Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Môi trường và sức khoẻ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.71 KB, 18 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
VSVT Vệ sinh môi trường
SD/SXHD Sốt Dengue/Sốt xuất huyết Dengue
TYT Trạm y tế
CSSKBĐ Chăm sóc sức khoẻ ban đầu
KCB Khám chữa bệnh
TCMR Tiêm chủng mở rộng
BMTE Bà mẹ trẻ em
KHHGĐ Kế hoạch hoá gia đình
SKMT Sức khoẻ môi trường
VSPD Vệ sinh phòng dịch
BN Bệnh nhân
UBND Uỷ ban nhân dân
DCCN Dụng cụ chứa nước
DVTM Dịch vụ thương mại
KPK Khám phụ khoa
SDD Suy dinh dương
YTDP Y tế dự phòng
TTB Trang thiết bị
HVS Hợp vệ sinh
CTV Cộng tác viên
TỔNG QUAN TÀI LIỆU:
1.Môi trường và sức khoẻ:
Môi trường là tất cả những gì xung quanh con người, tác động ảnh
hưởng tới đời sống con người, cũng như chịu ảnh hưởng của những hoạt
động của con người. Môi trường trong lành có tác dụng bảo vệ con người
khỏi các nguy cơ đối với sức khoẻ và chất lượng cuộc sống. Ngược lại môi
trường trở lên không trong lành khi chính các chất thải không được con
người quản lý tốt gây nên, phá hoại ngay chính sức khẻo và cuộc sống của
chính mình.
* Sức khoẻ môi trường và các yếu tố gây nguy hại:


Sức khoẻ môi trường là trạng thái sức khoẻ của con người liên quan
và chịu tác động của các yếu tố môi trường xung quanh.
Môi trường không trong lành gây nên 25 % trong tổng số các loại
bệnh; trong đó 80% bệnh tật là do nước hoặc liên quan đến nước. Năm
2003, 10/26 bệnh truyền nhiễm gây dịch có tỷ lệ mắc/ 100.000 dân cao
nhất theo thứ tự là cúm, tiêu chảy, sốt rét, sốt xuất huyết, lỵ trực khuẩn,quai
bị, lỵ amib, HIV/ AIDS, viêm gan virus, thuỷ đậu…Như vậy khoảng một
nửa trong số các bệnh truyền nhiễm có tỷ lệ mắc cao nhất là những bệnh
liên quan tới nước và VSMT (Thống kê các bệnh truyền nhiễm 2003 - Cục
Y tế dự phòng Việt Nam)
Các yếu tố truyền thống gây nguy hại tới môi trường như: Thiếu nước
sạch, ô nhiễm không khí trong nhà do chất đốt, nhà cửa ẩm thấp, ở ngay
cạnh chuồng gia súc, bệnh tật do côn trùng trung gian truyền bệnh như sốt
rét, SD/SXHD, phong tục tập quán, thói quen của người dân không hợp vệ
sinh.
Các yếu tố hiện đại gây nguy hại tới môi trường như: Hoá chất và cá
chất gây ô nhiễm nước và đất (phân bón, thuốc bảo vệ thực vật), ô nhiễm
không khí ngoài trời do các chất thải từ khu công nghiệp, các khu đô thị…
* Một số bệnh liên quan đến môi trường:
Gồm 5 nhóm bệnh:
- Các bệnh đường ruột: tả, lỵ, thương hàn, viêm gan A, ỉa chảy…
- Các bệnh ký sinh trùng: Giun đũa, giun móc, giun tóc, giun kim…
- Các bệnh do muỗi truyền: Bệnh sốt rét SD/SXHD, viêm não…
Các loại muỗi là vật trung gian truyền bệnh:
- Các bệnh về mắt, ngơài da, phụ khoa: đau mắt hột, đau mắt đỏ,
ghẻ, chàm, nấm, viêm phần phụ…
Bệnh thường lây trực tiếp từ người bệnh sang người lành mà nguyên
nhân chính là do thiếu nước sạch.
- Bệnh do hoá chất và chất độc: một số chất hoá học có trong nước có
thể gây bệnh cho người khi bị thừa hoặc thiếu chúng ở trong nước như

flour, iốt, chì, thạch tín…
Trong phạm vi đề tài nghiên cứu và thực tế của địa phương, chúng tôi
đi sâu vào phân tích vấn đề môi trường và bệnh SD/SXHD.
2. SXH và các yếu tố nguy cơ từ môi trường:
Bệnh Sốt Degue/SXH Degue (SD/SXHD) là bệnh nhiễm virus cấp
tính, gây dịch do muỗi truyền. Bệnh lưu hành trên 100 nước thuộc các khu
vực có khí hậu nhiệt đới và á nhiệt đới vùng Đông Nam Á và Tây Thái
Bình Dương. Bệnh có tác hại đến khoảng 2.5 tỷ người. Đại dịch
SD/SXHD bắt đầu từ những năm cuối thế kỷ 20 với số mắc hàng năm
khoảng 10 triệu người, trong đó có hơn 90% trường hợp mác ở độ tuổi dưới
15. Tỷ lệ chết trung bình khoảng 5% với khoảng 240.000 trường hợp mỗi
năm. Tại Đại hội đồng Tổ chức Y tế Thế giới tháng 5-1998, bà Tổng Giám
đốc Gro Harlem Brundtlan đã tuyên bố: “Thế kỷ 21 là thế kỷ phòng chống
bệnh SXH…
Việt Nam có số mắc và chết do SD/SXHD gia tăng kể từ năm 1994
trở lại đây. Bệnh đã và đang trở thành vấn đề y tế nghiêm trọng ở nước ta.
Năm 1998, số mắc và tử vong do SD/SXHD rất cao với 234.920 trường
hợp mắc, 337 trường hợp tử vong tại 56/61 tỉnh, thành phố. Vì vậy, ngày
10-1014998, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 196/1998/QĐ-TTg
đưa dự án phòng chống SD/SXHD trở thành một mục tiêu trong chương
trình Mục tiêu Quốc gia thanh toán một số bệnh xã hội và bệnh dịch nguy
hiểm (PGS.TS. Lê Ngọc Trọng - Hướng dẫn giám sát, chẩn đoán và điều trị
bệnh SXH – NXB Y học năm 2000).
Ở Việt Nam, hai loại muỗi truyền bệnh SD/SXHD là Aedes aegypti và
Aedes albopictus, trong đó quan trọng nhất là Aedes aegypti. Muỗi Aedes
aegypti rất thích đốt người vào ban ngày. Bọ gậy Aedes có thể phát triển ở
các loại nước sạch và nước giàu chất hữu cơ. Cách phòng bệnh duy nhất và
có ý nghĩa quan trọng là người dân cần ngủ màn, dọn vệ sinh sạch sẽ nhà ở,
đậy nắp kín hoặc thả cá để diệt ấu trùng, loăng quăng, phun thuốc trừ muỗi
htực hiện phương châm: “Không có bọ gậy, không có muỗi vằn, không có

bệnh SXH…
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Sức khoẻ môi trường là tạo ra và duy trì một môi trường trong lành,
bền vững để nâng cao sức khoẻ cộng đồng. Quá trình cải thiện tình trạng vệ
sinh, chất lượng nước uống, vệ sinh an toàn thực phẩm, kiểm soát bệnh tật
và cải thiện điều kiện nhà ở là nhiệm vụ trung tâm của quá trình thực hiện
việc nâng cao chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, hiện nay cuộc sống của
người dân trong thời kỳ đổi mới có nhiều thay đổi: việc đô thị hoá, tăng
dân số, thay đổi lối sống, nạn phá rừng, tăng sử dụng hoá chất bảo vệ thực
vật trong nông nghiệp, dùng các hormon tăng trưởng trong chăn nuôi, sự
phát triển công nghiệp và không kiểm soát được những chất thải công
nghiệp…làm cho môi trường đang bị suy thoái. Trong những năm qua,
thảm hoả thiên nhiên đã gây nên nhiều thiệt hại lớn ở nước ta. Những
trường hợp bị nhiễm độc hoá chất, ngộ độc hoá chất bảo vệ thực vật, ngộ
độc thực phẩm…vẫn xảy ra thường xuyên. Có nhiều chỉ thị và nghị quyết
bàn về phương hướng phát triển bền vững, nghĩa là đảm bảo cho môi
trường và môi trường trong sạch, giảm thiểu ô nhiễm, nhằm nâng cao sức
khoẻ con người như Luật bảo vệ môi trường Việt Nam đã nêu.
1. Thông tin về vị trí địa lý, dân số, kinh tế, văn hoá – xã hội:
Phường Yên sở thuộc quận Hoàng Mai ở phía nam Thành phố Hà
Nội. Là khu vực hiện có tốc độ đô thị hoá khá cao, địa hình thấp trũng, có
nhiều ao hồ, mùa mưa hay bị ngập úng cục bộ. Mặt khác, trên đại bàn
phường còn có hai con sông Kim Ngưu và Tô Lịch dẫn nước thải của
Thành phố chảy qua trước khi đổ ra Sông Hồng. Vì vậy, Phường Yên Sở
được coi là khu vực trọng điểm về VSMT của Quận, nơi tiềm ẩn nguy cơ
dịch bệnh ảnh hưởng đến sức khoẻ người dân. Với tổng diện tích đất tự
nhiên là 744,36 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp là 350,21ha chiếm
47,05%. Phường có 2.756 hộ gia đình, chia thành 26 tổ dân phố. Là một địa
bàn mới được chuyển từ xã thành phường vào năm 2006, nhưng cơ cấu
ngành nghề chính của người dân địa phương vẫn là lao động nông nghiệp,

chiếm 32.4% (Phụ lục 1). Nguồn sống chính của người dân địa phương phụ
thuộc vào việc canh tác, nuôi trồng trên đất nông nghiệp. Nhưng hiện nay,
do nhà nước thu hồi đất xây dựng một sô công trình lớn như Hồ điều hoà
nước thải của Thàn phố, Siêu thị Metro, Đường vành đai 3,… do tốc độ đô
thị hoá diễn ra nhanh chóng, nên diện tích đất canh tác chỉ còn
2047m2/người, giảm >800m2/người so với năm 1999. Năm 2006, thu nhập
bình quan đầu người đạt 3.900.000đ, toàn phường còn 26 hộ nghèo (theo
chuẩn mới) chiếm 0,94%
Năm 2006, tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp, dịch vụ thương mại:
45.482 tỷ đồng đạt 101% so với kế hoạch năm đầu, tăng 6.8% so với cùng
kỳ năm trước.
Công tác thực hiện dự toán thu- chi ngân sách năm 2006;
-Thu ngân sách: Thực hiện đến 31/12/2006: 4.309.192.578đ đạt 117%
- Chi Ngân sách: Thực hiện đến 31/12/2006: 2.494.371.153đ tại 77%
Dân số toàn phường tính đến 31/12/2006 là 11.781 người, trong đó:
- Dân số Nam chiếm 52.9% 0-14 tuổi: 35.1%
- Dân số Nữ chiếm 47.1% 15-64 tuổi 59.2%
>65 tuổi: 5.7%
- Số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (15-49 tuổi) : 3254.
- Tổng số nữ 15-49 có chồng : 2219.
- Tổng số trẻ em <5 tuổi : 1027.
- Số trẻ sinh trong năm 2006 : 219 (18.7%)
Trong đó trẻ nam : 112 (51.1%0
nữ : 107 (48.8%)
Con thứ 3 trở lên : 13 (5.9%)
- Tổng số người chết trong năm : 53.
2. Thông tin về TYT phường và công tác CSSKBĐ:
TYT Phường Yên Sở mới được đầu tư xây dựng năm 2005, cơ ngơi
khang trang với đầy đủ trang thiết bị phục vụ công tác KCB và chăm sóc
sức khoẻ nhân dân trên địa bàn. Trạm được biên chế 6 nhân viên, trong đó

có 1 bác sĩ trạm trưởng. TYT phường đã được công nhận chuẩn Quốc gia
tháng 9/2005. Hiện nay, ngoài việc đảm bảo chất lượng công tác KDB
thông thường, thường trực cấp cứu, TYT đã và đang triển khai có hiệu quả
các chương trình y tế quốc gia khác như: phòng chống dịch bệnh – VSMT,
TCMR, phòng chống bệnh xã hội, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ BMTE…
(Chi tiết xin xem phụ lục 2).
Năm 2006, với kinh phí 1.550đ/đầu dân, TYT đã được ngân sách nhà
nước cấp 18.260.550đ, ngân sách địa phương hỗ trợ 7.000.000đ để chi cho
hoạt động CSSK nhân dân trên địa bàn phường (Chi tiết xem phụ lục 3).
3. Phân tích thông tin về các vấn đề môi trường – Xác định vấn đề
SKMT ưu tiên:
Theo báo cáo tổng kết công tác KCB năm 2006 của TYT phường, tỷ
lệ mắc các bệnh liên quan đến môi trường trong năm vừa qua đều tăng so
với những năm trước (Phụ lục 4)
Bên cạnh việc phân tích số liệu thứ cấp từ sổ sách, báo cáo của TYT,
chúng tôi cũng đã tiến hành thảo luận nhóm với cán bộ y tế, phỏng vấn sâu
người dân, kết hợp quan sát thực tế dưới sự hướng dẫn của cán bộ phụ
trách công tác VSPD của TYT và đã xác định được 4 vấn đề SKMT hiện
đang được quan tâm tại phường. Đó là các vấn đề:
- Qua công tác điều tra cơ bản tình hình VSMT và sử dụng 3 công
trình tự vệ sinh trong nhân dân, hiện nay trên địa bàn phường, tỷ lệ các hộ
sử dụng 3 công trình vệ sinh đạt tiêu chuẩn còn rất thấp so với tỷ lệ chung
của toàn dân, như tỷ lệ sử dụng nước sạch trong sinh hoạt (80.23%) và hố
xí hợp vệ sinh (79.18%). (Phụ lục 5)
- Qua thảo luận với cán bộ y tế, kết hợp quan sát thực tế, có thể nhận
thấy tình trạng ngập úng cục bộ tại phường là khá nghiêm trọng. Toàn bộ
trục đường chính thuộc các tổ 10,11, ngập úng xảy ra ngay cả khi trời
không mưa. Theo ý kiến của cán bộ y tế và người dân trong khu vực tình

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×