sóc là người thân trong gia đình, làm rõ
những công việc cũng ra những thuận lợi và khó khăn họ gặp phải trong quá trình
chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS.
Nhận diện các nhu cầu cần hỗ trợ của người chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS
về các khía cạnh: kiến thức, kỹ năng chăm sóc, tâm lý xã hội, thông tin, tài chính,
các phòng tránh lây nhiễm và các yếu tố khác nảy sinh trong quá trình chăm sóc
người bệnh
Tìm hiểu các hoạt động Công tác xã hội trong việc trợ giúp người chăm sóc
bệnh nhân HIV/AIDS tại bệnh viện. Đề xuất một số giải pháp nâng cao hoạt động
Công tác xã hội trong việc đáp ứng nhu cầu của người chăm sóc là người thân trong
gia đình.

7. Câu hỏi nghiên cứu
(1) Người chăm sóc bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS có những đặc điểm và vai
trò như thế nào?
(2) Người chăm sóc gặp những khó khăn gì và nhu cầu của họ cần được hỗ
trợ là gì?
(3) Nhân viên Công tác xã hội đóng vai trò như thế nào trong việc đáp ứng
nhu cầu của người chăm sóc?
8. Giả thuyết khoa học
Người chăm sóc gia đình bệnh nhân HIV/AIDS có khó khăn trong kinh tế,
tinh thần khi chăm sóc bệnh nhân. Từ đó, họ có nhu cầu hỗ trợ tài chính, hỗ trợ tinh
thần và cung cấp sâu về kiến thức về bệnh HIV/AIDS, kỹ năng chăm sóc bệnh
nhân, cách bảo vệ bản thân tránh lây nhiễm.
Nhân viên Công tác xã hội có vai trò quan trọng trong việc kết nối với các
nguồn lực trợ giúp để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người chăm sóc gia đình, đồng
thời Nhân viên Công tác xã hội cũng là người trợ giúp tâm lý, cung cấp kiến thức
cho bệnh nhân và người chăm sóc là người thân trong gia đình.
9. Phƣơng pháp nghiên cứu
18


9.1. Phân tích tài liệu
Để có số liệu cụ thể, chính xác về các vấn đề liên quan, nhà nghiên cứu đã
tìm hiểu một số tài liệu như: các nghiên cứu về người chăm sóc bệnh nhân
HIV/AIDS trong và ngoài nước; tài liệu, sách, báo về HIV/AIDS, các nghiên cứu
khoa học về HIV/AIDS; báo cáo tổng kết của Bệnh viện Đa khoa Đống Đa… và
các tài liệu liên quan khác (xem phần Danh mục tài liệu tham khảo).
9.2. Phƣơng pháp thu thập thông tin
9.2.1. Phương pháp quan sát
Người nghiên cứu tiến hành quan sát với những nội dung sau:
Quan sát hoạt động chăm sóc của bệnh nhân và thái độ của người chăm sóc:

Trong đó tác giả tập trung quan sát các kỹ năng chăm sóc người bệnh và những biểu
hiện cũng như những thay đổi về thái độ, tinh thần, sức khỏe của người chăm sóc.
- Quan sát sự tương tác giữa bệnh nhân và người chăm sóc để thấy được
phản hồi của bệnh nhân đối với hoạt động chăm sóc mà bệnh nhân nhận được từ
người chăm sóc.
- Quan sát tương tác giữa những người chăm sóc về cách thức họ trao đổi
kiến thức, kinh nghiệm, chăm sóc cũng như chia sẻ về những khó khăn và nhu cầu
trong cuộc sống, những thông tin mà họ nhận được.
- Quan sát giữa tương tác giữa những người chăm sóc và cán bộ bệnh viện.
Ngoài ra, người nghiên cứu còn tiến hành quan sát những yếu tố xung quanh
tác động đến hoạt động của người chăm sóc như: cơ sở vật chất phục vụ điều trị và
sinh hoạt. các nguồn hỗ trợ, các dịch vụ cung ứng…
9.2.2. Phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi
Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành khảo sát bằng bảng hỏi với 50
người chăm sóc là người thân của gia đình tại khoa truyền nhiễm Bệnh viện Đa
khoa Đống Đa, Hà Nội.
Nội dung khảo sát đề cập đến: Vai trò của người chăm sóc đối với quá trình
điều trị của người bệnh, các hoạt động chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS thường nhật.
Những yếu tố tác động đến công việc của người chăm sóc. Nhu cầu của người chăm
sóc và những hỗ trợ họ nhận được từ phía bệnh viện.
19


Các bảng hỏi sau khi thu thập đã được xử lý qua chương trình xử lý thống kê
SPSS 16.0.
Ngoài ra trong quá trình phỏng vấn bảng hỏi với người chăm sóc và trò
chuyện với bệnh nhân, chúng tôi tiến hành thu thập thêm những ý kiến, nhận định
để làm phong phú thêm dữ liệu.
9.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Chúng tôi tiến hành 13 phỏng vấn sâu với 05 đối tượng theo cơ cấu sau:

- Phỏng vấn sâu lãnh đạo bệnh viện về nội dung: nhận định về vai trò của
người chăm sóc trong nhóm hỗ trợ điều trị cho bệnh nhân; định hướng về giải pháp
hỗ trợ người chăm sóc.
- 06 người chăm sóc (03 nam, 03 nữ) về nội dung: công việc chăm sóc;
những thuận lợi và khó khăn khi chăm sóc người bệnh; các kiến thức và hiểu biết về
bệnh cũng như phác đồ điều trị của bệnh nhân; các nguồn lực hiện có; những nhu
cầu được hỗ trợ; cách thức mong muốn được đáp ứng; kiến nghị đối với sự trợ giúp
của nhân viên xã hội và bệnh viện.
- 01 bác sỹ điều trị và 01 điều dưỡng. Nội dung phỏng vấn về: Đánh giá về
vai trò của người chăm sóc bệnh nhân; Nhận định về những nhu cầu của người
chăm sóc; Đề xuất giải pháp hỗ trợ cho người chăm sóc.
- 02 bệnh nhân về nội dung: Nhu cầu cần được chăm sóc như thế nào, Phản
hồi khi được chăm sóc bởi những người chăm sóc là người thân gia đình
- 02 nhân viên (đang đảm nhận những công việc của một Nhân viên Công tác
xã hội) về nội dung: Nhận định nhu cầu của người chăm sóc; những hỗ trợ đã được
thực hiện đối với người chăm sóc; Đánh giá hiệu quả của những hỗ trợ này; Giải
pháp cho mô hình hỗ trợ phù hợp và hiệu quả hơn.

20


NỘI DUNG CHÍNH
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực thực tiễn của nghiên cứu
1.1. Các khái niệm công cụ
1.1.1. HIV/AIDS
HIV là tên viết tắt của cụm từ tiếng Anh Human Immuno-deficiency Virus
(Virus gây suy giảm miễn dịch ở người). Đó loại virut khi xâm nhập vào cơ thể
người sẽ tấn công trực tiếp hệ thống miễm dịch, làm cơ thể mất sức đề kháng, dễ
mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội và ung thư.
Có hai loại HIV: HIV1 giống một loại virut ở khỉ Chimpezel tại Gabong.

HIV1 gây nhiễm trên toàn cầu được tìm thấy năm 1983. HIV2: giống một loại virut
ở khỉ Rooty Mangabey tại Tây Phi. HIV2 gây nhiễm chủ yếu ở khu vực Châu Phi
được tìm thấy vào năm 1986.
AIDS là tên viết tắt của cụm từ tiếng Anh: Acquired Immuno Deficiency
Syndrom (Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải). Trước đây, bệnh được gọi là
SIDA (viết tắt từ tiếng Pháp: Syndrome d'Immuno Deficience Acquise), nhưng do
trùng với tên của Tổ chức phát triển quốc tế Thụy Điển SIDA và tên của Tổ chức
CIDA (Canađa) cũng gọi là "Si đa" nên thống nhất gọi là AIDS để tránh nhầm lẫn
và phù hợp với tên quốc tế. AIDS là một bệnh mạn tính do HIV gây ra, vô cùng
nguy hiểm và chưa tìm ra thuốc chữa.[15]
HIV phá huỷ các tế bào của hệ miễn dịch, khiến cơ thể không còn khả năng
chống lại các virus, vi khuẩn và nấm gây bệnh. Do đó, bệnh nhân dễ bị một số loại
ung thư và nhiễm trùng cơ hội mà bình thường có thể đề kháng được. Bản thân
virus và nhiễm trùng được gọi là HIV. Thuật ngữ AIDS được dùng để chỉ giai đoạn
muộn hơn của bệnh. Như vậy, thuật ngữ nhiễm HIV/AIDS được dùng để chỉ những
giai đoạn khác nhau của cùng một bệnh.
1.1.2. Người chăm sóc là người thân trong gia đình bệnh nhân.
“Người chăm sóc” (caregiver) là một khái niệm rộng và được định nghĩa
theo nhiều cách khác nhau, tùy vào lĩnh vực cần chăm sóc. Tuy nhiên, khái niệm
Người chăm sóc trong Y tế thường được hiểu như sau: Người chăm sóc là cá nhân
hỗ trợ trong việc xác định, phòng ngừa, hoặc điều trị cho một đối tượng bệnh nào
21


×