Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Môi trường và sức khỏe

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 26 trang )

ĐỘC HỌC MÔI TRƯỜNG
SỰ THAY ĐỔI MÔI TRƯỜNG VÀ ẢNH HƯỞNG
TỚI SỨC KHỎE

I Môi trường và sức khỏe.
1.1 Khái niệm:
- Môi trường: là tất cả các nhân tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho sự sinh sống, sản
xuất của con người như tài nguyên thiên nhiên, không khí, đất, nước, ánh sáng, cảnh
quan, quan hệ xã hội,…
- Sức khỏe : là một tình trạng thoải mái hoàn toàn về thể chất và tinh thần xã hội, chứ
không phải chỉ là một tình trạng không bệnh tật hay tàn tật ( theo WHO )
- Sức khỏe môi trường : là trạng thái sức khỏe của con người liên quan và chịu tác
động của các yếu tố môi trường xung quanh. Ví dụ như các yếu tố sinh học, môi
trường chính trị, môi trường kinh tế, môi trường văn hóa.
1.2 Môi trường tiếp xúc
Môi trường tiếp xúc là môi trường bao quanh con người bao gồm các cá nhân,
các nhóm người sống và làm việc cùng nhau hoặc dân cư của các vùng và của mối
quốc gia. Dựa vào cách tiếp xúc giữa con người với môi trường có thể phân thành 4
cấp độ tiếp xúc môi trường :
+ Môi trường gia đình liên quan tới đối tượng nhà ở. Việc tiếp xúc có thể được
xác định do tình trạng bụi, vi khí hậu nhà ở, các thói quen ăn uống của cá nhân
hay gia đình, dụng cụnấu nướng, các thú vui và các thói quen khác (chẳng hạn
hút thuốc hay uống rượu), việc sửdụng các phép trịliệu, các loại thuốc,
mỹphẩm, thuốc sát trùng, hóa chất bảo vệthực vật.


+ Môi trường cộng đồng : trong môi trường có giới hạn như thôn, xóm, thành
phố,..nơi đối tượng sống trực tiếp tại đó. Con người có thể bị tác động bởi ô
nhiễm không khí, tiếng ồn, nước thải, tập quán sinh sống,…
+ Môi trường khu vực : đối tượng sống trong một vùng khí hậu riêng nào đó Ví
du : đồng bằng, miền núi, nhiệt đới,…


+ Môi trường làm việc : đối tượng có thể sống phần lớn cuộc đời họ trong các
môi trường nghề nghiệp như mỏ than, xưởng thép,…Nơi có các vấn đề riêng về
môi trường.
II Mối liên quan giữa môi trường và sức khỏe

Ảnh hưởng của yếu tố môi trường trong từng cá thể cũng rất khác nhau, phụ thuộc vào
đặc điểm của mỗi người như tuổi, giới tính, điều kiện sinh lý.


- Các yếu tốtrong môi trường cơ bản như môi trường đất, môi trường nước, môi
trường không khí, môi trường xã hội: môi trường học tập, môi trường nông thôn đều
có sự ảnh hưởng tới sức khỏe của con người.
III. Sự thay đổi của môi trường và sức khỏe con người
3.1 Sự thay đổi của môi trường
3.1.1 Giới thiệu
Môi trường là nơi sinh sống của mọi loài sinh vật và cũng chứa đựng những tác
nhân gây hại tới sức khỏe của con người. Như đã đề cập ở chương trước, sự tăng
nhanh quá trình công nghiệp hóa, kinh tế và công nghệ, đi liền với sự bùng nổ dân số
trong những thập kỉ gần đây đã và đang khiến môi trường tự nhiên bị thay đổi. Những
sự thay đổi đó bao gồm sự biến đổi khí hậu, ô nhiễm nước và không khí tăng nhanh,
mưa axit, lượng chất thải rắn lớn, tầng ozone bị phá hủy bởi hợp chất CFCs, và sự
xuất hiện ngày càng nhiều các yếu tố gây rối loạn nội tiết trong môi trường. Những
thay đổi này tác động mạnh mẽ tới sức khỏe và cuộc sống của con người và mọi loài
sinh vật trên trái đất.


3.1.2 Biến đổi khí hậu toàn cầu
Biến đổi khí hậu, đặc biệt là sự nóng lên toàn cầu đang là vấn đề được quan
tâm nhiều trong thời gian gần đây. Theo như cơ quan Hải Dương quốc gia và kiểm
soát khí quyển (NOAA), trong khoảng thời gian từ năm 1978 đến 2002 thì cứ 10 năm

nhiệt độ của tầng đối lưu lại tăng từ 0,220C đến 0,260C. Sự gia tăng này phù hợp với
xu hướng ấm lên của trái đất đã được phát hiện ra từ những số liệu tại các trạm quan
trắc khí tượng.
Theo như báo cáo gần đây được đăng trên tạp chí New York Times, các nhà
nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, các chỏm băng trên đỉnh núi Kilimanjaro ở Tanzania
là đang bị tan chảy và có thể biến mất trong 15 năm nữa. Sự tan chảy của các chỏm
băng vĩnh cửu ở đỉnh Kilimanjaro cũng tương tự như các đỉnh núi ở những nơi khác
trên trái đất, bao gồm có Canada và Peru, và đây được coi là một trong những dấu
hiệu rõ ràng nhất cho sự biến đổi khí hậu trên trái đất. Các nghiên cứu trên đỉnh
Kilimanjaro còn cho thấy các dòng sông băng không chỉ bị nứt vỡ mà còn mỏng đi rất
nhanh có điểm mỏng hơn 1m kể từ năm 2002. Các nhà khoa học đã chỉ ra rằng, chỏm
bẳng trên đỉnh Kilimanjaro đã mất đi 82% so với kết quả khảo sát vào năm 1912.
Khí hậu thay đổi cũng gây ảnh hưởng tới nhiệt độ của đại dương, độ mặn và
các dòng hải lưu. Nhiệt độ ấm hơn khiến cho băng mỏng hơn, dễ chịu ảnh hưởng từ
những sự thay đổi của khí hậu và của các tác động khác. Các nhà khoa học cho rằng
điều này sẽ ảnh hưởng tới sự ổn định của băng ở Nam Cực, và thực tế đã có 2 tảng
băng với kích cơ tương đương 1 đất nước nhỏ đã bị tách khỏi các dải băng ở Nam Cực
vào năm 1995 và 2002.
Các nhà khoa học của Mỹ và Canada đã quan sát được các hiện tượng tương tự
tại Bắc Cực, khi một tảng băng 3000 năm tuổi lớn nhất ở Bắc cực đã bị vỡ. Báo cáo
cho thấy tảng băng Ward Hunt tại bờ biển phía bắc của đảo Ellesmere ở Cananda đã
bị vỡ đôi thành 2 phần lớn. Chỉ 100 năm trước, toàn bộ bờ biển phía bắc của
Ellesmere được bao quanh bởi một dải băng liên tục và giờ đây thì 90% dải băng đó
đã biến mất khi cứ 10 năm nhiệt độ lại tăng lên 0,4 oC kể từ năm 1967, và nhiệt độ
trung bình của tháng 7 đã là 1,30C.


Hình 3.1: Một vết nứt tại Ward Hunt
Các nhà nghiên cứu về môi trường tin rằng việc tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch
làm chậm quá trình biển đổi khí hậu. Sử dụng nhiên liệu hóa thạch làm tăng lượng

CO2 và NOxvà các hạt vật chất trong khí quyển, và chúng sẽ giữ lại nhiệt bức xạ từ
mặt trời và khiến trái đất ấm lên. Nồng độ CO2 trong khí quyển đang ở mức cao và
theo báo cáo của liên hợp quốc về biến đổi khí hậu thì đến năm 2100 nếu nồng độ CO2
tăng từ 540 dến 970 ppm thì nhiệt độ trái đất tăng 1,4 đến 5,8 0C. Các nhà khoa học lo
ngại rằng sẽ còn nhiều ảnh hưởng xấu tới khi hậu sẽ phát sinh trong tương lai. Với
lượng khí CO2 trong khí quyển và biển đang ấm hơn, liệu có những hy vọng giải
quyết được những vấn đề này ở thế kỉ 22 ?. Nhiều nhà khoa học cho rằng, với nguồn
lực và công nghệ phát triển, nước Mỹ và các quốc gia công nghiệp khác có thể đối
phó với những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tại mỗi quốc gia trong thế kỉ này,
nhưng không thể ngăn chặn những tác động xấu ảnh hưởng tới các thế kỉ tiếp theo.
Sự kết hợp giữa CO2 và các khí nhà kính gây ra hiện tượng ấm lên toàn cầu,
hiểu rõ điều này, nhiều quốc gia đã và đang có những hành động để giảm lượng khí
thải. Các quốc gia ở châu Âu là những quốc gia đi đầu trong hoạt động đặc biệt là Đức
Pháp Ý, và Mỹ. Trong khi đó, một số nước châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ hay Hàn
Quốc lại đang làm gia tăng lượng khí thải CO2 trong 2 thập kì gần đây.


Hình 3.2 Sự so sánh lượng khí phát thải tại 1 số nước. Trong đó châu Âu gồm: Pháp,
Đức, Ý ; Châu Á: Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Theo báo cáo của Mỹ, lượng khí thải hiện tại của Trung Quốc đã gần bằng một
nữa của Mỹ và dự đoán tới năm 2020 thì sẽ tăng thành 80% lượng khí thải của Mỹ.
Một câu hỏi gây nhiều tranh luận đó là tác động của sự gia tăng CO2 tới thực
vật. Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm đã cho thấy sự gia tăng của CO2 trong khí
quyển đã kích thích sự phát triển của thực vật. Nghiên cứu mới ở California cho rằng
khi các nguyên tố liên kết với nhau được đưa vào môi trường sống của thực vật, CO2
có thể làm giảm khả năng phát triển của chúng. Một số nghiên cứu khác lại chỉ ra
rằng, ảnh hưởng của CO2 tới thực vật lại phụ thuộc vào các nguyên tố khác của môi
trường.
Mội vấn đề khác cần được quan tâm là về tác động của sự nóng lên toàn cầu tới
sự gia tăng của các loại bệnh. Một số bệnh nguy hiểm đã bùng nổ tại một số nước vào

những năm 1990 sau khi nhiệt độ tăng bất thường và sau đó là điều kiện thời tiết trở
nên khắc nghiệt. Nhiều người đã chết, do các bệnh như bệnh tả, hội chứng phổi
Hantavirus, dịch hạch và sốt xuất huyết. Các nhà khoa học cảnh báo rằng xu hướng
ấm lên của trái đất có thể gây ra những mối đe dọa nguy hiểm hơn từ sự phát triển
nhanh chóng của các là côn trùng gây bệnh và sâu bệnh.


3.1.3 Ô nhiễm môi trường không khí
3.1.3.1 Giới thiệu
Ô nhiễm môi trường không khí có thể định nghĩa là sự hiện diện của chất trong
không khí, ở đó, nồng độ, thời gian và tần số có thể gây ảnh hưởng tới sức khỏe của
các sinh vật sống và môi trường. Trong vài thập kỷ, những lo ngại về vấn đề ô nhiễm
có sự tăng đều đặn từ khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ 2, đặc biệt là ở các quốc gia
phát triển. Mức độ mà ô nhiễm không khí ảnh hưởng tới sức khỏe con người được thể
hiện bằng nhiều tình tiết liên quan tới ô nhiễm không khí. Một trong những thảm họa
được biết rộng rãi là có 4000 người tử vong ở London vào năm 1952. Thảm họatương
tự nhưng ít nghiêm trọng liên quan đến ô nhiễm không khí cũng đã xảy ra ở các thành
phố lớn khác trên thế giới, bao gồm cả Osaka, Los Angeles và New York, mặc dù ô
nhiễm không khí thường khác nhau từ mỗi nơi.

Hình 3.3 Mây khói London - từ 5-8
tháng 12 năm 1952 làm chết 4000
người trong vòng 4 ngày (Ảnh:
pyr.ec.gc.ca)

Hình 3.4
kỷ 20 có tớ
là nguyên
(Ảnh: bard


Một loạt các chất gây ô nhiễm có


mặt ở trong nhà và ngoài nhà. Chúng bao gồm: SOx, NOx, CO, O3 và các chất oxi hóa
quang hóa, bụi, chì và các kim loại nặng khác, các loại hợp chất hữu cơ dễ bay hơi
(VOCs). Những nguồn chính của ô nhiễm không khí là từ việc đốt nhiên liệu hóa
thạch để sản xuất điện, giao thông vận tải, hoạt động công nghiệp, sưởi ấm và nấu
nướng. Theo Ủy ban Bắc Mỹ về hợp tác môi trường (CEC), một phần tư chất thải
công nghiệp thải vào môi trường của Bắc Mỹ vào năm 1998 đến từ nhà máy điện của
Mỹ. Điều này là kết quả từ việc theo dõi chặt chẽ tình trạng ô nhiễm từ ngành khai
thác kim loại, công nghiệp hóa chất, và các lĩnh vực quản lý chất thải nguy hại.

Thời gian

Địa điểm

Số tử vong

1930

Thung lũng Meuse

63

1948

Donora, Pennsylvania

20


1950

Poza Rica, Mexico

22

1952

London

4.000

1953

New York

250

1956

London

1.000

1957

London

700 - 800


1962

London

700

1963

New York

200 - 400

1966

New York

168

Bảng 3.5 :Các thảm họa ô nhiễm Không khí từ năm 1930
Vào năm 1990, trên toàn thế giới đã có tới 100 triệu tấn các oxit lưu huỳnh
(SOX), 68 triệu tấn oxit nitơ (NOX), 57 triệu tấn các chất hạt lơ lửng (SPM) và 177
triệu tấn cácbon monoxyt(CO) được thải vào khí quyển. Trong số đó, các nước thuộc
tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OCED) đã thải ra tới 40% SOX, 52% NOX,
71% CO và 23% SPM.


3.1.3.2 Ô nhiễm không khí và sự phát triển kinh tế
Trong khi vấn đề liên quan tới ô nhiễm không khí vẫn là mối quan tâm toàn
cầu, thì ở Mỹ và các nước công nghiệp đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Ví
dụ như: theo một bảo cáo gần đây của EPA, ô nhiễm không khí đã được cải thiện

nhiều ở Mỹ từ năm 1970. 6 chất khí ô nhiễm chính ( SOx, NOx, CO, O3, hạt vật chất,
và chì) đã giảm 48% kể từ năm 1970. Khí thải SO2 từ các nhà máy điện đã giảm so
với năm 2000 là 9%, và thấp hơn 48% so với năm 1980, trong khi đó lượng khí thải
NOx giảm 13% so với năm 2000, và 33% so với mức năm 1990. Mức độ O3 giảm
không đáng kể. 10 năm trở lại lại đây cũng không có sự thay đổi.
Ngược lại, nhiều thành phố phát triển nhanh chóng trên thế giới đã trải qua một
số vấn đề của môi trường, đặc biệt là ô nhiễm không khí. Mối quan tâm nghiêm trọng
được đặt ra là các mối nguy hiểm tới sức khỏe do ô nhiễm môi trường ở các nước kém
phát triển. Với sự tăng trưởng chưa từng thấy ở các trung tâm đô thị, thành phố lớn
với dân số 10 triệu hoặc nhiều hơn đã xuất hiện ở nhiều nước công nghiệp phát triển
kém, bao gồm Trung Quốc và Ấn Độ. Tại Ấn Độ đã có 4 thành phố như vậy, với 3
thành phố khác dự kiến sẽ gia nhập vào hàng ngũ trong 20 năm tới. Tại Ấn Độ, một
phần lớn trong số 300 triệu dân cư đô thị đang chiếm 30% dân số Ấn Độ đang sống
trong sự suy giảm chất lượng của không khi. Các thành phố lớn ở Ấn Độ chính là báo
cáo trong những ô nhiễm nhất thế giới, với nồng độ một số chất gây ô nhiễm không
khí cao hơn mức khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Một số nhà khoa học
trong nước cảnhbáo rằng các cư dân ở thành phố lớn của Ấn Độ đối mặt với những rủi
ro đáng kể cho sức khỏe của họ khi tiếp xúc với chất ô nhiễm không khí.
Thành phố New Delhi đầy bụi mù.
(Nguồn: Reuters)


Như được biết, Trung Quốc đã đạt mức tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trong
vài thập kỷ qua.Sự tăng trưởng đi đôi với công nghiệp hóa, đô thị hóa nhanh, và tăng
lên rất nhiều năng lượng tiêu thụ. Sự đô thị hóa nhanh được chứng minh bằng sự gia
tăng đáng kể trong tỷ lệ dân số đô thị với tổng dân số ở Trung Quốc, từ 18% năm
1978 lên 31% vào năm 1999, tốc độ tăng trưởng gấp ba lần mức trung bình của thế
giới trong giai đoạn này.Tăng trưởng kinh tế bùng nổ cũng làm cho Trung Quốc tiêu
thụ năng lượng lớn thứ hai thế giới, sau Mỹ. Tiêu thụ năng lượng, đặc biệt là tiêu thụ
than, là nguồn chính phát thải ô nhiễm không khí do con người ở các thành phố Trung

Quốc.
Từ năm 1978 đến năm 1999, năng lượng tiêu thụ ở Trung Quốc đã tăng lên gấp
đôi. Than, nguồn năng lượng sơ cấp ở Trung Quốc, chiếm khoảng 74% tổng tiêu thụ
năng lượng trong giai đoạn này. Người ta cho rằng việc sử dụng than là nguồn gốc của
nhiều vấn đề ô nhiễm không khí như SO2, bụi và mưa axit.
Hơn nữa, tiêu thụ dầu thô cũng đã tăng lên, với tỷ lệ tăng trung bình 6% mỗi
năm trong thập kỷ qua. Một phần của sự gia tăng này là kết quả của việc sử dụng ngày
càng nhiều xe cơ giới, đã làm tăng hàm lượng của các chất NOx, CO, và các chất ô
nhiễm có liên quan vào môi trường xung quanh ở các thành Thực sự, Trung Quốc tiêu
thụ năng lượng ngày càng nhiều, phụ thuộc vào than đá, nhanh chóng sử dụng các
phương tiện đã đặt một gánh nặng lên bầu không khí cả nước, và ô nhiễm không khí
đô thị đã được nhanh chóng nổi lên như một vấn đề lớn về môi trường. Rất nhiều
thành phố ở Trung Quốc đã bị ô nhiễm không khí ngày càng nghiêm trọng kể từ
những năm 1980. Trong những năm 1990, một số thành phố lớn như Bắc Kinh,
Thượng Hải, Thẩm Dương, và Quảng Châu, luôn nằm trong danh sách 10 thành phố ô
nhiễm nhất trên thế giới.

Đường phố Bắc Kinh mù mịt
khói vì ô nhiễm không khí


Một số nhà nghiên cứu bày tỏ lo ngại về những ảnh hưởng củaô nhiễm không
khí đô thị tới sức khỏe cộng đồng ở Trung Quốc. Các mối quan tâm đã được hỗ trợ
mạnh mẽ bởi các nghiên cứu của Xu et al., 10 nghiên cứu mà dẫn họ đến kết luận rằng
mức độ ô nhiễm không khí hiện tại ở Bắc Kinh có ảnh hưởng xấu tới sức khỏe.Các
nhà khoa học đã nghiên cứu thông tin về số lượng trung bình của lượt khám tại bệnh
viện ngoại trú hàng ngày tại một bệnh viện dựa vào cộng đồng tại Bắc Kinh, và so
sánh các dữ liệu với mức độ SO2 và tổng hạt lơ lửng (TSPs) trong khí quyển. Họ nhận
thấy rằng hàm lượng của các chất ô nhiễm tăng có tương quan đáng kể với gia tăng
bệnh nhân khoa nội, trong cả mùa đông và mùa hè.

Một cuộc khảo sát tương tự đã được thực thực hiện tại Seuol, Hàn Quốc, nơi
mà một số nhà khoa học đã nghiên cứu tác động của ô nhiễm không khí đối với sức
khỏe con người. Ví dụ như: 11 nghiên cứu ảnh hưởng của ô nhiễm không khí tới tỉ lệ
tử vong ở trẻ sơ sinh, người có độ tuổi từ 2 đến 64, và độ tuổi ngoài 65. Những nghiên
cứu về tổng số người chết và số người chết do các vấn đề về hô hấp, cùng với những
phân tích về bụi có đường kính nhỏ hơn 10 (PM10). Kết quả cho thấy, tỷ lệ tử vong ở
trẻ sơ sinh có thể do PM10,đặc biệt là tỷ lệ tử vong liên quan đến hệ thống hô hấp.
3.1.4 Ô nhiễm nước
Trong lịch sử, điều mà mọi người quan tâm về ô nhiễm nguồn nước là ảnh
hưởng của nó tới sức khỏe. Trong khi ở nhiều quốc gia điều này vẫn đúng, ở Mỹ và
các nước phát triển khác, kết quả của cải tiến xử lý và phương pháp phân phối đến
một mức độ lớn sẽ thay đổi tầm quan trọng. Nhiều công dân ở những quốc gia này
thường không coi ô nhiễm nguồn nước như một vấn đề sức khỏe, mà là một vấn đề
bảo tồn, thẩm mỹ, và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên nhiều hồ, sông, suối
trên thế giới phải chịu đựng và vẫn gánh chịu hậu quả ,từ ảnh hưởng của ô nhiễm
nguồn nước. Hơn nữa, các vấn đề liên quan đến ô nhiễm nguồn nước đang ngày càng
xấu đi ở nhiều quốc gia, đặc biệt là trong một số quốc gia kém phát triển.


Các nguồn chính của ô nhiễm nguồn nước bao gồm cả chất thải vô cơ và hữu
cơ, nhiệt từ các ngành công nghiệp, các hợp chất dầu khí, chất thải đô thị, chất thải
nông nghiệp, thuốc trừ sâu, và hệ thống thoát nước của mỏ axit. Nhiều quy trình công
nghiệp có khả năng tiềm ẩn để phát thải nhiều loại chất thải gây ra vấn đề ô nhiễm
nước.
Nhiều bệnh ở người và các thiệt hại phát sinh từ ô nhiễm nguồn nước thu hút
sự chú ý trên toàn thế giới sau khi “ bệnh Minamata” và” itai-itai-byo” ( bệnh ouchouch), xảy ra tại Nhật bản trong những năm 1940 và 1950. Minamata là căn bệnh gây
ra do ăn một lượng lớn cá và sò chứa nhiều thủy ngân với độc tính cao, trong khi
nguyên nhân chủ yếu của ital.-ital-byo là do ăn phải gạo bị ô nhiễm với mức độ cao
của cadmium. (Chi tiết thông tin về các kim loại nặng được trình bày trong Chương
12).

Ngoài kim loại nặng, các hợp chất vô cơ và hữu cơ cũng có thể làm ô nhiễm
hồ, sông, suối đe dọa đến chất lượng nước. Các quan sát gần đây cho rằng dòng nước,
và cũng có vườn phân bón, có thể bị nhiễm perchlorate là một ví dụ. Công nghiệp và
các hoạt động quân sự và các nhà sản xuất pháo hoa sử dụng perchlorate như là một
tác nhân oxy hóa, và sự xuất hiện của chúng như nguồn gây ô nhiễm sơ cấp.
Perchlorate có thể gây hại đến chức năng tuyến giáp, và có thể được phổ biến rộng rãi
ở một số vùng nông nghiệp Mỹ - nghiên cứu trước đó tại phòng thí nghiệm của EPA
cho thấy phân bón vườn nói chung chứa nồng độ perchlorate lên tới 0,84% tính theo
trọng lượng. Tuy nhiên, một nghiên cứu sau đó được phát hành vào tháng 6 năm 2001
của cơ quan cũng chỉ ra rằng phần lớn các loại phân bón sử dụng ở Mỹ không bị ô
nhiễm với các muối perchlorate.
Ô nhiễm nguồn nước không những ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con
người, mà còn đe dọa đến đời sống thủy sinh, đặc biệt là cá. Ví dụ, vào những năm
1960, hàng triệu loài cá ở hạ lưu sông Mississippi đã chết từ sự ảnh hưởng của thuốc
trừ sâu hữu cơ clo, đặc biệt là endrin. Trong những năm 1970, cá bị ô nhiễm bởi DDT
và polychlorinated biphenyls (PCBs) do việc dừng đột ngột để hoạt động thương mại
cá hồi ở phía trên Great Lakes.


Mặc dù nhiều biện pháp xử lý đã được thực hiện kể từ đó, và công chúng được
khuyến khích bởi các báo cáo về mức độ giảm của hydrocarbon clo và các chất độc
hại khác trong các loại vụ mùa cá, tuy nhiên những sự ô nhiễm ở Great lake vẫn còn là
một vấn đề nan giải, như đã thấy trong trường hợp nghiên cứu 2.1. Trường hợp nghiên
cứu 2.2, tuy nhiên, cho thấy vấn đề ô nhiễm có thể được đảo ngược được trong điều
kiện thích hợp

Nghiên cứu trường hợp 2.1
The Detroit News vừa công bố một báo cáo khởi đầu, dưới tiêu đề "Sự biến
mất của tôm gây nguy hiểm cho cá ngần Great Lakes .'" Theo báo cáo, một trong
những nguồn thức ăn chính cho cá ngần đang biến mất nhanh chóng từ Great Lakes,

một sự thay đổi có nguy cơ báo động cho chuỗi thức ăn và cản trở việc nhà nước hoạt
động trong ngành công nghiệp cá lớn tại Michigan. Báo cáo cho thấy diporeia
(Diporeia spp.), Sinh vật giống tôm khoảng 12 mm chiều dài (đôi khi được gọi là tôm
nước ngọt) sống bên dưới cùng của Great Lakes, đã bị tiêu diệt trong các phần của hồ
Erie, hồ Michigan, Saginaw Bay, và hồ Ontario. Khoảng 44.000 km2 của Great Lakes
không còn diporeia. Nhà sinh vật học nghiên cứu chỉ ra rằng họ chưa bao giờ thấy một
hiện tượng như trước đây. Trong những năm 1980, các nhà khoa học tìm thấy mật độ
của diporeia giữa 3860 và 7720 mỗi km2 của trầm tích ở các phần của Great Lakes.
Các nhà nghiên cứu khẳng định rằng bây giờ không có diporeia được tìm trong những
điểm giống nhau. Diporeia là một nguồn thức ăn chính của nhiều cá ở Great Lakes. Cá
ngần đã trở thành một trong những loài chịu thương vong đầu tiên do sự biến mất của
diporeia. Cho đến gần đây, Cá ngần được tìm thấy dài khoảng 0,6 m và 2,3 kg và bây
giờ là 0,51-0,56 m. Sự suy giảm về số lượng của diporeia vẫn còn là một bí ẩn đối với
các nhà nghiên cứu. Họ đã kiểm tra xem sự suy giảm có phải là kết quả của chất gây ô
nhiễm không, nhưng cho đến nay không có câu trả lời thuyết phục.
Nghiên cứu trường hợp 2.2


Khoảng giữa những năm 1960, con sông Hudson của thành phố New York
được xác định là đang chết dần như một kết quả của sự ô nhiễm nước nặng.Các nguồn
ô nhiễm được tìm thấy là nước thải chưa qua xử lý được đổ xuống dòng sông từ trong
thành phố, xả thải một lượng lớn sơn từ một nhà máy, dầu đổ xuống từ penn đường
sắt trung tâm thành phố và xả nước ở nhiệt độ cao từ nhà máy điện hạt nhân.Tuy
nhiên có lý do để được khuyến khích.Vào năm 1966, Vài người đánh cá đã thành lập
Hiệp hội của những người đánh cá Sông Hudson.Chủ yếu là do nỗ lực của họ và của
những người tham gia sau đó, nhiều cải tiến đã được thực hiện.

Đầu vào năm 1968, một số người gây ô nhiễm đã buộc phải chi phí hàng triệu
đô la để khắc phục sông Hudson. Những tác dụng phụ của những hành động này là
một trong những câu chuyện thành công về môi trường lớn nhất của thế kỷ 20. Ngày

nay sản lương cá thu được trên 1 hecta của sông Hudson nhiều hơn hết so với hầu hết
các cửa sông lớn khác của Bắc Đại Tây Dương. Cá và người đánh cá, người đi xuồng,
và người bơi đã quay trở lại dòng sông.
3.1.5 Ô nhiễm đất
Một mối lo ngại lớn khác là tác động có hại của việc thải một số lượng ngày
càng tăng của các chất độc tổng hợp ra môi trường. Chúng gây ra ô nhiễm đất
ngoài ô nhiễm không khí và ô nhiễm nước. Hơn nữa, chúng không bị giới hạn
đến các khu vực tiếp giáp với các nguồn điểm, như các cơ sở công nghiệp, Thay
vào đó, chúng có thể được chuyển đến các vùng xa hơn và gây ra những ảnh
hưởng nghiêm trọng tới sự sống của các loài sinh vật.


Tại Mỹ, công việc đánh giá phạm vi và mức độ nghiêm trọng của ô nhiễm ngày
càng phức tạp bởi sự gia tăng theo cấp số nhân của các chất hữu cơ tổng hợp từ các
ngành công nghiệp hoá chất. Ước tính khoảng 70000 hợp chất hoá học được sử
dụng phục vụ công nghiệp và thương mại tại Mỹ và con số này tăng lên với tốc
độ khoảng 1000 hợp chất mới/năm. Chỉ có một số lượng hạn chế việc đánh giá sinh
thái đối với các hợp chất hoá học trên thị trường và được giới thiệu được thực hiện
mỗi năm. Tác động đến sức khoẻ con người của những hợp chất hoá học này, nhất là
khi tiếp xức qua một khoảng thời gian dài và nồng độ tương đối thấp hầu như chưa
được biết đến.
Một trong những thời gian được biết đến rộng rãi nhất liên quan đến xử lý chất thải
nguy hại tại Love Canl, một con kênh bỏ đi gần Niaga Falls trong tiểu bang ở New
York

Ví dụ 2.3
Trong thập niên 40 và 50 của thế kỷ XX, Tổng công ty hoá chất và nhựa tổng hợp
Hooker đã đổ vào bãi chôn lấp ở Love Canal 23000 tấn chất thải hoá học. Sau khi
kênh được lấp đầy với độ che phủ trái đất, vùng đất được chuyển cho thành phố của
Niaga Falls. Nhiều ngôi nhà và 1 trường học đã được xây dựng trên bờ kênh cũ

và vùng đất phủ hoá chất thành 1 sân chơi. Năm 1968, ngành hoá chất phương
tây đã mua lại công ty Hooker. Nam 1977, có 1 chất lỏng màu đen bị rò rỉ ra từ
mặt đất của vùng lân cận của kênh. Chất lỏng này sau đó được xác định là 1 hợp
chất hidrocacbon của Clo. Những đứa trẻ học tại ngôi trường đã có những dấu
hiệu sức khoẻ bất thường như phát ban, bỏng hoá chất, rối loạn sinh lý và tổn hại
nghiêm trọng về thần kinh. Hơn nữa, số lượng sảy thai và dị tật bẩm sinh cao bất
thường đã được ghi nhận. Một vụ kiện lên đến gần 3 tý USD về tuyên bố sức khoẻ đã
chống lại thành phố Niagara Falls. Cuối cùng, nhà nước đã mua lại hơn 100 ngôi nhà
trong khu vực và phá huỷ chúng, gần di tản gần 500 nhà vào năm 1978. Các cơ quan
chức năng và nhà nước đã làm sạch khu vực bị ô nhiễm, sau vụ kiện tụng giữa tiểu
bang New York và OxyChem. Năm 1994, OxyChem và nhà nước cuối cùng đã đồng
ý giải quyết các tranh chấp của họ nảy sinh từ phạm vi ảnh hưởng. (Xử lý ô nhiễm đất


cuối cùng đã được thực hiện, tiếp theo là tái định cư của khu vực. Năm 1994, gần 70%
trong số 280 ngôi nhà được xây dựng trước đã được bán. Một cuộc khảo sát cho thấy
khoảng 30% người mua đã được các cư dân trong khu vực di tản trước đó).
3.2 Sự thay đổi mẫu bệnh
Liên quan tới những thay đổi trong môi trường là sự thay đổi mô hình và phân
phối các bệnh hoặc tác động tới sức khỏe. Chẳng hạn như, vào cuối thế kỷ này, bệnh
viêm phổi và bệnh lao được coi là hai nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở hầu hết
các nước, bao gồm cả Mỹ. Bởi vì cải thiện điều kiện vệ sinh được cải tiến và các biện
pháp y tế công cộng, cùng với sự tiến bộ trong y học và công nghệ, bệnh lao và các
bệnh truyền nhiễm khác phần lớn đã được loại trừ. Thay cho những căn bệnh này
tương đối đơn giản, tuy nhiên, có những căn bệnh này rất phức tạp và có nhiều
nguyên nhân, trong đó có các bệnh tim mãn tính, bệnh đường hô hấp mãn tính,
và u ác tính hay bệnh ung thư. Nó được biết đến rộng rãi, từ khoảng năm 1950,
bệnh ung thư và các bệnh về tim đã trở thành hai nguyên nhân dẫn đến tử vong
hàng đầu ở Mỹ . Quan trọng hơn, những căn bệnh này, cũng như các bệnh hô hấp
mãn tính thấp hơn và bệnh gan mãn tính và xơ gan, được coi là có liên quan với môi

trường (Bảng 2.1).


Những thay đổi nói trên trong mô hình bệnh tật cũng đã được quan sát thấy ở
nhiều quốc gia khác, bao gồm cả những nước kém phát triển trên thế giới. Ví dụ, ở

Brazil vào năm 1940, các bệnh truyền nhiễm gây ra 39-60% các ca tử vong, tùy thuộc
vào khu vực của đất nước, nhưng đến năm 1980 các bệnh này chỉ chiếm 3-16% các ca
tử vong.

Tuy nhiên, các bệnh tim mạch chỉ chiếm 9-13% tỷ lệ tử vong vào năm 1940
nhưng đã tăng lên 20-38% vào năm 1980,16 những lý do cho những thay đổi này là
gì? Các nhà khoa học cho rằng môi trường ô nhiễm tinh thần có thể đóng một vai trò
trong một sự thay đổi như vậy. Ô nhiễm môi trường ảnh hửơng tới cuộc sống của tất
cả các sinh vật sống, kể cả con người. Nhiều bệnh nhân được theo dõi với các chất
trong không khí, nước, và các loại thực phẩm chúng ta tiêu thụ. Một số tác nhân công
nghiệp thải vào môi trường nói chung cũng được biết đến là, hoặc nghi ngờ của con
người là gây ung thư.
3.3 Một số bệnh liên quan tới môi trường


3.3.1 Giới thiệu
3.3.2 Ung thư
Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định rằng có mối liên hệ giữa các hoạt
động công nghiệp, tỉ lệ mắc bệnh ung thư và số ca tử vong do ung thư. Mỹ là 1
trong những nước có tỉ lệ mắc bệnh ung thư lớn nhất trên thê giới liên quan đến ô
nhiễm môi trưởng. Khoảng từ năm 1950, bệnh ung thư đứng thư 2, sau căn bệnh
suy tim là nguyên nhân dẫn đến các ca tử vong ờ Mỹ. Hơn nữa, cho đến thời
điểm gần đây, tỉ lệ chết vì ung thư đang tăng đều.(bảng 1 và 2). Số ca tử vong
thực tế vẫn tăng lên, ví dụ như 416509 người Mỹ đã chết vì ung thư trong năm

1980. Nhưng năm 1990 thì con số này tăng lên đến 505322 người, và năm 1999 là
549838 người. Theo hiệp hội chống ung thư Mỹ, ước tính hằng năm có 556500
người chết vì ung thư, nhiều hơn số người chết vì ung thư hằng ngày là 1500
người.

Bảng 2: Tỉ lệ tử vong do ung thư ở Mỹ giữa các năm 1950 và 2000(Tính
theo dân số 100000 người)
Khu vực đông bắc nước Mỹ được biết đến như là một khu vực công nghiệp hoá
cao và ô nhiễm. Khu vực này cũng được biết đến là khu vực có tỉ lệ mắc bệnh ung thư
đặc biệt cao. Các nghiên cứu được thực hiện bởi Viện Ung thư quốc gia đã cho thấy
những địa điểm gần khu vực có sắt và lò nung chì sẽ có tỉ lệ cao mắc bệnh ung thư.


Những nghiên cứu còn cho thấy gần 30% các ca tư vong ở một vài quốc gia công
nghiệp là do ung thư. Tỉ lệ mắc bệnh ung thư và số lượng các ca tử vong do ung
thư ở các quốc gia này đang tăng lên liên tục trong các thập kỉ gần đây. Đặc biệt,
xu hướng này không phụ thuộc vào sự già đi của dân số.
Trong cơ thể người, những bộ phận mà ung thư có thể phát triển bao gồm
não bộ và hệ thần kinh trung ương, ung thư vú, ruột kết và trực tràng, máu
(bệnh bạch cầu), gan, phổi và phế quản, hệ thống bạch huyết (lymphoma không
Hodgkin), buồng trứng, tuyến tụy và tuyến tiền liệt. Các yếu tố môi trường (như
lối sống, thói quen cá nhân, chế độ ăn uống, hóa chất và bức xạ, và các bệnh
truyền nhiễm) chiếm khoảng ba phần tư của tất cả các bệnh ung thư. Theo Hiệp
hội Ung thư Hoa Kỳ, hút thuốc lá, béo phì và ít vận động có ảnh hưởng lớn hơn về
nguy cơ mắc bệnh ung thư hơn so với tiếp xúc với một lượng các chất ô nhiễm trong
không khí, thực phẩm và nước uống. Tuy nhiên, mức độ rủi ro từ các chất ô nhiễm
phụ thuộc vào nồng độ, cường độ và thời gian tiếp xúc. Bằng chứng cụ thể đã cho
thấy sự gia tăng đáng kể nguy cơ ung thư ở những nơi mà người lao động đã được tiếp
xúc với nồng độ cao của chất hóa học nhất định, chẳng hạn như kim loại nặng và các
hợp chất hữu cơ, cũng như từ các bức xạ.

Như đã đề cập ở trên, trong vòng 100 năm qua, và đặc biệt là kể từ Thế chiến
II, kết quả của việc thúc đẩy phát triển công nghiệp, một số lượng lớn hợp chất hóa
học đã được thải vào môi trường. Việc đó đã dẫn đến sự gia tăng ô nhiễm của không
khí, nước và đất và có khả năng gây ô nhiễm nguồn thức ăn. Những khu vực có các
nhà máy công nghiệp sản xuất xà phòng, cao su, hóa chất, và mực in có tỷ lệ cao của
bệnh ung thư bàng quang và ung thư gan. Một nghiên cứu của cục y tế New York đã
phát hiện ra rằng, ở quận Nassau, phụ nữ sống trong vòng 1 km của một cơ sở hóa
chất, dầu khí, cao su, nhựa, có đến 60% khả năng phát triển ung thư vú sau khi mãn
kinh hơn là những những người sống trong các khu vực khác của đất nước này
Một xu hướng đáng báo động liên quan đến bệnh ung thư là tỷ lệ mắc bệnh cao
ở trẻ em Mỹ, ước tính có 9 000 trường hợp mắc bệnh và 1.500 ca tử vong, xảy ra ở trẻ
em từ lứa tuổi từ 0-14 trong năm 2003. Khoảng 30% số ca tử vong có khả năng đã
được bệnh bạch cầu. Mặc dù trẻ em ung thư khá ít ở Mỹ, nguyên nhân chính của cái


chết do bệnh ở trẻ em ở độ tuổi từ 1 đến 14. Theo Viện Ung thư Quốc gia Mỹ, tỷ lệ
mắc bênh ung thư đã tăng đã lên tới gần 1% một năm. Một số chuyên gia trong lĩnh
vực ước tính rằng một đứa trẻ sơ sinh ngày nay phải đối mặt với nguy cơ khoảng 1
trong 600 bệnh ung thư kết hợp đồng ở tuổi thứ 10. Mặc dù lý do cho tỷ lệ mắc cao
của bệnh ung thư ở trẻ em tại Mỹ vẫn chưa rõ ràng, một số nhà khoa học nghi ngờ
rằng sự tiếp xúc với ô nhiễm môi trường của người mẹ mang thai hoặc trẻ em có thể là
một yếu tố quan trọng. Một thông tin đáng khích lệ của đã được đưa ra bởi Hiệp hội
Ung thư Mỹ gần đây đã chỉ ra rằng tỷ lệ tử vong của bệnh ung thư trẻ em đã giảm
khoảng 47% kể từ năm 1975.
Kết hợp thuốc trừ sâu và hóa chất có liên quan tới các bệnh khác nhau và số
lượng các ca tử vong đã thu hút được sự chú ý và nhiều nghiên cứu. Đặc biệt thuốc trừ
sâu có chứa dẫn xuất clo với hydrocarbon và dioxin. Ví dụ, tai nạn trong quá trình sản
xuất các axit thuốc diệt cỏ chứa 2,4,5-trichlorophenoxy axetic (2,4,5-T) và các dẫn
xuất phenol polychlorinated đã gây ra ngộ độc dioxin chủ yếu cho công nhân nhà máy
và dân số ở một số nước.

Như đã được biết rộng rãi, 2,4,5-T và chất làm rụng lá nhiễm dioxin có liên
quan đã được sử dụng rộng rãi tại Việt Nam từ năm 1961 đến năm 1969. Trong số
những ảnh hưởng độc hại lớn do dioxin là ung thư gan. Giữa năm 1956 và 1961
(những năm mà bắt đầu phun thuốc diệt cỏ), 159 trường hợp ung thư gan chính được
ghi nhận trong số 5492 bệnh ung thư ở khu vực Hà Nội, trong khoảng từ năm 1962
đến năm 1968, 791 ca mắc bệnh ung thư gan trong lứa tuổi tiểu học đã được ghi nhận
trong tổng số 7911 ca mắc bệnh ung thư . Sự thay đổi này thể hiện sự gia tăng hơn gấp
ba lần trong tỷ lệ ung thư chính của gan.
2.3.3 DỊ TẬT BẨM SINH.
Người ta ước tính rằng khoảng 3% của tất cả các ca sinh sống ở Hoa Kỳ bị
khuyết tật sinh. Con số này đại diện cho khoảng 100.000 dị tật bẩm sinh trong tổng số
3 triệu ca sinh mỗi năm. Dị tật bẩm sinh là nguyên nhân gây ra tỷ lệ tử vong trẻ sơ
sinh ở Mỹ, các nghiên cứu cho thấy sự hiện diện của bất kỳ dị tật được chẩn đoán
trong năm đầu tiên sau khi sinh tăng tỷ lệ tử vong 18 lần cho trẻ sơ sinh ban đầu. Rõ
ràng, chi phí tài chính rất lớn và cảm xúc đau khổ của người mẹ có liên quan tới dị tật.


Bản chất căn nguyên của hầu hết các dị tật bẩm sinh ở trẻ sơ sinh chưa biết. Ước tính
có khoảng 5 đến 10% tất cả các trẻ khuyết tật bẩm sinh do tác nhân quái thai hoặc tác
nhân từ mẹ. Chậm phát triển trong tử cung có thể được gây ra bởi một số nguyên
nhân, bao gồm cả tình trạng thiếu oxy ( sự thiếu hụt oxy đến các mô của cơ thể),
các loại thuốc, chiếu xạ X-quang , nội tiết của mẹ và các yếu tố dinh dưỡng, và
hóa chất môi trường. Nhiều loại hóa chất được biết đến là gây nên quái thai, có
khả năng gây dị tật bẩm sinh. Những hóa chất này bao gồm nhiều dung môi hữu
cơ, thuốc trừ sâu , dioxin , một số kim loại nặng ( như chì, cadmium, và thủy
ngân) và những chất khác . Nhiều dữ liệu dịch tễ học của con người đã yêu cầu
hỗ trợ bồi thường thiệt hại các hóa chất môi trường là một yếu tố quan trọng
trong trách nhiệm gây gây nên dị tật bẩm sinh .
3.3.4 GÂY TỔN HẠI TỚI HỆ SINH SẢN.
Ngày càng có nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng một loạt các chất độc hại có

thể gây bất lợi trên các hệ thống sinh sản ở động vật và con người. Chẳng hạn,
hư hại sinh sản ở hải âu và động vật hoang dã, các nghiên cứu khác trình bày
một số những manh mố đầu tiên về tác dụng phụ của DDT. Hợp chất cơ - clo
cũng liên quan đến khả năng suy giảm sinh sản trong các quần thể sinh học của
vùng biển Baltic và vùng biển phía bắc. Các hợp chất này cũng có hại đến sức
khỏe và sinh sản của hải cẩu. Mối quan tâm gần đây, sinh sản bất thường ở một
số loài động vật hoang dã đã gây ra về khả năng của một số hóa chất gây ra bệnh
bằng cách phá vỡ các hệ thống nội tiết bình thường của cơ thể. Một số lượng
ngày càng tăng của các hóa chất hiện nay được biết đến . Ví dụ hợp chất cơ - clo,
như PCBs ,dioxin , cũng như DDT ; thuốc trừ sâu như carbamate (ví dụ ,
aldicarb ,carbofuran ) , triazines (ví dụ , atrazine và simazine ) , và pyrethroid ,
(xem Chương 3 và 12); kim loại nặng như cadmium , chì , thủy ngân ; và hợp
chất hữu cơ brom.
Độc tính của các thuốc trừ sâu 2,2- dibrom -3- clopropane ( DBCP ) trở nên rõ
ràng trong những năm cuối thập niên 1970 và đầu những năm 1980, khi nông dân nam
giới trồng chuối khu vực Costa Rica vô sinh. Vào giữa những năm 1990, gần 1500
công nhân nam đã được chẩn đoán vô sinh do tiếp xúc với DBCP. Hiện đã có một số


liệu gia tăng về số lượng sinh non tại Mỹ. Theo thống kê của chính phủ Mỹ , 11,8%
tất cả các trẻ sơ sinh ( khoảng 440.000 trẻ sơ sinh ), được sinh ra sớm trong năm 1999.
Trước khi kết thúc tuần thứ 37 của thai kỳ (thời gian bình thường của thai kỳ là 40
tuần). theo dữ liệu từ Trung tâm quốc gia về thống kê y tế , năm 1981 có 9,4% trẻ đẻ
non. Một số nhà nghiên cứu dữ liệu được trình bày tại một cuộc họp vào tháng Mười
năm 2001, được tài trợ bởi Viện Y học , cho thấy công nghiệp hóa chất, thuốc trừ sâu
và các chất ô nhiễm không khí có thể đã góp phần vào sự gia tăng 23% các ca sinh
non tại Mỹ kể từ đầu những năm 1980 . Một trong những hợp chất mạnh nhất được
tìm thấy trong một nghiên cứu đo nồng độ của DDE ( một chất chuyển hóa của DDT)
trong huyết thanh được lưu trữ của các bà mẹ từ năm 1929 đến năm 1966, khi DDT
được sử dụng.Trong một nhóm 2380 trẻ sinh ra từ những phụ nữ nhiễm chất này , 361

là trẻ thiếu tháng và 221 là rất nhỏ so với tuổi thai . Việc lớn hơn mức độ DDE trong
máu của người mẹ, cao hơn là nguy cơ cho trẻ sơ sinh. Rút ngắn thời gian mang thai
cũng đã được báo cáo có liên quan đến sự tiếp xúc benzen. Một nhà khoa học Trung
Quốc nghiên cứu 542 ca sinh cho phụ nữ làm việc tại một nhà máy hóa dầu ở Bắc
Kinh, và thấy rằng benzen rút ngắn thời gian mang thai của những người phụ nữ có
một gen di truyền mà ngăn cản họ từ giải độc benzen. Các tổ chức nghiên cứu về sức
khỏe điện tử benzen được thảo luận Chi tiết hơn trong chương 11.
3.3.5 BỆNH HÔ HẤP.
Nhiều nghiên cứu dịch tễ học và động vật đã chỉ ra rằng các chất ô nhiễm
trong không khí thường được tìm thấy trong môi trường đô thị ở nồng độ đủ cao
để gây tai hại tới phổi . trong 5 thập kỷ qua , viêm phế quản mãn tính,khí phế
thũng, và ung thư phổi đã trở thành vấn đề y tế công cộng quan trọng ở Mỹ và
các nước công nghiệp lớn khác. Ở Hoa Kỳ, mặc dù bệnh về tim đã được biết đến
như là một trong số những nguyên nhân chết người trong nhiều thập kỷ , các ca tử
vong do 26 chất độc môi trường và bệnh tăng từ năm 1950 đến năm 1960, nhưng kể
từ đó giảm đều đặn. Ví dụ, thể hiện dưới dạng tỷ lệ phần trăm của tổng số tỷ lệ tử
vong , cái chết tỷ lệ bệnh tim mạch là 41,7% , 39,6% , và 29,7% tương ứng với
năm 1960, năm 1980, và Năm 2000 .Ngược lại, tỷ lệ tử vong ung thư ở Mỹ tiếp tục
tăng đều đặn cho đến giữa những năm 1990, khi sự gia tăng bắt đầu chậm lại. Đặc


biệt, tỷ lệ tử vong ung thư đường hô hấp , hệ thống tăng đáng kể trong trong nhiều
thập kỷ qua. Lấy năm 1950 làm cơ sở để so sánh, bệnh suy hô hấp và tỷ lệ tử vong
ung thư tăng 191% và 506% cho năm 1970 và 1990, tương ứng (Bảng 2.2). Ngược
lại, trường hợp tử vong do mọi nguyên nhân ung thư là 21 % và 71% cho năm 1970
và năm 1990. sự khác biệt đánh dấu ở cả hai loại tỷ lệ tử vong ung thư được thể hiện
rõ ràng hơn trong hình 2.2. Trong khi lý do cho sự khác biệt không hoàn toàn được
biết đến, có thể là tiếp xúc với mức độ ngày càng tăng của khí ô nhiễm môi trường là
nguyên nhân quan trọng.Tại Nhật Bản, mức độ ô nhiễm không khí đã giảm đi rõ rệt kể
từ đầu.

Năm 1970, số lượng bệnh nhân mắc bệnh hô hấp do ô nhiễm không khí đã tăng
lên. Từ cuối thập niên 1950 và thập niên 1960, một số lượng lớn bệnh nhân trong
Nhật Bản bị bệnh phổi tắc nghẽn phổi mãn tính ,viêm phế quản, hen phế quản, và khí
phế thũng . Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng , trong quá trình thời gian này , đã có nhiều
bệnh nhân viêm phế quản mãn tính , tại Yokohama và Kawasaki , hai thành phố công
nghiệp cao gần Tokyo, nơi mà có rất nhiều không khí ô nhiễm SO2 và bồ hóng. Các
nhà nghiên cứu tại Nhật Bản kết luận rằng SO2 gây ra các bệnh hô hấp cấp tính và
trầm trọng hơn tình trạng của bệnh nhân đã dẫn đến các bệnh đường hô hấp . một
trong những điều kiện về các bệnh đường hô hấp là biểu hiện của bệnh hen suyên tại
Thành phố Yokohama và Kawasak
Hình 2.2 So sánh tỷ lệ tử
vong cho bệnh ung thư của
tất cả các trang wed so với
bệnh ung thư của hệ thống
hô hấp từ năm 1950 đến
năm 2000.

3.3.6 Kim loại nặng gây ra bệnh


Sau cuộc Cách mạng công nghiệp, sản xuất kim loại nặng như đồng (Cu),
chì (Pb), kẽm (Zn) đã tăng lên đáng kể.Giữa năm 1850 và 1990, việc sản suất 3
kim loại trên đã tăng 10 lần, đồng thời tăng sự phát thải các kim loại khác, bao
gồm cảcadmium (Cd), thủy ngân (Hg), và niken (Ni). Một yếu tố độc hại khác là
asen (As). Do ô nhiễm công nghiệp, một số yếu tố kim loại và phi kim tích lũy
trong các khu vực địa lý đã vượt quá mức giới hạn cho phép, đó là nguyên nhân
chính gây ra bệnh mãn tính ở người. Một số ví dụ đáng chú ý của các bệnh do
kim loại nặng và các sự cố ngộ độc.
Mặc dù, ngộ độc chì mãn tính đã làm phiền con người từ thời cổ đại, tầm quan
trọng của Pb như là một chất gây ô nhiễm môi trường đã nhận được sự chú ý rộng rãi

chỉ trong vài thập kỷ gần đây. Ở thời La Mã cổ đại, chì có trong các thùng rượu, nước
uống, thức ăn là những nguồn chính khiến Pb xâm nhập vào cơ thể con người. Thậm
chí ngày nay, ô nhiễm chì ở trong nước đã xảy ra ở một số cộng đồng. Ống dẫn trong
hệ thống ống dẫn nước cũ và các mối hàn ống có thể làm ô nhiễm nước uống, đặc biệt
là nước mềm. Tuy nhiên, chì ở trong khói đốt rác, than đá và cho đến bây giờ, khí thải
từ các phương tiện giao thông còn nguy hiểm hơn vì nó được hít vào hoặc tiêu dùng
như 1 chất ô nhiễm thực phẩm ( sau khi giải quyết trên thực phẩm). Chì sơn trong căn
nhà cũ còn nguy hiểm hơn vì trẻ nhỏ thường ăn sơn từ đồ gỗ, thạch cao, sàn nhà và đồ
nội thất. Không có gì đáng ngạc nhiên, do đó, 20- 30% trẻ em Mỹ sống ở các vùng đô
thị có thể bị “ cận lâm sàng” ngộ độc chì. Các tác dụng phụ nổi bật nhất của Pb liên
quan đến hệ thần kinh, hệ thống tạo máu (hệ thống hữu cơ của cơ thể bao gồm máu và
các cấu trúc có chức năng sản xuất của nó), và thận.
Như đã đề cập từ trước, một trong những bùng phát ngộ độc quan trọng nhất
của con người trong thời đại công nghiệp là đại dịch ngộ độc thủy ngân, bây giờ được
gọi là “ căn bệnh Minamata”. Bệnh này xảy ra tại vịnh Minamata, Kyushu, Nhật Bản
vào năm 1953, tỷ lệ mắc bệnh cao nhất là ở các ngư dân và gia đình của họ. Sau đó,
quan sát cho thấy các hộ gia đình mèo, chim biển đã bị ảnh hưởng, sự chú ý đã được
chuyển sang cá và các loài động vật vỏ cứng như một căn nguyên gây bệnh. Điều này
dẫn tới những nghiên cứu về nước ở vịnh Minamata và việc xác định Hg trong nước
thải nhà máy là nguyên nhân gây bệnh. Nghiên cứu kết luận rằng: con người đã tiêu


thụ cá có chứa hàm lượng cao methylmercury độc hại (CH3Hg+). Khi ăn vào bụng,
CH3Hg+có thể gây ra tổn thương vĩnh viễn đến não và thận,mất thị lực và chức năng
não bị xáo trộn. Trường hợp nặng có thể gây hôn mê và tử vong.

Việc phát hiện ra vàng (Au) tại Serra Pelada ở Amazon vào năm 1979 gây ra
một dòng chảy lớn của người di cư vào khu vực đó vào những năm 1980. Có ảnh
hưởng sức khỏe nghiêm trọng khi tiếp xúc với nồng độ cao của kim loại Hg trong quá
trình khai thác mỏ vàng. Hg được dùng để hút vàng, sau đó hỗn hợp này được làm

nóng ở nhiệt độ cao và tách vàng ra khỏi thủy ngân. Điều này làm Hg bốc hơi dần dần
và tích lũy trong chuỗi thức ăn thủy sản. Ngược lại với ngộ độc Hg ở Minamata, nơi
một có một khu vực đánh cá địa phương duy nhất bị ô nhiễm công nghiệp trong hàng
ngàn nguồn ô nhiễm Hg ở khu vực Amazon gây ô nhiễm nước. Cơ quan khai thác mỏ
Brazil ước tính rằng có 300.000 thợ mỏ đã được phân phối trong năm 1800 mỏ vàng ở
Amazon trong những năm 1990. Đến năm 1996, 3.000 tấn Hg đã được thải vào môi
trường, so với 200-600 tấn đổ vào Vịnh Minamata.
Một đợt bùng phát bệnh mãn tính được gọi là '' itai-itai-BYO '' hoặc 'Oái-ouch
bệnh' 'xảy ra dọc theo sông Jintsu ở miền bắc Nhật Bản vào giữa năm 1950. Nạn nhân
của bệnh này đều bị đau xương nghiêm trọng. Cuối cùng, xương của nạn nhân bị tan
rã, thậm chí, dưới áp lực nhẹ cũng dẫn đến nhiều vết nứt. Cái chết cũng xảy ra, và


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×