Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Quan hệ indonesia và malaysia giai đoạn 1957 – 1965

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 130 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRẦN THỊ HÀ

QUAN HỆ INDONESIA VÀ MALAYSIA GIAI ĐOẠN 1957 – 1965:
NHỮNG BẤT ĐỒNG CHÍNH TRỊ

LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRẦN THỊ HÀ
QUAN HỆ INDONESIA VÀ MALAYSIA GIAI ĐOẠN 1957-1965:
NHỮNG BẤT ĐỒNG CHÍNH TRỊ

Chuyên ngành: Lịch sử thế giới
Mã số: 60220311

LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Phạm Văn Thủy

HÀ NỘI – 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và chưa


từng được công bố. Các tài liệu, số liệu trích dẫn trong luận văn là trung thực,
có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.

Hà Nội, ngày tháng năm

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trần Thị Hà


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Phạm Văn Thủy, người đã tận
tình hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành Luận văn tốt
nghiệp này.
Tôi cũng chân thành gửi lời cảm ơn tới tập thể thầy cô giáo trường Đại
học khoa học xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội, thư viện trường
và các thầy cô trong lớp cao học Lịch sử thế giới QH-2013 đã giúp đỡ tôi
trong quá trình thực hiện Luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, cơ quan, đồng nghiệp đã hỗ trợ,
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và làm luận văn của tôi.
Chân thành cảm ơn
Tác giả


DANH MỤC VIẾT TẮT
ASEAN: Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (Association of Southeast
Asian Nations-ASEAN)
ANZUS: Khối hiệp ước quân sự Úc - New Zealand - Mỹ (Australia New Zealand - United States Security Treaty)
ANZAM: Hiệp ước ANZAM (Australia, New Zealand and Malaysia)
AMDA: Hiệp ước phòng thủ Ango – Malayan (Anglo - Malayan Defence

Agreement)
ASA: Hiệp hội Đông Nam Á (Association of Southeast Asia)
CENTO: Tổ chức hiệp ước Trung Đông (Central Treaty Organization )
IMP: Đảng độc lập Mã Lai (Independence of Malaya Party, IMP)
MAPHILINDO: Malaysia, Philippines, Indonesia
MCP: Đảng Cộng sản Malaya (Malayan Communist Party)
Masyumi: Đại hội đồng Hồi giáo Indonesia (Majelis Syuro Muslimin
Indonesia)
MDU: Liên minh Dân chủ Malaya (Malayan Democratic Union)
MNP: Đảng dân tộc Mã Lai (Malayan Nationalist Party)
MCA: Hiệp hội người Hoa ở Mã Lai (Malayan Chinese Association)
NATO: Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (North Atlantic Treaty
Organization )
PKI: Đảng cộng sản Indonesia (Partai Komunis Indonesia)
PNI: Đảng Quốc dân Indonesia (Partai Nasional Indonesia, PNI)


SEAFET: Hiệp ước hữu nghị và hợp tác kinh tế ở Đông Nam Á
(Southeast Asia Friendship and Economic Treaty)
SEATO:

Tổ

chức

Hiệp

ước

Đông


Nam

Á

(Southeast Asia Treaty Organization)
SPGF: Lực lượng Du kích nhân dân Sarawak
SEAFET: Hiệp ước thân thiện và kinh tế Đông Nam Á ( Southeast Asia
Friendship and Economic Treaty)
TNKU: Quân đội quốc gia Bắc Kalimantan (Tentera Nasional
Kalimantan Utara)
TKPA: Quân đội nhân dân Bắc Kalimantan
UMNO: Tổ chức dân tộc thống nhất Mã Lai (Pertubuhan Kebangsaan
Melayu Bersatu)


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................ Error! Bookmark not defined.
1.Lý do chọn đề tài ......................................... Error! Bookmark not defined.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề......................... Error! Bookmark not defined.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............ Error! Bookmark not defined.
4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứuError!
defined.

Bookmark

not

5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu................ Error! Bookmark not defined.
6. Đóng góp của đề tài .................................... Error! Bookmark not defined.

7. Bố cục của luận văn ................................... Error! Bookmark not defined.
Chƣơng 1:NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI MỐI QUAN HỆ GIỮA
INDONESIA VÀ MALAYSIA GIAI ĐOẠN 1957-1965Error! Bookmark
not defined.
1.1.

Bối cảnh quốc tế .................................... Error! Bookmark not defined.

1.1.1.Chiến tranh lạnh và sự xuất hiện hai khối quân sự đối đầu ........ Error!
Bookmark not defined.
1.1.2. Mối quan hệ của Indonesia và Malaysia với hai khốiError! Bookmark
not defined.
1.2.

Bối cảnh khu vực .................................. Error! Bookmark not defined.

1.2.1. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ độc lập ở Đông
Nam Á ................................................................. Error! Bookmark not defined.
1.2.2. Hội nghị Bandung năm 1955 .................. Error! Bookmark not defined.
1.3. Tình hình chính trị của Indonesia và MalaysiaError! Bookmark not
defined.
1.3.1. Tình hình chính trị của Indonesia .......... Error! Bookmark not defined.
1.3.2. Tình hình chính trị của Malaysia ........... Error! Bookmark not defined.
1.3.3. Singapore, Sabah và Sarawak gia nhập Liên bang Malaysia ..... Error!
Bookmark not defined.


1.4. Khái quát về mối quan hệ Indonesia và Malaysia trƣớc năm 1957
............................................................................. Error! Bookmark not defined.
Chƣơng 2: NHỮNG BẤT ĐỒNG CHÍNH TRỊ GIỮA INDONESIA VÀ

MALAYSIA GIAI ĐOẠN 1957 - 1965............ Error! Bookmark not defined.
2.1. Những bất đồng chính trị giữa Indonesia và Malaysia giai đoạn
1957 - 1962 ...................................................... Error! Bookmark not defined.
2.1.1. Những bất đồng trong chính sách đối nội và đối ngoại của
Indonesia và Malaysia ................................. Error! Bookmark not defined.
2.1.2. Những bất đồng quan điểm giữa Indonesia và Malaysia về vai trò
lãnh đạo khu vực.......................................... Error! Bookmark not defined.
2.1.3. Sự căng thẳng giữa Indonesia và Malaysia thông qua các cuộc
nổi dậy ở Brunei, Sarawak. ......................... Error! Bookmark not defined.
2.2. Cuộc đối đầu quân sự giai đoạn 1963 – 1965Error! Bookmark not
defined.
2.2.1. Những diễn biến chính của cuộc đối đầu quân sự ................ Error!
Bookmark not defined.
2.2.2. Kết quả của cuộc đối đầu quân sự Indonesia và Malaysia ... Error!
Bookmark not defined.
2.2.3. Sự can thiệp từ bên ngoài trong cuộc đối đầu giữa Indonesia và
Malaysia ....................................................... Error! Bookmark not defined.
2.3. Bình thƣờng hóa quan hệ Indonesia và MalaysiaError!
not defined.

Bookmark

Chƣơng 3: TÁC ĐỘNG CỦA BẤT ĐỒNG CHÍNH TRỊ GIỮA
INDONESIA - MALAYSIA ĐỐI VỚI BẢN THÂN MỖI QUỐC GIA VÀ
KHU VỰC ĐÔNG NAM Á………………………………………….. Error!
Bookmark not defined.
3.1. Đối với Indonesia..................................... Error! Bookmark not defined.
3.1.1. Về kinh tế - xã hội .............................. Error! Bookmark not defined.
3.1.2. Về an ninh - chính trị ........................ Error! Bookmark not defined.
3.1.3. Về đối ngoại........................................ Error! Bookmark not defined.

3.2. Đối với Malaysia ...................................... Error! Bookmark not defined.


3.2.1. Về kinh tế - xã hội .............................. Error! Bookmark not defined.
3.2.2. Về an ninh - chính trị ........................ Error! Bookmark not defined.
3.2.3. Về đối ngoại........................................ Error! Bookmark not defined.
3.3. Đối với Đông Nam Á ............................... Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN ........................................................ Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................ Error! Bookmark not defined.
PHỤ LỤC ........................................................... Error! Bookmark not defined.

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Indonesia và Malaysia là hai quốc gia lớn và đông dân, lại nằm ở vị trí
trung tâm của khu vực Đông Nam Á.1 Chính vì vậy, hai quốc gia này có vị trí
quan trọng không chỉ trong ASEAN mà còn ở khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương. Bất cứ sự biến động nào ở Indonesia và Malaysia đều có tác động
trực tiếp hay gián tiếp tới an ninh của cả khu vực. Có thể nói, chính sự thay
đổi trong chính sách đối ngoại của Indonesia và Malaysia, cụ thể là đối với
các nước láng giềng Đông Nam Á, là một nhân tố quan trọng dẫn đến việc
thành lập ASEAN vào cuối những năm 60 của thế kỷ XX. Hai quốc gia này
đã đóng vai trò tích cực nếu không muốn nói là trụ cột trong sự lớn mạnh của
ASEAN về các mặt kinh tế, chính trị trong hơn ba thập kỷ qua. Ngược lại, sự
lớn mạnh của ASEAN là nhân tố giúp Indonesia và Malaysia tăng cường vị
thế của mình trên trường quốc tế. Xét trên khía cạnh đó, chúng ta thấy được
mối quan hệ khăng khít về kinh tế, chính trị giữa Indonesia, Malaysia với các
quốc gia của tổ chức ASEAN, trong đó có Việt Nam.

1


Theo cống kê năm 2015, Indonesia là quốc gia có số dân đông nhất Đông Nam Á, cũng trong năm 2015
Malaysia giữ vai trò là chủ tịch hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á.


Việt Nam là một thành viên tích cực của ASEAN; và hơn hết Việt Nam
có mối liên hệ lâu dài về mặt lịch sử với cả Indonesia và Malaysia. Nhiều vấn
đề mà hai quốc gia này đã và đang gặp phải cũng là những thách thức đối với
Việt Nam. Chính vì lẽ đó, việc nghiên cứu lịch sử Indonesia và Malaysia cũng
như mối quan hệ giữa hai quốc gia này, cả trong quá khứ và hiện tại, có ý
nghĩa thực tiễn to lớn, có thể gợi mở những bài học kinh nghiệm quý báu và
giúp định hình, điều chỉnh chính sách đối ngoại hợp lý với các quốc gia này.
Trọng tâm nghiên cứu của đề tài là mối quan hệ giữa hai quốc gia
Indonesia và Malaysia trong giai đoạn từ năm 1957 đến năm 1965. Đây được
xem là giai đoạn hai nước có những bất đồng chính trị sâu sắc mà nguyên
nhân trực tiếp được bắt nguồn từ việc Indonesia phản đối thành lập Liên bang
Malaysia. Đỉnh điểm của mâu thuẫn là cuộc đối đầu quân sự giữa hai nước
trong các năm 1963-1965 dưới tên gọi “Confrontasi” (Đối đầu). Câu hỏi
được đặt ra là: Tại sao Indonesia và Malaysia, vốn là hai quốc gia có nhiều
điểm tương đồng về lịch sử - văn hóa, đều bị thực dân Phương Tây đô hộ,
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở hai nước có mối liên hệ khăng khít,
nhưng khi Malaysia tuyên bố độc lập thì Indonesia lại cực lực phản đối? Tại
sao Indonesia và một số quốc gia ở Đông Nam Á lại có sự ngờ vực và phản
đối việc thành lập Liên bang Malaysia? Cuộc đối đầu quân sự giữa Indonesia
và Malaysia diễn ra như thế nào? Đặt trong bối cảnh của cuộc Chiến tranh
lạnh cuối những năm 50 đầu những năm 60, các nước lớn có tác động như thế
nào tới quan hệ giữa Indonesia và Malaysia? Hệ quả của mối quan hệ đối đầu
giữa Indonesia và Malaysia đối với tình hình chính trị, kinh tế của mỗi nước
cũng như của khu vực Đông Nam Á như thế nào?
Trên cơ sở phân tích bối cảnh chính trị của khu vực và thế giới thời Chiến
tranh lạnh tác động đến mối quan hệ giữa Indonesia và Malaysia, Luận văn sẽ

làm rõ thực chất của những bất đồng chính trị giữa hai quốc gia trong giai
2


đoạn 1957 -1965 là gì. Việc hiểu những bất đồng này không chỉ giúp lật lại
trang sử bang giao của hai nước Indonesia và Malaysia mà còn góp phần làm
rõ mối quan hệ quốc tế của khu vực Đông Nam Á cuối những năm 50, đầu
những năm 60 của thế kỉ XX. Kinh nghiệm từ việc giải quyết những bất đồng
chính trị giữa Indonesia và Malaysia trong giai đoạn này sẽ là một bài học
kinh nghiệm quý giá cho việc giải quyết các xung đột trong khu vực, quốc tế
hiện nay. Trên tinh thần đó, việc lựa chọn đề tài “Quan hệ Indonesia và
Malaysia giai đoạn 1957 – 1965: Những bất đồng chính trị” vừa có ý nghĩa
khoa học, vừa có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Tình hình nghiên cứu quốc tế
Là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với lịch sử khu vực Đông
Nam Á nói chung và lịch sử quan hệ bang giao giữa hai nước nói riêng nên
vấn đề bất đồng chính trị giữa Indonesia và Malaysia trong giai đoạn 19571966 nhận được sự quan tâm của nhiều học giả trên thế giới. Công trình quan
trọng nhất đề cập trực tiếp đến vấn đề này là “Konfrontasi: The Indonesia –
Malaysia dispute, 1963-1966” của J.A.C. Mackie, xuất bản vào năm 1974.
Công trình đã phân tích các sự kiện cụ thể của cuộc đối đầu quân sự giữa
Indonesia và Malaysia diễn ra trong giai đoạn 1963-1965; chế độ chính trị của
Indonesia dưới thời Sukarno cũng như các chính sách cụ thể của Indonesia
đối với Malaysia. Tuy nhiên, việc tập trung quá sâu vào chế độ chính trị của
Tổng thống Sukarno đã khiến công trình không làm rõ được bối cảnh quốc tế
và khu vực tác động đến mối quan hệ đối đầu này. Hơn nữa, tác giả cũng
không làm rõ các chính sách đối phó của Malaysia trước các chính sách và
hành động thù địch từ phía Indonesia.
Ngoài công trình của Mackie kể trên, quan hệ giữa Indonesia và Malaysia
trong giai đoạn 1957-1965 còn được đề cập đến trong các công trình về lịch

3


sử ngoại giao giữa hai quốc gia. Cuốn “The politics of Indonesia-Malaysia
relations: One kin two nations” của tác giả Liow Joseph Chingnyong xuất bản
năm 2005 đã khái lược mối quan hệ giữa Indonesia và Malaysia từ năm 1949
khi Indonesia giành được độc lập hoàn toàn từ Hà Lan cho đến năm 2000. Tác
giả đã đưa ra lập luận rằng mối quan hệ chính trị giữa hai nước được xác định
chủ yếu dựa trên sự cạnh tranh. Đồng thời công trình cũng cung cấp những
nền tảng lý thuyết về sự tương đồng giữa hai quốc gia đứng từ góc độ dân tộc,
ngôn ngữ và chủ nghĩa dân tộc. Đặc biệt công trình còn nghiên cứu mối quan
hệ của hai quốc gia này trong bối cảnh quan hệ với các quốc gia khác ở khu
vực Đông Nam Á.
Viết về quan hệ Indonesia – Malaysia vào thời điểm đỉnh cao của mối
quan hệ đối đầu là công trình “Indonesian Intentions towards Malaysia”, xuất
bản năm 1964 bởi Bộ Thông tin truyền thông Malaysia. Công trình này tổng
hợp các văn kiện của chính phủ Malaysia trong việc đối phó lại chính sách đối
đầu của Indonesia. Nội dung chính của công trình này là khái quát các chính
sách của Indonesia với Malaysia; quá trình chuẩn bị xâm lược của Indonesia
đối với Malaysia vào năm 1958 và sự chuẩn bị đối phó của Malaysia.
Ngoài các công trình nghiên cứu chuyên sâu, mối quan hệ ngoại giao giữa
Indonesia - Malaysia trong giai đoạn 1957-1965 còn được thể hiện ở một số
công trình viết riêng về quan hệ ngoại giao của từng nước, hay những công
trình đề cập đến tình hình chính trị của các quốc gia giai đoạn này. Tiêu biểu
trong số đó là công trình “Foreign policy and national integration: The case
of Indonesia” của tác giả Jon M.Reinhardt xuất bản vào năm 1971. Công trình
đề cập đến chính sách đối ngoại, chủ nghĩa dân tộc, con đường giành độc lập
của Indonesia. Cuốn “Indonesian foreign policy and the dilemma of
dependence, from Sukarno to Soeharto”, tác giả Franklin B. Weinstein, xuất
bản năm 1976, phân tích các chính sách ngoại giao của Indonesia từ khi giành

được độc lập năm 1945 đến thời kì cầm quyền Suharto. Tuy công trình có đề
4


cập đến mối quan hệ với quốc gia láng giềng Malaysia, nhưng trọng tâm của
cuốn sách là các chính sách của Indonesia với các cường quốc lớn trên thế
giới.
Từ những nghiên cứu điền dã, tác giả Noboru Ishisawa tìm hiểu nguyên
nhân của những bất đồng về biên giới giữa Indonesia và Malaysia trong cuốn
“Between frontiers: Nation and identity in a Southeast Asia borderland”, xuất
bản năm 2010. Công trình đã dựa trên những nghiên cứu tại vùng biên giới
giữa tỉnh Sarawak của Malaysia và tỉnh Borneo của Indonesia để tìm hiểu
những vấn đề xung quanh việc phân chia lãnh thổ, việc duy trì lãnh thổ quốc
gia và quan điểm của người dân địa phương và khái niệm lãnh thổ quốc gia.
Qua đó, tác giả mô tả phép biện chứng xã hội – nhà nước và quan điểm của
hai quốc gia về đường biên giới của lịch sử và hiện tại.
Ngoài tài liệu sách còn có nguồn tài liệu bằng tạp chí như bài phân tích
“Indonesia’s Confrontation with Malaysia: a seach for motives”, của Donal
Hindley, đăng trên Asian Survey, năm 1962. Bài viết phân tích chủ nghĩa dân
tộc và sự phát triển kinh tế không đồng đều của hai nước và khẳng định chính
đây là những yếu tố khiến cho Indonesia và Malaysia có những bất đồng và
tranh chấp.
Bên cạnh đó là hàng loạt các bài viết đăng trên Asian Survey trong những
năm diễn ra cuộc đối đầu Indonesia – Malaysia như “The Indonesian Image of
West Irian , Asian Survey Berkeley, 1961, Vol.I, No. 5; Pauker, Guy J.,
“Indonesia Internal Development or External Expansion?” Asian Survey,
Berkeley, 1963.- Vol.III.- No. 2; Butwell, Richard, “Malaysia and Its Impact
on the International Relations of Southeast Asia”, Asian Survey.- Berkeley,
1964, Vol.IV, No. 7; Mohammad Hatta, “One Indonesian View of the
Malaysia Issue”, Asian Survey, Berkeley, 1965, Vol.V, No. 3; Sutter, John O,

“Two Faces of Konfrontasi : "Crush Malaysia" and the gestapu”, Asian
Survey, Berkeley, 1966, Vol.VI, No. 10.
5


Mặc dù nguồn tài liệu tiếng Anh phong phú bao gồm sách tham khảo,
sách chuyên sâu, các bài tạp chí… Tuy nhiên những nguồn tài liệu trên mới
chỉ khái quát bối cảnh hai nước Indonesia và Malaysia tác động đến chính
sách đối ngoại của hai nước mà chưa đi sâu phân tích bối cảnh quốc tế có tác
động sâu sắc đến những bất đồng của hai nước. Đặc biệt, nguồn tài liệu tiếng
Anh chưa làm rõ những mâu thuẫn thù địch giữa Indonesia và Malaysia xuất
phát từ quan điểm chính trị khác nhau của hai nhà lãnh đạo Sukarno và Abdul
Rahman. Nguồn tài liệu tiếng Anh cũng chưa đi sâu phân tích, đánh giá hệ
quả của những bất đồng chính trị giữa Indonesia đối với bản thân mỗi nước và
khu vực. Tuy nhiên, nguồn tài liệu tiếng Anh trên là tiền đề và cơ sở để tôi
thực hiện Đề tài của mình.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa Indonesia và Malaysia cũng được
đề cập trong một số công trình nghiên cứu của các học giả trong nước. Trong
công trình “Quan hệ đối ngoại của các nước ASEAN” do Nguyễn Xuân Sơn
và Thái Văn Long chủ biên, Nxb. chính trị quốc gia (1997), đã khái lược mối
quan hệ đối ngoại giữa các nước ASEAN. Trong đó, tác giả đã nêu ra một số
chính sách đối ngoại của hai nước ảnh hưởng đến mối quan hệ láng giềng
giữa hai quốc gia trong giai đoạn 1957-1965.
Mối quan hệ giữa Malaysia và Indonesia còn được thể hiện trong những
công trình viết riêng về mỗi nước như công trình của Viện nghiên cứu Đông
Nam Á với tiêu đề “Liên bang Malaysia – Lịch sử, văn hóa và những vấn đề
hiện đại”, Nxb. Khoa học Xã hội (1998) với nội dung đề cập đến quá trình
lịch sử, những đặc trưng văn hóa, xã hội tôn giáo của Malaysia. Tác giả Ngô
Văn Doanh với công trình “Indonesia- những chặng đường lịch sử”, Nxb.

Chính trị quốc gia, (1995) với nội dung giới thiệu về đất nước Indonesia,
những vấn đề kinh tế, chính trị, ngoại giao. Ngoài ra còn có các công trình
6


của Huỳnh Văn Tòng, Lịch sử Indonesia (từ thế XV-XVI đến những năm
1950), Bộ Giáo dục và Đào tạo (1992); Huỳnh Văn Tòng, Lịch sử Malaysia,
Singapore và Brunei từ thế kỉ XVI đến đầu thập niên 80, Viện đào tạo mở
rộng (1993); V.A. Chiurin, Vài nét về chế độ kinh tế xã hội Mã Lai, Nxb. Sự
thật (1962)…
Những công trình viết chung về lịch sử Đông Nam Á cũng đề cập đến mối
quan hệ căng thẳng giữa Indonesia và Malaysia trong giai đoạn 1957-1965
bao gồm: Lịch sử Đông Nam Á: Từ nguyên thủy đến ngày nay do tác giả
Lương Ninh chủ biên, Nxb. Chính trị Quốc gia (2016); D.G.E. Hall, Lịch sử
Đông Nam Á, Nxb Chính trị quốc gia (1997); Lương Ninh (Cb.), Lịch sử
Đông Nam Á: Nxb. Giáo dục (2005); Vũ Dương Ninh (Cb), Đông Nam Á
truyền thống và hội nhập, Nxb. Thế Giới (2007)...
Điểm qua các nguồn tài liệu bằng tiếng Anh và tiếng Việt cho thấy các
công trình viết về mối quan hệ của hai nước trên nhiều lĩnh vực khác nhau.
Đồng thời các công trình cũng đề cập đến nhiều vấn đề kinh tế, chính trị, văn
hóa- xã hội của hai nước Indonesia và Malaysia. Tuy nhiên, chưa có công
trình nào đi sâu nghiên cứu mối quan hệ của hai quốc gia trong giai đoạn
1957 đến 1965. Các công trình chưa nhấn mạnh đến tầm quan trọng của bối
cảnh quốc tế đưa đến những bất đồng mâu thuẫn chính trị giữa Indonesia và
Malaysia trong giai đoạn này. Nguồn tài liệu tiếng Anh và tiếng Việt cũng
chưa phân tích được tác động của mối quan hệ hai nước đối với bản thân nội
tại Indonesia – Malaysia, cũng như đối với tình hình an ninh chính trị khu vực
Đông Nam Á. Đặt biệt là ở trong nước, chưa có công trình nghiên cứu nào
được công bố viết về bất đồng, mâu thuẫn giữa Indonesia và Malaysia trong
giai đoạn đầy biến động này.

Dựa trên những công trình khoa học có liên quan được công bố trong và
ngoài nước, đề tài “Quan hệ Indonesia và Malaysia giai đoạn 1957 – 1965:
7


Những bất đồng chính trị” sẽ đem đến một cách nhìn tổng quát về mối quan
hệ của hai nước trong gần một thập kỷ, phân tích mối quan hệ hai quốc gia
trong bối cảnh khu vực và quốc tế. Thông qua việc nghiên cứu mối quan hệ
giữa Indonesia và Malaysia, chúng tôi cũng muốn đánh giá những tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp của những biến động chính trị ở hai quốc gia này đối
với tình hình chung của khu vực thời kỳ Chiến tranh lạnh.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là những bất đồng về mặt chính
trị giữa hai quốc gia Indonesia và Malaysia trong giai đoạn từ 1957 đến
1965.
- Cụ thể luận văn sẽ tập trung vào những nội dung chính sau:
+ Những tác động của bối cảnh quốc tế và khu vực đến mối quan hệ của
Indonesia và Malaysia trong giai đoạn 1957-1965
+ Nội dung của chính sách đối đầu được triển khai bởi chính phủ Sukarno
+ Những biện pháp đối phó của chính phủ Malaysia và lực lượng Đồng
minh
+ Tác động của mối quan hệ đối đầu giữa Indonesia và Malaysia đối với
tình hình kinh tế, xã hội, an ninh chính trị của mỗi nước và đối với khu
vực
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian: Phạm vi thời gian nghiên cứu của Luận văn là giai
đoạn cao trào của Chiến tranh Lạnh, cụ thể là giai đoạn 1957-1965.


8


- Phạm vi không gian: Trên cơ sở đối tượng nghiên cứu là những bất đồng
chính trị giữa Indonesia và Malaysia nên không gian nghiên cứu chính là
Indonesia và Malaysia.
4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi dựa vào những nguồn tài liệu tiếng Việt
và tiếng Anh sau:
- Tài liệu gốc: các văn bản đạo luật, các bản tuyên bố của Chính phủ và
các cơ quan chức năng; phát biểu các nhà lãnh đạo Indonesia và Malaysia có
liên quan đến chủ đề.
- Các sách chuyên khảo, tham khảo, bài nghiên cứu về lịch sử Indonesia,
lịch sử Malaysia, lịch sử thế giới trong thời kỳ cận, hiện đại.
- Các công trình nghiên cứu đề cập trực tiếp về vấn đề quan hệ quốc tế
nói chung và quan hệ Indonesia – Malaysia giai đoạn 1957-1965
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài thuộc phạm trù lịch sử nên phương pháp chủ yếu mà chúng tôi sử
dụng trong luận văn này là phương pháp lịch sử. Cùng với đó tôi sử dụng
phương pháp biện chứng giúp đánh giá một cách khách quan các sự kiện
trong quan hệ giữa Indonesia và Malaysia trong bối cảnh lịch sử chung của
khu vực, các sự kiện kinh tế, chính trị ngoại giao giữa hai nước. Sự kết hợp
giữa hai phương pháp này giúp tôi phân tích đánh giá các sự kiện lịch sử,
những mâu thuẫn bất đồng của hai nước một cách khách quan hơn.
Bên cạnh đó, đề tài còn áp dụng phương pháp khác như phương pháp so
sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp logic, các phương pháp của ngành
quan hệ quốc tế và khu vực học…Việc kết hợp các phương pháp nghiên cứu
9



cho phép chúng tôi vừa có cái nhìn lịch sử về mối quan hệ của hai quốc gia,
vừa đánh giá được những tác động đa chiều của mối quan hệ khu vực, quốc tế
đối với quan hệ của hai quốc gia này.
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Mục đích nghiên cứu: Làm sáng tỏ những bất đồng chính trị hai
nước trong một giai đoạn lịch sử từ năm 1957 đến 1965.
5.2. Nhiệm vụ:
Tập hợp, xử lý và hệ thống hóa tư liệu nhằm tái hiện những nguyên nhân
dẫn đến mâu thuẫn chính trị trong quan hệ của hai nước Indonesia và
Malaysia trong những năm 50, 60 của thế kỉ XX
Phân tích những biểu hiện của sự bất đồng chính trị, những mâu thuẫn
trong quan hệ của hai nước từ năm 1957 - 1965.
Rút ra một số nhận xét về mối quan hệ của hai nước trong khoảng thời
gian từ năm 1957 - 1965. Đồng thời Luận văn cũng đánh giá những ảnh
hưởng của mối quan hệ hai nước đối với bản thân nội tại Indonesia Malaysia, và những tác động của hai nước đối với tình chung của khu vực
Đông Nam Á.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài đi sâu tìm hiểu những nhân tố quốc tế và khu vực tác động đến sự
bất đồng, mâu thuẫn trong quan hệ của hai nước trên lĩnh vực chính trị. Phân
tích những biểu hiện của sự mâu thuẫn, thù địch trong quan hệ của hai nước
chủ yếu thông qua cuộc đối đầu quân sự năm 1963-1965 với sự can thiệp của
nhiều nước lớn. Qua đó, luận văn giúp cho độc giả có cái nhìn toàn diện hơn
về quan hệ Indonesia - Malaysia trong giai đoạn từ năm 1957 - 1965. Mối
quan hệ này không chỉ phản ánh sự chia rẽ trong quan hệ của hai nước láng
giềng Đông Nam Á, mà còn phản ánh sự chia rẽ trong quan hệ quốc tế ở thời
10


kì Chiến tranh lạnh. Do đó, luận văn có thể được xem là nguồn tài liệu tham

khảo quan trọng cho công tác nghiên cứu về lịch sử Indonesia - Malaysia nói
riêng và bổ sung kiến thức cho tác giả về lịch sử thế giới nói chung.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận văn gồm
3 chương.
Chương 1: Những nhân tố tác động tới mối quan hệ giữa Indonesia và
Malaysia giai đoạn 1957-1965
Chương 2: Những bất đồng chính trị giữa Indoneisa – Malaysia giai
đoạn 1957 - 1965
Chương 3. Tác động của bất đồng chính trị giữa Indonesia – Malaysia
đối với bản thân mỗi quốc gia và khu vực Đông Nam Á

11


Chƣơng 1
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI MỐI QUAN HỆ GIỮA
INDONESIA VÀ MALAYSIA GIAI ĐOẠN 1957-1965
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai năm 1945 tình hình thế giới có nhiều
thay đổi. Giữa bối cảnh một châu Âu bị tàn phá và suy yếu thì Mỹ và Liên Xô
nổi lên với vai trò là siêu cường thế giới, giàu có và hùng mạnh. Những quyết
định của Hội nghị cấp cao Ianta2 tháng 2 năm 1945 đã trở thành những khuôn
khổ của “Trật tự thế giới mới” [17;234]. Trong “Trật tự thế giới mới” đã diễn
ra một cuộc đối đầu gay gắt giữa một bên là phe Xã hội Chủ nghĩa đứng đầu
là Liên Xô và bên kia là phe Tư bản chủ nghĩa do Mỹ lãnh đạo. Với hai ý thức
hệ đối lập, hai quốc gia này đã đứng trên hai chiến tuyến trái ngược nhau,
luôn đấu tranh không khoan nhượng, làm cho tình hình thế giới có lúc căng
thẳng. Tuy không nổ ra cuộc chiến tranh trực tiếp từ hai siêu cường, nhưng
mâu thuẫn và đối đầu luôn diễn ra trên các vấn đề chính trị, ngoại giao, kinh
2


Hội nghị Ianta còn được gọi là Hội nghị Crime với sự tham gia của 3 cường quốc: Liên Xô, Hoa Kỳ và
Anh. Hội nghị họp từ ngày 4 -11/2/1945 tại cung điện Livadia (Liên Xô). Đây là hợp tác quân sự để giải
quyết những bất đồng giữa ba cường quốc thắng trục phát xít và buộc Đức đầu hàng vô điều kiện, tổ chức lại
thế giới sau chiến tranh, đưa ra chính sách với Đức cũng như với các nước được giải phóng khi cục diện
Chiến tranh thế giới thứ hai đã ngã ngũ. Sự kiện này cũng dẫn đến việc hình thành trật tự lưỡng cực Ianta, đó
là việc phân chia khu vực ảnh hưởng giữa các nước lớn của phe đồng minh tại hội nghị. Nội dung của hội
nghị về việc kết thúc chiến tranh. Ba cường quốc thống nhất mục đích tiêu diệt tận gốc Chủ nghĩa phát xít
Đức và Chủ nghĩa quân phiệt Nhật, Liên Xô sẽ tham gia chiến tranh chống Nhật tại châu Á. Hội nghị thông
qua các quyết định phân chia ảnh hưởng của hai cường quốc Liên Xô và Hoa Kỳ. Trật tự lưỡng cực Ianta đã
góp phần hình thành hai hệ thống xã hội đối lập: Tư bản chủ nghĩa và Xã hội chủ nghĩa.

12


tế. Cuộc đối đầu giữa hai siêu cường thời này được gọi là “Chiến tranh lạnh”
và có tác động to lớn đến quan hệ quốc tế, tình hình chính trị của từng nước,
từng khu vực. Nằm trong khu vực Đông Nam Á, những bất đồng mâu thuẫn
của Indonesia - Malaysia cũng chịu tác động sâu sắc từ bối cảnh quốc tế trên.
1.1.

Bối cảnh quốc tế

1.1.1. Chiến tranh lạnh và sự xuất hiện hai khối quân sự đối đầu
“Chiến tranh lạnh” được hiểu là thời kì căng thẳng về mặt chính trị và
quân sự giữa Mỹ và Liên Xô. Yếu tố “chiến tranh” ở đây thể hiện sự đối đầu
sâu sắc về mặt quyền lực và ý thức hệ giữa hai nước; trong đó “lạnh” phản
ánh việc Liên Xô và Mỹ không sử dụng vũ khí “nóng” trong mối quan hệ
kình địch này, mà thay vào đó là cuộc chạy đua vũ trang, nổi bật nhất là vũ
khí hạt nhân. Trên thực tế, “Chiến tranh lạnh” là giai đoạn đầu tiên trong lịch

sử tồn tại hệ thống lưỡng cực mà Mỹ và Liên Xô là đại diện và mâu thuẫn
giữa hai nước cũng đại diện cho mâu thuẫn giữa hai hệ tư tưởng Tư bản chủ
nghĩa do Mỹ đứng đầu và Xã hội chủ nghĩa do Liên Xô khởi xướng. Do đó,
“Chiến tranh lạnh” đã tác động toàn diện tới tất cá các mặt đời sống chính trị,
kinh tế, văn hóa và xã hội của các quốc gia khi mà các nước tự xác định con
đường đi của mình dựa trên sự hình thành ý thức hệ.
Trong bối cảnh này, hai quốc gia mạnh nhất là Liên Xô và Mỹ đã gia tăng
tranh giành khu vực ảnh hưởng trên thế giới. Đặc biệt là cả hai nước đều tập
trung gây ảnh hưởng lên các nước thế giới thứ ba.3 Quá trình phi thực dân hóa
diễn ra trong những năm 50, 60 của thế kỉ XX với kết quả là các quốc gia mới
giành được độc lập đã nhanh chóng lọt vào tầm ngắm của hai siêu cường. Mỹ
3

Về nguồn gốc thuật ngữ “Thế giới thứ ba” dùng để chỉ các nước không thuộc thế giới phương Tây, cũng

không thuộc hệ thống Xã hội chủ nghĩa trong Chiến tranh lạnh. Những nước này tham gia phong trào không
liên kết thành lập năm 1955 sau Hội nghị Bangdung (Indonesia). Thuật ngữ “Thế giới thứ ba” dần có sự biết
đổi về ngữ nghĩa phạm vi áp dụng và trong nhiều trường hợp đồng nhất với các quốc gia chậm phát triển
(underdevelopment) hay đang phát triển (developing countries). Hiện nay thuật ngữ “thế giới thứ ba” hay
“quốc gia chậm phát triển” không còn được áp dụng phổ biến.

13


và Liên Xô quyết liệt tranh giành ảnh hưởng tại những quốc gia này như một
cách tăng cường sức mạnh ra ngoài các khu vực ảnh hưởng truyền thống. Vì
vậy, Đông Nam Á cũng là một trong những khu vực mà Liên Xô và Mỹ đều
muốn tranh giành ảnh hưởng.
“Chiến tranh lạnh” là một cuộc đối đầu hết sức căng thẳng giữa hai bên.
Năm 1946, lãnh tụ của Liên Xô khi đó là Joseph Stalin khẳng định sự thành

công của Chủ nghĩa cộng sản với việc Liên Xô đã lôi kéo được các quốc gia
Đông Âu đi theo con đường Xã hội chủ nghĩa của mình. Mỹ và các nước
đồng minh ngay lập tức bác bỏ tuyên bố trên và đã tiến hành các biện pháp
nhằm ngăn chặn Chủ nghĩa cộng sản. Trong những năm 1947 - 1949, Mỹ
thực hiện “Chính sách ngăn chặn”. Chính sách này được đề ra dựa trên những
kết luận của Kenna một chuyên gia về Liên Xô của Mỹ cho rằng, sau chiến
tranh Liên Xô bị suy yếu, kiệt quệ cả về vật chất lẫn tinh thần, chỉ cần đặt
trước Liên Xô một lực lượng mạnh mẽ thì chỉ trong thời gian từ 10 đến 15
năm, Liên Xô sẽ bị tiêu diệt và sẽ ngăn chặn được Chủ nghĩa cộng sản mở
rộng ảnh hưởng trên thế giới. Kenna chủ trương “ngăn chặn lâu dài”, ngăn
chặn một cách kiên trì nhưng phải cứng rắn và cảnh giác trước những khuynh
hướng mở rộng ảnh hưởng của Liên Xô, điều đó phải là một nhân tố chủ yếu
ảnh hưởng tới bất cứ chính sách nào của Mỹ đối với Liên Xô. Ở Đức cũng
như ở Triều tiên, Mỹ không chỉ muốn “ngăn chặn” sự “bành trướng của Chủ
nghĩa cộng sản” mà còn muốn cấu kết, nâng đỡ các thế lực phản động ở hai
nước này để tiến tới tiêu diệt lực lượng cách mạng và xâm lược, thống trị toàn
nước Đức và Triều Tiên. Trung Quốc là nơi mà Mỹ đã bỏ công sức nhiều nhất
hi vọng rằng sẽ tiêu diệt lực lượng cách mạng và đặt được nền thống trị ở lục
địa này.
Để tiến thêm một bước nữa trong việc thực hiện âm mưu thống trị thế giới
và chống lại các nước Xã hội chủ nghĩa, chống lại phong trào giải phóng dân
tộc, Mỹ tiến hành thành lập các khối quân sự nhằm tập hợp các lực lượng
14


phản cách mạng đặt dưới sự chỉ huy của Mỹ để bao vây Liên Xô, các nước
dân chủ nhân dân Đông Âu và các nước có cao trào giải phóng dân tộc. Bước
đầu tiên trên con đường xây dựng các khối quân sự xâm lược là “Hiệp định
phòng thủ Tây bán cầu” kí giữa Mỹ và các nước đồng minh năm 1947. Đến
năm 1949, Mỹ đứng ra thành lập Tổ chức hiệp ước Bắc Đại tây dương viết tắt

NATO4. Thực chất khối NATO là một công cụ của chính sách bành trướng
xâm lược của Mỹ. Vì thế ngay sau khi khối NATO được thành lập, những
mâu thuẫn nội bộ đã thể hiện rõ rệt; Anh và Mỹ tranh giành nhau quyền lãnh
đạo và ảnh hưởng trong khối NATO. Sau khi vươn lên Pháp và Tây Đức cũng
đấu tranh gay gắt đòi Mỹ chia sẻ quyền lãnh đạo. Năm 1954, sau khi chia cắt
Đức và thành lập nước Cộng hoà liên bang Đức, Mỹ và các nước phương Tây
đã kí hiệp ước Pari nhằm vũ trang lại Tây Đức và đưa Tây Đức vào khối quân
sự NATO, biến Tây Đức thành “một lực lượng xung kích” chống lại Cộng
hoà dân chủ Đức, Liên Xô và các nước Đông Âu Xã hội chủ nghĩa.
Mỹ tiếp tục thành lập các khối liên minh quân sự ở các khu vực khác
nhằm hỗ trợ cho khối NATO và bao vây Liên Xô, các nước Xã hội chủ nghĩa
như Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật (9/1951), Khối ANZUS, Khối SEATO ở
Đông Nam Á (9/1954), khối CENTO ở Trung Cận Đông (1959). Mỹ thiết lập
hàng nghìn căn cứ quân sự, đưa hàng chục vạn quân Mỹ đóng rải rắc khắp
mọi nơi. Phía Liên Xô cũng đưa hàng chục vạn quân ra đóng ở các nước
Đông Âu (tập trung Đông Đức), ở Mông Cổ và biên giới Xô – Trung [68].
4

NATO là tên viết tắt của Tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (tiếng Anh: North Atlantic Treaty
Organization). Đây là một liên minh quân sự được thành lập năm 1949 bao gồm Mỹ và một số nước châu
Âu. Trụ sở chính đặt tại Brusels, Bỉ. NATO là khối quân sự - chính trị lớn nhất thế giới, liên kết phần lớn các
nước châu Âu, Hoa Kỳ và Canada. Các nước thành viên NATO gồm: Bỉ, Anh, Đan Mạch, Iceland (không có
lực lượng của vũ trang), Italia, Luxembourg, Hà Lan, Na Uy, Bồ Đào Nha, Mỹ, Pháp, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ,
Đức, Tây Ban Nha (không tham gia trong cơ cấu quân sự của khối) Hungary, Ba Lan, Cộng hòa Séc,
Bulgaria, Lithuania, Latvia, Estonia, Romania, Slovakia, Slovenia, Albania, Croatia. Một trong những mục
tiêu tuyên bố của NATO là để kiềm chế bất kỳ hình thức xâm lược lãnh thổ nào chống lại bất kỳ quốc gia
thành viên NATO hoặc bảo vệ các thành viên đó. Các cơ quan chính trị cao nhất của NATO là Hội đồng Bắc
Đại Tây Dương (Hội đồng NATO), trong đó bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên, có nhiệm vụ
tiến hành các phiên họp dưới sự chủ trì của Tổng thư ký NATO.


15


Trước tình hình đó các nước Xã hội chủ nghĩa là Liên Xô và Đông Âu đã
tổ chức hội nghị Warszawa. Hội nghị đã nhận định: trong tình hình hiện nay,
phương pháp giữ gìn hoà bình và ngăn chặn chiến tranh tốt nhất là tổ chức hệ
thống an ninh tập thể gồm tất cả các nước châu Âu có chế độ xã hội khác
nhau, dựa trên các nguyên tắc nêu trong bản tuyên bố của Hội nghị Moscow
năm 1954. Các nước tham gia hội nghị đã quyết định kí kết Hiệp ước hữu
nghị, hợp tác và tương trợ Warszawa (14-5-1955).5
Sự ra đời của hai khối quân sự đã chính thức xác lập cục diện lưỡng cực
và đánh dấu việc “Chiến tranh lạnh” đã bao trùm thế giới. Cả hai khối đã duy
trì những lực lượng quân sự lớn và các loại vũ khí hiện đại để đảm bảo khả
năng đáp trả đối phương tấn công. Trong thời kì căng thẳng này, “chiến
trường” của chiến tranh lạnh có thể được phân chia thành: châu Âu và các
vùng “ngoại vi” (bao gồm các nước thế giới thứ ba vừa giành được độc lập tại
châu Á, Châu Phi và Trung Đông). Cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950-1953)
đã đánh dấu sự thay đổi trọng tâm của Chiến tranh lạnh, từ châu Âu sang châu
Á. Lúc này các cuộc chiến tranh giành ảnh hưởng ở Thế giới thứ ba đã trở
thành vũ đài quan trọng cho cuộc cạnh tranh giữa hai siêu cường. Cả hai đều
cố gắng thu hút thêm đồng minh bằng những lời hứa hẹn viện trợ về tài chính,
quân sự, ngoại giao…
Có thể nhận thấy rằng sự phân chia thế giới làm hai cực Liên Xô và Mỹ,
mà đỉnh điểm cuộc “Chiến tranh lạnh” giữa hai nước với sự đối đầu căng
5

Khối Warszawa là một hiệp ước quân sự được kí kết tại Warszawa (Ba Lan) vào năm 1955 giữa tám nước
theo chế độ xã hội chủ nghĩa ở Trung và Đông Âu gồm Liên Xô, Albania, Ba Lan, Bulgaria, Đông Đức,
Hungary, Romania và Tiệp Khắc. Liên minh quân sự này do liên Xô thành lập và chỉ huy nhằm chống lại
khối quân sự NATO, do Mỹ đứng đầu trong bối cảnh của Chiến tranh lạnh. Khối Warsawa đã có những hoạt

động và ảnh hưởng to lớn đối với tình hình phát triển châu Âu và thế giới. Sự lớn mạnh của Liên Xô và các
nước thành viên đã đưa tới sự hình thành thế chiến lược cân bằng về sức mạnh quân sự giữa các nước XHCN
và TBCN đầu những năm 1970. Sau khi kết thúc chiến tranh lạnh, ngày 1/7/1991, tại Praha, Tổng thống
Czechoslovakia Vaclav Havel chính thức tuyên bố chấm dứt Hiệp ước Hữu nghị, Hợp tác và Tương trợ 1955,
giải tán khối Warsaw sau 36 năm liên minh quân sự với Liên Xô. Năm tháng sau, vào tháng 12/1991, Liên
Xô tự giải thể.

16


thẳng gay gắt giữa hai hệ tư tưởng Tư bản chủ nghĩa và Xã hội chủ nghĩa đã
có tác động mạnh mẽ đến tình hình hình chính trị, kinh tế, xã hội của các quốc
gia trên thế giới. Chiến tranh Lạnh được coi là giai đoạn nguy hiểm nhất trong
lịch sử nhân loại, với kho vũ khí khổng lồ của các cường quốc luôn trong
trạng thái sẵn sàng tấn công bất cứ lúc nào, đe dọa hủy diệt nền văn minh thế
giới. Lịch sử thế giới đã chứng minh những cuộc xung đột quân sự ở các khu
vực trong thời kì này như: cuộc chiến tranh cục bộ ở Triều Tiên (1950-1953);
Vụ quốc hữu hoá kênh đào Suez và cuộc chiến tranh xâm lược Ai Cập của
Anh, Pháp, Ixaren (1956); Việc kí kết hiệp ước an ninh Mỹ-Nhật (9-1951);
Cuộc chiến tranh Đông Dương; Sự cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc ở
khu vực Trung Cận Đông từ cuối thập kỉ 40 nhằm tranh giành độc quyền
thăm dò và khai thác dầu lửa; Sự liên kết của phong trào giải phóng dân tộc ở
Châu Á và châu Phi tại Hội nghị Băng Dung (Indonesia); Cuộc đối đầu giữa
Indonesia và Malaysia vào năm 1963 đều có liên quan đến sự đối đầu của hai
cực Xô – Mỹ và lôi cuốn nhiều nước trên thế giới tham gia.
1.1.2. Mối quan hệ của Indonesia và Malaysia với hai khối
Cùng với bối cảnh Chiến tranh lạnh, sự ra đời của nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa và liên minh Xô – Trung được thiết lập cũng tác động to lớn
tới chính sách của các nước Mỹ và đồng minh đối với các nước ở khu vực
Đông Nam Á. Sự lo sợ về việc Chủ nghĩa cộng sản từ Trung Quốc tràn tới các

nước Đông Nam Á đã khiến Mỹ và đồng minh tìm cách thiết lập ở khu vực
này lá chắn để ngăn chặn Chủ nghĩa cộng sản, trong đó hai nước Malaysia và
Indonesia là những nước nhận được sự chú ý của cả Liên Xô và Mỹ. Điều này
được chứng minh bằng hàng loạt những sự kiện tiêu biểu.
Vào ngày 2 – 10 - 1949 nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành
lập. Ngay sau đó, Liên Xô, các nước Xã hội chủ nghĩa Đông Âu, Mông Cổ,
Cộng hòa nhân dân Triều Tiên lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao
17


×